Luận văn thạc sỹ. Tác giả, Nguyễn Thị Thạnh Thùy, HDKH. TS Phan Quốc Anh, Trường ĐHVH tp HCM
Người Chăm là một trong 54 dân tộc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam,
sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ như: Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, An Giang, Tây Ninh và thành phố Hồ
Chí Minh… Ninh Thuận là nơi có nhiều người Chăm sinh sống nhất cả nước (trên
50%) và hiện nay họ vẫn còn lưu giữ truyền thống và tập tục mang bản sắc văn
hóa Chăm lâu đời nhất. Trong đó, lễ hội
Chăm là một di sản văn hóa tinh thần quí giá trong kho tàng di sản văn hóa đặc
sắc của người Chăm.
Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu
văn hóa Chăm, trong một năm có hơn 100 lễ hội của người Chăm. Mỗi lễ hội đều
mang một sắc thái, một diện mạo và đặc trưng riêng. Lễ hội Katê là lễ hội lớn
nhất người Chăm Bàlamôn, thu hút tất cả cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, du
khách trong và ngoài nước. Trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập, chính sách tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của
Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho hoạt động lễ hội truyền thống được phục
hồi và phát triển. Đồng thời với việc giữ gìn và phát huy những giá trị quý giá
trong di sản văn hóa lễ hội, công tác quản lý, tổ chức lễ hội truyền thống như
thế nào để đảm bảo đúng đắn, tránh phát triển thái quá, vượt tầm kiểm soát nhằm
đáp ứng yêu cầu bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, phục vụ yêu cầu phát triển
bền vững của đất nước, địa phương là rất cần thiết.
Đặc biệt trong những năm gần đây lễ hội Chăm nói chung và lễ hội Katê nói riêng có xu hướng khôi phục và phát triển
mạnh. Công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở địa phương cũng có những chuyển biến
tích cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội đến việc thực
thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội, góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống và
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, lễ hội
Chăm nói chung và lễ hội Katê nói riêng hiện nay đã và đang nảy sinh nhiều bất
cập, nhiều hạn chế và tồn tại. Một bộ phận chủ thể quản lý (thuộc về Nhà nước)
vẫn còn cái nhìn dè dặt do nhận thức chưa đúng mức và khách quan về ý nghĩa của
lễ hội. Việc chưa có sự thống nhất trong tổ chức quản lý của Nhà nước và địa
phương cũng là hạn chế, bởi cùng một lúc có nhiều chủ thể tham gia quản lý chồng
chéo như: xã, huyện, Ban quản lý di tích, Ban Phong tục, Bảo tàng tỉnh và cả Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận trong khi chưa phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ cụ thể. Là một người sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bào Chăm, đã từ lâu có niềm đam
mê tìm hiểu về văn hóa Chăm, hiện nay đang làm việc tại Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Ninh Thuận, đồng thời là người trực tiếp quản lý các hoạt động lễ
hội trên địa bàn toàn tỉnh, tôi rất quan tâm tới việc quản lý các lễ hội Chăm ở
Ninh Thuận sao cho thật sự hiệu quả, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa truyền thống, đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa
phương. Đây là một trong những trăn trở lớn của các nhà quản lý về lễ hội trong
đó có bản thân mình. Qua nghiên cứu thực tiễn từ các hoạt động lễ hội của các
cộng đồng cư dân, trong đó có lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận
trong thời gian qua, tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh
Thuận (qua nghiên cứu trường hợp lễ hội Katê)” làm đề tài tốt nghiệp cao học
của mình.
Phân tích, làm rõ thực trạng, nhận định đánh giá những mặt tích cực và tồn
tại công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội của các cơ quan chức năng và
chính quyền địa phương trong thời gian qua.
Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Đề xuất các phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về hoạt động lễ hội nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong các lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận (trong đó nghiên cứu
lễ hội Katê là chủ yếu) với mục đích giúp cho các nhà quản lý và chính quyền
địa phương vận dụng các giải pháp trong quá trình quản lý lễ hội, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
Trong những năm gần đây, văn hóa Chăm đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, ngoài việc khảo tả thống kê các di tích đền tháp, bia kí, ngôn ngữ,
văn chương, khảo cổ học, nghệ thuật, kiến trúc Chăm ở dọc dải đất miền Trung
Việt Nam, lễ hội Chăm cũng là một lĩnh vực được nhiều nhà khoa học quan tâm chú
ý. Lễ hội Chăm được nghiên cứu ghi chép rải rác từ nhiều nguồn tư liệu, từ thư
tịch cổ Trung Hoa cho đến Việt Nam như: Hán Thư, Lương Thư, Thủy Kinh Chú, Phủ
biên tạp lục…cho đến những ghi chép của các nhà thám hiểm Marco Polo (Italia)
trong cuốn “Lelivre de Marco Polo” (cuốn sách của Marco Polo) ghi chép tỉ mỉ về
người Chăm và đời sống của họ vào năm 1298 [77]. Vào thế kỷ XIV, linh mục Odiric
de Pordenone… có ghi chép về phong tục, tập quán của người Chăm trong cuốn sách
“Những cuộc viễn du sang Châu Á” [79] được xuất bản tại Paris, Pháp. Những công
trình này chỉ là những nét chấm phá đầu tiên giới thiệu sơ lược về người Chăm
và những phong tục, tập quán của họ.
Từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, hàng loạt các công trình nghiên cứu của các
học giả người Pháp được công bố, phần lớn tập trung vào các lĩnh vực ngôn ngữ,
văn bia, khảo cổ học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, lịch sử, tín ngưỡng –
tôn giáo… có thể kể đến các tác giả như: E.Aymonier, J. Crawford, A. Bastian, H
Parmentier, E.M. Durand, L. Finot, A. Cabaton…Tuy nhiên, chỉ có một vài công
trình nghiên cứu liên quan đến lễ hội và phong tục – tập quán của người Chăm
như: A.Cabaton với công trình: “Nouvelles recherches sur les Chams” (Nghiên cứu
về lễ nghi và nghi thức tôn giáo của người Chăm) xuất bản 1901 [76]. Trong công
trình này, tác giả giới thiệu qua một số lễ nghi và tôn giáo của người Chăm,
chưa miêu tả một cách tỉ mỉ về các lễ hội của người Chăm; tác giả E.Aymonier
với công trình “Người Chăm và tôn giáo của họ” xuất bản 1891[77], đây chưa phải
là công trình chuyên khảo về lễ hội, chủ yếu mô tả sơ lược không khí lễ hội
dưới dạng bút ký. Nhìn chung, giai đoạn này chưa có công trình mang tính chất
thống kê, nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống lễ hội của người Chăm.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về văn
hóa Chăm. Một số tác giả trước năm 1975 đã đăng tải các bài báo bằng tiếng Việt
trong các tạp chí địa phương về những vấn đề lịch sử liên quan đến mối quan hệ
Việt – Chăm trong quá khứ hoặc về nền văn minh Chăm hiện nay. Tuy nhiên, trong
giai đoạn này các nhà nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết nhỏ, nêu
những vấn đề liên quan đến người Chăm và người Việt lúc bấy giờ.
Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu về người Chăm có chiều hướng phát triển
hơn. Đặc biệt từ năm 1980 trở lại đây, những bài nghiên cứu viết về người Chăm
bằng tiếng Việt ngày càng gia tăng so với trước. Những bài nghiên cứu này chủ
yếu đăng tải trên các tạp chí khoa học như: Dân tộc học, Xã hội học, Khảo cổ
học, Khoa học xã hội, Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu văn hóa Nghệ thuật, Ngôn
ngữ, Mỹ thuật, Văn hóa dân gian. Bên cạnh đó, xuất bản nhiều công trình nghiên
cứu góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc Chăm như: “Mẫu hệ Chàm” của Nguyễn Khắc Ngữ [42], “Người Chăm ở Thuận Hải” của Phan An,
Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp [2] đây là những công trình nghiên cứu khá công
phu giới thiệu về gia đình, hôn nhân và các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng của
người Chăm. Tuy nhiên những công trình này chỉ giới thiệu sơ lược qua về một số
lễ hội Chăm ở Ninh Thuận, chưa phân tích kỹ và sâu về các lễ hội đặc trưng của
người Chăm. Công trình “Văn hóa Chăm” của các tác giả Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Dốp [1] đã phác
thảo một bức tranh toàn cảnh về các loại hình và cách dạng thức văn hóa Chăm
với những đặc trưng phong phú đa dạng trong suốt tiến trình lịch sử phát triển. Đây là một công trình rất có giá trị,
tập hợp được nhiều tư liệu có được từ trước tới nay về các phong tục tập quán,
các tác giả đã nêu một số lễ thức liên quan đến lễ hội của người Chăm. Tuy
nhiên, các tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát, để phục vụ cho
công trình có phạm vi rộng là “Văn hóa Chăm”, chưa phải là công trình chuyên
sâu về lễ hội. Tác giả Ngô Văn Doanh “Văn hóa cổ Chăm Pa” [28]; “Tháp Chăm sự
thật và huyền thoại” [29] khi viết về văn hóa Chăm đều đề cập đến một số lễ hội
của người Chăm, tuy nhiên các công trình này không phân tích sâu và kỹ về lễ
hội Katê của người Chăm, mà chỉ dừng lại ở mức độ mô tả một cách khái quát về
một số lễ hội của người Chăm. Công trình nghiên cứu “Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận” tác giả Phan
Quốc Anh [4] là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống nghi lễ vòng
đời của người Chăm Ahiêr, trong công trình này tác giả đã nghiên cứu về nghi lễ
của một đời người từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi, tác giả có sơ lược qua một
số lễ hội tiêu biểu của người Chăm. Nhưng chỉ ở mức độ miêu tả một cách tổng
quát, chưa chuyên sâu. Công trình “Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng
của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay” của Nguyễn Hồng
Dương [32], “Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát triển kinh tế - xã hội
của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận” của Ngô Thị Chính và Tạ Long [19]
là một trong những công trình nghiên cứu miêu tả về một số lễ hội của người
Chăm ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, trong công trình này các tác giả nêu
lên được những ảnh hưởng về văn hóa, sinh hoạt của người Chăm trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội lúc bấy giờ… Thế nhưng, những công trình nêu trên
chưa phải là chuyên khảo về lễ hội, mà đa số là những ghi chép chung chung, các
tác giả cũng đã sơ lược qua một số lễ hội của người Chăm tuy nhiên cũng chỉ
giới thiệu qua theo hình thức mô tả, tư liệu còn rải rác, chưa tập trung.
Riêng về lễ hội Katê của người Chăm đã có những công trình nghiên cứu như:
“Lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh Thuận”, và “Những đặc trưng của lễ hội Katê”
của Phan Quốc Anh [6], [7]; “Tìm về lễ hội Katê” của Đinh Đức Cần và Lâm Gia
Tịnh và “Lễ hội Katê truyền thống của người Chăm Ninh Thuận” của Quang Đại Cẩn
[20], [21]; “Văn hóa Chăm với phát triển du lịch ở Ninh Thuận” của Phan Quốc
Anh [8]… đây là một trong số những công trình mà các tác giả nghiên cứu sâu về
lễ hội của người Chăm. Trong đó, lễ hội Katê của người Chăm được các tác giả
miêu tả khá tỉ mỉ về không gian, thời gian diễn ra lễ hội. Lễ hội Katê có ý
nghĩa quan trọng đối với người dân trong và ngoài tỉnh. Đây không chỉ là lễ hội
mang lại giá trị văn hóa mà còn là tạo ấn tượng về hình ảnh của vùng đất Ninh
Thuận góp phần phát triển du lịch của địa phương. Đặc biệt, các công trình
nghiên cứu một cách có hệ thống về lễ hội Katê của người Chăm như: “Lễ hội Katê
của đồng bào Chăm Ninh Thuận” của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam thực hiện
[73]; “Lễ hội của người Chăm” của Trương Văn Món (Sakaya) [44]. Tác giả các
công trình này đã bước đầu tập hợp tư liệu về lễ hội của người Chăm, miêu tả
khá tỉ mỉ về hệ thống lễ hội của người Chăm, đặt biệt là lễ hội Katê. Công
trình nghiên cứu về sự biến đổi của lễ hội Katê do quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa, chỉ mới dừng lại ở mức độ cảm quan và chưa có số liệu thống kê
chi tiết như công trình: “Bảo tồn, phát huy văn hóa nghệ thuật Chăm trong cuộc
sống hôm nay” tại hội thảo do tạp chí Văn hóa Nghệ (nhiều tác giả) [43].
Ngoài những công trình kể trên có khá nhiều khóa luận tốt nghiệp đại học,
luận văn cao học đã nghiên cứu khá kỹ về một số lễ hội tiêu biểu của người Chăm
ở Ninh Thuận trong thời gian gần đây, các tác giả cũng đã nêu lên được những
thực trạng, cách tổ chức và quản lý của một số nhà quản lý, chính quyền địa
phương và các nhà hoạt động trong lĩnh vực du lịch, cũng có đề xuất giải pháp
và kiến nghị những giải pháp khai thác văn hóa Chăm kết hợp với phát triển du
lịch tỉnh Ninh Thuận điển hình như: khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành
nhân học “Bảo tồn giá trị Văn hóa và
phát triển Du lịch – Qua trường hợp lễ hội Katê truyền thống của người Chăm ở
tỉnh Ninh Thuận” của tác giả Nguyễn Thanh Hải [34] có thể được xem như
một trong những công trình có giá trị về lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn ở
Ninh Thuận. Trong khóa luận, các giá trị văn hóa của người Chăm ở tỉnh Ninh
Thuận, đã được nghiên cứu, tìm hiểu trong mối quan hệ biện chứng với sự phát
triển du lịch của địa phương. Cùng với những giá trị tích cực đạt được, đề tài
cũng chỉ ra những tác động tiêu cực mà du lịch mang đến cho văn hóa Chăm. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra những kiến nghị cũng như đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, ngăn chặn và
hạn chế những tác động tiêu cực đối với các giá trị văn hóa Chăm.
Gần đây, các giá trị văn hóa mà đặc biệt là lễ hội của người Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận một lần nữa lại được nghiên cứu gắn với hoạt động du lịch. Những
tiềm năng, giá trị, cũng như thực trạng trong việc khai thác các lễ hội của
người Chăm đã được nêu lên, trên cơ sở đó, đề ra những định hướng cho hoạt động
khai thác lễ hội phục vụ phát triển du lịch trong thời gian tới. Đó là những
nội dung được đề cập đến trong Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Địa lý học của tác
giả Nguyễn Thị Ngọc Hân với tên đề tài “Định
hướng khai thác lễ hội của dân tộc Chăm tỉnh Ninh Thuận phục vụ mục đích du
lịch” [33]. Luận văn cao học
của tác giả Trần Ngọc Sơn “Khai thác các giá trị văn hóa Chăm phục vụ phát
triển du lịch ở Ninh Thuận” [51], tác giả luận văn nêu lên các giá trị của văn
hóa Chăm, thực trạng khai thác văn hóa Chăm trong thời gian qua, đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch kết hợp với
văn hóa Chăm ở Ninh Thuận.
Tất cả những nguồn tư liệu trên đều là những công trình nghiên cứu tập
trung dưới góc độ dân tộc học, văn hóa
học, nhân học, địa lý học, du lịch học. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên
cứu với hướng tiếp cận quản lý văn hóa. Nhưng những công trình đó là những mảng
tư liệu quý giá làm cơ sở khoa học để chúng tôi có cái nhìn toàn diện về hoạt
động lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay, qua đó tìm ra những giải pháp
và định hướng chính sách đúng đắn nhằm góp phần vào quá trình quản lý nhà nước
về lễ hội Chăm, đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng.
Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh Thuận,
trong đó tập trung chuyên sâu công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống
(lễ hội Katê) của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận, các địa điểm diễn ra lễ hội Chăm, 03 đền,
tháp Chăm (tháp Pô Klong Girai, tháp Pô Rôme và đền Pô Inư Nưgar) gắn với việc
tổ chức lễ hội Katê của cộng đồng người Chăm.
Thời gian: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá dựa trên thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội
Katê của người Chăm ở Ninh Thuận trong khoảng thời gian từ khi Luật Di sản ra đời năm 2001 đến nay.
Phương pháp luận: Thực
hiện luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành về văn hóa
như dân tộc học, sử học, văn hóa học, quản lý văn hóa. Trong đó, lấy phương
pháp quản lý văn hóa làm trung tâm, trên cơ sở đường lối quan điểm của Đảng và
Nhà nước về phát triển văn hóa.
Phương pháp cụ thể:
Nội dung của đề tài hướng đến
là phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội
Chăm.
Từ đó, phân tích, đưa ra những nhận định và đề xuất các giải pháp. Do đó, quá trình khảo sát thực
tế, thu thập tài liệu có vai trò quyết định đến nội dung đề tài. Vì vậy, tác giả sử dụng các
phương pháp cụ thể như điền dã dân tộc học, quan sát tham dự, điều tra xã hội
học, phỏng vấn, thu thập tư liệu, tài liệu, phân tích, xử lý thông tin, khảo
sát việc thực thi các văn bản pháp quy về quản lý nhà nước về văn hóa tại các
địa phương và tại vùng đồng bào Chăm, nơi diễn ra lễ hội Ka tê và lễ hội Chăm.
Luận văn có kế thừa các kết quả nghiên cứu tham vấn đã công bố.
Khái
quát hệ thống lễ hội Chăm, tập trung qua nghiên cứu trường hợp lễ hội Kate. Khảo sát đánh giá một cách khách quan, thực trạng quản lý
nhà nước về lễ hội Katê, những tiềm năng gắn kết lễ hội Katê với phát triển du
lịch góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương.
Đề tài góp phần làm rõ những mặt tích cực, những hạn chế trong công tác
quản lý, tìm ra các nguyên nhân trong quá trình quản lý nhà nước về lễ hội Chăm
nói chung và lễ hội Katê nói riêng. Đồng thời đưa ra những nhận định, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả việc quản lý nhà nước về lễ hội Katê của người
Chăm trong thời gian tới, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước
về hoạt động lễ hội của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương nhằm bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm.
Ngoài các phần: Mục lục (3 trang), phần mở đầu (09 trang), kết luận (4
trang) và danh mục tài liệu tham khảo (6 trang), luận văn có (93 trang) được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan vấn đề nghiên cứu (30)
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh Thuận (qua nghiên
cứu trường hợp lễ hội Katê) (35).
Chương 3: Quan điểm và giải pháp quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh Thuận
(qua nghiên cứu trường hợp lễ hội Katê) (28)
Trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của bản thân mình, đồng thời cần có sự nỗ lực
của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn đều phải thừa nhận và
chịu một sự quản lý nào đó. Như vậy, quản lý là một khái niệm được sử dụng
trong tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, luật học. Vì
thế, các nhà nghiên cứu ở từng lĩnh vực đã đưa ra những quan niệm khác nhau về
quản lý. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Theo
nghĩa hẹp, quản lý là sự sắp đặt, chăm nom công việc. Ngoài ra còn có nhiều
cách định nghĩa khác nhau về quản lý: Quản lý là những hoạt động cần thiết phải
được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các nhóm, tổ chức nhằm đạt
được những mục tiêu chung. Quản lý là quá trình cùng làm việc và thông qua các
cá nhân, các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hoàn thành các mục đích chung
của một nhóm người, một tổ chức. Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã
đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của
những người khác. Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và
sau đó thấy được rằng, họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Ở góc độ khác thì quản lý là sự điều khiển, định hướng, chỉ đạo một hệ
thống hay một quá trình căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc,
luật định tương ứng để cho quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý
nhằm đạt được mục đích đã định trước. Như vậy, nói một cách tổng quát nhất có
thể định nghĩa về quản lý: Quản lý là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của
chủ thể vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các
hình vi của con người nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của đối tượng theo
những mục đích nhất định. Hay quản lý là sự tác động của chủ thể lên đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực Nhà nước,
chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng
quản lý nhà nước. Bằng chính sách và pháp luật Nhà nước trao cho các tổ chức
hoặc cá nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhà nước với vai
trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, đại diện cho nhân dân, đảm
bảo cho mọi người dân đều được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có
các quyền về văn hóa như: quyền học tập, sáng tạo, phê bình văn hóa nghệ thuật,
tự do sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo
sự hài hòa giữa các thành tố văn hóa, điều tiết lợi ích văn hóa của các giai
tầng, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của toàn xã hội.
Ở Trung ương, các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về văn hóa là Chính
phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chính phủ thống nhất quản lý và phát
triển sự nghiệp văn hóa – nghệ thuật trên cả nước. Thi hành các biện pháp để
bảo tồn và phát triển văn hóa, chống các hiện tượng, hành vi truyền bá tư tưởng
văn hóa phản động, đồi trụy, các hủ tục mê tín dị đoan. Chính Phủ và Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch trình các dự án, pháp lệnh về tổ chức hoạt động và
quản lý văn hóa, quyết định quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa.
Ban hành các nghị định, chế tài quản lý, quyết định các chính sách, đầu tư, tài
trợ, hợp tác với nước ngoài về việc tổ chức hoạt động phát triển văn hóa. Ủy
ban nhân dân là cơ quan hành chính pháp chế nhà nước ở các địa phương thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về văn hóa ở địa phương mình theo quy định của pháp
luật. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc tỉnh, thành phố, các phòng
Văn hóa và Thông tin cấp huyện, Ban Văn hóa các xã, phường, thị trấn là cơ quan
chuyên môn trực tiếp tham mưu tư vấn giúp Ủy ban nhân dân các cấp quản lý văn
hóa ở địa phương mình.
Nhà nước tiến hành quản lý văn hóa bằng chính sách và pháp luật về văn hóa.
Chính sách pháp luật về văn hóa được hiểu là những nguyên tắc thực hiện tư
tưởng chủ đạo của Nhà nước về chủ trương đường lối, phương hướng xây dựng và
phát triển nền văn hóa phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước. Song
song với việc tiến hành các chính sách về văn hóa, để quản lý văn hóa, Nhà nước
đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về văn hóa nhằm phát huy tác dụng
của văn hóa đối với việc hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng đời sống
tinh thần của con người, chế ước những ảnh hưởng tiêu cực, loại bỏ những hủ tục
lạc hậu. Quản lý văn hóa bằng pháp luật là một yêu cầu mang tính tất yếu khách
quan. Cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước tạo ra một hành lang
pháp lý an toàn, rộng mở cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Quản lý lễ hội là một lĩnh vực trong quản lý nhà nước, cụ thể trong ngành
văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng:
“Quản lý
lễ hội là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ
chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về lễ hội truyền thống nhằm mục đích bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa của lễ hội được cộng đồng coi trọng, đồng thời góp phần phát triển kinh tế,
xã hội của từng địa phương nói riêng của cả nước nói chung” [49, tr.23].
Theo Tác giả Phạm Thanh Quy cho rằng: “Quản lý lễ hội bao gồm quản lý nhà nước
và những hình thức quản lý khác đối với các hoạt động lễ hội. Quản lý lễ hội
nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển được hiểu là sự tổ chức, huy động các nguồn
lực. Nói cách khác thì quản lý lễ hội nhằm các mục tiêu lợi ích công cộng, mục
tiêu lợi nhuận hoặc xu hướng phát triển đất nước” [48].
Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội nói chung, lễ hội truyền
thống nói riêng được hiểu là quá trình sử dụng các công cụ quản lý: chính sách,
pháp luật, các nghị định, chế tài, tổ chức bộ máy vận hành các nguồn lực để
kiểm soát, can thiệp vào các hoạt động của lễ hội bằng các phương thức tổ chức
thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm duy trì việc thực hiện hệ thống
chính sách, hệ thống văn bản pháp quy, chế tài của Nhà nước đã ban hành. Quản
lý lễ hội là một quá trình thực hiện bốn công đoạn: xác định nội dung và phương
thức tổ chức; xây dựng kế hoạch; tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, giám
sát việc thực hiện; tổng kết, đúc kết kinh nghiệm. Cơ sở pháp lý của việc thực
thi công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống là dựa trên hệ thống các
chính sách và pháp luật hiện hành của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Luật pháp và văn bản mang tính pháp quy nêu trên đã thể hiện rõ mục tiêu
của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội truyền thống là quy trình và thực
hiện nghiêm minh các điều khoản đã được ghi trong luật và các văn bản pháp quy,
nghị định, chế tài, các văn bản liên quan. Theo quy định hiện hành, ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm cấp phép, kiểm tra, giám sát hoạt
động lễ hội. Đồng thời, phối hợp cùng các cơ quan chức năng như: công an, quản
lý thị trường, môi trường, giao thông, y tế xử lý sai phạm trong lễ hội. Việc
chịu trách nhiệm quản lý nhà nước nói chung thuộc chính quyền sở tại, nhưng
được phân chia trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị chức năng thuộc cơ quan quản
lý nhà nước có liên quan. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
tùy từng vụ việc mà có những cơ quan chức năng chịu trách nhiệm giải quyết.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận là cơ quan quản lý nhà nước
về lễ hội ở địa bàn tỉnh Ninh Thuận. địa phương,
chịu trách nhiệm quản lý hoạt động lễ hội trên địa bàn toàn tỉnh, phối hợp cùng
với các đơn vị liên quan như: công an, quản lý thị trường, môi trường, giao
thông, y tế quản lý hoạt động lễ hội của đồng bào người Chăm nói riêng và lễ
hội ở tỉnh Ninh Thuận nói chung nhằm mục đích mang lại kết quả cao trong quá
trình quản lý lễ hội trên địa bàn toàn tỉnh. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân tổ
chức lễ hội phải xin phép và được sự đồng ý của Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch
mới được phép tổ chức lễ hội. Những lễ hội không phải xin giấy phép, nhưng
trước khi tổ chức phải báo cáo bằng văn bản với cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là những lễ hội
tổ chức thường xuyên, liên tục, định kỳ. Người tổ chức lễ hội phải thực hiện
các quy định hướng dẫn như: Thành lập Ban tổ chức lễ hội; Nghi thức lễ hội phải
được tiến hành trang trọng theo truyền thống có sự hướng dẫn của cơ quan quản
lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch có thẩm quyền; Trong khu vực lễ hội,
cờ Tổ quốc phải treo ở nơi trang trọng, cao hơn cờ hội; Nguồn thu công đức, từ
thiện, tài trợ và nguồn thu khác thu được từ việc tổ chức lễ hội phải được quản
lý và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật; Người đến dự lễ hội phải thực
hiện nếp sống văn minh trong lễ hội quy định. Đồng thời thực hiện đúng các quy
định của Ban tổ chức đối với người đến dự lễ hội như: ăn mặc đảm bảo thuần
phong mỹ tục dân tộc; Không thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan; không tổ
chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; Không gây mất trật tự, an ninh;
không làm cản trở giao thông và các hoạt động công cộng; Giữ gìn vệ sinh môi
trường lễ hội và thực hiện đúng những quy định của Ban tổ chức lễ hội và Ban
quản lý di tích đối với những nơi có di tích [64].
Theo Luật Di sản văn hóa, “di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản
văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” [47, tr.1].
Theo Cục Di sản văn hóa về Bảo vệ di sản văn hóa tập 1, di sản văn hóa phi vật
thể được
hiểu là “các tập quán, các hình
thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ
vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di
sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn
hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để
thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và
lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục,
qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của
con người” [26].
Khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể được cụ thể hơn trong Điều 4 Luật Di sản văn hóa là “sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền
khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ
văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về
nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực,
về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác” [47, tr. 1 - 2].
Có
thể thấy rằng, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam đều cơ bản thống nhất biểu
hiện cụ thể di sản văn hóa phi vật thể như:
a) các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương
tiện của di sản văn hóa phi vật thể; b) nghệ thuật trình diễn; c) tập quán xã hội,
tín ngưỡng và các lễ hội; d) tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ
trụ; e) nghề thủ công truyền thống [26,
Mục I], thì Nghị định số 98 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di
sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, cụ thể
bao gồm: a) Tiếng nói, chữ viết; b) Ngữ văn dân gian; c) Nghệ thuật trình diễn
dân gian; d) Tập quán xã hội và tín ngưỡng; đ) Lễ hội truyền thống; e) Nghề thủ
công truyền thống; f) Tri thức dân gian [66, Chương 1].
Trong các loại hình di sản
văn hóa phi vật thể, lễ hội truyền thống được xem là loại hình di sản tiêu biểu.
Từ trước đến
nay, có nhiều quan điểm, khái niệm về lễ hội của nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, tùy vào cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của mỗi người. Các
nhà nghiên cứu Trung Quốc trên cơ sở nghiên cứu lễ hội ở các miếu thờ Thành
hoàng ở nước này họ gọi hoạt động lễ hội là miếu hội – lễ hội ở miếu. Ở nước
ta, theo từ nguyên, lễ hội là sự kết hợp của hai từ Hán – Việt là lễ và hội. Do
đó lễ, hội gồm hai phần là lễ và hội.
Theo Đào Duy Anh trong cuốn từ điển Hán - Việt lễ là “cách bày tỏ kính ý
hoặc đồ vật để bày tỏ kính ý” [3]. Mặc
dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung lại đều có nhiều đặc điểm chung
tất cả đều cho rằng lễ hội là văn hóa, tồn tại trong không gian và thời gian cụ
thể và do con người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người. Họ
cho rằng lễ hội gồm hai phần là lễ và hội, hai phần nội dung này có quan hệ
biện chứng lẫn nhau, thống nhất với nhau về nhiều mặt. Phần “lễ” là phần hoạt
động của con người dành cho các đấng bề trên thì phần “hội” chính là những hoạt
động do con người tổ chức để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân đi tham dự
lễ hội; nếu phần lễ là phần có yếu tố nghiêm trang, thiêng liêng và có phần
linh thiêng thì phần hội lại là phần gần giũ, vui vẻ, là hoạt động kết nối giữa
con người với con người. Theo GS. (tác giả) Trần
Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” cho rằng:
“Lễ hội là hệ thống phân bố theo không gian: vào mùa xuân và mùa thu, khi
công việc đồng án rảnh rỗi nhất, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ
khác, mỗi vùng có lễ hội riêng của mình. Như vậy, lễ hội có phần lễ và phần
hội: Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của
mình. Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí. Xét về nguồn gốc, phần lớn các
trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông
nghiệp. Bên cạnh phần lễ, phần hội có nghĩa là cuộc vui được tổ chức cho đông
đảo người tham dự theo phong tục hoặc vào những dịp đặc biệt” [59, tr.303].
Nhìn từ triết thuyết Folklore Đông Á, nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch cho biết các nhà nghiên cứu
folklore Hàn Quốc thường dùng từ chúc tế,
theo đó tế chữ Hán có nghĩa là tế tự,
tế lễ - một thuật ngữ chỉ các hoạt động khánh hỷ, khánh chúc (féliciter) trong
tiếng Hàn, tương đương với các từ truyền thống như đại yến tiệc, đại vu thuật
hoặc cuộc du hý quần thể… với ý nghĩa ngày hội/tế lớn… hay chúc nghi của người Nhật (nghi lễ chúc mừng) mang hàm nghĩa “làm
vui cho thánh thần”, tức có quan hệ chặt chẽ với việc thờ thần [37, tr. 100 -
101]. Như vậy tựu trung, lễ và hội là một tổng thể thống nhất không thể chia tách trong hoạt động
tín ngưỡng và tôn giáo của con người. Lễ là phần “đạo”, phần tín ngưỡng, phần
thế giới tâm linh sâu lắng của con người. Còn phần hội là tập hợp các trò diễn
có tính lễ thức, các cuộc vui chơi, giải trí tại một địa điểm nhất định [37,
tr.29].
Ở khía cạnh dân gian, trong cuốn: “Folklore một số thuật ngữ đương đại”,
GS. TS. (tác
giả) Ngô Đức Thịnh và Frank Proscha đưa ra định nghĩa “Lễ hội là một
hoạt động kỷ niệm định kỳ biểu thị thế giới quan của một nền văn hóa hay nhóm
xã hội thông qua hành lễ, diễn xướng, nghi lễ và trò chơi truyền thống” [60,
tr.98].
Theo PGS.TS (tác giả) Bùi Hoài Sơn: “Lễ hội
là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, được hình thành trên cơ sở một
nghi lễ, tín ngưỡng nào đó. Các lễ hội truyền thống là sinh hoạt văn hóa tiến
hành theo định kỳ, mang tính cộng đồng (Làng)”. Hay “Lễ hội là một di sản văn
hóa, một sản phẩm của lịch sử, tồn tại và vận hành không bối cảnh xã hội hiện
đại” [49, tr.21].
PGS.TS (Tác giả) Nguyễn Xuân Hồng trong công trình “...” cho rằng: “Lễ hội nói chung là
một hình thái văn hóa diễn ra nhân một sự kiện xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, trong một không gian và thời gian thiêng liêng và bằng những lễ thức
trang trọng cùng với các loại hình văn hóa cộng đồng hướng tới sự kiện đó” [35,
tr.37]. Qua khái niệm này, có thể thấy lễ hội trước hết là một hình thái văn
hóa, đã là hình thái văn hóa thì cần bao gồm nhiều yếu tố liên quan như: tổ
chức, nhận thức và ứng xử. Đối với lễ hội, cần phải có nhận thức đúng đắn và
phù hợp từ đó dẫn đến việc tổ chức tốt lễ hội và ứng xử đúng mực với lễ hội
truyền thống. Khái niệm này cũng đã nêu ra nguồn gốc xuất xứ của lễ hội, đó là
diễn ra nhân một sự kiện xã hội có ý nghĩa đặc biệt, các yếu tố để hình thành
lễ hội và tổ chức lễ hội.
Như vậy, từ những khái niệm trên cho chúng tôi một nhận định được: lễ hội
là hoạt động của một tập thể người liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Lễ hội
bao gồm hai thành tố là lễ và hội kết hợp giữa tín ngưỡng và vui chơi, giữa con
người và thần linh, giữa thế giới âm và dương để thông qua đó con người có thể
bày tỏ niềm mong ước của mình vào các vị thần linh. Đồng thời, thỏa mãn khát
vọng trở về cội nguồn và đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như nhu cầu giao
lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Lễ hội ở nước ta đã được đề cập tới từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chỉ trở
thành một đối tượng, một lĩnh vực nghiên cứu sâu vào những năm 80 của thế kỷ
XX. Các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước đã mất không ít thời gian để nghiên
cứu về lễ hội mà tập trung nhiều ở lễ hội dân gian truyền thống.
Tác giả Ngô Đức Thịnh đưa ra nhận định chung:
“Từ nhiều
năm nay, giới nghiên cứu về lễ hội nước ta, từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng
đưa ra một cách phân loại lễ hội sao cho thỏa đáng nhất. Trước hết người ta căn
cứ vào nội dung phản ánh của lễ hội để chia đây là lễ hội nông nghiệp, kia là
lễ hội anh hùng lịch sử, còn kia nữa là lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng... Căn cứ
vào phạm vi to nhỏ để phân đâu là hội làng, hội vùng và hội của cả nước...; rồi
lại căn cứ vào thời gian mở hội để chia ra lễ hội mùa xuân, lễ hội mua thu, hay
nơi tổ chức ở chùa, đền hay đình... Cách phân chia nào cũng có mặt hợp lý,
nhưng cũng đều không tránh được những chồng chéo, bất hợp lý của nó” [60].
Như vậy việc phân loại lễ hội tùy thuộc vào cách tiếp cận và tiêu chí đưa
ra của mỗi nhà nghiên cứu. Xét dưới góc độ của những người làm công tác quản lý
nhà nước về lễ hội, năm 2001, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT kèm theo
Quy chế tổ chức lễ hội. Quy chế này đã đưa ra 4 loại lễ hội ở nước ta thuộc đối
tượng cần điều chỉnh là: Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn
giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam [18]. Ngày 18/01/2006, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 11/2006/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế
hoạt động văn hóa và kinh doanh văn hóa công cộng [63], chương VI: Tổ chức lễ
hội viết: Điều 23. Lễ hội quy định tại Quy chế này bao gồm: Lễ hội dân gian, lễ
hội lịch sử cách mạng, lễ hội văn hóa du lịch và lễ hội có nguồn gốc từ nước
ngoài tổ chức tại Việt Nam”. Năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số
103/2009/ NĐ-CP, ngày 06/22/2009 về việc Quy chế hoạt động văn hóa và kinh
doanh văn hóa công cộng [66], chương V: Tổ chức lễ hội viết: Điều 17. Lễ hội
quy định tại Quy chế này bao gồm: Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử, cách mạng,
lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch và lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức
tại Việt Nam”.
Gần nhất là Thông tư 15/2015/TT-BVHTTDL, ngày 22/12/2015 của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quy định về tổ chức lễ hội. Tại Chương 1, Điều 3 cũng đã
thể hiện các loại hình lễ hội như: Lễ
hội dân gian, lễ hội lịch sử, cách mạng, lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch và
lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức tại Việt Nam. Tất cả các Nghị định
nêu trên đã phân loại các lễ hội một cách đầy đủ và rõ ràng.
Lễ hội truyền thống được hiểu là lễ hội đã xuất hiện trước thời điểm tháng
8/1945, chủ yếu ở các làng, bản, ấp, gắn với nông dân, ngư dân, thợ thủ công.
Loại lễ hội này được cộng đồng tổ chức định kỳ, lặp đi, lặp lại với các sinh
hoạt văn hóa tương đối ổn định; là bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh
thần của người dân vào thời gian nhàn rỗi. Chẳng hạn như lễ hội Katê của đồng
bào Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, lễ hội Núi Bà Đen ở Tây Ninh, lễ hội Bà chúa xứ
ở An Giang và nhiều lễ hội khác. Lễ hội truyền thống là một bộ phận những giá
trị tốt đẹp trong lễ hội cổ truyền của dân tộc được các thế hệ sau nối tiếp các
thế hệ trước tái tạo và khẳng định để bảo tồn và phát huy theo hướng tích cực
trong đời sống xã hội. Như vậy, lễ hội truyền thống được coi như một thành tố
quan trọng cấu thành nên hình thái sinh hoạt văn hóa lịch sử khác nhau. Trong
Hán – Việt từ điển bách khoa, Đào Duy Anh đã định nghĩa truyền thống như sau:
“Thống gồm có nghĩa là mối tỏ, đường mối, đầu góc; còn truyền là trao lại, trao
cho và chúng luôn đi liền với nhau mang ý nghĩa “Đời nọ truyền xuống đời kia”
[3, tr.836].
Ngoài “Lễ hội truyền thống” và “lễ hội cổ truyền” còn có “lễ hội dân gian”
là đồng nhất với nhau nói về lễ hội trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người
dân xưa và nay. Có nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội truyền thống, tùy thuộc
vào các tác giả tiếp cận ở khía cạnh nào theo phương thức nào. Tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu văn hóa đều cho rằng lễ hội truyền thống là hình thái văn hóa có
tính chất hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất. Lễ hội truyền thống là một hệ
thống hành vi nghi thức biểu đạt thế ứng xử của cộng đồng hướng tới một đối
tượng thần nhất định và những hoạt động văn hóa để minh họa cho các hành vi
nghi lễ. Lễ càng thiêng thì hội càng đông, hội càng đông thì lễ càng thiêng.
Mặc dù vậy, khi đứng ở góc độ quản lý văn hóa để tiếp cận và tìm hiểu về lễ hội
thì tất cả các yếu tố của lễ hội sẽ được quan tâm nhằm bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời tái sáng tạo những
giá trị văn hóa bác học dựa trên những yếu tố dân gian. Có thể nói quản lý văn
hóa quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy và khai thác những vốn văn hóa truyền
thống cùng với sự tái sáng tạo để làm nên những lễ hội dân gian mang đúng nghĩa
của nó, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của mọi người dân.
Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến của
cộng đồng cư dân nông nghiệp nước ta. Tính nguyên hợp của lễ hội thể hiện ở chỗ
lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh, vừa là hoạt động
vui chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn bó trực tiếp với hoạt
động sản xuất vật chất.
Theo PGS.TS (tác giả) Bùi Hoài Sơn:
“Lễ hội
dân gian là một hình thức diễn xướng dân gian bao gồm nhiều hình thức diễn
xướng nhỏ, kết hợp hữu cơ với nhau tạo thành tổng thể diễn xướng lễ hội. Lễ hội
gian dân là một hình thức diễn xướng tâm linh không còn là thế giới hiện thực
mà đã vươn lên một thế giới biểu tượng linh thiêng “nó tái hiện sự tự nhiên,
lịch sử xã hội trong một thời điểm mạnh, thời điểm có giá trị đặc biệt; thời
điểm thiêng, khác với thời gian thường ngày”; “Diễn xướng lễ hội cổ truyền đạt
tới hiệu quả xã hội nhiều mặt, nó tạo nên và biểu trưng cho sức mạnh cố kết
cộng đồng, nó là niềm cộng cảm và cộng mệnh của cộng đồng thỏa mãn ước vọng
vươn tới sự hòa đồng giữa con người với thiên nhiên, với cội nguồn” [49, tr.17].
(Những phần trích này dài quá và không cần thiết)
Việc phân loại lễ hội tùy thuộc vào cách tiếp cận và tiêu chí đưa ra của
mỗi nhà nghiên cứu. Chúng tôi, phân chia theo nội dung phản ánh của lễ hội: Lễ
hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo và nghi lễ vòng đời người.
Lễ hội nông nghiệp có liên quan đến các nghi thức cầu cúng, tế lễ trong đó
có sử dụng các nghi thức để cầu mùa, cầu mưa, cầu tạnh, tạ ơn. Nội dung và hình
thức của nó chứa đựng những yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến diện mạo
đời sống của cư dân nông nghiệp, nhằm phản ánh cuộc
sống của nhà nông trong quá trình làm ăn, sinh hoạt, cải tạo tự nhiên, xây dựng
bản làng. Lễ hội nông nghiệp rất phong phú đa dạng và được mở theo mùa, theo
chu kỳ sản xuất nông nghiệp, theo thời vụ làm ăn của từng địa phương mà chủ yếu
là vào cuối vụ thu hoạch. Lễ hội nông nghiệp được bắt nguồn từ nông nghiệp và
phục vụ mục đích nông nghiệp nên trong tâm thức của người nông dân mở hội cũng
là một công việc cần thiết và quan trọng như bất kỳ khâu sản xuất nào trong quá
trình làm ăn. Các nghi lễ diễn ra với mong muốn cầu mong tổ tiên và các lực
lượng siêu nhiên trợ giúp cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, âm dương
tương hợp, tạ ơn thần thánh, trời đất, tổ tiên mang lại mùa màng phong đăng,
sau đó là những vui chơi, giao tiếp tận hưởng những ân đức mà trời đất, thần
thánh mang lại.
Lễ hội tôn giáo là những lễ hội gắn liền với
các cộng đồng tín đồ tôn giáo, như: lễ Giáng sinh (25/12) còn
gọi là lễ Noel; lễ hội của Phật giáo
có Lễ Đản sinh (15/4 âm lịch),
lễ Vu Lan (15/7 âm lịch); lễ
kỷ niệm khai sáng Phật giáo Hòa Hảo; lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn,
lễ hội Ramưvan của người Chăm Bàni. Đồng thời nhân đấy có thể là dịp hội hè, vui chơi, sinh hoạt
văn hóa của quần chúng nhân dân sở tại. Hoặc, đó là các lễ hội mang màu sắc đặc
thù của phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng riêng thuộc các cộng đồng dân
tộc thiểu số. Như vậy, lễ hội theo tín ngưỡng tôn giáo là một
nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân.
Nghi lễ vòng đời người theo GS.TS Ngô Đức Thịnh là “những nghi lễ liên quan
đến cá nhân, từ khi sinh ra đến khi chết” [60, tr. 23]. Nghi lễ vòng đời người
là cách ứng xử của cộng đồng người đối với một cá nhân, cũng là sự ứng xử đối
với toàn bộ xã hội và toàn bộ thế giới tự nhiên bao quanh con người. Nghi lễ
vòng đời người thể hiện sự lo lắng, chăm sóc lẫn nhau để bảo toàn giống nòi và
bảo toàn xã hội loài người. Nếu như những nghi lễ nông nghiệp là sự ứng xử của
con người với cái tự nhiên ngoài ta (ngoài con người) thì những nghi lễ vòng
đời người là sự ứng xử với cái tự nhiên trong ta (trong con người). Thông
thường, nghi lễ vòng đời người được chia ra những lễ thức theo từng giai đoạn
mà mỗi con người đều phải trải qua, được tính từ khi người mẹ mang thai, nghi
lễ sinh đẻ, đạt tên, lễ cáo gia tiên, lễ thức đầy tháng, đầy năm, lễ trưởng
thành, lễ cưới xin, lên lão, thượng thọ, nghi lễ tang ma và sau tang ma. Như
vậy, nghi lễ vòng đời người là những nghi lễ liên quan đến cá nhân từ trước khi
sinh ra cho đến sau khi chết.
Như vậy, có thể thấy việc
phân loại lễ hội còn nhiều ý kiến khác nhau nên việc phân loại lễ hội trên đây
cũng chỉ mang tính tương đối. Nhưng dù sao việc phân loại lễ hội sẽ giúp cho
việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá về nội dung lễ hội Katê của Chăm Bàlamôn
tỉnh Ninh Thuận. Từ đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình quản
lý của nhà nước về lễ hội, để đưa ra những giải pháp giúp cho các nhà quản lý
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội một cách tốt nhất. Qua phân
tích, tìm hiểu các khái niệm và phân loại lễ hội, cho thấy lễ hội Katê của
người Chăm Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận thuộc nhóm nghi lễ tôn giáo. Được xem là
lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm nơi đây.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát huy lễ hội
truyền thống trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, lễ hội truyền thống là lễ hội
dưới sự quản lý của Nhà nước. Ngày nay cùng với quá trình đổi mới về kinh tế và
thiết chế văn hóa, những lễ hội truyền thống đã được phục hồi mạnh mẽ trên khắp
mọi miền đất nước và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của mọi tầng
lớp nhân dân. Song, sự phục hồi quá nhanh và gia tăng quá mạnh cả về tần suất,
quy mô trong thời gian qua đã khiến nhiều lễ hội như con tàu chệch khỏi đường
ray, bị biến tướng, đánh mất những giá trị tích cực. Bây giờ và hơn lúc nào hết
rất cần sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan quản lý nhà nước về lễ hội. Cùng
với vai trò nêu gương, đi đầu của những người quản lý hoạt động lễ hội trên địa
bàn của mình. Trong thời gian qua, các cấp, các ngành và chính quyền địa phương
chưa nêu cao tinh thần và trách nhiệm trong quá trình quản lý hướng dẫn tổ chức
các hoạt động trong lễ hội truyền thống. Lễ hội vốn sinh ra từ nhân dân, là của
dân, nhưng điều đó không có nghĩa là thả nổi cho người dân muốn làm gì thì làm,
mà luôn cần sự tham gia của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chính quyền địa
phương và những cán bộ quản lý hoạt động lễ hội giữ vai trò quan trọng trong
việc định hướng tổ chức các hoạt động trong lễ hội nhằm mang lại hiệu quả kinh
tế cho địa phương; đồng thời bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong lễ
hội. Tuy nhiên, hiện nay ở nhiều địa phương, nhiều nhà quản lý lễ hội chỉ quan
tâm đến việc thu hút được bao nhiêu người tham dự, đem về lợi ích kinh tế như
thế nào,... mà không tính đến chất lượng hay nội dung văn hóa của lễ hội. Lối
tư duy này góp phần cổ súy phong trào làng nào, tỉnh nào cũng muốn tổ chức lễ
hội; lễ hội mọc lên tràn lan, đông người tham dự nhưng nhạt dần về giá trị văn
hóa. Một số lễ hội vì buông lỏng quản lý đã bị biến tướng theo xu hướng thương
mại hóa, mang tính bạo lực, thiếu tinh thần nhân văn, đi ngược truyền thống yêu
chuộng hòa bình, mến khách của người Việt. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập, lễ
hội không chỉ đơn thuần là duy trì văn hóa truyền thống của dân tộc mà còn đóng
vai trò kích cầu du lịch, quảng bá hình ảnh con người, đất nước Việt Nam tới
bạn bè thế giới. Vì thế, việc bảo đảm giá trị, ý nghĩa đích thực cho lễ hội là
điều mà Nhà nước và Nhân dân ta luôn mong đợi. Để làm được điều đó, phụ thuộc
rất nhiều vào vai trò tiên phong, gương mẫu và trách nhiệm của Nhà nước và các
ngành chức năng và chính quyền địa phương. Những cán bộ quản lý trực tiếp hoạt
động lễ hội, phải định hướng cho địa phương và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa của
việc tổ chức lễ hội. Ngoài vai trò định hướng hoạt động tổ chức lễ hội, Nhà
nước còn có vai trò không kém phần quan trọng quyết định rất lớn đến việc thành
công trong tổ chức lễ hội, đó là vai trò hỗ trợ về kinh phí, hỗ trợ về mặt pháp
lý, hỗ trợ về chuyên môn và phương thức thực hiện. Để đạt đến mục tiêu cuối
cùng là duy trì và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc. Như vậy, có thế
thấy vai trò của Nhà nước trong việc duy trì và phát huy giá trị lễ hội truyền
thống trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. Bởi lẽ, Nhà
nước chưa thể hiện rõ vai trò và năng lực của mình trong việc triển khai các
văn bản pháp quy đến địa phương, chưa định hướng, hướng dẫn cho địa phương nắm
được quy định, quy chế trong quá trình tổ chức lễ hội ở địa phương mình thì lễ
hội sẽ không phát huy hết tiềm năng và giá trị. Thậm chí với nhiều tác động
trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay lễ hội truyền thống có
khả năng bị mai một và biến tướng dần.
Ninh Thuận, nơi có số người Chăm đông nhất cả nước, là một tỉnh thuộc Nam
Trung Bộ, nằm từ 11018’ đến 12002’ vĩ Bắc và 108035’
đến 109015’ kinh Đông. Toàn tỉnh có diện tích khoảng 3.360 km2
với các mặt phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía
Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp với Biển Đông [12, tr.24]. Về mặt địa hình, Ninh Thuận có hai dạng địa
hình chính là núi và đồng bằng. Trong đó, núi với độ cao trung bình là dạng địa
hình chiếm phần lớn diện tích, tạo nên một vành đai bao bọc bốn mặt của tỉnh.
Đồng bằng Ninh Thuận rất nhỏ hẹp (có diện tích nhỏ nhất miền Trung) và nằm lọt
giữa các ngọn núi. Điều này làm cho Ninh Thuận trở thành một “lòng chảo” nằm
bên bờ Biển Đông, đồng thời góp phần không nhỏ tạo nên các điều kiện khí hậu,
thổ nhưỡng, sông ngòi… tương đối đặc trưng cho vùng đất này. Với địa hình bốn
mặt núi bao bọc, “lòng chảo” Ninh Thuận phải gánh chịu những điều kiện khí hậu
rất khắc nghiệt. Nơi đây đã được khẳng định là điểm khô, nóng và ít mưa nhất
trong cả nước với lượng mưa hằng năm chỉ khoảng 700mm (thấp hơn mức
trung bình của cả nước rất nhiều) và nhiệt độ trung bình là 29 – 330C.
Sự che chắn của các ngọn núi đã làm cho mùa khô Ninh Thuận kéo dài hơn những
nơi khác (từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau), đồng thời làm cho thời gian mưa ít
đi, chỉ với khoảng 60 ngày trong 3 tháng (tháng 9 đến tháng 11) [12, tr.27]. Mạng lưới sông ngòi ở đây khá thưa thớt
với các đặc điểm nhỏ, ngắn và dốc. Vì vậy, chúng thường gây ra những đợt lũ lụt
mạnh và dâng cao vào mùa mưa, cũng như thường hay cạn kiệt nước trong những
tháng mùa khô. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc tưới tiêu trong sản
xuất nông nghiệp và trong sinh hoạt đời sống của người dân. Mặt khác, hệ thống sông ngòi ở Ninh Thuận (sông Dinh, sông
Cái, sông Quao…) khá nghèo nàn về nguồn lợi thủy sản nên ít có giá trị về kinh
tế, ngoại trừ một số tiềm năng về thủy điện.Ngược
lại với sông ngòi, Ninh Thuận lại có một diện tích mặt biển lớn và có nhiều
tiềm năng. Với tính chất là một vùng biển ấm và dồi dào thủy hải sản, biển ở
đây đã được đánh giá là một trong những ngư trường đánh bắt trọng điểm của cả
nước. Ngoài ra, đây còn là một địa điểm du lịch lý tưởng với nhiều bãi tắm
trong xanh, nhiều vũng vịnh đẹp như: Ninh Chữ, Cà Ná, Vĩnh Hy, Hòn Đỏ,… [12,
tr32]. Nhìn chung Ninh Thuận là một vùng đất có điều kiện địa lý tự
nhiên không thuận lợi. Tuy nhiên, chính tại đây, nơi mà tưởng chỉ có những cây
xương rồng là phát triển được, thì cộng đồng người Chăm đã có một quá trình
sinh sống lâu dài. Không những vượt qua khó khăn, cộng đồng này còn sáng tạo
nên nhiều giá trị văn hóa đặc sắc mang đậm tính đặc trưng của vùng đất Ninh
Thuận.
Theo Báo cáo Tổng điều tra dân số năm 2009, Hiện
nay người Chăm ở Ninh Thuận có khoảng hơn 67.274 người [11, tr.12], sống tập
trung thành từng làng riêng biệt ở 13 xã, phường, thị trấn thuộc các huyện:
Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, Thuận Nam, Thuận Bắc và thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm. Cộng đồng này bao gồm hai nhóm lớn là Chăm Ahiêr (người Chăm chịu
ảnh hưởng Bàlamôn giáo, còn gọi là Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (người Chăm chịu
ảnh hưởng của Hồi giáo cũ, thường được gọi là Chăm BàNi). Ngoài hai nhóm này,
trong cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận còn có một nhóm khác là Chăm Islam
(người Chăm chịu ảnh hưởng của Hồi giáo hiện đại, thường được gọi là Chăm
Islam) [44, tr.131-173]. Theo Cục thống kê tỉnh Ninh Thuận, dân số người Chăm
của tỉnh Ninh Thuận chiếm tỉ lệ 11,29% dân số toàn tỉnh. Trong đó, người Chăm
Bàlamôn có 37.737 người, người Chăm Bàni có 23.059 người và người Chăm Islam có
1.850 người [25]. Trong đó huyện Ninh Phước có đồng bào người Chăm sinh sống
đông nhất, với 7972 hộ người Chăm, gần 50.000 nhân khẩu, chiếm khoảng 30% dân
số toàn huyện [25]. Người Chăm tập trung chủ yếu ở phía Đông và phía Nam của
tỉnh. Hầu hết họ sống tập trung ở 34 làng Chăm [PL1, Bảng 1.1]. Mặc dù theo các
tôn giáo khác nhau nhưng giữa nhóm người Chăm Ahiêr, Chăm Awal và Chăm Islam hầu
như không có nhiều sự khác biệt về mặt tổ chức xã hội. Có chăng, ở đây chỉ là
sự thay đổi khác nhau về tên gọi của các chức sắc tôn giáo và vai trò của họ
đối với từng cộng đồng, hoặc là sự khác nhau về cách phân chia đẳng cấp trong
xã hội trước đây (hiện nay hầu như không còn rõ nét).
Xã hội Chăm ở Ninh Thuận còn mang đậm nét của các xã hội Chăm truyền thống
trước kia. Người Chăm vùng đất này vẫn cư trú tập trung trong các làng (Paley),
và gia đình mẫu hệ vẫn là các đơn vị cư trú hạt nhân của họ. Paley của người
Chăm ở tỉnh Ninh Thuận là một đơn vị cư trú tập trung khoảng 300-400 hộ gia
đình, thường tọa lạc trên những khu đất cao hoặc gò đồi, xung quanh có ruộng
lúa và nương rẫy bao bọc. Trong mỗi làng Chăm đều có một đền thờ làng và một
Nhà làng [1, tr.85]. Đây là những địa điểm dùng làm nơi tiến hành các nghi thức
cộng đồng (Tết (lễ) Katê, Ramuwan (Ramưval), Rija nưgar...) và tập hợp dân làng. Cơ cấu
tổ chức quản lý của các làng Chăm ở Ninh Thuận có sự tồn tại song song giữa hai
hình thức quản lý hành chính và quản lý theo truyền thống, luật tục. Ở đây, một
mặt vừa có Hội đồng già làng (đứng đầu là chủ làng) và Hội đồng chức sắc tôn
giáo chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến phong tục tập quán,
luật tục trong làng. Mặc (mặt) khác, mỗi làng
đều có Ban quản lý thôn (đứng đầu là trưởng thôn), Đoàn thanh niên, Hội nông
dân chuyên thực hiện các công việc mang tính hành chính (chính sách, thu
thuế,...). Nhỏ hơn và nằm trong khuôn viên làng, các gia đình và dòng họ mẫu hệ
là những đơn vị cư trú quan trọng cơ bản của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận. Mỗi
gia đình thường gồm nhiều thế hệ (3-4 thế hệ) sinh sống tập trung trong khuôn
viên nhà ở gọi là Nhà Tục, dựng theo hướng Bắc – Nam, có rào bao quanh. Nhiều
gia đình như vậy có chung quan hệ huyết thống bên mẹ với nhau tạo thành một tập
hợp lớn hơn là dòng họ mẫu hệ. Tập hợp này do một người lớn tuổi thường được
gọi là chị cả trong gia đình đứng đầu. Người này được gọi là Muk Rija hay Muk
Praong, có nhiệm vụ giữ Chiết Atâu [1 (trang bao
nhiêu?)] và tổ chức các lễ Rija, lễ cúng bái tổ tiên cho cả dòng họ.
Trong quan hệ gia đình và xã hội, quan hệ gia đình mẫu hệ vẫn là mối quan hệ
nền tảng, do đó người phụ nữ Chăm ở đây rất được đề cao.Nói một cách chung
nhất, các hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận
vẫn còn bảo lưu về cơ bản các yếu tố truyền thống của dân tộc Chăm trước đây.
Và đó chính là cơ sở, là điều kiện để cộng đồng này tiếp tục kế thừa và phát
triển các giá trị văn hóa của dân tộc mình trong những hoàn cảnh mới, tình hình
mới.
Cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận là chủ nhân của một kho tàng di sản văn hóa đặc sắc với rất nhiều loại hình khác
nhau. Có nhiều loại hình như: nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc các đền, tháp;
nhà ở; y phục – trang sức, các làng nghề truyền thống đều thể hiện cách nhìn,
cách ứng xử của họ đối với thiên nhiên và con người xung quanh. Qua đó, nó
không ngừng nâng cao và hoàn thiện cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của cộng
đồng này.
Trong lĩnh vực kiến trúc – điêu khắc, hiện nay người Chăm ở tỉnh Ninh thuận
hầu như không còn duy trì được hoạt động của mình. Tuy nhiên, qua những đền,
tháp Hòa Lai (thế kỷ IX), Pô Klong Girai (thế kỷ XIII), Pô Rôme (thế kỷ XVII)
và các hiện vật điêu khắc còn lại, một thời kỳ phát triển rực rỡ với trình độ
kỹ thuật cao về kiến trúc – điêu khắc của cộng động này đã được khẳng định. Các
công trình, hiện vật kiến trúc, điêu khắc của người Chăm ở đây đều được làm từ
gạch, đất sét, đá. Trong đó, các kiến trúc đền tháp luôn tuân thủ nghiêm ngặt
các nguyên tắc chung của đền tháp Chăm là thân, đế vuông vắn, đỉnh nhọn, có
nhiều tầng giả, cân xứng nhiều chiều, cửa chính quay về hướng đông... Riêng
những hiện vật điêu khắc thì thể hiện theo các mô típ truyền thống về thần
Bàlamôn (Shiva, Vishnu, Brahma), về các vị vua,
hoàng hậu người Chăm, các biểu tượng phồn thực (linga, yoni) và các họa tiết,
hoa văn cách điệu... Ở đây, giữa các công trình kiến trúc và các hiện vật điêu
khắc, cũng như giữa các chất liệu, luôn luôn có sự đi đôi, gắn liền với nhau
tạo thành một tổng thể đa dạng nhưng hài hòa, uy nghi nhưng uyển chuyển, mềm
mại.
Nhà ở của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận được xem là một loại hình kiến trúc
khá đặc trưng với nhiều sự kết hợp đa dạng giữa truyền thống và hiện đại. Về
mặt hình thức, các ngôi nhà này chủ yếu là nhà trệt, có dạng chữ nhật hoặc
vuông với 4 mái (hai mái chính và hai mái nhỏ hai bên) và được xây dựng trên
những khu đất bằng phẳng. Đồng thời chúng thường được liên kết tập trung trong một
khuôn viên theo đơn vị gia đình gọi là nhà Tục. Trong đó, mỗi ngôi nhà có vị
trí và tên gọi khác nhau như: Sang ye, Sang (mưyau)
mâyau, Sang gin, Sang (tộ) tuey (đưa vào phần từ vựng
chữ Chăm)... Nhà thường được bao bọc xung quanh là hàng rào bằng cây khô
hay xương rồng, có cổng ra vào quay về hướng Nam hoặc Tây Nam.
Về y phục – trang sức: các đặc trưng của cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận
được phản ảnh một cách cụ thể, rõ nét trên sự tồn tại vừa song song vừa thống
nhất của hai nhóm cộng đồng tôn giáo Chăm Ahiêr và Chăm Awal (câu văn lủng củng). Các vật liệu được người Chăm dùng
chủ yếu trong y phục và trang sức là vải và các kim loại đồng, bạc, vàng,...
Đối với người phụ nữ Chăm Ninh Thuận (cả hai nhóm Ahiêr và Awal), y phục truyền
thống của họ là váy (khăn), áo dài không xẻ tà (Ao) và khăn đội đầu. Các loại y
phục này được mặc kết hợp cùng lúc với nhau và tùy theo lứa tuổi, tôn giáo mà
chúng có độ dài ngắn và màu sắc phù hợp. Ở đây, người phụ nữ lớn tuổi thường
được mặc áo dài hơn (chấm gót), có màu sẫm, tối, còn các cô gái trẻ thì chủ yếu
mặc những áo dài ngắn hơn (qua gối) với màu sáng tươi. Trong khi đó, người đàn
ông Chăm thường mặc trang phục truyền thống của mình là xà rông và áo likei Xà
rông. Riêng đối với các chức sắc tôn giáo thì lại có những y phục riêng và khác
nhau giữa Chăm Ahiêr và Chăm Awal. Ở đây, chức sắc đạo BàNi trong nhóm Chăm
Awal phải mặc loại áo Thầy Chang hay còn được gọi là ao plut. Trước đây, các y
phục và trang sức (hoa văn, túi, bóp, dây thắt lưng, nhẫn, hoa tai, vòng,...)
truyền thống của nam và nữ trong cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận được sử
dụng một cách thường xuyên và phổ biến trong sinh hoặt hằng ngày. Thế nhưng
hiện nay các loại trang phục này hầu như chỉ còn được mặc nhiều trong các dịp
lễ tết, hội hè như lễ hội Katê, Ramưwan, lễ Rija...
Làng nghề truyền thống: hiện nay trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đang tồn tại
nhiều làng nghề truyền thống, tuy nhiên trong các làng nghề truyền thống hiện
nay nổi bậc nhất là làng nghề truyền thống Bàu Trúc của người Chăm, thị trấn
Phước Dân, huyện Ninh Phước và làng nghề dệt thổ cẩm của làng Mỹ nghiệp. Đây là
hai làng nghề được nhiều người biết đến trong những năm trở lại đây, được Nhà
nước quan tâm đầu tư hỗ trợ về kinh phí cũng như cơ sở hạ tầng, xây dựng các
nhà trưng bày để phục vụ nhu khách trong và ngoài nước, đồng thời góp phần nâng
cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người dân nơi đây.
Về tín ngưỡng, tôn giáo trong cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện
nay đang có sự tồn tại song song của nhiều tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau. Ở
đây, hệ thống tín ngưỡng của cộng đồng này được xác định là khá đa dạng và mang
tính truyền thống, bản địa cao. Trong đó, bên cạnh các tín ngưỡng nông nghiệp,
phồn thực, thờ cúng ông bà tổ tiên... mang tính bao quát, chủ đạo thì những tín
ngưỡng cổ xưa, tàn dư của xã hội nguyên thủy mang tính tôtem giáo, saman giáo
(vật thờ tổ, bùa chú, ma thuật) cũng còn tồn tại khá phổ biến. Tất cả những tín
ngưỡng này liên kết, hòa nguyện vào nhau tạo thành một thể thống nhất, bền vững
chi phối mọi hoạt động trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở tỉnh Ninh Thuận. Cùng với hệ thống tín ngưỡng mang tính truyền thống,
bản địa trên, cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận còn theo hai tôn giáo khác
có nguồn gốc từ Bàlamôn giáo và Hồi giáo. Đây là những thành tố văn hóa có
nguồn gốc bên ngoài được người Chăm nói chung và người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận
nói riêng tiếp nhận từ nhiều thế kỷ trước. Trải qua thời gian, đến nay các tôn
giáo này hầu như đã bị bản địa hóa hoàn toàn và trở thành những hình thức tôn
giáo riêng của cộng đồng này. Bên cạnh tín ngưỡng, tôn giáo, người Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận còn có một hệ thống lễ hội phong phú, đa dạng và đặc sắc. Theo số
liệu thống kê từ Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm cộng đồng này còn lưu giữ
hơn 100 lễ hội lớn nhỏ trên nhiều khía cạnh và không gian văn hóa khác nhau,
trong đó có một số lễ hội lớn, tiêu biễu diễn ra hằng năm như: Tết Katê,
Ramưwan, Ka bunh,... [44, tr.132].
Ẩm thực của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận có những
đặc trưng riêng, nhưng ngày nay có nhiều món khá giống với người Việt
trong vùng. Họ chủ yếu ăn các món ăn làm từ các sản phẩm nông nghiệp (gạo, rau,
đậu) và các loại thủy hải sản (cá, tôm, mực...). Ngoài ra, các loại thực phẩm
có được từ chăn nuôi, săn bắt cũng được sử dụng khá nhiều (heo, bò, dê, gà,
vịt, thỏ, dông...(trừ người Chăm Bani kiêng không ăn
thịt dông). Việc ăn uống của cộng đồng người Chăm tỉnh Ninh Thuận là khá
thoải mái và thống nhất, ngoại trừ sự cấm kị thịt (kiêng kỵ) thịt bò của người Chăm Ahiêr và cấm kị (kiêng kỵ)
thịt heo của người Chăm Awal vì lý do tôn giáo. Các món ăn, thức uống của họ
được sử dụng một cách phổ biến cả trong đời sống hằng ngày lẫn trong các lễ
nghi tín ngưỡng, đình đám, hội hè (theo những quy định phù hợp). Ở đây, người
Chăm ở tỉnh Ninh Thuận luôn có một quan niệm khá xuyên suốt và quan trọng trong
việc chế biến cũng như ăn uống của mình đó là sự tồn tại và hòa hợp âm dương
một cách rõ nét.
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống của cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh
Thuận được sáng tạo và sử dụng trong nhiều sinh hoạt văn hóa khác nhau. Đây là
một loại hình nghệ thuật đặc trưng, quan trọng “phản ảnh những nhận thức, thể
hiện những tình cảm, quan niệm về thẩm mỹ...” [44, tr.336] của cộng đồng này.
Các loại nhạc cụ truyền thống như: trống baranâng (basanưng),
trống ginăng, chiêng, kèn saranai... hòa cùng với những điệu múa và các bài dân
ca mang đậm tính trữ tình của dân tộc tạo nên những âm thanh, hình ảnh đặc sắc
và quyến rũ trong sinh hoạt của cộng đồng người Chăm. Riêng trong các lễ nghi
cúng tế diễn ra ở gia đình cũng như thôn làng, đền tháp, người Chăm ở tỉnh Ninh
Thuận thường sử dụng các bài tụng ca, hát lễ, những điệu múa thiêng, múa lễ...
trong tiếng nhạc phụ họa của đàn Kanhi để làm ngôn ngữ giao tiếp với thần linh.
Điều này góp phần tạo nên không khí linh thiêng, trầm mặc của các buổi lễ. Và
theo quy định, chỉ có những người như người vỗ trống Baranưng, thầy kéo đàn
Kanhi, ông Bóng, bà Bóng và người đứng đầu tộc họ... mới được thực hiện các
điệu múa và nhạc lễ trong các nghi thức dâng cúng của cộng đồng Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận.
Về văn học dân gian, người Chăm có một kho
tàng vô cùng phung phú và đa dạng cả về số lượng lẫn thể loại, đặc biệt là văn học dân gian. Ngoài các thể loại
quen thuộc như “thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, tục
ngữ, ca dao, câu đố, dân ca... người Chăm còn có các truyện thơ, một loại hình
ngâm – kể chuyện rất đặc sắc...”[44, tr.322]. Đề tài chủ yếu của các tác phẩm
văn học dân gian này thường được lấy từ thực tế sinh hoạt hằng ngày với nội dung
phong phú đa dạng, phản ánh nhận thức, suy nghĩ của người Chăm xưa đối với tự
nhiên, cuộc sống. Đồng thời qua đó, thể hiện ý nghĩa giáo dục cuộc sống, khuyến
thiện ghét ác, đề cao những tính tốt của con người như siêng năng chăm chỉ,
hiền hậu, thật thà, tốt bụng...
Tóm lại, kho tàng văn hóa cộng đồng của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận là một
kho tàng văn hóa đặc sắc và đa dạng bảo lưu nhiều
giá trị truyền thống của dân tộc Chăm trước đây. Trên cơ sở nền tảng
chung này, các giá trị, thành tố văn hóa cụ thể được hình thành và được lưu giữ
cho nhiều thế hệ mai sau để có được những tài liệu quý giá này.
Sống trong điều kiện khắc nghiệt, mùa khô thường hạn hán, mùa mưa thường lũ
lụt, môi trường nhiệt đới còn gây nhiều dịch bệnh, với cách tư duy đơn giản
người Chăm chưa lý giải được các hiện tượng tự nhiên, họ đều cho là thượng đế
vô hình sinh ra, họ xem mỗi ngọn núi, dòng sông, biển cả, cây cổ thụ… đều có
linh hồn có khả năng phù hộ hoặc đe dọa đời sống con người [1, Trang...]. Vì vậy để được may mắn, bình an, được mùa
màng, mưa thuận gió hòa, con cháu đầy đàn. Họ phải đem lễ vật đến cúng tế các
vị thần linh, thần sông, thần biển, thần mưa. Và đây chính là nhân tố, là tiền
đề tạo nên lễ hội Chăm.
Lễ hội Chăm là nơi hội tụ di sản văn hóa đồ sộ mang đầy đủ đặc trưng diện
mạo của nền văn hóa Chăm. Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm,
người Chăm ở Ninh Thuận có gần 100 nghi lễ, hội hè. Trong số ấy có khoảng 20 lễ
hội đặc sắc liên quan đến cộng đồng và tộc họ, gia đình [PL1, Bảng 1.2]. (nếu viết PL, thì phải đưa chữ PL vào bảng kê chữ viết tắt)
Đó là lễ hội cúng tế liên quan đến chu kỳ cây lúa (lễ hội nông nghiệp), lễ cúng
tế thần linh, lễ múa liên quan đến đền tháp như: lễ hội Katê và lễ hội Ramưwan.
Ngoài lễ hội nông nghiệp, cộng đồng người Chăm còn có một hệ thống nghi lễ vòng
đời. Các nghi lễ vòng đời này cho chúng ta thấy được quá trình hình thành của
một đời người từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, người Chăm tổ chức rất nhiều
nghi lễ. Đặc biệt ngày nay cộng đồng người Chăm có hệ thống nghi lễ tín ngưỡng
tôn giáo dân gian hết sức phong phú và đa dạng. Có thể thấy, không nơi nào và
dân tộc nào lại tồn tại hệ thống nghi lễ như cộng đồng người Chăm nơi đây. Các
nghi lễ này có liên kết chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống nghi lễ
phong phú và đa dạng. Ngày nay, lễ hội Chăm, nhất là lễ hội Katê đã trở thành
lễ hội lớn trong năm của người Chăm. Lễ hội không chỉ thu hút cộng đồng người
Chăm ở tỉnh Ninh Thuận mà còn thu hút du khách trong nước và ngoài nước tham
gia đến tham quan. Lễ hội Chăm không chỉ thỏa mãn đời sống tâm linh mà còn là
dịp để họ viếng thăm đền, tháp, tượng thờ, danh lam thắng cảnh, gặp gỡ người
thân hướng con người đến những giá trị “Chân – Thiện – Mỹ” là sức mạnh cố kết
của cộng đồng tạo nên thuần phong mỹ tục mà từ xưa đến nay người Chăm rất cần.
Người Chăm là một cư dân nông nghiệp phát triển khá sớm. Hằng năm, họ vẫn
còn gắn liền với một số nghi lễ, hội hè liên quan đến chu kì cây lúa như: Lễ
dựng chòi cày, lễ cúng ruộng lúa mới gieo, lễ cúng lúa làm đồng, lễ mừng lúa
thu hoạch, lễ mừng lúa lên sân. Các lễ nghi nông nghiệp này đã phản ánh được
chu kỳ sinh trưởng của cây lúa. Mục đích của các lễ này là cầu mong các thần
phù hộ độ trì để mùa màng tươi tốt, không bị sâu phá hại, cầu cho lúa tươi tốt,
lúa thóc đầy bồ. Mặc dù đây là lễ nghi của từng gia đình nhưng nó mang ý nghĩa
cộng đồng nên nó đã trở thành lễ hội của cộng đồng. Tuy nhiên các nghi lễ này
hiện nay đã biến mất vì không còn phù hợp nữa.
Lễ chặn nguồn nước: lễ này được diễn
ra ở hai cộng đồng người Chăm Bàlamôn và
người Chăm Bàni. Được thực hiện ở các cửa sông lớn. Lễ này do các tu sĩ, cai
đập... thực hiện. Lễ vật ngoài xôi, chè, người Chăm còn rước gậy lễ trao giảng
kinh của Mohamach ở trong thánh đường đến cửa sông. Mục đích của lễ này cầu
mong cho mưa thuận gió hòa, không gây lũ lụt phá hoại mùa màng.
Lễ tế trâu: lễ tế trâu là một nghi lễ lớn trong hệ thống nghi lễ nông
nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ chức 7 năm một lần. Lễ vật gồm một con trâu
trắng, 02 con gà luộc, bánh chà cung, 02 chén rượu cần, trứng, trầu cau, bánh
trái... Lễ này do ông Cai lệ, thầy kéo đàn Rapap, bà bóng thực hiện. Các vị
thần mà họ mời như: thần Chằn Tinh, thần đất, thần sông, thần mẹ xứ sở (Pô Inư
Nưgar), thần thủy lợi (Pô Klong Girai, Pô Rôme)... Mục đích của lễ này họ cầu mong cho các thần
ác (như thần Chằn tinh trong truyền thuyết về
Núi đá trắng) không về phá cuộc sống của dân làng, đồng thời cảm ơn các
vị thần phù hộ độ trì cho người dân mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Có thể thấy hệ thống nghi lễ nông nghiệp của người Chăm rất phong phú và đa
dạng. Tất cả các nghi lễ đó, cốt lõi nội dung là cầu cho mưa thuận gió hòa,
thóc lúa đầy bồ, tôm cá đầy khoang. Những nghi lễ này gắn liền chặt chẽ với chu
kì sản xuất, mùa vụ của người Chăm trong năm. Tuy nhiên tất cả hệ thống nghi lễ
trên đều nghiên về phần “Lễ” hơn là phần “Hội”. Phần “Hội” là nghi thức phụ,
chủ yếu là múa hát và qui tụ dân làng, cộng đồng, góp thêm cho phần lễ nông
nghiệp Chăm sôi động. Hệ thống nghi lễ này góp phần làm phong phú thêm cho sắc
màu lễ hội Chăm.
Theo nhu cầu của đời sống tâm linh,
ứng với tâm lý vừa sợ sệt, vừa mong muốn sự ban ơn của thần linh, con người đã
hình thành nên hệ thống tín ngưỡng và kèm theo đó là hệ thống nghi lễ. Các nhà
nghiên cứu văn hóa đã chia ra nhiều loại hình nghi lễ khác nhau: Hệ thống nghi
lễ nông nghiệp cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; hệ thống nghi lễ
trong tín ngưỡng ngư nghiệp; hệ thống nghi lễ theo tín ngưỡng tổ nghề, nghi lễ
thờ tổ tiên, nghi lễ cộng đồng tôn giáo và hệ thống nghi lễ vòng đời. Nghi lễ
vòng đời người theo GS. TS Ngô Đức Thịnh là: “những nghi lễ liên quan đến cá
nhân, từ khi sinh ra đến khi chết” [4, tr.126]. Nghi lễ vòng đời là cách ứng xử
của cộng đồng người đối với một cá nhân, cũng là sự ứng xử đối với toàn bộ xã
hội và toàn bộ thế giới tự nhiên bao quanh con người. Nghi lễ vòng đời người là
nghi lễ mà gia đình, tộc họ, cộng đồng tôn giáo thực hiện cho mỗi con người. Vì
vậy, nghi lễ vòng đời không chỉ liên quan đến một con người, mà liên quan đến cả
cộng đồng. Nghi lễ vòng đời người thể hiện sự lo lắng, chăm sóc lẫn nhau để bảo
toàn giống nòi và bảo toàn xã hội loài người. Nếu như những lễ nghi nông nghiệp
là sự ứng xử của con người với cái tự nhiên ngoài ta (ngoài con người) thì
những nghi lễ vòng đời là xử ứng với cái tự nhiên trong ta (trong con người).
Theo
A.V.Gennep ông (câu không đúng ngữ pháp.
Hoặc A.V.Gennep cho rằng, hoặc Theo A.V Gennep thì..., đã A.V. Gennep lại còn
ông) cho rằng cuộc đời của mỗi con người gồm có 3 giai đoạn đó là: sinh,
trưởng thành và tử. Mỗi giai đoạn có 3 thời kỳ, tách biệt với thời kỳ trước,
bước đầu hội nhập và hội nhập vào thời kỳ tiếp sau [4, tr.128]. Người Chăm do
ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn trộn lẫn với văn hóa bản địa nên các nghi thức
chuyển tiếp có sắc thái riêng, nhưng khi khái quát cũng có thể theo lý thuyết
của A.V. Gennep như sau: giai đoạn Sinh có những kiêng kỵ trước và trong thời
kỳ mang thai, các lễ thức trước, trong, sau khi sinh và các lễ thức khác nhau
cho đến trước tuổi trưởng thành; giai đoạn trưởng thành cũng có các lễ thức
đánh dấu thời kỳ trưởng thành và các nghi lễ cưới; giai đoạn tử có các lễ thức
dành cho người chết, các nghi lễ tang ma và sau tang ma [4, tr.129].
Các nghi lễ vòng đời của người Chăm
trãi (trải) qua
3 giai đoạn như đã nêu ở trên gồm nhiều nghi lễ như: nghi lễ chuẩn bị cho đứa
trẻ ra đời; lễ cúng mụ; nghi lễ sinh đẻ; nghi lễ đặt tên; lễ trình tổ tiên;
chăm sóc trẻ sơ sinh; lễ cầu tự; lễ trưởng thành; nghi lễ cưới xin; tục cưới
lén; nghi lễ tang ma; lễ nhập kút. Như vậy nghi lễ vòng đời trãi qua 12 nghi lễ
mà bất cứ người Chăm nào cũng phải thực hiện. Dù giàu hay nghèo thì người Chăm
cũng phải làm đủ 12 nghi lễ này. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia đình và dòng họ
giàu hay nghèo mà họ làm lễ lớn hay nhỏ. Tuy nhiên trong 12 nghi lễ ở trên thì
có ba nghi lễ lớn và quan trọng như: nghi lễ sinh đẻ, lễ cưới hỏi và nghi lễ
tang ma. Ở đây tác giả chỉ nêu lên 03 nghi lễ trong 12 nghi lễ của vòng đời
người để thấy được tầm quan trọng của nó trong quá trình từ khi sinh ra đến lúc
mất đi nó quan trọng như thế nào.
Nghi lễ sinh đẻ: theo quan niệm của
người Chăm, mục đích của cuộc hôn nhân là sinh đẻ con cái đặt biệt là con gái,
để có người nối dõi dòng họ. Ngược lại không có con là điều bất hạnh lớn nhất
cho các cặp vợ chồng. Nên người Chăm rất coi trọng nghi lễ này, trong gia đình
có người sinh đẻ thì họ rất coi trọng và kiêng cử nhiều thứ để không làm ảnh
hưởng đến mẹ và đứa con mới sinh ra.
Nghi lễ cưới xin: trai lớn lên phải
có vợ và gái lớn lên phải cưới chồng, đây là quy luật tất yếu của cuộc sống, để
tiến đến hôn nhân thì họ phải trãi qua nhiều giai đoạn thử thách và nghi lễ bắt
buộc của người xưa. Cũng như các dân tộc khác, nghi lễ cưới xin của người Chăm
phải tuân thủ những trình tự mang tính bản địa khá tương đồng như: chuyện mai mối,
lễ dạm, lễ hỏi và cuối cùng là lễ cưới. Đám cưới được thực hiện theo thủ tục
như: ăn trầu, uống rượu, đeo nhẫn và chú rễ cởi áo trao cho cô dâu. Ngày xưa
thường tổ chức 2, 3 ngày, tuy nhiên ngày nay thì đám cưới chỉ tổ chức trong một
ngày.
Nghi lễ tang ma: Cuộc đời của mỗi con người thường trãi qua 4 giai đoạn như
sinh, lão, bệnh, tử. Tùy theo mỗi quan niệm của mỗi tôn giao khác nhau mà họ
quan niệm về sự sống và cái chết. Có dân tộc thì họ cho rằng sống mới thực,
chết là hết. Tuy nhiên theo quan niệm của người Chăm họ nghỉ “sống gởi, thác
thiên” cuộc sống trần gian là tạm bợ, chết mới là cuộc sống thực. Nên người
Chăm họ rất chú trọng đến những nghi lễ sau khi chết. Họ rất coi trọng cái
chết, họ quan niệm rằng chết chưa phải là hết, thậm chí họ coi cõi chết quan
trọng hơn cõi sống nên trong nghi lễ vòng đời của người Chăm thì tang lễ được
coi quan trọng hàng đầu. Tang lễ là một hệ thống nghi lễ phong phú và phức tạp,
kéo dài thời gian và tốn rất nhiều tiền của cho gia đình và dòng họ. Khi gia
đình nào trong làng hay dòng họ có tang lễ thì cả làng cùng nhau đến để giúp
đỡ, chia sẽ hay nói đúng hơn là đến để tổ chức tang lễ cho người đã khuất. Để
tiễn biệt người quá cố về thế giới bên kia, người ta phải thực hiện rất nhiều
nghi lễ khá phức tạp. Trong nghi lễ tang ma có rất nhiều nghi lễ phức tạp và có
sự khác nhau. Người Chăm chia xã hội thành nhiều tầng lớp khác nhau: tầng lớp
tu sĩ, tầng lớp người giàu và cuối cùng là người nghèo. Ngoài ra tục hỏa táng
còn quy định nghiêm ngặt đối với đứa trẻ dưới 15 tuổi chết thì chỉ chôn mà
không được thiêu. Còn đối với người lớn chết thì chia thì 2 trường hợp: chết
bình thường (chết vì bệnh, chết do già) và chết không bình thường (tai nạn xe
cộ, sông suối,...và chết ngày đại kỵ). Tục còn quy định khi người chết hấp hối,
sắp chết, tất cả những người trong gia đình và dòng họ phải đến canh chừng ngày
đêm, vì họ quan niệm rằng khi người chết tắt thở phải có người thân bên cạnh
chứng kiến mới được coi là “chết tốt”, ngược lại là “chết xấu”. Nghi lễ tang ma
của người Chăm có hai giai đoạn: hỏa táng và lễ nhập Kút. Lễ hỏa táng là một
trong những nghi lễ quan trọng của họ. Vì họ quan niệm rằng khi chết đi thì
phải được làm lễ hỏa táng thì linh hồn người chết mới được siêu thoát lên thiên
đàng. Nếu người chết không được thiêu thì linh hồn người chết sẽ không được
siêu thoát mà sẽ quay trở về bắt tất cả những người thân trong dòng họ. Sau khi
làm lễ hỏa táng xong người ta lấy 9 mãnh xương trán đối với nữ và 7 mãnh xương
trán đối với nam làm lễ nhập kút. Lễ này nó rất quan trọng đối với người chết
vì làm lễ này thì người chết mới về đoàn tụ với tổ tiên đã khuất. Qua các nghi
lễ trên cho ta thấy người Chăm có nghi lễ vòng đời hết sức phong phú và đa
dạng. Đây cũng là nét đặc trưng trong tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận mà
hiện nay vẫn còn lưu giữ.
Tín ngưỡng dân gian, tôn giáo của người Chăm là tín ngưỡng đa thần, với
quan niệm vạn vật hữu linh, họ cho rằng nhiều nơi trong tự nhiên như: Suối, đá,
thác nước, cây cổ thụ... đều có sự hiện diện của thần linh, đều là nơi thần
linh an ngự. Ngoài ra, mối quan hệ giữa con người với trời đất và niềm tin vào
thế lực siêu nhiên luôn hiện diện trong đời sống tinh thần, tâm linh của mỗi
người dân Chăm. Do đó tín ngưỡng dân gian, tôn giáo của người Chăm có nhiều lễ
hội lớn nhỏ khác nhau, để thể hiện mối quan hệ đó cũng như thể hiện lòng tôn
kính đối với thần linh. Trong đó, lễ hội là một trong những hình thức để thể
hiện của người Chăm. Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm, có
hơn 100 lễ hội tuy nhiên lễ hội tín ngưỡng dân gian, tôn giáo có ba hệ thống lễ
hội được tổ chức với quy mô lớn, thu hút sự tham gia của đông đảo cư dân trong
cộng đồng, có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, tâm linh của người
dân nơi đây. Hệ thống lễ hội ở thánh đường của người Chăm Bàni (lễ hội Ramưwan),
hệ thống lễ hội Rija, hệ thống lễ hội ở các đền, tháp Chăm (lễ hội Katê). Tuy
nhiên trong ba hệ thống lễ hội này thì có hệ thống lễ hội ở các đền tháp Chăm
được đông đảo người dân tham gia, không chỉ riêng người Chăm Bàlamôn tham gia
mà cả người Chăm Bàni và đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh đến trong mỗi
dịp diễn ra lễ hội [44, tr.189].
Lễ hội Rija là một hệ thống lễ hội múa của người Chăm bao gồm nhiều lễ hội
múa tống ôn đầu năm, lễ múa ban ngày, lễ hội múa ban đêm và lễ hội múa lớn.
Trong 4 loại lễ hội múa nêu ở trên, ngoài lễ hội múa lớn là lễ hội liên quan
đến cộng đồng làng, còn các lễ khác chỉ là lễ múa trong phạm vi tộc họ và gia
đình. Lễ hội Rija cầu mong mẹ thần xứ sở và các thần linh, giúp dân làng tránh
điều xấu gặp điều tốt, mùa màng tươi tốt không bị chuột phá hoại, tống tiễn mùa
khô hạn đón mùa mưa tới, bình an trong năm mới để bắt đầu công việc cấy cày làm
ăn. Lễ hội thường diễn ra ở đầu làng đối với lễ múa tống ôn đầu năm diễn ra
trong 02 ngày một ngày vào và một ngày ra, lễ hội diễn ra ở gia đình lễ múa ban
ngày và lễ múa ban đêm cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu trong dòng
họ có nhiều sức khỏe, làm ăn phát đạt.
Lễ hội ở thánh đường: cùng với hệ thống lễ hội Rija thì hệ thống lễ nghi ở
thánh đường là biểu hiện rõ nét về một loại hình tín ngưỡng, lễ hội của người
Chăm Awal – Chăm ảnh hưởng hồi giáo. Ngoài các lễ nghi chung với người Chăm
Ahiêr – Chăm ảnh hưởng Bàlamôn như hệ thống lễ hội nông nghiệp, hệ thống lễ hội
Rija thì người Chăm Awal còn có nghi lễ và hội hè khác liên quan đến thánh
đường như lễ kinh hội, lễ Ramưwan...Trong hai lễ hội này thì lễ hội Ramưwan là
lễ hội lớn nhất của người Chăm Awal – Chăm ảnh hưởng hồi giáo. Lễ hội mang bản
sắc riêng của tôn giáo Bàni. Lễ hội không chỉ là lễ chay niệm, đọc kinh cầu
nguyện thánh Alla một ngày 5 lần mà nó còn kết hợp với lễ cúng gia tiên, tục
dâng gạo, lễ cúng nữ thần giáng thế - một tín ngưỡng bản địa lâu đời của người
Chăm [44, tr.125-126]. Ramưwan là lễ hội lớn và có ý nghĩa nhất trong hệ thống
nghi lễ của người Chăm Bàni. Đây là dịp để con cháu những người còn sống nhớ
đến tổ tiên, các đấng sinh thành và cầu nguyện cho con cháu bình yên, mùa màng
tươi tốt. Trong những ngày này dù làm gì ở đâu, dù bận rộn mấy con cháu cũng
phải về quê quay quần cùng gia đình. Lễ Ramưwan là lễ hội đặc sắc của người
Chăm Bàni, góp phần làm phong phú và đa dạng màu sắc độc đáo của lễ hội Chăm.
Hệ thống lễ hội ở các đền, tháp Chăm: hệ thống lễ hội ở đền, tháp Chăm gồm
có 4 lễ như sau: Lễ mở cửa tháp được tổ chức vào tháng giêng; lễ cầu đảo được tổ
chức vào tháng 4; lễ hội Katê được tổ chức vào tháng 7 và lễ cúng Nữ thần được
tổ chức vào tháng 9 lịch Chăm. Tất cả 4 lễ nêu trên, xét về nghi thức hành lễ,
lễ vật cúng tế đều có điểm chung như nhau, chỉ khác nhau về tên gọi, mục đích,
ý nghĩa, quy mô và một số tiểu tiết nghi lễ.
Nói chung, hệ thống lễ hội của người Chăm ở các tháp Chăm đều có một nét
độc đáo riêng. Trong đó phải nói đến lễ hội Katê Chăm là nơi hội tụ, qui mô
nhất trong hệ thống các lễ hội liên quan đến đền tháp Chăm. Lễ hội Katê chính là
nơi hội tụ sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn xướng dân gian đặc sắc nhất trong
kho tàng văn hóa Chăm. Lễ hội diễn ra trong một không gian rộng lớn, từ đền
tháp – làng đến gia đình. Lễ hội thực sự cuốn hút tất cả mọi thành viên trong
cộng đồng ở tất cả các cấp độ, khiến cho không một người nào bị bỏ quên mà liên
kết họ lại trong một môi trường văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc. Lễ hội Katê nói
riêng hệ thống lễ hội ở đền tháp Chăm nói chung chính là dịp cho người Chăm phô
bày sắc thái văn hóa của dân tộc mình. Chính vì vậy mà lễ hội không chỉ đem đến
cho người dự hội những vẻ đẹp của tháp Chăm cổ kính, những sản phẩm của nghề
trồng lúa và đi biển thông qua lễ vật dâng cúng mà nó còn trình diễn trước công
chúng một nền ca – múa – nhạc dân gian giàu bản sắc riêng. Lễ hội Katê thực sự
là ngày hội lớn trong toàn bộ hệ thống lễ hội của người Chăm [44, tr.156-158].
Quản lý là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng
nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người, nhằm
duy trì sự ổn định và phát triển của đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động của bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhà nước với vai
trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, đại diện cho nhân dân, đảm
bảo cho mọi người dân đều được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có
các quyền về văn hóa như: quyền học tập, sáng tạo, phê bình văn hóa nghệ thuật,
tự do sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm
bảo sự hài hòa giữa các thành tố văn hóa, điều tiết lợi ích văn hóa của các
giai tầng, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của toàn xã hội.
Quản lý nhà nước lễ hội là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua
việc ban hành, tổ chức thục hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về lễ hội nhằm mục đích bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa của lễ hội được cộng đồng coi trọng, đồng thời góp phần phát triển kinh
tế, xã hội của từng địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung lại đều có nhiều đặc điểm
chung tất cả đều cho rằng lễ hội là văn hóa, tồn tại trong không gian và thời
gian cụ thể và do con người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con
người. Họ cho rằng lễ hội gồm hai phần là lễ và hội, hai phần nội dung này có
quan hệ biện chứng lẫn nhau, thống nhất với nhau về nhiều mặt. Phần “lễ” là
phần hoạt động của con người dành cho các đấng bề trên thì phần “hội” chính là
những hoạt động do con người tổ chức để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân
đi tham dự lễ hội; nếu phần lễ là phần có yếu tố nghiêm trang, thiêng liêng và
có phần linh thiêng thì phần hội lại là phần gần giũ, vui vẻ, là hoạt động kết
nối giữa con người với con người. Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt
văn hóa dân gian phổ biến của cộng đồng cư dân nông nghiệp nước ta. Tính nguyên
hợp của lễ hội thể hiện ở chỗ lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng các
vị thần linh, vừa là hoạt động vui chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh
thần gắn bó trực tiếp với hoạt động sản xuất vật chất.
Ninh Thuận, nơi có số người Chăm đông nhất cả nước. Dân số chiếm 67.274 (dân số 67.272 người, chiếm gần 50% dân số người Chăm của cả
nước) [11,tr.12], sống tập trung chủ yếu ở địa bàn huyện Ninh Phước. Với
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên không thuận lợi và có nhiều khắc nghiệt.
Người Chăm ở Ninh Thuận đã tồn tại và sinh sống lâu đời trên vùng đất đầy nắng
và gió này. Nơi mà chỉ tưởng có cây xương rồng tồn tại thì chính tại đây người
Chăm đã làm cho nhiều người trong và ngoài nước biết đến, như một vùng đất chứa
đựng nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo và đa dạng, với lối kiến trúc nghệ
thuật, điêu khắc tinh sao đạt đến trình độ tinh xảo. Đặc biệt nơi đây tồn tại
hệ thống các đền, tháp Chăm gần như nguyên vẹn mà không nơi nào có được. Song
song với nó là hệ thống các nghi lễ của cộng đồng người Chăm. Trong đó phải kể
đến lễ hội của người Chăm, có thể thấy, không có nơi nào mà dân tộc lại còn lưu
giữ nhiều lễ hội độc đáo như người Chăm ở Ninh Thuận. Hệ thống lễ hội của người
Chăm ở Ninh Thuận vô cùng phong phú và đa dạng như: các nghi lễ nông nghiệp,
nghi lễ vòng đời và các nghi lễ ở các đền tháp Chăm. Trong số hàng trăm lễ hội
đó phải kể đến lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn, đây là một lễ hội lớn, tiêu biểu và có ý nghĩa quan trọng trong cộng đồng
người Chăm.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI CHĂM Ở NINH THUẬN (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LỄ HỘI KATÊ)
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI CHĂM Ở NINH THUẬN (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LỄ HỘI KATÊ)
Lễ hội Katê là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong hệ thống lễ hội của
người Chăm ở Ninh Thuận. Lễ hội tuy diễn ra vào tháng 7 Chăm lịch (tết giữa năm
của người Chăm) nhưng thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân và các tín đồ tôn
giáo tham gia. Lễ hội không chỉ tổ chức trong một phạm quy nhỏ hẹp, mà ngày nay
đã trở thành một ngày hội lớn, có sức hút mãnh liệt đối với mọi tín đồ tôn
giáo, mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước. Lễ hội là tấm gương phản chiếu
sinh hoạt của cộng đồng người Chăm nơi đây, là nơi hội tụ những giá trị văn hóa
truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm nói riêng và những tinh hoa văn hóa của
dân tộc Việt Nam nói chung.
Thời gian và không gian lễ hội Katê
Lễ hội Katê được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 Chăm lịch, tại các
làng Chăm Bàlamôn trong tỉnh Ninh Thuận. Lễ hội Katê bao trùm khắp 03 huyện,
01 thành phố (4/7 huyện, thành phố) chia làm 03 khu vực đền, tháp Chăm:
đền Pô Inư Nưgar do các tín đồ ở thôn Hữu Đức; tháp Pô Klong Girai do tín đồ
thôn Như Ngọc, Hoài Trung, Chất Thường, Phú Nhuận và tháp Pô Rôme do tín đồ
thôn Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Vụ Bổn, Hiếu Thiện, Hậu Sanh thực hành nghi lễ cúng
tế [44, tr.167]. Lễ hội Katê diễn ra trên không gian rộng từ đền, tháp đến làng và đến nhà.
Katê tại các đền, tháp: Lễ hội Katê được diễn ra ở 03 đền, tháp Chăm, tháp
Pô Klong Girai, tháp Pô Rôme và đền Pô Inư Nưgar [PL4,ảnh 1]. Nhưng nơi thu hút
được nhiều tín đồ nhất, tổ chức qui mô nhất ở tháp Pô Klong Girai. Tại các đền,
tháp Chăm đều diễn ra các lễ như: Lễ rước y trang; lễ mở cửa tháp; lễ tắm tượng
thần; lễ mặc y phục cho thần và đại lễ.
Các nghi lễ này liên kết chặt chẽ với nhau, trong mỗi nghi lễ đều mang một giá
trị và ý nghĩa riêng. Lễ tại đền, tháp diễn ra trong không khí trang nghiêm và
náo nhiệt bởi lẽ kết hợp giữa yếu tố lễ và hội.
Katê tại các làng Chăm Bàlamôn: Sau khi lễ Katê ở đền, tháp kết thúc thì không
khí ở các làng Chăm nổi lên tưng bừng, náo nhiệt. Trước ngày lễ, dân làng tổng
dọn vệ sinh nhà cửa, xóm làng. Buổi sáng ngày lễ mọi người cúng Katê ở nhà làng
để cầu mong thần làng phù hộ độ trì cho dân làng sức khỏe hạnh phúc, an khang
thịnh vượng. Yếu tố phần hội ở các làng Chăm rất lớn và quan trọng. Khi hoàng
hôn kết thúc mọi người dân lại trở về mái ấm gia đình để chuẩn bị Katê tại nhà.
Katê ở gia đình: Khi lễ hội Katê ở làng kết thúc, Katê ở gia đình mới được
tổ chức. Trong dịp này, mỗi gia đình đều chuẩn bị, bánh trái mời họ hàng, bạn
bè đến thăm viếng, chúc tụng nhau. Làng Chăm tràn ngập niềm vui, thân thiện,
tình đoàn kết xóm giềng. Họ thật sự quên đi những vất vả, lo âu của cuộc sống
đời thường để tận hưởng hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc sống còn nhiều khó khăn,
bề bộn... của cuộc sống hằng ngày.
Chủ lễ, đối tượng thờ và lễ vật dâng
cúng
Chủ lễ: Katê tại đền, tháp được điều hành bởi Ban tế lễ đạo Bàlamôn gồm:
thầy Cả sư trụ trì đền tháp làm chủ lễ; thầy kéo đàn kanhi hát thánh ca; Bà
bóng dâng lễ vật lên các vị thần; ông Từ chủ lễ tắm tượng; và một số tu sĩ
Bàlamôn phụ lễ.
Đối tượng thờ cúng trong lễ hội Katê gồm: thần Siva, thần mẹ xứ sở, thần Pô
Klong Girai, thần Pô Rôme, thần Pô Par, thần Pô Bia, thần Pô Sah, tướng quan
văn,... trên 20 vị thần được mời về dự lễ.
Lễ vật dâng cúng trong lễ hội Katê tại đền, tháp bao gồm: 01 con dê; 03 con
gà làm lễ tẩy uế đất tháp; 05 mâm cơm, canh cúng với thịt dê; 01 mâm cơm với
muối vừng; 03 cổ bánh gạo và hoa quả; Ngoài ra còn có rượu, trứng, trầu cau,
xôi chè, các loại bánh được chế biến từ nông nghiệp.
Công tác chuẩn bị
Trước khi lễ hội Katê diễn ra chính quyền địa phương, cùng với Ban Phong
tục, Bảo tàng tỉnh phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức thống nhất
các ý kiến. Nhằm tổ chức tốt các hoạt động trong phần lễ cũng như phần hội tại
tháp Pô Klong Girai và tháp Pô Rôme. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Ninh
Phước phối hợp với UBND thị trấn Phước Dân, UBND xã Phước Hữu lên Kế hoạch tổ
chức lễ hội Katê tại Đền Inư Nưgar, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và
thể thao tại Sân vận động thôn Hữu Đức [PL4, ảnh 4]. Mỗi đền, tháp đều thành
lập Ban tổ chức để lo lễ hội Katê tại đền Pô Inư Nưgar và ở làng Hữu Đức. Trong
lễ hội Katê ở 3 đền, tháp đều có sự tham gia phát biểu của Lãnh đạo tỉnh. Nhìn
chung công tác chuẩn bị được Ban tổ chức điều hành diễn ra đúng theo quy định
của Nhà nước. Thành lập theo cơ cấu thành phần quy định tại Chương II, Điều 33
trong Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001. Ban tổ chức là những người có trách
nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động trong lễ hội theo đúng chương trình đã
báo cáo với cơ quan chức năng; công tác an ninh trật tự được đảm bảo an toàn;
tổ chức tốt các dịch vụ tại tháp Pô Klong Girai; bảo vệ tốt vệ sinh môi trường.
Để lễ hội Katê được tổ chức theo đúng mục tiêu đề ra, Ban tổ chức còn thành lập
các tiểu ban như: tiểu ban hậu cần khánh tết, tiểu ban an ninh trật tự, tiểu
ban cổ động tuyên truyền,... Các tiểu ban này trực tiếp hướng dẫn, theo dõi,
kiểm tra các hoạt động tại các đền, tháp tổ chức tuyên truyền cổ động trực quan
ở các đền, tháp và tại sân vận động thôn Hữu Đức như: treo băng rôn, cờ phướn
“Chào mừng lễ hội Katê”. Hướng dẫn UNBD các xã, phường, thị trấn tổ chức tuyên
truyền qua hệ thống truyền thanh của xã. Chuẩn bị các phương tiện và vật dụng
tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại một số làng Chăm
[PL4, ảnh 3]. Trước khi lễ hội diễn ra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo
các đơn vị trực thuộc như: Đoàn Nghệ thuật Dân gian Chăm, đội Thông tin lưu
động có kế hoạch biểu diễn văn nghệ (ca-múa-nhạc) Chăm tại các đền, tháp và đặc
biệt là tại các làng Chăm. Nhìn chung công tác chuẩn bị cho lễ hội Katê ở các
đền, tháp và ở các làng Chăm trong những năm gần đây được Ban tổ chức chuẩn bị
khá chu đáo và phân công rõ ràng, cụ thể để lễ hội diễn ra thành công và đạt
được kết quả nhất định.
Diễn trình lễ hội Katê
Phần lễ: được tổ chức tại 3 đền, tháp Chăm với các nghi lễ tâm linh, thể
hiện sự tôn kính của nhân dân. Cũng giống như các lễ hội truyền thống khác, lễ
hội Katê có kết cấu phần lễ như sau:
Lễ rước y trang: tất cả các y trang của vua chúa ở các đền, tháp Chăm đều
do người Raglai cất giữ. Do vậy khi đến ngày lễ Katê thì người Chăm phải làm lễ
đón rước y trang người Raglai chuyển về lại các đền, tháp Chăm. Đây là nghi lễ
mở đầu cho ngày hội diễn ra rất trọng thể. Lễ rước y trang diễn ra ở 3 đền,
tháp: Đền Pô Inư Nưgar (Hữu Đức), tháp Pô Rômê (Hậu Sanh) và tháp Pô Klong
Girai thuộc (Đô Vinh – Thành phố Phan Rang). Nhưng lễ đón rước y trang ở đền Pô
Inư Nưgar diễn ra vào buổi chiều, trước ngày hội chính thức ở 2 tháp trên một
ngày. Lễ đón rước y trang ở tháp Pô Rômê và tháp Pô Klong Girai diễn ra vào
buổi sáng ngày hôm sau [PL4, ảnh 3]. Mặc dù ở 3 đền, tháp tổ chức nghi lễ đón
rước y trang trong thời gian khác nhau nhưng các nghi thức hành lễ ở các đền,
tháp đều giống nhau.
Trong ngày lễ rước y trang, đoàn người Raglai tập trung đầy đủ, ông Từ giữ
đền dâng cúng lễ vật như rượu, trứng,... xin phép Thần cho rước y trang về các
đền, tháp cúng lễ. Đoàn người rước y trang được sắp xếp như sau: dẫn đầu là 05
đến 06 người Raglai; tiếp đến là Cả sư chủ trì đền, tháp; Thầy kéo đàn kanhi;
Bà bóng; đội vũ nhạc; ở giữa là kiệu khiêng y phục của vua; hai bên là những
thanh niên cầm cờ và những người phụ lễ đi theo [PL4, ảnh 7].
Lễ mở cửa tháp: Sau khi y trang đưa về đền, tháp Ban phong tục tiến hành
các nghi lễ tiếp theo. Các tu sĩ xin phép thần Siva làm lễ mở cửa tháp, lễ này
được diễn ra trước cửa đền, tháp được Cả sư và ông Từ giữ tháp điều hành. Trong
không khí trang nghiêm thầy cúng tế hát cầu lễ thần linh cầu nguyện xong ông Từ
cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần Siva, tiếp đó thầy kéo đàn
Kanhi và Bà bóng tiến đến trước cửa tháp chính ngồi bên tượng bò thần Nadin để
hát xin lễ mở cửa tháp.
Lễ tắm tượng thần: được diễn ra bên trong tháp, lễ này được thực hành gồm
thầy Cả sư, Thầy kéo đàn Kanhi, Bà bóng, ông Từ và một số tín đồ thực hiện.
Lễ mặc y trang cho thần: sau khi lễ tắm tượng thần kết thúc tiếp đến nghi
lễ mặc y trang cho thần. Lễ được tiến hành theo lời bài hát thánh ca của thầy
Kanhi. Lời bài hát đến đâu thì y trang Thần được mặc vào đến đó. Cứ như vậy cho
đến khi kết thúc bài hát thì y phục cũng được mặc xong cho Thần.
Đại lễ: sau khi kết thúc lễ mặc y trang hoàn tất, lúc này tượng thần đã
mang trên mình bộ long bào lộng lẫy, thì cũng là lúc vật dâng cúng được bày ra
trước bệ thờ. Đại lễ bắt đầu, lúc này Cả sư làm chủ điều khiển nghi lễ, Bà bóng
dâng lễ vật, thầy kéo đàn Kanhi hát mời các vị thần về dự lễ. Các vị thần mời
là những vị thần có công với dân với nước được người dân ngưỡng mộ suy tôn. Cứ
như thế thầy kéo đàn Kanhi mời trên 30 vị thần về dự lễ. Mỗi vị thần là một bài
hát lễ. Thầy Cả sư làm phép đọc kinh cầu nguyện xin Thần về hưởng lễ vật và phù
hộ cho dân làng. Kết thúc phần Đại lễ bằng vũ điệu múa thiêng của Bà bóng. Lúc
này ở bên ngoài các đền, tháp bà con đi dự lễ (thường là phụ nữ Chăm, không chỉ
có phụ nữ Chăm Bàlamôn mà còn có Chăm Bàni) cũng bày biện lễ vật ra để cúng và
mời các thần về dự lễ. Lễ vật của họ thường là gà, xôi, chè, trái cây và các
loại bánh,... Mục đích của họ đến với lễ hội cũng xin thần phù hộ, độ trì cho
gia đình được mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu đầy
đàn,...
Phần hội: trong lúc Bà bóng (không nên dùng chữ bà
bóng mà dùng chữ (Muk Pachow (bà múa bóng khu vực tôn giáo) đang xuất
thần trong điệu múa thiêng trong các đền, tháp
để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu mở hội. Những điệu trống ghinăng, kèn
saranai cùng vang lên. Không khí hội cứ thế mà náo nhiệt, rộn ràng cho đến lúc
mặt trời ngã về chiều thì lễ hội Katê trên các đền, tháp Chăm kết thúc. Nếu như
Katê ở đền, tháp nặng về phần lễ, thì Katê ở làng phần lễ đơn giản, còn phần
hội đóng vai trò quan trọng. Phần hội thường được tổ
chức ở các nhà văn hóa làng, sân vận động. Ở huyện Ninh Phước, trong ngày đầu
tiên của lễ hội, các trò chơi dân gian như hát múa tập thể, bóng đá, bóng
chuyền, thi đội nước thường được diễn ra tại sân vận động thôn Hữu Đức và thôn
Mỹ Nghiệp
Tại các làng Chăm các trò chơi như: thi dệt, đội nước, đá bóng, văn nghệ...
diễn ra tại sân vận động thôn Hữu Đức thu hút đông đảo người dân tham dự [PL4,
ảnh 2]. Đặc biệt là du khách trong và ngoài nước, sinh viên của các trường đại
học, cao đẳng,... đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu, hòa vào trong không khí
của ngày hội, làm cho lễ hội càng thêm sức hút mãnh liệt đối với mỗi người dân
nơi đây.
Trong lễ hội Katê cuộc sống thường ngày của người dân được tái hiện dưới
hình thức các trò diễn. Các vị thần linh luôn tồn tại trong đời sống và sẽ trở
về trong tiềm thức của họ vào những dịp lễ hội diễn ra, khiến cho lễ hội được
tồn tại với những lễ nghi ít nhiều có tính chất huyền ảo, sức cảm hóa của không
gian và thời gian thiêng được nhân lên gấp bội. Hội là dịp để mọi người được
hóa thân, nhập cuộc và tham gia sáng tạo cũng như thưởng thức các giá trị văn
hóa nghệ thuật mang tính chất dân gian kết hợp với những yếu tố hiện đại. Do
đó, lễ hội Katê đã góp phần tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống tâm linh,
đến việc hun đúc tâm hồn tính cách của mỗi con người dân tộc Chăm.
Lễ hội Katê cũng như những lễ hội truyền thống khác là sinh hoạt văn hóa,
sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình
lịch sử. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báo của cộng đồng dân tộc
Chăm, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “thần” những
người có thật trong lịch sử dân tộc. Hình tượng các vị thần đã hội tụ những
phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những người có công khai phá vùng đất
mới, tạo dựng nghề nghiệp cho dân làng; những người chống chọi với thiên tai;
những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con
người lương thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc…đồng thời, lễ hội Katê cũng là
dịp để đồng bào dân tộc Chăm tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà và đã phù hộ độ trì
cho dân làng trong suốt năm qua, để con người trở về với cội nguồn tự nhiên hay
cội nguồn của dân tộc đều đó có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí con người.
Lễ hội Katê với những nghi lễ tâm linh, thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn của
cộng đồng dân tộc Chăm với các vị thần cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa,
mùa màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, ấm no và hạnh phúc.
Bên cạnh đó, lễ hội diễn ra ở các làng Chăm nó thể hiện được sức mạnh cộng
đồng làng xã và địa phương. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để
vượt qua gian khó, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Lễ hội là nhu cầu sáng tạo và
hưởng thụ những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân
và mọi cộng đồng dân tộc Chăm tham gia, là hình thức giáo dục, chuyển giao cho
các thế hệ sau biết gìn giữ, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp yếu tố tâm linh, đua tài,
giải trí,... là dịp để người Chăm được giải tỏa, dãi bày những phiền muộn, lo
âu với các vị thần linh, mong được các vị thần linh, ông bà, tổ tiên giúp đỡ
chở che vượt qua những thử thách, khó khăn cuộc sống thường ngày.
Lễ hội truyền thống ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống và
tinh thần, trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đồng thời, lễ hội đang trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương. Do đó, việc tăng cường
hiệu lực quản lý lễ hội truyền thống dựa trên các quy định của Hiến pháp, các
văn bản Nghị định, Chế tài, các quy
định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhằm bảo đảm quyền tự do sinh hoạt văn
hóa, tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân, giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp,
phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Đưa các hoạt động đi vào nề nếp
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân thêm đa dạng,
phong phú, vui tươi, lành mạnh trên cơ sở đó góp thêm tinh thần đoàn kết gắn bó
cộng đồng của người dân.
Di tích các đền, tháp Chăm là không
gian tổ chức lễ hội, nội dung của các đền, tháp chính là nội dung của lễ hội và
lý do tồn tại lễ hội. Vì thế trong những năm qua, các ngành, các cấp đã tích cực
chỉ đạo công tác quản lý, trùng tu và tôn tạo các di tích đền, tháp nơi tổ chức
các lễ hội của đồng bào dân tộc Chăm nói chung và lễ hội Katê nói riêng. Các cơ
quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều chính sách, dự án trùng
tu, sửa chữa và nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các đền, tháp. Những dự án cụ thể
này một mặt đã góp phần bảo tồn các di tích đền, tháp mặt khác tạo điều kiện
trong việc quảng bá, phát triển du lịch tại Ninh Thuận. Các dự án đã được triển
khai cho đến nay bao gồm nhiều hạng mục khác nhau, đảm bảo mọi điều kiện tốt
nhất để lễ hội hằng năm được tổ chức trang trọng, thành kính, cụ thể như:
Tháp Pô Klong Girai là công trình Kiến trúc nghệ thuật được Bộ Văn hóa và
Thông tin (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích cấp Quốc gia
năm 1979. Hiện nay, Tháp được Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý, là địa điểm tổ
chức lễ hội Katê của cộng đồng người Chăm. Năm 1981 thực hiện các Nghị định ký
giữa Bộ Văn hóa nước ta với Bộ Văn hóa nước Ba Lan. Tháp liên tục được trùng tu
và sửa chữa với nhiều hạng mục, Bộ Văn hóa nước Ba Lan đưa nhiều chuyên gia,
cán bộ kỹ thuật, các công trình sư, kỹ sư chuyên ngành, đầu tư kỹ thuật và máy
móc hiện đại phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin Thuận Hải (Sở Văn hóa Thông tin
Ninh Thuận cũ) tiến hành nhiều đợt trùng tu, tu sửa lớn về vật tư, hàng trăm
bản vẽ thiết kế gia cố, phục hồi. Gần 15.000 viên gạch phục chế, 500 họa tiết
trang trí bằng gốm, gần 30 chi tiết điêu khắc được thay thế với tổng kinh phí
lên đến hàng chục tỷ đồng. Năm 1995, bằng nguồn kinh phí chống xuống cấp của Bộ
Văn hóa và Thông tin, đầu tư 200 triệu đồng tiến hành khôi phục 08 km bức tường
cổ bao quanh cụm tháp [9, tr.2]. Năm 2004,
Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã phê duyệt dự án xây dựng Cụm Văn hóa – Du
lịch Pô Klong Girai. Dự án này được thực hiện trên diện tích gần 10ha phía dưới
chân đồi Trầu với vốn đầu tư theo chương
trình mục tiêu quốc gia gần 11 tỉ đồng. Sau một thời gian thi công, Cụm Văn hóa
– Du lịch Pô Klong Girai đã được hoàn thành và chính thức đi vào hoạt động vào
đầu năm 2006. Các hạng mục chính của dự án bao gồm khu nhà trưng bày, giới
thiệu văn hóa Chăm, khu nhà nghỉ, khu sân – công viên cây xanh và khu kinh
doanh dịch vụ…. [8, tr.3]. Các công
trình này đến nay được Bảo tàng tỉnh khai thác làm điểm đến du lịch mang lại
nguồn thu đáng kể cho địa phương. Tất cả các công trình đó có vai trò
quan trọng, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của người dân, nơi
quan trọng tổ chức lễ hội Katê, mà còn là nơi thu hút nhiều du khách trong và
ngoài nước, góp phần phát triển du lịch văn hóa ở địa phương.
Tháp Pô Rôme là công trình Kiến trúc nghệ thuật được Bộ Văn hóa và Thông
tin (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích cấp Quốc gia năm
1992. Hiện nay Tháp được Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý, là địa điểm thứ hai
để cộng đồng Chăm tổ chức lễ hội Katê. Năm 2008, bằng nguồn kinh phí địa phương
UBND tỉnh Ninh Thuận cấp cho Bảo tàng tỉnh tiến hành trùng tu, sửa chữa, phục
dựng một số hạng mục bên trong tháp như: sửa chữa miếu Bà, phục chế tượng Pô Thanh Chil, Pô Thanh Chan và bò thần Nadin với
tổng số tiền 350 triệu đồng [9, tr.4].
Năm 2012, để phát huy các giá trị di tích và chống xuống cấp Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đầu tư 25 tỉ đồng theo nguồn vốn chương trình mục tiêu Quốc gia
để trùng tu và sửa chữa Tháp, xây dựng một số hạng mục công trình dân dụng như
khu vực bãi để xe, nhà vệ sinh, khu nhà trưng bày, nhà bảo vệ, đường đi lên
tháp với tổng diện tích là 5 ha [9, tr.4]. Công trình không những góp phần quan
trọng phục vụ nhân dân trong các lễ hội của người Chăm, mà đây cũng là một điểm
du lịch mới cần được Nhà nước quan tâm khai thác góp phần phát triển du lịch ở
địa phương trong tương lai.
Cả 2 Tháp đến nay gần như đã hoàn thiện trùng tu
về mặt kiến trúc, về kết cấu cơ sở hạ tầng, các công trình này không chỉ phục
vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc Chăm. Đây còn là 2 địa điểm có thể
được xem là nơi có nhiều tiềm năng lớn phát triển du lịch Ninh Thuận trong
trương lai. Mỗi Tháp có một Ban Phong tục riêng, Ban phong tục là những người
trực tiếp đứng ra thực hành các nghi lễ trong các lễ hội của người Chăm. Ban
Phong tục là những người trong Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận.
HĐCS (nhớ đưa vào bảng kê chữ viết tắt)
Chăm ra đời nhằm đáp ứng nguyện vọng của
đông đảo các chức sắc và tín đồ người Chăm ở Ninh Thuận, họ thay mặt những
người Chăm bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc mình, tổ chức và điều hành các
nghi lễ cúng tại các đền, tháp.
Ngoài 2 Tháp Chăm, đền Pô Inư Nưgar là địa điểm thứ ba để cộng đồng Chăm tổ
chức lễ hội Katê, là Kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng được Ủy ban nhân dân tỉnh
Ninh Thuận công nhận di tích cấp tỉnh vào năm 1999. Hiện nay Đền do chính quyền
địa phương quản lý (UBND xã Phước Hữu). Cũng như ở 2 Tháp, Đền cũng có một Ban
Phong tục, nhiệm vụ của Ban Phong tục chăm lo tổ chức các lễ hội của người
Chăm. Năm 2008, bằng nguồn kinh phí của địa phương đóng góp Ban quản lý Đền
tiến hành tu sửa và xây dựng một số hạng mục như thay rui, lách, ngói, sửa tường, bắt điện, xây cổng, xây tường thành,
lót sân với tổng kinh phí sửa chữa 1,2 tỉ đồng [9, tr.4]. Năm 2012, Ban quản lý
Đền xin UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí trùng
tu, sửa chữa một số hạng mục công trình hiện đang bị xuống cấp, Ủy ban nhân dân
tỉnh giao Sở Tài chính xem xét cân đối ngân sách cấp 1,8 tỷ trong năm 2013
[9,tr.5].
Công tác tuyên truyền phổ biến các văn bản quản lý nhà nước về lễ hội Katê:
trong những năm qua, công tác quản lý lễ hội luôn được Nhà nước và chính quyền
địa phương từ Trung ương đến tỉnh và cấp cơ sở quan tâm chỉ đạo, coi đây là
nhiệm vụ quan trọng trong công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đã tăng cường đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước về
xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội trên hệ thống loa
truyền thanh của các xã qua hướng dẫn nghiệp vụ của Sở VHTTDL và Phòng VHTT
huyện Ninh Phước. Cổ động trực quan như:
panô, áp phích, băng rôn, khẩu hiệu. Đặc biệt là Quy chế tổ chức lễ hội
và Quyết định số 103/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày
23/8/2009, Luật Di sản văn hóa, đảm bảo phần lễ được tổ chức theo đúng nghi lễ
truyền thống, phần hội vui tươi, lành mạnh, trong đó có sự kết hợp giữa văn hóa
truyền thống và hiện đại, tạo sự phong phú, đa dạng, thu hút đông đảo nhân dân
trong và ngoài tỉnh tham gia, góp phần phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng
tiêu biểu của người Chăm nói chung và của tỉnh Ninh Thuận nói riêng.
Nhờ làm tốt công tác triển khai phổ biến kịp thời các văn bản chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến các cơ quan đoàn thể và
nhân dân địa phương nên công tác tổ chức và quản lý lễ hội trong những năm gần
đây có nhiều chuyển biến tích cực. Lễ hội đã chấp hành theo Quy chế tổ chức lễ
hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về báo cáo lễ hội; thành lập Ban tổ
chức, điều hành theo chương trình đã được xin phép với cơ cấu thành phần quy
định của Sở VHTTDL hướng dẫn. Một trong những chủ trương có ý nghĩa quyết định
và là kim chỉ nam cho hoạt động này là Nghị quyết Trung ương V khóa VIII về
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và gần nhất
là Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết xác định vai trò của văn
hóa, mục tiêu của việc bảo tồn di sản văn hóa và trách nhiệm của các cấp trong
công tác quản lý nhà nước về văn hóa là mục tiêu hàng đầu. Ngoài ra, Chính phủ
và các ban, ngành ở Trung ương còn ban hành các văn bản khác để các cấp, các
ngành thực hiện như: Quyết định 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về việc phê duyệt đề
án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến 2020”.
Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh Ninh Thuận đã ban hành các Chương trình hành động, các Kế hoạch để chỉ đạo
các cấp, các ngành thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về bảo tồn và phát triển văn hóa ở Ninh Thuận, cụ thể như: năm 2011 Tỉnh ủy đã
ban hành Chương trình hành động về “Phát triển văn hóa, thể thao giai đoạn
2011-2015 và định hướng đến năm 2020”; năm 2015 ban hành Chương trình hành động
số 383-Ctr/TU về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kế hoạch số 5755/KH-UBND tỉnh Ninh Thuận
thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy. Ngành văn hóa, thể thao và du
lịch đã tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản quan trọng liên
quan đến phát triển văn hóa ở Ninh Thuận như: năm 2015 xây dựng Kế hoạch số
4273/KH-UBND về “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với
phong trào xây dựng nông thôn mới”; Thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính
trị về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”; Kế
hoạch 3738/KH-SVHTTDL về triển khai Kế hoạch số 5755/KH-UBND của UBND tỉnh Ninh
Thuận về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”. Từ năm 2012 đến năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch phối hợp với Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Ninh Phước, Ninh Hải,
Thuận Bắc triển khai phổ biến các văn bản Nhà nước liên quan đến hoạt động lễ
hội bằng nhiều hình thức như: mở các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn cho Cán bộ
văn hóa xã hội về “Hướng dẫn việc cưới, việc tang và lễ hội”; phát hành nhiều
tài liệu “Hướng dẫn việc cưới, việc tang và lễ hội” đến cán bộ địa phương và
nhân dân, các quy định của Nhà nước về thực hiện công tác quản lý nhà nước về
việc cưới, việc tang và lễ hội ở địa phương mình một cách hiệu quả.
Có thể thấy những văn bản pháp quy của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa
phương đã tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý văn hóa nói chung, lễ hội
truyền thống nói riêng; Cụ thể hóa những nội dung của Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết số 33 về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” đã trở thành công cụ đòn bảy cho hoạt động quản lý văn hóa, thể
thao và du lịch nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng.
Công tác quản lý các nguồn lực nơi tổ chức lễ hội Katê: tại các đền, tháp
nơi diễn ra lễ hội có hai loại nhân lực được quản lý như nguồn nhân lực tại chỗ
đó là cư dân địa phương thường xuyên tham gia lễ hội và các hoạt động dịch vụ
có liên quan trong phạm vi ảnh hưởng của các đền, tháp và nguồn nhân lực vãng
lai gồm các đối tượng lao động không cố định như những người bán hàng rong… Ban
tổ chức ở mỗi đền, tháp đã có phương án để quản lý tốt hai nguồn nhân lực này.
Đối với nguồn nhân lực tại Ban tổ chức bố trí lực lượng Công an địa phương ở
từng khu vực để xử lý kịp thời khi có các sự cố xảy ra. Đối với nguồn nhân lực
vãng lai từ nơi khác đến tham gia vào hoạt động lễ hội, Ban tổ chức đã có những
biện pháp kiểm soát hạn chế không để các cá nhân lợi dụng lễ hội hoạt động bán
hàng rong.
Quản lý nguồn tài chính: hiện nay ở 3 đền, tháp chỉ có tháp Pô Klong Girai
có các nguồn thu từ bán vé, bán hàng lưu niệm,… và nguồn thu từ công đức của du
khách tham dự lễ hội. Tất cả các nguồn thu này Bảo tàng tỉnh đóng góp vào ngân
sách địa phương, trích lại 30% để chi cho các hoạt động nghiệp vụ tại Tháp.
Tháp Pô Rôme và đền Pô Inư Nưgar hiện nay chưa có các hoạt động dịch vụ, nên
chưa có nguồn thu. Kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu do Hội đồng chức sắc Chăm và
Ban phong tục ở 3 đền, tháp vận động từ nhân dân, các mạnh thường quân là con
em của cộng đồng địa phương đang làm việc, sinh sống trong và ngoài nước hỗ trợ
là chính. Hằng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bảo tàng tỉnh hỗ trợ từ
10 đến 20 triệu đồng từ nguồn kinh phí thường xuyên cho Hội đồng chức sắc và
Ban Phong tục tại 3 đền, tháp để tổ chức lễ hội.
Công tác quản lý dịch vụ, vệ sinh môi trường, trật tự công cộng: hoạt động
dịch vụ - du lịch phục vụ lễ hội Katê luôn được quan tâm như đối với các cơ sở
dịch vụ bán hàng và các dịch vụ trông giữ các phương tiện giao thông Ban tổ
chức phối hợp với Công an địa phương trực tiếp quản lý và kiểm tra thường
xuyên. Xây dựng các phương án để tăng cường quản lý, hướng dẫn cho các đối
tượng tham gia các dịch vụ bán hàng tại khu vực đền, tháp. Tăng cường kiểm tra,
giám sát không để xảy ra tình trạng lấn chiếm lề đường gây ùn tắc giao thông.
Tổ chức các điểm trông giữ các phương tiện giao thông, hạn chế các hộ dân mở
các điểm trông xe tự phát. Tổ chức tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm tại
các thôn, xã, phường, thị trấn góp phần nâng cao nhận thức cho người dân về vệ
sinh môi trường và an toàn thực phẩm tránh không để xảy ra các trường hợp đáng
tiết cho người dân và du khách tham gia hoạt động lễ hội. Tổ chức tuyên truyền
hướng dẫn du khách, nhân dân, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động buôn bán
xả rác đúng nơi quy định; bố trí thùng rác và nhắc nhở người dân và du khách có
ý thức bảo vệ môi trường. Xây dựng các phương án đảm bảo an ninh trật tự trong
suốt quá trình lễ hội diễn ra với phương châm an toàn về người, tài sản; Quy
định và hướng dẫn hoạt động giao thông trong khu vực tổ chức lễ hội. Đảm bảo an
toàn tuyệt đối về an ninh trật tự trong những ngày diễn ra lễ hội.
Công tác tổ chức kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức lễ hội Katê:
Ban tổ chức các đền, tháp phối hợp chặt chẽ với Công an địa phương đảm bảo
công tác an ninh trật tự an toàn xã hội, duy trì nội quy tổ chức lễ hội tại các
đền, tháp, các xã, phường trước, trong và sau thời gian diễn ra lễ hội. Đặc
biệt tăng cường kiểm tra tại 3 đền, tháp bố trí lực lượng tiến hành kiểm tra,
xử lý và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm gây mất trật tự. Theo kết quả
khảo sát người dân và khách du lịch tham dự lễ hội Katê trong những năm qua cho
thấy các hiện tượng tiêu cực như: mất cấp tài sản, người ăn xin, chèo kéo
khách, bán hàng rong đã giảm đáng kể [PL3, bảng hỏi 3.2].
Thực hiện Nghị quyết TW5 (khoá VIII) của Đảng về giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân
tộc; Nghị quết 33 –NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất
nước”. Trong những năm qua Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành,
các cấp phối hợp triển khai thực hiện một số hoạt động bảo tồn nhằm nghiên cứu,
sưu tầm, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc; thông qua đó, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu và nhiệm vụ bảo tồn di sản
văn hóa các dân tộc gắn với phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội
trên địa bàn tỉnh ngày một bền vững. Ở góc độ quản lý nhà nước về công tác bảo
tồn và phát huy giá trị các lễ hội truyền thống ở Ninh Thuận nói chung và lễ
hội Katê của người Chăm nói riêng. Đặc biệt từ khi Luật Di sản năm 2001 ra đời,
cho đến nay Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Bảo
tàng tỉnh, Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tiến hành công tác bảo tồn các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào dân tộc Chăm như: bảo tồn các
làn điệu dân ca Chăm, các nhạc cụ truyền thống, trang phục truyền thống và các
lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm nói riêng và các dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói chung. Từ năm 2002 đến nay Bảo tàng tỉnh và
Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tiến thực hiện công tác bảo tồn bằng nhiều
hình thức như: lập Đề án bảo tồn các trang phục truyền thống trong các lễ hội
của người Chăm, mà đặc biệt là các trang phục; các nhạc cụ truyền thống sử dụng
trong lễ hội Katê. Hiện nay đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng và
Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm, đây là một trong những di sản văn hóa vật
thể của cộng đồng người Chăm cần được bảo tồn và gìn giữ trong giai đoạn hiện
nay.
Thực hiện Thông tư
04/2010/TT-BVHTTDL, ngày 30/6/2010 của Bộ VHTTDL về việc “Kiểm kê di sản
văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể đưa vào
danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia”. Hằng năm, Phòng Di sản văn
hóa tiến hành công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh nói
chung và lễ hội Katê nói riêng đã được phát huy hiệu quả. Trích kinh phí từ 20
- 30 triệu đồng thực hiện công tác kiểm kê này và thường xuyên báo cáo với Bộ
VHTTDL vào cuối năm. Năm 2013 Sở VHTTDL phối hợp Viện Văn hóa nghệ thuật Việt
Nam tiến hành công tác kiểm kê lễ hội Katê trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Mục
đích chính khảo sát và đánh giá thực trạng của lễ hội Katê tại các địa vực cư
trú của cộng đồng người Chăm trong phạm vi tỉnh Ninh Thuận, nơi lưu giữ nhiều
giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội Katê. Bước đầu, tập hợp một cách có hệ thống
những dữ liệu cụ thể do cộng đồng cung cấp, để đánh giá thực trạng hiện tồn của
cơ sở vật chất cũng như sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, liên quan trực tiếp đến
lễ hội Katê; từ đó, có kế hoạch tiếp tục triển khai hoạt động sưu tầm, bảo tồn,
khai thác giá trị di sản văn hóa lễ hội Katê. Thu thập các cứ liệu khoa học
theo tiêu chí của Bộ VHTTDL đặt ra để phục vụ công tác xây dựng hồ sơ phi vật
thể cấp quốc gia và tiến tới chuẩn bị cho việc xây dựng hồ sơ, trình UNESCO
công nhận “Lễ hội Katê của người Chăm” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện
cho nhân loại. Năm 2014 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Kế hoạch số
1669/KH-SVHTTDL lập hồ sơ “Lễ hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận” đưa vào
danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Phòng Di sản văn hóa phối hợp
với Trung tâm nghiên cứu Chăm và Bảo tàng tỉnh, sau một năm thực hiện đến thời
điểm này công tác lập hồ sơ gần như đã hoàn thành. Sở VHTTDL đã hoàn chỉnh các
văn pháp quy tham mưu UBND tỉnh Ninh Thuận trình Bộ VHTTDL công nhận “Lễ hội
Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận” đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật
thể cấp Quốc gia. Năm 2015, lãnh đạo UBND tỉnh Ninh Thuận cùng với lãnh đạo Sở
VHTTDL đã đăng ký làm việc Bộ VHTTDL đề nghị Bộ VHTTDL, Ủy Ban quốc gia UNESCO
Việt Nam cho phép đăng ký và hướng dẫn việc lập hồ sơ khoa học lễ hội Katê của
người Chăm tỉnh Ninh Thuận vào danh mục Di sản văn hóa, đề nghị Tổ chức Giáo
dục Khoa học và Văn hóa Liên hiệp Quốc thế giới (UNESCO) công nhận lễ hội Katê
của người Chăm tỉnh Ninh Thuận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại, đã được Bộ VHTTDL đồng ý chủ trương này.
Lễ hội là nơi chứa đựng và truyền trải nhiều loại hình văn hóa phi vật thể
có giá trị tiêu biểu của đồng bào dân tộc Chăm. Trong đó, có nhiều thành tố của
lễ hội Katê đã trở thành đặc trưng, trở thành những di sản văn hóa phi vật thể
của cộng đồng. Lễ hội Katê được hình thành từ cộng đồng, xây dựng và gìn giữ
qua nhiều thế hệ. Do đó, lễ hội Katê là kết tinh, tinh hoa về những tri thức
của các thế hệ, từ quy trình tổ chức đến nội dung và diễn biến của lễ hội, các
nghi thức cúng thần linh. Những tri thức về khai thác nguyên liệu từ tự nhiên
để chế biến làm lễ vật, thức ăn tuyền thống phục vụ lễ hội, những tri thức về
ứng xử của người với cộng đồng, với môi trường tự nhiên, các tri thức dân gian
còn được thể hiện qua việc chế biến các loại thức ăn truyền thống để phục vụ lễ
hội. Qua hoạt động của lễ hội Katê, các tri thức dân gian này được vận dụng,
phát huy chức năng và giá trị, sẽ được các thế hệ trước trao truyền cho các thế
hệ sau bằng nhiều phương thức. Đồng thời, được các thế hệ tiếp nhận, giữ gìn và
tiếp tục lưu truyền cho con cháu sau này; Các loại hình nghệ thuật dân gian:
bao gồm trình diễn nhạc cụ, múa Chăm được người dân sáng tạo ra để phục nhu cầu
hưởng thụ của họ. Cách trình diễn các nhạc cụ Chăm như: trống paranưng, kèn
Saranai. Đặc biệt là các điệu Siva, múa thiêng của Bà bóng, các loại hình nghệ
thuật này được trình diễn lần lượt trong các nghi lễ cúng thần linh, trong các
hoạt động vui chơi hội của cộng đồng. Nếu không có lễ hội Katê, một số loại
hình âm nhạc dân gian sẽ không có điều kiện để thể hiện, tuyền tải, từ đó ảnh
hưởng đến sự tồn tại của nó. Do đó việc tổ chức hoạt động lễ hội sẽ tạo điều
kiện để các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian này có điều kiện phát huy
một cách tốt nhất.
Các giá trị văn hóa ứng xử cộng đồng: lễ hội Katê là sinh hoạt mang tính
cộng đồng, mỗi người khi đến với lễ hội là đến với các sinh hoạt cộng đồng.
Trải qua thời gian, những giá trị ứng xử cộng đồng trong lễ hội đã trở thành
nét văn hóa tiêu biểu. Đó là sự kính trọng của người dân đối với các vị thần
linh, đối với các vị anh hùng đã có công trong việc xây dựng xóm làng, đối với
tổ tiên, đối với ông bà cha mẹ và những người lớn tuổi trong làng, hay sự đối
đãi, tiếp đón ân cần, hiếu khách của người dân với khách mời. Lễ hội vừa có sự
trang nghiêm cần thiết nhưng cũng hết sức đầm ấm, vui vẻ; thông qua lễ hội Katê
nhận thức của người dân về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa được nâng
cao. Qua khảo sát thực tế ở địa phương cho thấy ý thức bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa của người dân trong những năm qua ngày càng cao, đặc
biệt là ở lứa tuổi trung niên, thể hiện bằng hành động đóng góp công sức, vật
lực cho lễ hội [74]. Nếu như trong nữa cuối thế kỷ XX, thành phần tham gia sinh
hoạt lễ hội Katê chủ yếu là lứa tuổi cao niên, thì từ cuối thế kỷ XX (những năm
90) đến nay, thành phần tham gia thực hành tín ngưỡng không chỉ dừng lại ở hội
người cao tuổi mà còn mở rộng đến lực lượng thanh niên, trai tráng trong làng
[PL4, ảnh 8]. Riêng sinh hoạt lễ hội đã được mở rộng ra nhiều lứa tuổi cả nam
và nữ [PL4, ảnh 5,6], [74].
Lễ hội Katê nói riêng và các lễ hội truyền thống của người Chăm ở Ninh
Thuận nói chung có vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương. Về mặt tinh thần, lễ hội tạo niềm tin và động lực để người
dân hăng say lao động sản xuất, tăng thu nhập cho bản thân và gia đình. Một mặt
nào đó, lễ hội và du lịch là hai lĩnh vực có quan hệ mật thiết, tác động qua
lại với nhau. Lễ hội Katê là một trong những điểm đến mà du khách tìm đến vừa
thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu. Mặc khác,
phát triển du lịch sẽ góp phần duy trì, bảo tồn lễ hội đạt kết quả cao. Lễ hội
Katê có sức hấp dẫn và mang một giá trị riêng, một sắc thái riêng. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh,
du lịch được đánh giá là một ngành có nhiều lợi thế để phát triển với hệ thống
đền, tháp và các di tích văn hóa Chăm đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng và phát triển các loại hình tour du lịch tham quan, tín ngưỡng.
Những năm đầu sau khi tái lập tỉnh (4/1992), trong
điều kiện du lịch còn kém phát triển, những lễ hội truyền thống của người Chăm,
cũng như của các tộc người khác trong tỉnh, gần như không được quan tâm chú ý
trong việc gắn kết lễ hội để phát triển du lịch. Mặc dù, từ tháng 8/1993, quần
thể di tích tháp Pô Klong Girai, không gian chính của lễ hội Katê giao cho Bảo
tàng tỉnh quản lý và kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, việc này chủ yếu chỉ ở khía cạnh bảo vệ và khai thác di tích, chứ (văn
nói) chưa chú trọng nhiều đến vấn đề lễ hội. Lúc này, ngành du lịch Ninh Thuận
và những đơn vị khác chỉ tập trung chủ yếu đưa khách đến các bãi biển (Ninh
Chữ, Cà Ná…), các thắng cảnh tự nhiên hoặc một số di tích lịch sử, văn hóa của
người Việt, người Chăm, người Raglai… Việc tìm đến với lễ hội của cộng đồng
người Chăm để tham quan, du lịch có chăng chỉ là từ sự tự phát của các du
khách, song số lượng này không thống kê được và nhìn chung cũng chưa đáng kể.
Đến những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trước
sự yếu thế và khó cạnh tranh của sản phẩm du lịch biển so với các địa phương
lân cận (Khánh Hòa, Bình Thuận,…), chính quyền và ngành du lịch Ninh Thuận bắt
đầu có sự chuyển hướng sang việc xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch
mới mang tính đặc trưng của địa phương. Kết quả là những giá trị văn hóa của
cộng đồng người Chăm, mà lễ hội truyền thống là một trong những yếu tố nổi bật
nhất, trở thành một cơ sở quan trọng và phù hợp. Điều này, một mặt xuất phát từ
những điều kiện và thế mạnh vốn có của tỉnh. Nhưng mặt khác cũng bắt nguồn từ
nhu cầu của khách du lịch và thực tế đang diễn ra khi ngày càng có nhiều người
tự tìm đến để tham gia vào các lễ hội của người Chăm địa phương. Sau nhiều năm, lễ
hội Katê được người Chăm trong tỉnh tự tổ chức tại tháp Pô Klong Girai và những
địa điểm khác, lần đầu tiên, Sở Văn hóa - Thông tin, Sở Thương mại - Du lịch
Ninh Thuận, phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin, Tổng cục Du lịch và nhiều tỉnh
thành trong cả nước, đã cùng với cộng đồng này tổ chức Liên hoan văn hóa
Chăm – Lễ hội Katê 2000. Đây là một sự kiện rất đặc biệt có sự kết hợp giữa
lễ hội Katê qui mô lớn và rực rỡ nhất từ trước cho đến thời điểm đó, với một
liên hoan văn hóa nghệ thuật gồm nhiều loại hình và tiết mục truyền thống đa
dạng, đặc sắc của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và các cộng đồng người Chăm đến
từ nhiều tỉnh thành trong cả nước. Mục đích trước hết của hoạt động này là nhằm
khắc họa và giới thiệu thật rõ nét các giá trị văn hóa nói chung, lễ hội Katê
nói riêng, của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận cũng như người Chăm ở Việt Nam.
Song song với đó, thông qua đây, chính quyền và ngành du lịch địa phương cũng
nhằm hướng đến mục tiêu thu hút du khách và xây dựng lễ hội Katê cùng các giá
trị văn hóa của người Chăm trở thành một sản phẩm du lịch đặc trưng, tiêu biểu
của mình.
Vì những yêu cầu như vậy, trong dịp này, ngoài việc
chăm lo công tác tổ chức sự kiện, các cơ quan của tỉnh mà chủ yếu là Sở Thương
mại – Du lịch và công ty Du lịch Ninh Thuận, đã chủ động tiến hành nhiều biện
pháp để quảng bá và thu hút du lịch. Cụ thể, tỉnh đã cho phát hành 3.000 cuốn
sách “Lễ hội Katê Chăm 2000” nhằm giới thiệu một cách rộng rãi đến du
khách và những người quan tâm. Trước ngày diễn ra, chương trình lễ hội và các
hoạt động cũng được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng
trong và ngoài tỉnh, và gửi trực tiếp đến nhiều công ty du lịch lớn, nhỏ trên
cả nước. Công tác chuẩn bị về cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ du khách được
thúc đẩy. Sau cùng, các đơn vị của tỉnh đã phối hợp với nhiều công ty du lịch
để đưa khách đến và đón tiếp một cách chu đáo nhất trong những ngày lễ hội diễn
ra. Lễ hội Katê diễn ra với quy mô lớn, số du khách đến tỉnh Ninh Thuận những ngày
này ước lượng đạt khoảng 3.000 người. Con số này thực sự không nhỏ trong tổng
số 76.893 lượt khách (chiếm khoảng gần 4,0%) của cả tỉnh trong năm này. Tuy
nhiên, con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều khi mà số khách du lịch đến với
các di tích lịch sử, văn hóa của tỉnh năm 2000 chiếm tỉ lệ đến 42% trong tổng
số 76.893 du khách, và cũng có sự tăng đột biến lên hơn gấp đôi so với năm 1999
(76.893/38.255 lượt so với 32.292/14.256 lượt) [13], trong khi năm 2001, tỉ lệ
tăng so với năm 2000 lại không nhiều. Do đó, việc nghĩ đến một kết quả mang
tính đột biến cao hơn của lễ hội Katê là hoàn toàn có cơ sở. Kể từ đây, cứ định
kỳ hàng năm, chính quyền và các cơ quan văn hóa, du lịch của tỉnh Ninh Thuận
lại phối hợp với cộng đồng người Chăm để tổ chức lễ hội Katê (đặc biệt là tại
tháp Pô Klong Girai) và mở rộng tổ chức
lễ hội Katê tại đền Pô Inư Nưgar và tháp Pô Rôme, đồng thời tiến hành các hoạt động thu hút và
khai thác du lịch. Liên tục trong gần 14 năm qua (2001 đến nay), việc quảng bá,
giới thiệu về lễ hội đã được thực hiện bằng nhiều hình thức, trong đó chủ yếu
là thông qua các bài viết, các chương trình trên những tạp chí du lịch, truyền
hình, Internet,… cũng như thông qua các ấn phẩm, tập gấp du lịch được ấn hành.
Năm 2007, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh đã tổ chức triển lãm nhiều
hình ảnh về lễ hội Katê và một số lễ hội khác của người Chăm địa phương (chiếm
phần lớn trong tổng số 32 hình ảnh về đời sống văn hóa Chăm được trưng bày)
nhân dịp Festival Ninh Thuận. Cùng trong năm, cơ quan này tiếp tục phối hợp với
nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Văn Bửu để lần đầu tiên ấn hành tập bưu ảnh lễ hội (chủ yếu
là lễ hội Katê) của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận nhằm phục vụ khách tham quan
du lịch. Ngoài ra, vào những ngày lễ hội diễn ra, ngành Du lịch Ninh Thuận và
các công ty, đơn vị du lịch khác trong và ngoài tỉnh cũng kết hợp đưa lễ hội
Katê vào những tour đã có của mình, hoặc thậm chí thiết kế lễ hội thành một
tour riêng để phục vụ và thu hút du khách.
Đặc biệt, để góp phần khai thác du lịch lễ hội Katê
một cách mạnh mẽ và hiệu quả hơn, năm 2004, dự án xây dựng Cụm Văn hóa – Du
lịch Pô Klong Girai. Dự án này được thực hiện trên diện tích gần 10ha phía dưới
chân đồi Trầu. Sau một thời gian thi công, Cụm Văn hóa – Du lịch Po Klong Girai
đã được hoàn thành và chính thức đi vào hoạt động vào đầu năm 2006. Cũng trong
năm này, lễ hội Katê lại một lần nữa được tổ chức với qui mô lớn không chỉ tại
tháp Pô Klong Girai, mà còn cả ở đền Pô Inư Nưgar (Hữu Đức) và tháp Pô Rôme
(Hậu Sanh), trong không khí chung của Ngày hội văn hóa Chăm 2006. Từ sau
khi cụm du lịch văn hóa tháp Pô Klong Girai ra đời lượng khách đến Ninh Thuận
ngày càng tăng. Năm 2007, tỉnh Ninh Thuận đăng cai tổ chức thành công sự kiện
Festival Ninh Thuận, qua sự kiện này lượng khách du lịch đến với Ninh Thuận từ
5.000 lượt khách năm 2006 tăng lên 8.000
lượt năm 2007 [Phụ lục 1, Bảng 1.3]. Ngoài ra, từ đó đến nay, số lượng du
khách đến với Ninh Thuận, đến với lễ hội Katê hàng năm cũng có sự tăng lên và
đạt được con số khá cao. Tổng lượt khách du lịch đến Ninh Thuận giai
đoạn 2005 - 2011 ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng cả giai đoạn đạt
24,28%/năm; năm 2011 đạt 820.500 lượt khách [Phụ
lục 2, Bảng 2.1]. Lượng khách du
lịch quốc tế đến Ninh Thuận giai đoạn 2005 - 2011 có xu hướng tăng với tốc độ
tăng trưởng cả giai đoạn đạt 28,05%/năm. Năm 2011 lượng khách quốc tế đến Ninh
Thuận đạt 62.150 lượt khách, chiếm 7,6% lượt khách du lịch đến Ninh Thuận. Số
ngày lưu trú của khách quốc tế ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng giai đoạn
2005 - 2011 đạt 6,12%/năm [Phụ lục 2, Bảng
2.2]. Khách nội địa cũng tăng
trưởng mạnh, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2005 - 2011 đạt 24%/năm. Năm 2011
lượng khách nội địa đạt 758.350 lượt khách, gấp 3,64 lần so với năm 2005 [Phụ lục 2, Bảng 2.3].
Năm 2012, tỉnh Ninh Thuận đăng cai tổ chức sự kiện “Ngày hội văn hóa các dân tộc
Chăm tại Ninh Thuận năm 2012” diễn ra
tại tỉnh Ninh Thuận với sự tham gia của 6 tỉnh, thành (Phú Yên, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Tây Ninh, An Giang và TP. HCM). Ngoài ra, còn có các đơn vị trực
thuộc Bộ VHTTDL cũng tham gia tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn tại Ngày hội.
Có rất nhiều hoạt động chuyên môn diễn ra trong Ngày hội gồm: trang phục truyền
thống dân tộc Chăm; thi đấu thể thao, giới thiệu văn hóa ẩm thực; hội chợ triển
lãm và giới thiệu sách, triển lãm đặc trưng văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; mở các cuộc hội thảo. Ngày hội diễn ra đúng vào dịp lễ hội Katê của đồng
bào dân tộc Chăm, đặc biệt lễ khai mạc được tổ chức ngay đêm giao thừa (theo
lịch Chăm). Trong dịp này UBND tỉnh Ninh Thuận hợp tác với các hảng lữ hành, khách sạn, nhà hàng trong việc đón tiếp
các đoàn khách, xây dựng các tour du lịch với các điểm là tháp Pô Klong Girai,
đền Pô Inư Nưgar, làng nghề truyền thống gốm Bàu Trúc và dệt Mỹ Nghiệp. Thông
qua sự kiện này Ninh Thuận thu hút lượng khách du lịch lên đến gần 10.000 lượt
người trong năm 2012 [53,tr.18].
Phát triển du lịch còn có những đóng góp tích cực trong việc quảng bá
thương hiệu và văn hóa của tỉnh, đồng thời góp phần nâng cao đời sống văn hoá
tinh thần cho người dân. Cùng với sự phát
triển du lịch, doanh thu toàn ngành du lịch ngày một tăng với tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 2005 - 2011 là 18,36%/năm và năm 2011 đạt 330 tỷ đồng. Năm
2011 du lịch đóng góp 6,72% trong GDP của tỉnh [Phụ lục 2, Bảng 2.4]. Mức
chi tiêu bình quân của khách du lịch đến Ninh Thuận năm 2011 đạt 201.097
VNĐ/ngày (tương đương 9,71 USD/ngày) [53]. Do đó việc duy trì gắn kết lễ hội
Katê với du lịch sẽ tạo điều kiện thu hút khách du lịch đến với địa phương, tạo
điều kiện để phát triển du lịch, tạo doanh thu từ các dịch vụ khác mà du khách
mang lại, mang lại nguồn thu cho người dân địa phương, đồng thời góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ những
thực tế nêu trên, cho chúng ta thấy được chính sự quan tâm của Nhà nước và
chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, đầu tư tổ chức thành công các sự kiện
du lịch gắn kết với lễ hội Katê diễn ra, là một trong những chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước nói chung và sự nổ lực của ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch nói riêng đã góp phần giới thiệu hình ảnh quê hương đất nước con người
Ninh Thuận đến bạn bè trong nước và quốc tế. Tăng thu nhập cho người dân địa
phương, đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Tổ chức lễ hội tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
bảo tồn và trùng tu các di tích đền, tháp tránh xuống cấp của các di tích. Các
chính sách từ Trung ương đến địa phương những năm qua đã quan tâm đầu tư, tôn
tạo một số hạng mục công trình tại khu vực các đền, tháp Chăm nơi diễn ra các
lễ hội quan trọng của đồng bào dân tộc Chăm như: sửa chữa và phục dựng các tháp
Chăm đang có nguy cơ xuống cấp, đầu tư tôn tạo cảnh quan môi trường trong phạm
vi khuôn viên tháp. Bên cạnh đó, bằng nguồn kinh phí chống xuống cấp của Bộ
VHTT (nay là Bộ VHTTDL) và chính quyền địa phương đầu tư xây dựng một số hạng
mục công trình dân dụng như: nhà trưng bày, nhà bán vé, bán hàng lưu niệm, nhà trực bảo vệ, nhà vệ
sinh, căn tin, cổng chào và bãi đậu xe,… tất cả các công trình nêu trên có vai
trò quan trọng, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của người dân nơi
quan trọng để tổ chức các lễ hội của người Chăm, mà còn là nơi thu hút nhiều du
khách trong và ngoài nước, đã góp phần phát triển văn hóa du lịch ở Ninh Thuận
trong những năm trở lại đây.
Do đặc thù của lễ hội Katê không chỉ diễn ra một
địa điểm, mà được tổ chức ở 3 nơi khác nhau và cùng nhiều cơ quan chức năng,
chính quyền địa phương quản lý. Nên công tác quản lý nhà nước về lễ hội trong
những năm đầu gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ, đây là lễ hội của cộng đồng người
Chăm, các di tích đền, tháp gắn với cộng đồng người Chăm nhưng Nhà nước quản
lý. Vì thế những năm đầu khi chia tách tỉnh (năm 4/1992) các đền, tháp này giao
cho Bảo tàng tỉnh quản lý. Từ năm 1992 đến năm 1998 công tác quản lý lễ hội và
các di tích đền, tháp gặp không ít khó khăn. Do chưa được sự đồng thuận cao của
những người có uy tín, những tri thức, nhân hào sĩ tử trong cộng đồng người Chăm,
nên công tác quản lý lễ hội diễn ra còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, dưới sự quan
tâm hướng dẫn của chính quyền địa phương, các ngành, các cấp mà đặc biệt là
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh, Phòng Văn hóa và Thông tin
huyện Ninh Phước. Những năm gần đây, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ngày
càng đi vào nề nếp. Trước khi lễ hội diễn ra có sự thống nhất các ý kiến giữa
cơ quan quản lý và cộng đồng người Chăm; thành lập Ban Tổ chức điều hành nên lễ
hội được nâng tầm hơn so với trước đây, phù hợp với kinh tế của địa phương. Lễ
hội Katê được phục dựng theo hướng bảo lưu các yếu tố tích cực của lễ hội
truyền thống kết hợp với một số yếu tố mới để phù hợp với yêu cầu của văn hóa
trong giai đoạn hiện nay. Tại Sân vận động thôn Hữu Đức trong phần hội có nhiều
trò chơi được tổ chức như: thi đá bóng, đội nước, làm gốm, dệt vải. Các hoạt
động văn hóa, văn nghệ ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu thưởng
thức văn hóa của nhân dân. Kết quả hoạt động của lễ hội thời gian qua cho thấy,
lễ hội đã phát huy được các tiềm năng, thế mạnh của mình để phục vụ cho việc
phát triển du lịch, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh, giải trí của nhân dân địa
phương và các vùng lân cận.
Công tác triển khai các văn bản Nhà nước được ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch triển khai và cụ thể hóa có hiệu quả như: các Nghị quyết của Ban chấp hành
Trung ương Đảng (Nghị quyết Trung ương V khóa VIII và Nghị quyết 33); Quyết
định 1270/QĐ-TTg; Thông tư 04/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch. Cụ thể hóa các Nghị quyết, Quyết định và Thông tư nêu trên, Tỉnh ủy, UBND
tỉnh Ninh Thuận ban hành các Chương trình hành động, các Kế hoạch chỉ đạo ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai công tác bảo tồn các giá trị văn hóa
của đồng bào dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận. Bảo tồn các giá trị văn hóa của
đồng bào dân tộc Chăm về trang phục truyền thống, nhạc cụ, các làn điệu dân ca
Chăm. Thông qua lễ hội Katê mà các loại hình nghệ thuật dân gian, các giá trị
văn hóa ứng xử cộng động, tri thức dân gian và nhận thức của người dân về bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa tuyền thống ngày càng được nâng cao. Phối
hợp với địa phương mở các lớp tập huấn ngắn hạn hướng dẫn cán bộ địa phương về
công tác quản lý lễ hội đạt hiệu quả cao. Hằng năm, tổ chức nhiều đợt kiểm kê
di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tiến hành kiểm kê khoa học “Lễ
hội Katê của người Chăm tại Ninh Thuận” mang lại nhiều kết quả nhất định để địa
phương lấy đó làm cơ sở cho việc bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể trong lễ hội Katê và xây dựng hồ sơ khoa học “Lễ hội Katê của người
Chăm tại Ninh Thuận”. Hiện nay Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã lập xong hồ
sơ “Lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh Thuận” đang trình Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia trong năm 2016.
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về lễ hội đã được chính quyền địa phương triển khai sâu rộng
bằng nhiều hình thức, nội dung phong phú đảm bảo đúng các quy định của Nhà
nước, góp phần giáo dục nhân dân địa phương và du khách tham gia lễ hội chấp
hành tốt mọi nội quy, quy chế lễ hội; ý thức giữ gìn tôn nghiêm nơi thờ tự, giữ
gìn vệ sinh môi trường, an ninh trật tự công cộng; Đồng thời góp phần tích cực
trong việc tuyên truyền, giới thiệu các giá trị của lễ hội. Công tác quản lý
các nguồn lực nơi tổ chức lễ hội được nâng cao. Đặc biệt là tại tháp Pô Klong
Girai, nơi thu hút đông đảo du khách tham quan, những năm trước thường xảy ra
nhiều hiện tượng như: mấp cấp, bán hàng rong, ăn xin, thanh niên địa phương tụ
tập quậy phá. Tuy nhiên, những năm gần đây đã giảm đáng kể. Không xảy ra hiện
tượng đặt tiền lễ vào các vị thần, mà được người dân và khách đặt vào thùng
công đức đặt tại các đền, tháp. Tiền công đức thu được ở 3 đền, tháp quản lý
khá chặt chẽ, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật và có
hiệu quả.
Công tác quản lý dịch vụ, vệ sinh môi trường, trật
tự công cộng đã được đẩy mạnh, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho nhân dân và du
khách về người, tài sản khi tham gia lễ hội. Hằng năm trước khi lễ hội diễn ra,
Thanh tra Sở VHTTDL phối hợp với các ngành chức năng liên quan tiến hành kiểm
tra các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa trước trong và sau lễ hội, do đó các
hiện tượng tiêu cực đã giảm xuống đáng kể so với những năm về trước. Ban Tổ
chức lễ hội đã xây dựng phương án để quản lý bảo vệ môi trường tự nhiên xã hội
mang lại bầu không khí trong lành, linh thiêng và tôn kính cho không gian lễ
hội, đảm bảo an toàn tuyệt đối, hạn chế được nhiều tiêu cực xảy ra. Công tác
quản lý các dịch vụ tại các đền, tháp hiện nay cũng đang phát huy tác dụng. Đặc
biệt tại tháp Pô Klong Girai, Bảo tàng tỉnh mở nhiều dịch vụ dưới chân tháp để
phục vụ khách du lịch tham quan lễ hội như: dịch vụ ăn uống, bán hàng lưu niệm,
dịch vụ giữ xe,... mang lại nguồn thu để hỗ trợ công tác tổ chức lễ hội, một
phần đầu tư sửa chữa, xây dựng các hạng mục nhỏ tại Tháp như: xây dựng nhà vệ
sinh, cải tạo cảnh quan dưới chân tháp.
Trong những
năm gần đây, được Nhà nước và chính
quyền địa phương quan tâm coi du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy
phát triển kinh tế địa phương nên tạo mọi điều kiện cho ngành VHTTDL đăng cai
tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: “Liên hoan văn hóa Chăm – Lễ hội Katê năm
2000”, “Festival Ninh Thuận năm 2007” và “Ngày hội văn hóa các dân tộc Chăm tại
Ninh Thuận năm 2012” vào đúng dịp lễ hội Katê diễn ra. Mục đích tổ chức các sự
kiện này nhằm gắn kết lễ hội với phát triển du lịch. Thông qua các sự kiện này
Ninh Thuận đã thu hút đông đảo lượng khách du lịch, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển du lịch, tạo doanh thu từ các dịch vụ khác mà du lịch mang lại, mang
lại nguồn thu cho người dân địa phương, đồng thời góp phần phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Ninh Thuận.
Hằng năm, trước khi lễ hội Katê diễn ra Lãnh đạo
tỉnh phối hợp với một số Sở, ban ngành có liên quan trực tiếp đi thăm hỏi “chúc
mừng lễ hội Katê”, tặng quà cho các gia đình cách mạng, đội ngũ nhân sĩ, trí
thức người Chăm, những người trong Hội đồng chức sắc Bàlamôn và cán bộ hưu trí.
Mục đích của việc làm này nhằm để động viên, thăm hỏi về mặt tinh thần, đồng
thời thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương với đồng
bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, trước khi lễ hội Katê diễn ra lãnh đạo địa
phương hỗ trợ cho nhân dân nghèo ở các thôn, để người dân được vui chơi Tết
lành mạnh và tiết kiệm [Phụ lục 2, Bảng hỏi 1].
Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước về hoạt động
lễ hội của dân tộc Chăm nói chung và lễ
hội Katê nói riêng góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong lễ hội Katê, nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân. Thông qua việc tổ chức lễ hội góp phần củng cố
tinh thần đoàn kết, giáo dục truyền thống văn hóa đạo lý “uống nước nhớ nguồn”
của người Chăm, tổ chức lễ hội đã tạo điều kiện tốt cho công tác bảo tồn, tôn
tạo di tích, đồng thời gắn kết lễ hội hội với phát triển du lịch góp phần phát
triển kinh tế xã hội của địa phương trong tương lai gần.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác
quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Katê ở Ninh Thuận trong thời gian qua vẫn
còn nhiều hạn chế cần khắc phục như:
Công tác đầu tư, tôn tạo các di tích đền, tháp nơi tổ
chức lễ hội Katê của các ngành các cấp chưa thật sự quyết liệt. Cụ thể trong
việc đầu tư kinh phí trùng tu, sửa chữa một số hạng mục công trình tại các tháp
Chăm còn dàn trải, không đầu tư một lúc mà chia làm nhiều đợt, nên làm ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình quản lý và khai thác các dịch vụ mang lại hiệu quả
chưa cao. Tháp Pô Klong Girai tuy đã hoàn thành các công trình phụ đưa vào sử
dụng từ nhiều năm, Ban quản lý di tích mở nhiều loại hình dịch vụ nhưng vẫn còn
đơn điệu, nghèo nàn về hiện vật trưng bày, chưa thu hút người xem và đặt biệt
là khách du lịch vào những ngày không có lễ hội Katê diễn ra. Chưa có các hoạt
động văn hóa văn nghệ mang tính đặc thù văn hóa Chăm (ca –múa - nhạc). Việc đầu
tư cải tạo cảnh quan dưới chân tháp, xây dựng các công trình dân dụng như: nhà
trưng bày, các dịch vụ khác tại tháp Pô Rôme chưa phát huy hết hiệu quả, Nhà
nước đầu tư 25 tỉ đồng để xây dựng công trình. Đến nay công trình này đã hoàn
thành, nhưng chưa đưa vào sử dụng, chưa phát huy được các giá trị văn hóa tại tháp.
Chưa bố trí nguồn nhân lực, các trang thiết bị, hiện vật trưng bày. Ban quản lý
được thành lập từ khi Tháp được công nhận là di tích cấp Quốc gia. Tuy nhiên,
việc quản lý và trong coi các hiện vật bên trong tháp chưa được chặt chẽ và
chưa có sự phân công rõ ràng, nên thường xảy ra tình trạng mất cấp hiện vật,
nhưng khi hỏi tới thì không ai nhận trách nhiệm về mình [Phụ lục 3, bảng hỏi
3.2]. Mặt khác, do vị trí Tháp ở cách trung tâm thành phố hơn 20km về phía Nam,
tuyến đường giao thông ít thuận lợi, xây dựng tuor du lịch kết nối giữa Tháp
với các điểm du lịch khác trên địa bàn tỉnh khó khăn, nên hiện nay Tháp gần như
đóng cửa chỉ phục vụ cho đồng bào dân tộc Chăm tổ chức các lễ hội.
Chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức trong
việc cấp kinh phí trùng tu, sửa chữa các di tích cấp tỉnh. Một số di tích cấp
tỉnh đang xuống cấp nặng như Đền Pô Inư Nưgar, thôn Hữu Đức, là một trong những
ngôi Đền quan trọng để đồng bào Chăm tổ chức các lễ hội, nhưng đến nay chưa có
kinh phí để trùng tu và sửa chữa, Đền hiện đang xuống cấp nặng. UBND tỉnh giao
Sở Tài chính cấp kinh phí từ năm 2013, 2014 và đến năm 2015 nhưng vẫn chưa thực
hiện. Thay mặt cho Hội đồng chức chắc Chăm tỉnh Ninh Thuận, Cả sư Hán Đô có ý
kiến nhiều lần trong các cuộc họp Hội đồng Nhân dân và các cuộc họp do Sở
VHTTDL tổ chức nhưng vẫn chưa được giải
quyết. Người dân địa phương rất hoan mang và có nhiều ý kiến cho rằng: “Nếu Nhà
nước không hỗ trợ kinh phí nên để địa phương vận động nhân dân địa phương đóng góp
trùng tu và sửa chữa Đền” [PL3, bảng hỏi 3.1]. Qua khảo sát thực tế ở các làng
Chăm hiện nay có rất nhiều di tích Đền, Nhà làng đang bị xuống cấp nghiêm
trọng, thậm chí có nhiều di tích này bị bỏ hoang. Đền và Nhà làng là nơi để cho
đội ngũ Chức sắc Chăm và các già làng tổ chức các nghi lễ hoặc để giao lưu học
hỏi nhằm tạo mối đoàn kết với nhau [75]. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước và chính
quyền địa phương chưa quan tâm đến vấn đề phục hồi các di tích này. Một phần do
tỉnh nghèo, tìm nguồn kinh phí để đầu tư sửa chữa không có.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội còn
nhiều bất cấp và hạn chế, cụ thể như: Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
tham gia thực hiện nghiêm túc các quy định về giữ gìn và bảo vệ môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội còn chưa được thường xuyên. Nạn xả rác và buôn bán hàng rong vẫn còn xảy ra tại khu
vực tháp Pô Klong Girai và sân vận động thôn Hữu Đức. Ý thức của người dân và
du khách tham gia lễ hội chưa thật sự cao, đặc biệt một số sinh viên ở các
trường đại học, cao đẳng khi nghiên cứu thực tế chưa nắm hết các nội quy, quy
tắc, các em có những hành động như: phỏng vấn, đi vào khu vực nơi Ban Phong tục
đang hành lễ. Một số thanh thiếu niên khắc tên mình trên các di tích, làm ảnh
hưởng xấu đến di tích. Công tác truyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về
di sản văn hóa đến cộng đồng dân tộc tham gia bảo tồn các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể chưa cao. Cụ thể như: tuyên truyền suông, tuyên truyền không
trọng tâm trọng điểm. Tuy có phát trên loa phóng thanh của các xã, phường nhưng
không có một hành động nào cụ thể nào, một phong trào nào để người dân vận dụng
vào thực tiễn. Hay nói đúng hơn “nói nhưng chưa đi đôi với làm”. Công tác phối
hợp giữa các đơn vị trong ngành VHTTDL chưa đồng bộ, còn nhiều chồng chéo và
bất cập (giữa Phòng Di sản văn hóa với Bảo tàng tỉnh) trong việc quản lý hoạt
động lễ hội trên địa bàn toàn tỉnh. Do yếu tố khách quan, Phòng Di sản văn hóa
thành lập muộn nên Sở VHTTDL giao công tác quản lý di sản văn hóa cho Bảo tàng
quản lý. Năm 2013 Phòng Di sản văn hóa ra đời theo Quyết định số 266/QĐ-SVHTTDL
ngày 01/9/2013, tuy công tác quản lý di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh đến nay
đã được đưa về Phòng Di sản văn hóa quản lý nhưng vẫn còn nhiều chồng chéo và
bất cập như: triển khai các văn bản hướng dẫn đôi lúc còn bị trùng lập, xử lý
các vấn đề phát sinh xảy ra trong lễ hội chưa được cao. Công tác bố trí sắp xếp
nhân sự chưa phù hợp , đội ngũ cán bộ Phòng Di sản văn hóa quá ít và trẻ, chưa
đảm bảo so với yêu cầu nhiệm vụ được giao (hiện có 04 biên chế) nhưng phải phụ
trách một lượng công việc lớn.
Bảo tàng tỉnh thành lập vào tháng 4/1993, theo Quyết định số 350/QĐ-UB chịu
trách nhiệm quản lý toàn bộ công tác bảo tồn trên địa bàn tỉnh. Do chưa có trụ
sở hoạt động nên Bảo tàng tỉnh thường xuyên mượn các trụ sở tạm để làm việc.
Hơn 13 năm thành lập, ngày 7/3/2006 Bảo tàng tỉnh được chia tách thành 02 đơn
vị Bảo tàng tỉnh và Ban quản lý di tích – Danh thắng theo quyết định số
51/2006/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh. Đến năm 2008, Ban quản lý danh thắng
và Bảo tàng tỉnh lại được sát lập lại theo Quyết định số 348/2008/QĐ-UBND của
UBND tỉnh cho đến nay. Từ chỗ điều kiện cơ sở vật chất hết sức khó khăn; tổ
chức biên chế vừa thiếu vừa yếu chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Năm 2012, được
sự quan tâm của Nhà nước đầu tư xây dựng Bảo tàng tỉnh với tổng kinh phí 40 tỷ
đồng. Đến nay, Bảo tàng tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo tồn
các giá trị văn hóa trên địa bàn toàn tỉnh như: siêu tầm hơn 38.884 hiện vật,
với nhiều hiện vật quý, bao gồm nhiều chất liệu, có giá trị điển hình về lịch sử,
văn hóa của cộng đồng người Chăm; nhiều đề tài nghiên cứu về di sản văn hóa về
người Chăm [79]. Hiện vật thì có nhiều nhưng công tác trưng bày chưa phát huy
hiệu quả, mỗi năm chỉ tổ chức trưng bày từ 3 – 4 chuyên đề chủ yếu vào các ngày
Lễ, Tết. Các hiện vật sau hết đợt trưng bày thường mang vào kho bảo quản, các
phòng trưng bày thường là bỏ trống. Lý giải cho việc này theo Bà Lê Thị Tuyết
Ánh – Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: “Do giảm đầu tư công của Chính phủ trong
quá trình xây dựng Bảo tàng nên các hạng mục đầu tư trang thiết bị trong phòng
trưng bày bị cắt giảm. Hiện nay các phòng trưng bày thường bỏ trống, hơn 38
ngàn hiện vật đem vào kho quản lý, khi nào có đợt tổ chức trưng bày theo chuyên
đề thì mới đem các hiện vật này ra”[80]. Đội ngũ cán bộ Bảo tàng tuy đã được
cải thiện so với trước đây, tuy nhiên nghiệp vụ hướng dẫn, giới thiệu và hiểu
biết về văn hóa Chăm còn nhiều hạn chế, quá trình truyền đạt cho du khách hiểu
về văn hóa Chăm không đủ. Đặc biệt, trình độ ngoại ngữ nhân viên tại Tháp chưa
đáp ứng được yêu cầu phiên dịch cho du khách nước ngoài.
Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Ninh Phước là đơn vị quản lý trực tiếp
hoạt động lễ hội trên địa bàn huyện Ninh Phước, nơi có nhiều lễ hội truyền
thống của đồng bào dân tộc Chăm. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ của Phòng quá ít (có
04 biên chế) chưa được đào tạo chuyên ngành, đa số là cán bộ từ cơ sở đưa về,
chưa có cán bộ trẻ quy hoạch đào tạo dài hạn cho công tác quản lý lễ hội. Nên
quá trình tập trung nghiên cứu, tìm hiểu thực tế hoạt động quản lý lễ hội trên
địa bàn huyện chưa sâu. Ngoài ra kiến thức về văn hóa truyền thống còn nhiều
hạn chế, ý thức học hỏi, đi sâu thực tiễn nghiên cứu chưa cao, ít đi thực tế cơ
sở, không thu nhập được thông tin phản đối từ cơ sở. Do vậy, việc tham gia quản
lý văn hóa cơ sở luôn gặp không ít hạn chế, thậm chí có phần sai lệch cả về
nhận thức chuyên môn lẫn nhu cầu của đời sống văn hóa cộng đồng [PL3, Bảng hỏi
3.2].
Cán bộ văn hóa xã, phường vừa thiếu, vừa yếu. Phần lớn là cán bộ không
chuyên ngành, không được huấn luyện, không được đào tạo để quản lý để làm công
tác lễ hội. Thậm chí có cán bộ làm công tác lễ hội nhưng hiểu biết rất hạn chế
về hoạt động, về đặc điểm và sự hình thành của các lễ hội ở địa phương. Một số
cán bộ chưa hiểu được hết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình dẫn đến tình
trạng quản lý và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lễ hội chưa thật sự
hiệu quả [PL3, bảng hỏi 3.2].
Ban Phong tục 03 đền, tháp: chưa thống nhất các ý kiến với Ban quản lý di
tích 3 đền, tháp với Bảo tàng tỉnh. Thậm chí một số ý kiến trong cộng đồng
người Chăm cho rằng: “Không muốn lễ hội của mình mà người khác quản lý”; nhiều
dư luận trong đội ngũ trí thức trẻ người Chăm trong và ngoài nước có ý kiến về
việc Nhà nước quản lý tháp Pô Klong Girai và tháp Pô Rôme như: “Nhà nước nên
giao quyền quản lý các Tháp trên cho cộng đồng người Chăm quản lý, không nên
can thiệp quá sâu vào quá trình tổ chức lễ hội cũng như việc bảo vệ các đền,
tháp của người Chăm” [PL3, bảng hỏi 3.1].
Về phía cộng đồng: trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa diễn ra
ngày càng mạnh mẽ hiện nay, sự biến động về văn hóa để thích nghi trong quá
trình hội nhập về phương diện này hay phương diện khác là điều khó tránh khỏi.
Sự thích nghi không phải lúc nào cũng mang tính tích cực mà đôi khi nó còn làm
cho con người “quên” đi nguồn cội, “quên” đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình
và người Chăm ở Ninh Thuận cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong quá
trình giao lưu, ảnh hưởng qua lại giữa người Chăm với người Kinh và các dân tộc
khác, hiện nay một bộ phận người trẻ tuổi đã chuyển sang sử dụng những trang
phục giống với người Kinh, ngày càng có xu hướng sử dụng các trang phục âu hóa
[PL4, ảnh 10, 11]. Một số vật dụng và thức ăn mới, người Chăm đưa vào trong mâm
quả dâng cùng các vị thần như: chai lọ, bánh trái, rượu, bia kể cả hoa quả mới
du nhập ở nước ngoài đã làm mất đi tính linh thiêng của mâm quả dâng cúng trong
lễ hội [PL4, ảnh 12,13]. Họ ít quan tâm tới việc chế biến các loại thức ăn
truyền thống, mà chủ yếu mua những lễ vật có sẳn bán trên thị trường để không
mất thời gian và công sức chế biến làm ảnh hưởng đến giá trị văn hóa vật chất
trong lễ hội Katê [PL3, bảng hỏi 3.1]. Qua khảo sát tại một số làng Chăm hiện
nay cho thấy công tác bảo tồn các nhạc cụ truyền thống vẫn chưa được quan tâm
và chưa có phương án cụ thể để truyền đạt cho thế hệ trẻ [75], không mấy quan
tâm tới việc học cách sử dụng nhạc cụ truyền thống, mà đa phần thích học các
loại nhạc cụ du nhập từ nước ngoài. Các nhạc cụ truyền thống này ngày càng bị
mai một và có khả năng sẽ bị mất đi trong tương lai. “Đây cũng là nỗi lo lắng
của các cụ cao niên trong làng, họ lo cho con cháu sau này không còn biết đến
các nhạc cụ, trang phục,... truyền thống của dân tộc mình, lo cho văn hóa người
Chăm dần bị mai một và mất dần trong tương lai” [PL3, bảng hỏi 3.3].
Công tác bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong
cộng đồng người Chăm và cán bộ văn hóa các cấp chưa cao. Đặc biệt là trong công
tác siêu tầm, nghiên cứu, ghi chép về lịch sử di tích văn hóa, tín ngưỡng cũng
như diễn trình lễ hội Katê. Hầu hết các cách thức, nội dung sinh hoạt nghi lễ
và các hoạt động thực hành văn hóa truyền thống nói chung (rước y trang, trò
chơi dân gian...) gần như chỉ được trao truyền, thực hành theo phương thức
truyền khẩu [PL3, Bảng hỏi 3.1]; Tuy cũng có một số chức sắc, tri thức và
các bậc cao niên ở một số làng đã có ghi chép, nhưng đa phần mang tính tự
phát, theo nhận thức chủ quan cá nhân, chưa được đưa ra trao đổi, bổ sung và
phổ biến trong cộng đồng, dẫn đến sự rơi rụng, mất mát nguồn văn hóa phi vật
thể quý báu vốn đã được sáng tạo, thực hành trong quá khứ, làm cho đời sống
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng hiện nay rơi vào hoàn cảnh đơn điệu, chắp vá và
mất đi bản sắc độc đáo, hấp dẫn vốn có của lễ hội [PL3, Bảng hỏi 3.1]. Ý thức
bảo tồn các hiện vật tại các đền, tháp Chăm của chính quyền địa phương và nhân
dân chưa cao. Nên thường xuyên xảy ra tình trạng mất cấp các di sản bên trong
tháp, đặc biệt tại tháp Pô Rôme từ năm 2011 đến năm 2014 Tháp bị mất tượng Bia
Than Can 02 lần (tượng nguyên góc và tượng được phục chế lại) [9, tr.13].
Bên cạnh những lợi ích mà ngành du lịch
mang lại cho địa phương, không tránh khỏi những tác động tiêu cực như: Sự
xuất hiện của những yếu tố mới mang tính thực dụng, quảng cáo thương mại ô, dù
che, băng rôn, khẩu hiệu tài trợ ở khu vực tháp Pô Klong Girai đã làm giảm bớt
tính thiêng của lễ hội. Một số khách
du lịch khi đến tham quan không nắm rõ những quy tắc và những điều cấm kỵ khi
tham gia dự lễ đã có những hành động thái hóa không phù hợp với không gian lễ
hội. Khi được hỏi về người dân, đặc biệt là
những người trong Hội đồng chức sắc Chăm thì họ cho rằng: “Chúng tôi rất
mừng vì nhờ Nhà nước đầu tư xây dựng các tháp ngày càng khang trang, quan tâm
cho cộng đồng chúng tôi tổ chức lễ hội Katê ngày càng lớn. Tuy nhiên, hiện nay
một số khách du lịch không hiểu về quy tắc và những quy định của chúng tôi nên
có những người đã có những thái độ và cách ứng xử không đúng, chính quyền và
địa phương cần tuyên truyền để du khách nắm rõ các quy tắt khi chúng tôi đang thực
hành các nghi lễ” [PL3, Bảng hỏi 3.2]. Ý thức bảo vệ môi trường của du khách
chưa cao, đội ngũ hướng dẫn viên là những người ít nhiều hiểu biết về văn hóa
Chăm và chưa thông thạo ngoại ngữ hoặc được tập huấn về ý nghĩa của lễ hội, kỹ
năng truyền đạt để du khách trong và ngoài nước hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng
của lễ hội Katê chưa được sâu. Đội ngũ nhân
viên làm việc trong các hoạt động du lịch chưa thật sự am hiểu về các quy tắc,
chuẩn mực trong ứng xử với văn hóa của người Chăm [PL3, Bảng hỏi 3.2]. Công tác
truyền truyền, giới thiệu về hình ảnh về con người, văn hóa Chăm và lễ hội của
người Chăm chưa thật sự hiệu quả. Chưa kết hợp, liên kết với các tỉnh thành,
các vùng lân cận đưa khách về Ninh Thuận vào dịp diễn ra lễ hội và những ngày
lễ hội không diễn ra. Số lượng khách du lịch được phân tích trên chỉ tăng vào
dịp tổ chức các sự kiện gắn kết với lễ hội Katê, còn vào những năm khác thì
lượng khách du lịch đến với Ninh Thuận tăng không đáng kể. Đây là lễ hội mang
cấp tỉnh nhưng chưa tích cực huy động được các nguồn lực xã hội hóa tham gia
vào các hoạt động tuyên truyền, phổ biến lễ hội. Đa phần kinh phí lấy từ các
nguồn vận động của cộng đồng người Chăm, Nhà nước hỗ trợ mỗi năm từ 10 -20
triệu đồng cho công tác tổ chức lễ hội là quá ít. Công tác xã hội hóa huy động
các nguồn lực cùng tham gia tổ chức và quản lý lễ hội của các ngành, các cấp và
chính quyền địa phương chưa được tích cực và phát huy hiệu quả.
Tổ chức lễ hội
Katê là thể hiện khát vọng của đồng bào người Chăm, được sống hạnh phúc trong
giao cảm xúc hướng về cội nguồn. Đã thúc đẩy người dân tìm về lễ hội để xoa đi
những khó khăn cuộc sống lam lũ hằng ngày. Giúp
khôi phục loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống ở địa phương trong bối cảnh
đang cùng cả nước tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Đáp ứng nguyện vọng, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân địa
phương, góp phần củng cố và tăng cường đoàn kết cộng đồng và xây dựng nếp sống
văn hóa ở địa phương. Góp phần tác động phát triển kinh tế - xã hội địa phương,
góp phần quảng bá và xây dựng tính biểu tượng ở địa phương. Việc tổ
chức và quản lý lễ hội giúp người dân hiểu biết và ý thức hơn về việc giữ gìn
di sản văn hóa địa phương. Lễ hội diễn ra thường xuyên là thể hiện sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của
các cấp, các ngành và chính quyền địa phương. Sự chủ động tích cực và phối hợp
chặt chẽ chính quyền địa phương, HĐCS Chăm và Ban phong tục ở các đền, tháp
Chăm. Sự năng động của cán bộ làm công tác quản lý văn hóa các cấp như: Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện
Ninh Phước, Ban Văn hóa xã hội các xã, phường, thị trấn đã góp phần không nhỏ
vào việc gia tăng tính đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung trong tổ chức
lễ hội cho cán bộ và nhân dân, du khách trong và ngoài nước tham dự một lễ hội
thật sự đầy đủ và ý nghĩa.
Sự nỗ lực của các ngành, các cấp, đặc biệt ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Ninh Phước trực tiếp hướng dẫn địa phương
thực hiện tốt công tác giám sát, tham mưu, tổ chức thực hiện và quản lý lễ hội
trên địa bàn của mình. Nội dung lễ hội được diễn ra theo đúng hướng, phát huy
được các giá trị văn hóa truyền thống, đảm bảo các quy định hiện hành phù hợp
hài hòa với điều kiện thực tiễn và cuộc sống hiện đại. Chương trình lễ hội ngày
càng được bổ sung, hoàn thiện có sức hấp dẫn, được quần chúng nhân dân và du
khách tham gia hưởng ứng. Cơ sở hạ tầng, vật chất tại các đền, tháp nơi tổ chức
lễ hội đang được quan tâm đầu tư nâng cao, quy hoạch và tổ chức quản lý các
dịch vụ có tiến bộ.
Sự ổn định về an ninh – xã hội, sự thành công trong xóa đói giảm nghèo của
các ngành, các cấp và chính quyền địa phương ở các làng Chăm tạo điều kiện cho
nhân dân về vật chất cũng như tinh thần, để người dân ở mọi tầng lớp trong xã
hội tham gia lễ hội Katê một cách phấn khởi. Công tác tuyên truyền, giáo dục
vận động bà con, nhân dân tham gia lễ hội an toàn, lành mạnh và tiết kiệm, thực
hiện nếp sống văn minh, giới thiệu di tích, giới thiệu những giá trị văn hóa
của địa phương góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân, du khách khi tham gia
lễ hội. Nhận thức của người dân về thực hiện nếp sống văn hóa khi tham gia lễ
hội đã có chuyển biến tích cực trong ý thức và hành động. Các hình thức tự quản
của nhân dân và chính quyền địa phương tham gia lễ hội đã làm thay đổi diện mạo
của lễ hội truyền thống trên địa bàn toàn tỉnh và đạt được các mục tiêu vui
tươi, lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế được tiêu cực xảy ra trong lễ hội.
Mặc dù lễ hội Katê đã thành công và đạt được những thành tựu đáng kể song
vẫn còn nhiều hạn chế do các nguyên nhân sau:
Do chính sách và chính quyền địa phương chưa quan tâm đồng bộ đến công tác
quản lý và chỉ đạo chưa thật sự quyết liệt. Sự phối hợp của các cơ quan, ban,
ngành còn thiếu chặt chẽ, phối hợp chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết xử lý các
tiêu cực trong lễ hội. Công tác tuyên truyền bảo vệ các giá trị văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể trong lễ hội Katê, giới thiệu về lễ hội, thực hiện nếp
sống văn minh trong lễ hội còn đơn điệu, chưa phong phú về nội dung và hình
thức. Công tác thanh tra, kiểm tra tuy đã được tiến hành thường xuyên trong lễ
hội, song chưa xử lý nghiêm, chưa có các chế tài để răn đe các hành vi vi phạm
nên vẫn tái diễn ra hằng năm; Chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ làm công
tác quản lý văn hóa xã hội ở các xã, phường, thị trấn; chưa đầu tư trang thiết
bị, con người,.. để phát huy giá trị di tích. Chưa quan tâm việc đầu tư kinh
phí trùng tu, tu bổ các di tích cấp tỉnh, cụ thể là Đền Pô Inư Nưgar; chưa quan
tâm trùng tu các Đền, Nhà làng ở các làng Chăm đang bị phá hoại và có nguy cơ
biến mất; công tác quảng bá văn hóa – lễ hội của ngành VHTTDL chưa hiệu quả; tổ
chức truyền dậy văn hóa truyền thống, mở các lớp học, tổ chức sinh hoạt lễ hội,
giáo dục thế hệ sau tuy có nhưng chưa cao; chưa phát huy hết tác dụng của các
ban ngành và địa phương. Nhận thức của cộng đồng dân tộc Chăm và du khách tham
gia lễ hội còn nhiều hạn chế. Tuy đã được nâng lên trong thời gian qua song
chưa thực sự văn minh còn biểu hiện chen lấn, xô đẩy và vệ sinh môi trường;
kinh phí đầu tư cho tổ chức lễ hội còn hạn chế; Nhà nước và chính quyền địa
phương chưa huy động nguồn xã hội hóa từ các tổ chức, đoàn thể và cá nhân mà
chủ yếu giao cho HĐCS Chăm tự lo kinh phí từ việc xin hỗ trợ của con em địa
phương.
Lễ hội Katê là lớn nhất, đặc sắc nhất trong hệ thống lễ hội Chăm, chứa đựng
nhiều giá trị tiêu biểu, đặc trưng của cộng đồng dân tộc Chăm. Trãi qua quá trình cư trú lâu dài, người Chăm đã giao
thoa và tiếp biến văn hóa với nhiều cộng đồng dân cư khác làm cho nền văn hóa
của họ ngày càng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên dưới tác động của quá trình
hội nhập, giao lưu tiếp biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng nên lễ hội
Katê nói riêng, lễ hội của người Chăm nói chung có nhiều biến đổi, làm ảnh
hưởng nhiều đến sự biến đổi, mai một những giá trị văn hóa truyền thống Chăm.
Đây là một nguy cơ ảnh hưởng đến nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa.
Dưới sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Trong những năm trở lại đây, Nhà nước đã ban hành Luật Di sản, Nghị định, các
Nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng, nhiều văn bản quy định trong quá
trình tổ chức và quản lý lễ hội. Đặc biệt, là có nhiều chính sách ưu tiên quá
trình bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của người Chăm trong giai đoạn
hiện nay. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các Sở, ban ngành và chính quyền địa phương
với HĐCS Chăm tỉnh Ninh Thuận, Ban phong tục trong công tác quản lý và tổ chức
lễ hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác bảo tồn các di tích đền, tháp
được Nhà nước quan tâm đầu tư sửa chữa nên đã dần được cải thiện về mặt kiến
trúc cũng như kết cấu hạ tầng. Sự năng động trong công tác tuyên truyền và phổ
biến các văn bản pháp quy trong việc cưới, việc tang và lễ hội của các cấp các
ngành đã làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống trong lễ hội Katê. Sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền
địa phương tổ chức các sự kiện gắn kết lễ hội Katê với phát triển du lịch đã
góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn thể hiện nhiều mặt hạn chế
trong quá trình quản lý lễ hội của các nhà quản lý và chính quyền địa phương
như: chưa quan tâm đúng mức đến việc đầu tư trùng tu và sửa chữa một số di tích
Đền, Nhà làng. Chưa đầu tư cơ sở trang thiết bị tại tháp Pô Rôme; công tác quản
lý lễ hội các các ngành, các cấp và chính quyền địa phương chưa thật sự hiệu
quả; công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể chưa tiến hành thường xuyên; công tác gắn kết lễ hội Katê với phát
triển du lịch tuy được được đầu tư khai tác để phát triển chưa được liên tục.
Để đạt được kết quả như trên, chính nhờ sự nổ lực của các ngành, các cấp, đặc
biệt ngành VHTTDL, Phòng VHTT huyện Ninh Phước, Ban VHXH các xã, phường, Ban
quản lý di tích, Ban Phong tục các đền, tháp và Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn
đã góp phần không nhỏ vào quá trình quản lý, tổ chức lễ hội Katê một cách hiệu
quả, đã mang lại cho cộng đồng người Chăm, nhân dân và du khách trong và ngoài
tỉnh tham dự một lễ hội thật sự đẩy đủ và ý nghĩa. Chương 3
3.1. Một số quan điểm quản lý của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa
Nghị quyết số 33 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước” đã đưa ra 5 quan điểm về phát triển văn hóa như sau:
[9, tr.3].
(1)
Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội.
(2)
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
(3)
Phát triển văn hóa vì sự
hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm
lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản:
yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
(4) Xây
dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa;
cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và
con người trong phát triển kinh
tế.
(5) Xây
dựng và phát triển văn hóa là
sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể
sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng [10].
Trong Nghị quyết số 33 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI còn xây dựng 04 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện để phát triển văn hóa
trong giai đoạn hiện nay như [9, tr.5, tr.7]:
(1)
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa: Các cấp ủy,
tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan
trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tăng
cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị
và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán
bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện
thắng lợi Nghị quyết. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo
đảm để văn hóa, văn học - nghệ
thuật. Coi trọng xây dựng văn hóa từ
trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được
thể hiện trước hết trong mọi tổ chức Đảng, Nhà nước, Đoàn thể, trong cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của
mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng
[10].
(2)
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về văn hóa: Tập trung đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Đẩy nhanh
việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về
văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ
chế, chính sách về văn hóa. Điều
chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù
hợp với tính đặc thù của văn hóa,
nghệ thuật. Bổ sung chính sách
kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu
số. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa. Tăng cường
công tác thanh tra văn hóa, gắn với
trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. sản phẩm lệch lạc, thị
hiếu tầm thường [10].
(3)
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa:
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh
đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm
công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Quan tâm xây dựng các
trường văn hóa, nghệ thuật, tạo
chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ văn hóa theo hướng hiện
đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành
văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các
nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu
số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Có chính
sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng
người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người
hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù [10].
(4)
Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa:
Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải
tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch
nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và lễ hội truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Đẩy mạnh xã
hội hóa nhằm huy động các nguồn
đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và
phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó
khăn [10].
Các quan điểm và nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đưa ra nêu trên là một trong
những quan điểm và nhiệm vụ đúng đắn để các ngành, các cấp và chính quyền địa
phương triển khai và vận dụng một cách phù hợp và đúng đắn tùy theo hoàn cảnh
và tình hình phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương mà thực hiện.
3.1.2. Văn bản quản lý nhà nước và các chính sách đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa từ
Trung ương
Các văn bản quản lý nhà nước, các chính sách từ Trung ương liên quan đến
việc quản lý nhà nước về lễ hội đã được triển khai từ năm 1998 cho đến nay gồm
nhiều văn bản, cụ thể như: Chỉ thị số 39 ngày 3/12/1998, của Thủ tướng Chính
phủ; Luật Di sản văn hóa (2001) của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam; Nghị định số
11/2006/NĐ-CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ về ban hành Quy chế hoạt động văn
hóa và kinh doanh văn hóa công cộng; Quy chế tổ chức lễ hội (ban hành kèm theo
Quyết định 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin).
Thông tư 15/2015/TT-BVHTTDL ngày 22/12/2015 của Bộ VHTTDL quy định về tổ chức
lễ hội. Luật pháp và những văn bản mang tính pháp quy nêu trên đã thể hiện rõ
các mục tiêu quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội là duy trì nghiêm minh
những điều khoản đã được ghi trong Luật và các văn bản pháp quy liên quan và
đang có hiệu lực như: thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội; giữ gìn và phát
huy những giá trị của di sản lễ hội; đảm bảo an ninh, trật tự công cộng và an
toàn của người dân tham gia lễ hội, chống lạm dụng tín ngưỡng vào các mục đích
vụ lợi, tổ chức tốt các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của du khách, đảm bảo tính minh
bạch thu, chi , tiền công đức, tài trợ trong hoạt động lễ hội; tuyên truyền
trong lễ hội; bảo vệ môi trường, an ninh, trật tự, phòng, chống cháy nổ, an
toàn giao thông trong lễ hội; phát triển hoạt động lễ hội với đa mục tiêu văn
hóa xã hội – kinh tế.
Nghị quyết 33 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” [10,tr.4] (Nghị quyết 33 không phải là văn bản quản lý
nhà nước, quan điểm mình đã trình bày ở phần trên rồi, phần này đưa ra phân
tích việc thực hiện các văn bản của Chính phủ, Bộ, Ngành, UBND tỉnh, Sở VHTTDL
thôi) đã đưa ra các mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh
nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và các mục tiêu cụ
thể: hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và
con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân
tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản
thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước; Xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh, phù hợp với
bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong
hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội
trong việc xây dựng môi trường văn hóa,
làm cho văn hóa trở thành nhân
tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách; Hoàn thiện thể chế, chế
định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Xây dựng thị
trường văn hóa lành mạnh, đẩy
mạnh phát triển công nghiệp
văn hóa, tăng cường quảng bá
văn hóa Việt Nam; Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, các vùng
miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã
hội; Tiếp tục đổi
mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất
nước, con người, tiếp tục gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát
triển du lịch trên cơ sở phát huy có hiệu quả giá trị của các lễ hội là một
định hướng phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng, Nhà
nước và địa phương và xem đây là một chiến lược phát triển có tính lâu dài.
Ngoài ra, còn có một số văn bản quản lý nhà nước về lễ hội như : Chỉ thị số 41-CT/TW của Ban Bí thư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội;
Công văn số 556/BVHTTDL-VHCS của Bộ VHTTDL về việc Tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo
công tác quản lý và tổ chức lễ hội. Nội dung chính của các văn bản nêu trên về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội với
các nhiệm vụ trọng tâm như: tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đối với công
tác quản lý và tổ chức lễ hội; bảo đảm việc quản lý và tổ chức lễ hội của từng
ngành, địa phương, cơ sở theo đúng quy định của pháp luật; thiết thực, hiệu
quả, tiết kiệm; phù hợp với thuần phong mỹ tục, phát huy giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, có ý nghĩa giáo dục cao; đáp ứng nhu cầu văn hoá,
tinh thần lành mạnh của nhân dân; Tổ chức lễ hội bảo đảm thiết thực, hiệu quả
và tiết kiệm; phù hợp với văn hoá truyền thống của dân tộc, phong tục, tập quán
của từng địa phương; Giảm tần suất, thời gian tổ chức, nhất là những lễ hội có
quy mô lớn. Hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hoá các nguồn
lực trong việc tổ chức lễ hội. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện quy
hoạch, tổ chức lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng và các hoạt động vui chơi giải
trí trong lễ hội hợp lý, lành mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng lợi dụng
di tích, nơi thờ tự, lễ hội nhằm trục lợi, tuyên truyền mê tín, dị đoan và tổ
chức các hoạt động trái pháp luật. Thực hiện nghiêm việc quản lý đốt hàng mã;
quản lý, sử dụng đồng tiền Việt Nam trong lễ hội theo đúng quy định của pháp
luật; khắc phục tình trạng đặt hòm công đức và đặt tiền lễ tuỳ tiện; quản lý và
sử dụng tiền công đức công khai, minh bạch, phục vụ công tác bảo tồn, tôn tạo,
phát huy giá trị di tích và tổ chức lễ hội. Không lạm dụng truyền hình trực
tiếp để huy động tài trợ cho việc tổ chức lễ hội; Tăng cường các biện pháp giữ
gìn, bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã
hội, phòng, chống cháy nổ, an toàn giao thông; khắc phục, giải quyết dứt điểm tình
trạng ùn tắc giao thông; đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cảnh quan
môi trường tại các lễ hội. Thực hiện nếp sống văn minh trong sinh hoạt văn hoá,
tín ngưỡng và lễ hội. Quản lý chặt chẽ các hoạt động dịch vụ, niêm yết công
khai giá dịch vụ; kiểm tra, ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại về giá,
phí dịch vụ, lệ phí, lưu hành ấn phẩm văn hoá trái phép; xử lý nghiêm theo quy
định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân lợi dụng lễ hội để tăng giá, ép
giá [16].
Năm 2013, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam có văn bản số 124/VHNTVN, ngày
22/4/2013 phối hợp với Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện “Công tác kiểm
kê lễ hội Katê trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” [74]. Nội dung công tác kiểm kê
này với mục đích chính là khảo sát, đánh giá thực trạng của lễ hội Katê tại
các địa vực cư trú của cộng đồng người Chăm trong phạm vi tỉnh Ninh Thuận, nơi
lưu giữ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội Katê. Bước đầu, tập hợp một
cách có hệ thống những dữ liệu cụ thể do cộng đồng cung cấp, để đánh giá thực
trạng hiện tồn của cơ sở vật chất cũng như sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng - liên
quan trực tiếp đến lễ hội Katê; từ đó, có kế hoạch tiếp tục triển khai hoạt
động sưu tầm, bảo tồn, khai thác giá trị di sản văn hóa lễ hội Katê. Thu
thập cứ liệu khoa học theo tiêu chí của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đặt ra để phục vụ công tác xây dựng hồ sơ phi vật thể cấp quốc gia
và tiến tới chuẩn bị cho việc xây dựng hồ sơ, trình UNESCO công nhận “Lễ
hội Katê của người Chăm” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Những văn bản pháp quy liên quan tới việc quản lý, bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa trong lễ hội đã góp phần tích cực vào quá trình
triển khai, định hướng. Được địa phương áp dụng một cách hiệu quả góp phần vào
quá trình quản lý hoạt động lễ hội truyền thống của các nhà quản lý văn háa các
cấp, áp dụng các Thông tư hướng dẫn của Bộ VHTTDL vào quá trình bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa trong lễ hội của cộng đồng dân tộc Chăm nói
chung và lễ hội Katê nói riêng.
3.1.3. Văn bản quản lý nhà nước và cụ thể hóa
chính sách đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa tại
địa phương
Căn
cứ vào Công văn số 447/VHTT-TCCB ngày 20-02-2004 của Bộ Văn hóa và Thông tin về
việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận ra
Quyết định số 1232/2005/QĐ-UB ngày 17-2-2005 về ban hành Quy chế quản lý di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh. Theo đó, việc bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh được quy định như sau:
Ủy
ban nhân dân tỉnh chủ trương bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể thông qua các biện pháp cụ thể như: Bảo tàng tỉnh có trách nhiệm tham mưu
cho Sở Văn hóa và Thông tin trong việc lập và tổ chức thực hiện các dự án
nghiên cứu, sưu tầm, thống kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể trên địa
bàn tỉnh ; Bảo tàng tỉnh tiến hành công tác sưu tầm, thống kê, phân loại
di sản văn hóa phi vật thể thường xuyên và định kỳ theo kế hoạch hoạt động hàng
năm của mình; Bảo tàng tỉnh tham mưu cho Sở Văn hóa và Thông tin về việc tăng
cường hoạt động truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại
hình di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh; Ủy ban nhân dân tỉnh đầu tư
và hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực và phát
huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ mai một,
thất truyền di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh; Sở Văn hóa và Thông
tin có trách nhiệm mở rộng các hình thức xã hội hóa trong lĩnh vực bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh; Bảo tàng tỉnh có
trách nhiệm tham mưu cho Sở Văn hóa và Thông tin về việc thẩm định miễn phí, hướng
dẫn nghiệp vụ và hỗ trợ lưu giữ, bảo quản di sản văn hóa phi vật thể theo đề
nghị của tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu di sản văn hóa phi vật thể đó; Sở Văn
hóa và Thông tin có trách nhiệm đề xuất cho Ủy ban nhân dân tỉnh vấn đề cán bộ,
cơ sở vật chất và điều kiện làm việc của bộ phận phụ trách công tác bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể để bộ phận này hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình; Hàng năm, Sở Văn hóa và Thông tin phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ cán bộ trực tiếp thực hiện công tác bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể, đồng thời mở những lớp tập huấn nghiệp vụ bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cho cán bộ phụ trách Văn hóa và
Thông tin ở cơ sở [70].
Về
lễ hội, căn cứ vào Luật di sản văn hóa, Nghị định số 98 Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa và các chính sách pháp luật về lễ hội, tỉnh Ninh Thuận ban
hành một số văn bản về lễ hội như: Chỉ thị số27/CT-UBND ngày 15/5/2013 của UBND
tỉnh về việc triển khai thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang
và lễ hội. Quy chế quản lý di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh dành hẳn
Chương V với nội dung duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống,
như sau:
-
Ủy ban
nhân dân tỉnh tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền
thống thông qua các biện pháp sau: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các
lễ hội truyền thống của nhân dân, đồng thời khuyến khích các hoạt động văn hóa
văn nghệ dân gian gắn liền với lễ hội; Tổ chức điều tra, nghiên cứu và phục dựng
có chọn lọc những lễ hội truyền thống của tỉnh có nguy cơ bị thất truyền; Tăng
cường các biện pháp hướng dẫn, phổ biến rộng rãi về nguồn gốc, nội dung các giá
trị truyền thống tiêu biểu của lễ hội ở tỉnh.
-
Nghiêm cấm
các hành vi sau đây trong tổ chức và hoạt động lễ hội: Lợi dụng lễ hội để tuyên
truyền, kích động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; chia rẽ
đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh, trật tự; Tổ chức các hoạt động mê tín dị
đoan, phục hồi hủ tục; Các hình thức thương mại hóa hoạt động lễ hội; xuyên tạc,
áp đặt các nghi thức, kết cấu mới vào lễ hội truyền thống, tổ chức các dịch vụ
ăn nghỉ và dịch vụ tín ngưỡng trái pháp luật trong các khu vực bảo vệ của di
tích; Đánh bạc dưới mọi hình thức; Đốt đồ mã; Những hành vi vi phạm pháp luật
khác.
-
Việc tổ
chức lễ hội truyền thống phải được thực hiện theo quy chế về tổ chức lễ hội do
Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin ban hành [71].
Thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
“bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể”, năm 2006, tỉnh Ninh Thuận
tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh, dù chỉ là điều tra
cơ bản, chưa đi sâu nghiên cứu nhưng bước đầu ghi nhận Lễ hội Katê là một trong
những lễ hội tiêu biểu ở địa phương. Tiếp
tục thực hiện Chương trình trên, năm 2008, Trung tâm nghiên cứu văn hóa
Chăm tỉnh Ninh Thuận tiến hành sưu tầm, nghiên cứu đề tài di sản văn hóa phi vật
thể Lễ hội Katê. Công trình nghiên cứu trên với sản phẩm cụ thể là báo cáo khoa
học đề tài, hình ảnh động (phim tư liệu, phim dựng), ảnh tĩnh (album ảnh) đã được
lưu giữ tại Trung tâm. Từ sau cuộc nghiên cứu này, công tác tuyên truyền, quảng
bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở địa phương về giá trị của lễ hội
này cũng được đẩy mạnh, góp phần cho công tác quản lý văn hóa ở địa phương, cơ
sở có thêm những nhận thức mới để thực thi chính sách, các quy định về quản lý
lễ hội một cách phù hợp hơn trong bối cảnh mới.
Thực
hiện theo tinh thần Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập
hồ sơ khoa học để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; năm
2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng với Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận
và Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tiến hành kiểm kê di sản văn hóa phi vật
thể trên địa bàn tỉnh. Sau quá trình nghiên cứu, chọn lựa, lập hồ sơ đề nghị, Lễ
hội Katê được lựa cho lập hồ sơ đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia.
Thực hiện Nghị quyết số 33 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh Ủy tỉnh
Ninh Thuận ban bành Chương trình hành động số 383-CTr/TU; UBND tỉnh Ninh Thuận
ban hành Kế hoạch số 5755/KH-UBND; Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham
mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều văn bản quan trọng trong
từng giai đoạn như: năm 2015, tham mưu Kế hoạch “Triển khai thực hiện phong
trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với nông thôn mới”; “Thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội” theo Chỉ thị
27-CT/TW của Bộ Chính trị; “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại
gây hủy hoại đạo đức xã hội” theo Chỉ thị 46-CT/TW. Năm 2014, Sở VHTTDL tham
mưu Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt “Quy hoạch phát triển Ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”; và Kế
hoạch số 3738/KH-SVHTTDL về triển khai Kế hoạch 5755/KH-UBND của UBND tỉnh Ninh
Thuận. Mục đích những việc triển khai các văn bản của Trung ương đến địa phương là để xây dựng và phát triển văn hóa tỉnh
Ninh Thuận tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng, động lực phát triển của tỉnh. Xây dựng con người Ninh Thuận
phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ.
Tuy nhiên để triển khai và thực hiện các văn bản hướng dẫn của Đảng và Nhà
nước, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Ninh Thuận cần phải có Kế hoạch hướng dẫn các ngành,
các cấp có liên quan một cách quyết liệt. Đặc biệt là ngành VHTTDL vận dụng một
cách hiệu quả góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
nói chung và lễ hội của đồng bào dân tộc Chăm nói riêng một cách hiệu quả. Để làm được điều này trong
giai đoạn hiện nay đòi hỏi các ngành, các cấp cần quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện các nội dung công việc một cách đồng bộ và đề ra các giải pháp tích
cực góp phần bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội Katê
nói riêng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
3.2. Giải pháp quản lý nhà nước
về hoạt động lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận (qua nghiên cứu trường
hợp lễ hội Katê)
Đầu tư cơ sở hạ tầng tại các di tích đền, tháp nơi tổ chức lễ hội của người
Chăm là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của lễ hội. Việc đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng tại các đền, tháp Chăm ở Ninh Thuận nói chung và các đền,
tháp tổ chức lễ hội Katê nói riêng đã được Trung ương và địa phương quan tâm và
triển khai thực hiện với nhiều dự án trọng điểm và cụ thể đã được phân tích
trong phần thực trạng như: cải tạo cảnh quan dưới chân tháp, xây dựng nhà trưng
bày văn hóa Chăm, các dịch vụ giải khát, nhà bảo vệ, nhà vệ sinh, nhà để
xe,.... Đây là những kết quả tích cực, tác động rất tốt đến quá trình phát
triển du lịch của địa phương. Tuy nhiên, Nhà nước và chính quyền địa phương cần
chú ý đến các nội dung như: Tại tháp Pô Klong Girai cần quy hoạch tổng thể và
xây dựng môi trường cảnh quan, không gian phù hợp khu vực xung quanh tháp Chăm,
gắn với những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Chăm tạo sức hút đối
với khách du lịch khi đến với lễ hội. Vì cảnh quan chung của Tháp có vai trò
đặc biệt quan trọng, giúp quảng bá những nét văn hóa đặc trưng, tạo ấn tượng
ngay từ ban đầu và sâu đậm cho khách tham quan lễ hội. Không gian nhà trưng bày
nên được chú trọng việc bố trí, sắp xếp lại chức năng sử dụng của các phòng
trưng bày một cách khoa học và phù hợp với tổng thể chung, tạo nét đặc thù văn
hóa Chăm. Bổ sung thêm các hiện vật tại nhà trưng bày, chủ yếu các hiện vật
giới thiệu về văn hóa của người Chăm ở Ninh Thuận. Ngành VHTTDL lập kế hoạch
xin chủ trương UBND tỉnh cấp kinh phí xây dựng 01 nhà biểu diễn nghệ thuật (ca
– múa – nhạc) Chăm tại Tháp Pô Klong Girai để phục vụ khách du lịch khi đi tham
quan, mục đích kéo dài thời gian lưu trú của du khách, thu lợi ích từ các dịch
vụ khác.
Ngành VHTTDL kết hợp với các Sở, ban ngành liên quan lập Đề án phát triển
du lịch tại tháp Pô Rôme. Đầu tư con người, trang thiết bị, các hiện vật trưng
bày nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy các giá trị văn hóa, không để
một di tích cấp Quốc gia đầu tư trên 25 tỉ đồng, chỉ tổ chức các lễ hội của
đồng bào dân tộc Chăm. UBND tỉnh Ninh Thuận quan tâm chỉ đạo Sở Tài chính nhanh
chóng cấp kinh phí trong năm 2016 cho công tác trùng tu và sửa chữa chống xuống
cấp một số hạng mục công trình tại đền Pô Inư Nưgar. Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tham mưu UBND tỉnh đồng ý chủ trương lập hồ sơ đền Pô Inư Nưgar trình Bộ
VHTTDL công nhận di tích cấp quốc gia trong những năm tới. Phối hợp với Bảo
tàng tỉnh tiến hành lập Đề án bảo tồn các Đền, Nhà làng trong năm 2016; phục
hồi nhà cổ truyền đồng bào Chăm đưa về Bảo tàng tỉnh trưng bày và triển lãm
phục vụ nhân dân, du khách tham quan. Trước khi tiến hành trùng tu và phục hồi
các di tích này thì chính quyền địa phương cần tham khảo các ý kiến của các
chuyên gia, các nhà dân tộc học, các Chức sắc, nhân sĩ, trí thức Chăm; đồng
thời tham mưu UBND nhân dân tỉnh cấp kinh phí và có biện pháp bảo vệ các di
tích cấp tỉnh một cách hiệu quả. Có chế độ thích hợp cho những người trông nom
và bảo vệ di tích như: ông Từ, các thành viên trong Ban quản lý di tích và Ban
Phong tục, có thể trích một phần kinh phí thu được từ nguồn bán vé, nguồn công
đức để họ có trách nhiệm với công việc mình đang làm, tránh việc mất cấp các
hiện vật trong các di tích như tại tháp Pô Rôme. Làm tốt thì được khen thưởng,
quy phạm thì phải có biện pháp xử phạt rõ ràng; tham mưu UNBD tỉnh trình Bộ
VHTTDL xin đầu tư kinh phí, hỗ trợ nguồn lực, các chuyên gia tư vấn phối hợp
với Ủy ban quốc gia Việt Nam tiến hành khảo sát và lập hồ sơ cụm tháp Chăm ở
Ninh Thuận đề nghị UNESCO công nhận di sản thế giới và công nhận lễ hội Katê
của người Chăm tỉnh Ninh Thuận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại trong năm 2018 theo chủ trương của Bộ VHTTDL.
Đầu tư kinh phí và huy động các nguồn vốn xã hội hóa cho việc phát triển
kết cấu hạ tầng tại các khu di tích, bố trí ngân sách lồng ghép với các chương
trình, dự án trong và ngoài nước, tranh thủ tối đa nguồn vốn ODA, ngân sách hỗ
trợ của Trung ương và đầu tư của các thành phần kinh tế để xây dựng và phát
triển kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch, ưu tiên xây dựng và nâng cấp các đường
giao thông kết nối các điểm, tua, tuyến đến tháp Pô Rôme và đền Pô Inư Nưgar.
Có chính sách ưu tiên đầu tư các trạm dừng chân trên các trục đường giao thông
quốc lộ 1A, quốc 27A đi qua các đền, tháp; các công trình phụ tại các tháp Pô
Rôme. Ưu tiên đầu tư các thiết chế văn hóa thể thao để duy trì và tăng cường
các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tại các làng Chăm có tổ chức lễ hội
phục vụ nhân dân và du khách.
Về phía Nhà nước: tăng cường quán triệt sâu sắc trong nhận thức của cấp Ủy,
chính quyền, các ban ngành, đoàn thể về trách nhiệm đối với công tác quản lý và
tổ chức lễ hội. Công tác chỉ đạo, quản lý và phối hợp các cấp, các ngành trong
quản lý lễ hội ở 3 đền, tháp chặt chẽ, thường xuyên và đồng bộ vì lễ hội là một
hoạt động đa ngành. Ngành VHTTDL tham mưu UBND tỉnh phối hợp với đơn vị liên quan,
Hội đồng chức sắc thiết lập các cơ chế và phương thức quản lý lễ hội phù hợp
với quy mô, tính chất và đặc điểm từng lễ hội. Tổ chức lễ hội có tính chuyên
nghiệp và tầm ảnh hưởng quốc gia nhưng phải đảm bảo theo nguyên tắc Nhà nước
chỉ đạo, quản lý và điều hành, nhân dân tổ chức thực hiện. Kiện toàn Ban tổ
chức lễ hội phù hợp với yêu cầu chuyên môn và đặc điểm lễ hội ở mỗi địa phương.
Rút kinh nghiệm tổ chức ngành, trong và sau khi kết thúc lễ hội. Chú trọng công
tác tuyên truyền về văn bản pháp luật có liên quan, về giá trị của di tích, lễ
hội để nâng cao hiểu biết trong cộng đồng dân tộc Chăm, để cộng đồng có ý thức
trách nhiệm cùng chính quyền tổ chức tốt lễ hội, đề cao ý thức thực hiện pháp
luật và thực hiện nếp sống văn minh. Tăng cường tuyên truyền và vận động thuyết
phục nhân dân xây dựng và thực hiện nếp sống văn hóa lễ hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong tổ chức lễ hội,
không vì khai thác nguồn lợi kinh tế mà làm sai lệch bản chất và nội dung của
lễ hội. Quy hoạch tổ chức các dịch vụ trong và ngoài khuôn viên di tích, thường
xuyên tổ chức các hoạt động văn nghệ Chăm tại 3 đền, tháp tạo điều kiện để nhân
dân và du khách tham gia lễ hội nhưng bảo đảm được tính văn hóa và thẩm mỹ.
Tháp Pô Klong Girai hiện nay cơ sở hạ tầng và các công trình phụ đã được đầu tư
khá đầy đủ và khang trang, nhưng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách du lịch
còn khá đơn điệu, chưa khai thác tối đa điểm đến để thu hút khách du lịch. Bảo
tàng tỉnh phối hợp với Đoàn nghệ thuật Dân gian Chăm lên kế hoạch biểu diễn văn
nghệ (ca – múa - nhạc) 2 lần/tháng, phục vụ khách du lịch vào những ngày không
diễn ra lễ hội Katê.
Quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn thu từ công đức, dịch vụ cho công tác bảo
tồn, tôn tạo di tích và tổ chức lễ hội. Di tích được tu bổ khang trang thì lễ
hội mới có cơ sở vật chất đáp ứng và thu hút du khách. Đẩy mạnh công tác vệ
sinh môi trường như: thiết lập hệ thống thu gom và xử lý rác thải từ hoạt động
của du khách và các dịch vụ phục vụ trước, trong và sau lễ hội tại khu vực tháp
Pô Klong Girai. Tại khu vực tháp Pô Rôme và đền Pô Iư Nưgar bố trí các thùng
rác di động tạm thời vào dịp lễ hội diễn ra để xử lý rác thải từ nhân dân và
khách du lịch tham dự lễ hội. Duy trì hệ thống loa truyền thanh có nội dung phổ
biến nội quy, quy chế lễ hội nâng cao ý thức tự giác vệ sinh công cộng, bảo vệ
môi trường trên các phương tiện cổ động trực quan tại các đền, tháp và tại sân
vận động thôn Hữu Đức vào các ngày lễ hội diễn ra chính thức; quản lý trật tự,
an toàn vệ sinh cần được duy trì, tăng cường và chú trọng; xây dựng nội quy,
quy định, tuyệt đối không để xảy ra mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm
bảo an toàn giao thông và các tai nạn, tệ nạn làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ
tục. Khuyến khích, kêu gọi thành lập đội thanh niên tình nguyện kết hợp với
công an, dân quân tự vệ, đoàn thanh niên của xã và chính quyền địa phương hỗ
trợ, hướng dẫn du khách vào những năm tỉnh tổ chức lễ hội Katê lớn mang tầm ảnh
hưởng quốc gia gắn kết phát triển du lịch. Đặc biệt là tại khu vực tháp Pô
Klong Girai và sân vận động thôn Hữu Đức, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
kịp thời, kết hợp giáo dục với việc cương quyết xử lý bằng pháp luật, có hình
thức xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động tổ chức lễ hội, vi phạm Luật
Di sản văn hóa, xâm hại di tích và ảnh hưởng môi trường. Những vấn đề có tính
phức tạp kịp thời xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp giải quyết
hiệu quả. Vấn đề tuyên truyền giáo dục thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội
phải được đặt ra không chỉ ở người tổ chức mà cả ở người tham dự. Lồng ghép
thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội vào các nội dung của cuộc vận động
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng Gia đình văn
hóa, Làng văn hóa, Tổ dân phố văn hóa và kết hợp xây dựng nông thôn mới ở địa
phương tổ chức lễ hội. Thường xuyên mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm tổ
chức lễ hội từ những mô hình tiêu biểu của các địa phương và các nước trong khu
vực, quốc tế về tổ chức lễ hội để lựa chọn các tỉnh có đặc điểm, địa lý phù hợp
với địa phương mình mà vận dụng vào một cách hiệu quả. Lãnh đạo Sở VHTTDL đề
xuất làm việc với lãnh đạo Bộ VHTTDL báo cáo thuyết trình các giá trị di sản
văn hóa trong lễ hội Katê, các cụm tháp Chăm ở Ninh Thuận, đề nghị Bộ VHTTDL sớm
đưa lễ hội Katê vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và cụm
tháp Chăm được UNESCO công nhận Di sản văn hóa thế giới.
Về phía cộng đồng: Thực
hiện đúng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ di sản
văn hóa nói chung; về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội; về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sơ gắn với việc bảo vệ và phát huy di
sản địa phương; Chung sức cùng tổ chức tự quản (Ban quản lý di tích, Ban Phong
tục) trong việc gìn giữ, phát huy giá trị của di tích và lễ hội; khôi phục lại
các thành tố của di sản như nghi lễ, diễn trình lễ hội Katê không bị mai một;
Cùng chính quyền địa phương và Ban quản lý các di tích đền, tháp thường xuyên bảo
vệ di tích, ngăn chặn các hành vi xâm phạm, lấn chiếm di tích; tiếp tục đóng góp và vận động cộng đồng
đóng góp nguồn lực vật chất, tinh thần và các nguồn lực khác; chủ động tìm hiểu
giá trị lịch sử - văn hóa của di tích, tham gia vào hoạt động tổ chức lễ hội;
nâng cao vai trò giám sát, làm chủ; chủ động tuyên truyền, quảng bá di sản địa
phương với khách thập phương, khách hành hương và cộng đồng, khu vực.
Đảng và Nhà nước ta có chính sách cụ thể và kinh phí thích đáng cho việc
khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Trong đó có lễ
hội Katê của người Chăm, đồng thời đã ban hành Luật di sản văn hóa phổ bến
tuyên truyền và tạo điều kiện cho đồng bào Chăm có ý thức giữ gìn các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Ngành VHTTDL (Bảo tàng tỉnh và Trung tâm
nghiên cứu văn hóa Chăm) nhanh chóng và kịp thời sưu tầm, phục hồi lại các giá
trị di sản văn hóa trong lễ hội Katê và các lễ hội khác của cộng đồng người
Chăm, chia ra từng giai đoạn để sưu tầm một cách hiệu quả. Di sản nào chưa tiến
hành phục hồi thì cần lập Đề án xin chủ trương UBND tỉnh cấp kinh phí, những di
sản nào đã được sưu tầm và phục hồi thì tiếp tục nghiên cứu để bảo tồn và phát
huy, phục hồi một cách đúng đắn, lành mạnh, nhằm giúp đồng bào hướng về văn hóa
truyền thống của dân tộc, góp phần bảo tồn và khai thác các giá trị di sản văn
hóa trong lễ hội Katê để phục vụ cho việc phát triển và lưu giữ nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc.
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục và khơi dậy niềm tự hào, trân trọng nền
văn hóa truyền thống trong cộng đồng, nhất là các em đồng bào Chăm giúp họ hiểu
được những giá trị văn hóa đích thực của dân tộc mình trong quá trình giao lưu
hội nhập và phát triển văn hóa cộng đồng. Lễ hội Katê là lễ hội lớn và có ý
nghĩa quan trọng nhất của người Chăm Bàlamôn, lễ hội là do cộng đồng sáng tạo
ra nhằm để phục vụ nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân nơi đây. Việc bảo
tồn lễ hội cũng là để phục vụ các nhu cầu lâu dài của cộng đồng. Do đó, cần
phải có giải pháp tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ các di sản văn
hóa trong lễ hội Katê mà đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay để họ có thể hiểu biết
về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong lễ hội như: thực hiện các nghi
thức hành lễ tại tháp (lễ cúng xin mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần và lễ mặc y
trang cho thần,…) cách sử dụng các loại nhạc cụ của dân tộc Chăm (trống
ghinăng, trống Paranưng, kèn Saranai,…) các điệu múa thiêng của bà bóng, trang
phục truyền thống. Tuy nhiên vấn đề này không dễ thực hiện vì nó liên quan đến
nguồn kinh phí thực hiện, liên quan đến vấn đề tuyên truyền vận động người dân
(đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay) tham gia. Để thực hiện tốt vấn đề lưu truyền
di sản văn hóa này thì cần phải có sự chung tay của Nhà nước của các ngành các
cấp, đặc biệt là ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phòng Văn hóa và Thông tin
huyện Ninh Phước, Ban Văn hóa xã hội các xã, phường, thị trấn trực tiếp quản lý
lễ hội Katê nói riêng và các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm nói
chung. Đây là một việc làm không chỉ một sớm một chiều mà thực hiện được, mà
cần có thời gian và thực hiện trong một thời gian dài.
Nghiên cứu và phát huy các giá trị tích cực của lễ hội Katê trong công tác
xây dựng nếp sống văn hóa từng làng, phục hồi và nâng cao một số lễ hội tiêu
biểu của người Chăm ngoài lễ hội Katê như: lễ Cầu đảo, lễ Chabunh,... Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa dân
tộc, phát triển thành khu du lịch văn hóa Chăm. Ngoài ra chúng ta còn phải vận
động đồng bào Chăm từng bước loại bỏ những thủ tục mê tín dị đoan, giảm tối
thiểu những chi phí tốn kém về thời gian lẫn vật chất khi tổ chức các lễ hội
của người Chăm chứ không riêng về lễ hội Katê. Lễ hội Katê là một quy trình
thực hiện một chuỗi các nghi lễ với nhiều nghi thức rất phức tạp, trong đó vai
trò của các vị thần linh được đề cao và tôn vinh. Nhưng mỗi nghi thức đều mang
ý nghĩa tốt đẹp, có tính triết lý và có giáo dục cao, nó bắt nguồn từ truyền
thuyết từ lâu đời và ăn sâu trong đời sống tinh thần của người dân. Đồng thời,
lễ hội Katê cũng là một hoạt động văn hóa dân gian vì trong lễ hội có sinh hoạt
văn nghệ rất vui nhộn, phần nào cũng phản ánh được đời sống văn nghệ dân gian
vô cùng phong phú của đồng bào dân tộc Chăm. Do đó, việc tổ chức lễ hội Katê
thật trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh gia đình nhằm tô
thêm nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mà vẫn giữ được thuần phong mỹ
tục. Đó là trách nhiệm của mỗi chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ thanh niên ngày
nay cần phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc văn hóa Phương Tây và phải biết
tiếp thu phát huy những truyền thống quý báu tinh hoa văn hóa dân tộc.
Lễ hội Katê là một trong những lễ hội đặc trưng và tiêu biểu nhất trong số
100 lễ hội của người Chăm. Như vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc này là góp phần vào việc bảo tồn và phát huy hiệu
quả các giá trị văn hóa tiêu biểu của địa phương và quốc gia. Lễ hội Katê là
một trong số lễ hội chứa đựng, lưu truyền nhiều loại hình di sản văn hóa có giá
trị tiêu biểu của người dân nơi đây. Do đó, để bảo tồn tốt các di sản của dân
tộc này, trước hết cần phải có phương án bảo tồn và phát huy giá trị của lễ
hội. Nếu lễ hội Katê còn tồn tại thì các di sản văn hóa của người Chăm ở Ninh
Thuận sẽ có dịp tồn tại và phát huy giá trị.
Đối với công tác bảo tồn, cần tăng cường công tác sưu tầm các di sản văn
hóa trong lễ hội Katê. Sưu tầm là một trong những hình thức bảo tồn di sản văn
hóa hiệu quả và mang tính lâu dài. Do đó cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, các giá
trị di sản văn hóa vật thể trong lễ hội Katê để lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh và
Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm. Đồng thời, Phòng Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận phối hợp Bảo tàng tỉnh và Trung tâm Nghiên
cứu Văn hóa Chăm tiến lập hồ sơ tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận trình
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận “Lễ hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh
Thuận” di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia trong năm 2016. Đối với công tác
phát huy giá trị cần tăng cường tổ chức hoạt động trưng bày để phục vụ nhu cầu
của công chúng. Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm và Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận
kết hợp với những người có uy tín trong cộng đồng người Chăm để tổ chức các đợt
trưng bày bằng hình ảnh thật, nhất là vào những ngày lễ kỷ niệm lớn của tỉnh
như: Ngày giải phóng tỉnh Ninh Thuận 16/4, Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất
đất nước (30/4), Ngày Di sản văn hóa (23/11)… giới thiệu cho nhân dân tỉnh Ninh
Thuận hiểu và biết về di sản văn hóa của mình, đồng thời góp phần giới thiệu hình
ảnh quê hương và con người Ninh Thuận đến với du khách trong và ngoài tỉnh đến
tham quan và nghiên cứu. Như vậy, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa trong lễ hội Katê là một việc làm cấp bách và cần thiết trong giai
đoạn hiện nay, bảo tồn tốt các di sản trong lễ hội Katê sẽ kéo dài tuổi thọ di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong lễ hội, phục vụ tốt nhu cầu khách tham
quan, nghiên cứu và ngược lại, phát huy tốt các giá trị di sản thông qua khai
thác tham quan du lịch và các dịch vụ sẽ tạo nguồn vốn để đầu tư cho công tác
quản lý, bảo tồn và tu bổ tôn tạo di tích.
Để thu hút được nguồn khách đến với Ninh Thuận nói chung và lễ hội Katê nói
riêng, một trong những biện pháp quan trọng nhất cần thực hiện trong giai đoạn
nay, đó là tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu
hình ảnh, con người Ninh Thuận với những nét văn hóa Chăm độc đáo, đặc sắc và
hấp dẫn, để tạo ra sức thu hút khách du lịch, mở rộng và phát triển thị trường.
Đó là một trong những nguyên nhân đòi hỏi cần thiết các ngành, các cấp mà đặc
biệt là ngành VHTTDL cần phải thường xuyên tổ chức công tác tuyên truyền, quảng
bá văn hóa Chăm mà “điểm nhấn” là tuyên truyền quảng bá lễ hội Katê. Đồng thời,
gắn lễ hội với các di tích đền, tháp Chăm nơi tổ chức lễ hội Katê phát huy điểm
đến du lịch trong tương lai, đó là chiếc cầu nối giữa cung - cầu trong hoạt
động kinh doanh du lịch góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Những năm qua, công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch trên địa bàn tỉnh
được ngành VHTTDL tổ chức với nhiều hình thức phong phú như: Đẩy mạnh giới
thiệu hình ảnh trên nhiều kênh thông tin truyền thông đại chúng; xây dựng các
ấn phẩm, các tờ rơi, tờ gấp, cẩm nang du lịch, đĩa DVD giới thiệu về cảnh đẹp
Ninh Thuận, các di sản văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm. Hằng năm ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng kế hoạch xúc tiến, quảng bá bằng các hình
thức như: tham gia chương trình S Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại
chúng, kênh thông tin Website: dulichninhthuan.com trợ giúp các thông tin du
lịch, các sản phẩm và dịch vụ du lịch đến với du khách nhằm tuyên truyền quảng
bá hình ảnh Ninh Thuận nói chung và văn hóa Chăm nói riêng đến với khách du
lịch trong nước và quốc tế, góp phần đáng kể trong xây dựng thương hiệu, nâng
cao hình ảnh điểm đến văn hóa lễ hội Katê gắn với các di tích đền, tháp Chăm
huyền bí và hấp dẫn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá về văn hóa Chăm,
lễ hội của đồng bào Chăm và các tháp Chăm thông qua các phóng sự, phim tư liệu,
bản tin, bản đồ, ấn phẩm; chủ động mời và đón các đoàn famtrip của các cơ quan
quản lý du lịch, các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong nước và nước ngoài
về khảo sát, tìm hiểu và xây dựng chương trình du lịch, sản phẩm du lịch mới.
Thực hiện chuyên đề phát triển du lịch trên sóng truyền hình các tỉnh duyên hải
Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh theo chương trình ký kết hợp
tác phát triển giữa các tỉnh thành trên các phương tiện thông tin đại chúng,
thông qua các buổi hội thảo, hội chợ, lễ hội... chú trọng đến các sản phẩm du
lịch mới như du lịch cộng đồng và du lịch lễ hội.
Có chiến lược và kế hoạch cụ thể cho từng năm về tổ chức tốt lễ hội du lịch
đa dạng và phong phú trong những năm tới. Nhằm tạo thương hiệu cho ngành du
lịch Ninh Thuận đối với thị trường khách du lịch trong và ngoài nước. Theo đó,
mỗi năm phải xây dựng được sự kiện nổi bậc nhất để làm “điểm nhấn” thu hút
khách du lịch. Việc tổ chức các sự kiện gắn với lễ hội đều phải có sự phối hợp
chặt chẽ thống nhất với các tỉnh trong vùng nhằm tránh tình trạng trùng lắp về
sản phẩm, thời gian… tránh lãng phí về nguồn lực. Xây dựng các điểm trung tâm
cung cấp thông tin du lịch miễn phí tại các địa bàn trọng điểm có lưu lượng
khách vãng lai lớn như: thị trấn Phước Dân, Ninh Hải, Ninh Sơn, thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm, Ga Tháp Chàm, bến xe Phan Rang và các bến xe khách của tư
nhân, các chợ trung tâm, siêu thị… Phải đặt du lịch Ninh Thuận trong chiến lược
phát triển của các tỉnh Duyên hải miền Trung, trong các liên kết du lịch đã
phát triển trong những năm qua: TP. Hồ Chí Minh – Nha Trang – Đà Lạt. Phải ưu
tiên cho việc khai thác văn hóa Chăm trong đó cần chú trọng đến Lễ hội mà đặc
biệt là lễ hội Katê. Chính văn hóa Chăm nói chung và lễ hội Chăm nói riêng là
ưu thế cạnh tranh lớn nhất giữa du lịch Ninh Thuận với các tỉnh miền Trung. Bởi
Ninh Thuận ngoài việc sở hữu những văn hóa vật thể và phi vật thể của người
Chăm thì ở đây còn là nơi cộng đồng người Chăm sinh sống đông nhất cả nước. Họ
chính là những “Bảo tàng sống” ngày một “giàu có”. Bởi họ không ngừng bám “rể”
vào văn hóa do ông cha để lại và hơn thế nữa họ còn biết “quang hợp” để chắc
lọc những tinh hoa của các nước để biến nó thành cái riêng biệt, cái độc đáo
của các dân tộc anh em.
Ngành VHTTDL kết hợp với Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ và Trung Bộ thường xuyên tổ chức các cuộc Hội thảo chuyên
đề về văn hóa Chăm, kết hợp với các trung tâm lữ hành, các báo thường trú tại
Ninh Thuận để đưa tin, quảng bá về lễ hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận
nhằm thu hút khách đến tham quan và nghiên cứu. Kết hợp du lịch lễ hội với các
giá trị và loại hình du lịch văn hóa khác của người Chăm như: các di tích đền,
tháp, biểu diễn ca – múa – nhạc Chăm,…. Đoàn Nghệ thuật Dân gian Chăm khi tham
gia biểu diễn ở ngoài tỉnh cần xây dựng chương trình sân khấu hóa lễ hội Katê
và các lễ hội khác của người Chăm để biểu diễn cho du khách trong và ngoài tỉnh
yêu cầu. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, văn hóa Chăm nói chung và lễ
hội Chăm nói riêng còn có dịp giới thiệu rộng rãi với du khách trong khu vực và
thế giới. Khi tham gia liên hoan quốc tế, những người làm công tác quản lý về
văn hóa Chăm có dịp so sánh và học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế trong
việc tổ chức và quản lý hoạt động lễ hội của các dân tộc anh em góp phần phát
triển du lịch tỉnh nhà.
Là chủ nhân trực tiếp của các giá trị văn hóa truyền thống được du lịch
khai thác, cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận phải được tham gia và giữ vai
trò cũng như tiếng nói quan trọng hơn
trong các quyết định. Họ có thể có những giới hạn và nguyên tắc của mình, nhất
là với yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, và phải có quyền nói “không” với du lịch
nếu việc này sẽ gây ra sự suy giảm, hủy hoại đối với các giá trị văn hóa của
họ. Chính quyền địa phương và ngành du lịch cần hết sức tránh sự can thiệp một
chiều của mình vào những quy trình, giá trị văn hóa của cộng đồng này. Các cơ
quan chính quyền và ngành du lịch Ninh Thuận cần phối hợp với cộng đồng người
Chăm để đưa ra những quy định và nguyên tắc về sự tiếp cận, ứng xử, hoạt động
của các công ty kinh doanh dịch vụ, kinh doanh lữ hành du lịch và du khách khi
đến với các giá trị văn hóa của người Chăm; phối hợp với cộng đồng người Chăm
và các công ty du lịch để xây dựng nên những loại hình du lịch phù hợp và mang
lại hiệu quả cao. Cùng với đó, cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân
lực để có thể đáp ứng được cho các hoạt động khai thác du lịch lễ hội của người
Chăm. Trong khai thác lễ hội của người Chăm, chính quyền và ngành du lịch cần
phải thể hiện thái độ tôn trọng, ý thức bảo vệ và cần có những biện pháp riêng
phù hợp. Đồng thời, phải luôn luôn đặt vấn đề bảo tồn giá trị văn hóa trong lễ
hội lên hàng đầu, xem những kết quả đạt được trong lĩnh vực này là yêu cầu quan
trọng nhất và những tác động tiêu cực đối với lễ hội là yếu tố cần hạn chế,
loại bỏ trước tiên. Nói cụ thể hơn, khai thác lễ hội Katê của người Chăm không
chỉ đơn thuần là kinh doanh, mà phải hướng đến mục đích quan trọng hơn nhằm
mang lại cho mọi người những hiểu biết và ý thức bảo tồn văn hóa trong lễ hội
của người Chăm. Đặc biệt chú trọng bảo tồn lễ hội của người Chăm ở hai hình
thái là vật thể và phi vật thể. Nguồn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch
lễ hội Katê của người Chăm phải được phân chia một cách hợp lý và công bằng
giữa các bên là chính quyền, ngành du lịch địa phương - các công ty du lịch -
cộng đồng chủ (người Chăm). Trong đó, phần chủ yếu cần được dùng vào mục đích
tái phục vụ cho việc bảo tồn, duy trì các giá trị văn hóa.
Về nâng cao nhận thức cho nhà quản lý văn hóa các cấp:
Thường xuyên cập nhật các văn bản về
cơ chế, chính sách liên quan đến văn hóa dân tộc để điều
chỉnh, bổ sung và thống nhất triển khai thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho đầu tư, hỗ trợ phát triển lễ hội gắn với phát triển du lịch trong thời gian tới.
Quan tâm quy hoạch, đào tạo cán bộ làm công tác lễ hội địa phương, thường
xuyên bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ chuyên trách bằng nhiều hình thức
như: tập huấn, tham quan, đào tạo ngắn và dài hạn sao cho cán bộ có trình độ
ngang tầm với nhiệm vụ.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan, ban ngành và các đoàn thể
triển khai các chương trình phục vụ công tác quản lý lễ hội của người Chăm nói riêng và lễ hội trên địa bàn
toàn tỉnh nói chung.
Chú trọng các thông tin hai chiều giữa các cơ quan quản lý nhà nước với chính quyền địa phương, Hội đồng chức sắc Bàlamôn tỉnh, Ban phong tục mà đặc biệt là người dân ở địa phương để phát
hiện những tồn tại nhằm đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ phù
hợp có hiệu quả.
Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng với Hội đồng chức sắc tỉnh
Ninh Thuận, Ban phong tục tại các đền, tháp Chăm tổ chức Hội thảo để bàn thống
nhất kịch bản tổ chức lễ hội Katê hằng năm theo đúng truyền thống và đúng với
nội quy quy định của Nhà nước, phù hợp với tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm
để lễ hội Katê không bị lai căn. Xây dựng mẫu hướng dẫn tổ chức lễ hội Katê và
các lễ hội của người Chăm để hướng dẫn địa phương thực hiện theo quy định.
Lập các kế hoạch, đầu tư các dự án thống kê nhằm có được
số liệu cụ thể và chính xác nhất tạo điều kiện cho việc nghiên cứu và xây dựng hình ảnh lễ hội
Chăm gắn kết với phát triển du lịch trong tương lai. Xây dựng các đề tài nghiên cứu về
việc phát triển văn hóa Chăm gắn với phát triển du lịch tại tháp Pô Klong
Girai, tháp Pô Rôme và đền Pô Inư Nưgar.
Cải thiện môi trường đầu tư; minh bạch hóa, công khai quy
trình, thủ tục đầu tư; chủ động xúc tiến đầu tư, kêu gọi thu hút vốn đầu tư trong
nước và nước ngoài để tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở các loại hình dịch
vụ tại 3 đền, tháp Chăm. Thực hiện hiệu quả việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh việc thực
hiện cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa bảo đảm thông
thoáng, giải quyết công việc nhanh gọn, kịp thời, hiệu quả để hỗ trợ công tác
quản lý lễ hội.
Bổ sung biên chế và nâng cao trình độ hiểu biết về quản lý văn hóa bằng
cách cử cán bộ tham gia các chương trình tập huấn do Cục Di sản tổ chức (Phòng
Di sản văn hóa và Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Ninh Phước). Cán bộ văn hóa cấp xã, phường là những người gần gũi với
dân, nắm bắt mọi diễn biến của đời sống văn hóa cơ sở. Do đó, hơn ai hết, họ là người có thể làm tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục ý thức tự giác của người dân trên địa bàn quản lí của mình. Do gắn bó chặt
chẽ với dân, nên chính họ là người có thể kịp thời phát hiện sớm nhất những sai
phạm hay những biến động bất thường. Họ cũng là người có thể tham gia góp ý,
phản biện các dự án bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn một cách cụ
thể và sát thực nhất. Tuy có những lợi thế nhất định, nhưng thực tế cho thấy,
số lượng cán bộ được đào tạo để làm tốt công tác bảo tồn văn hóa ở cơ sở chưa
nhiều. Một số cán bộ làm công tác quản lý văn hóa ở địa phương thiếu sự tìm tòi
nguyên cứu nghiêm túc, chưa có trách nhiệm cao và chưa được trang bị đầy đủ
kiến thức về quản lý lễ hội. Chưa tận dụng khai thác lễ hội một cách triệt để,
tích cực góp phần vào bảo tồn và phát huy các giá trị di tích. Mặt khác, do
kinh phí đầu từ công tác đào tạo cán bộ văn hóa cấp xã, phường quá thấp nên
việc đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn vẫn còn nhiều hạn chế. Từ nhận
thức về vai trò của công tác cán bộ như trên, ngành văn hóa thể thao và du lịch
cần quy hoạch lại đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở để phân loại và có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu công việc bảo tồn di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể
nói riêng. Công việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể chỉ có thể đạt hiệu quả cao trong sự tổ chức có hệ thống, chặt
chẽ và sự phối hợp đồng bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban ngành,
đội ngũ cán bộ quản lí văn hóa cơ sở và sự tự nguyện tham gia của người
dân. Cần phải tổ
chức tuyên truyền, nâng cao ý thức việc giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống
trong cán bộ quản lý văn hóa xã, phường. Họ phải nắm được giá trị văn hóa cốt
lõi của lễ hội truyền thống, đặc biệt là các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật trong các lễ hội truyền thống. Hiện nay dưới tác động của nền kinh tế
thị trường nhiều loại hình văn hóa mới du nhập vào cộng đồng người Chăm nhất là
thế hệ trẻ, nếu không được bảo tồn qua thời gian những giá trị này sẽ bị mai
một. Đây chính là cái gốc, nếu mất cái gốc này thì lễ hội của người Chăm cũng
mất.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực phục vụ hoạt động du lịch tại
các đền, tháp Chăm trên thực tế là những người ít am hiểu về văn hóa của người
Chăm, nên vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, vấn đề cần được quan tâm khi phát triển
loại hình du lịch văn hóa là cần có định hướng và sự hỗ trợ tích cực từ các
cấp, ban ngành trong việc xây dựng nguồn nhân lực quản lý, tổ chức, hướng dẫn,
khai thác mảng hoạt động dịch vụ gắn với du lịch.
Ban Dân tộc, Ban Tôn giáo và đặc biệt là Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm
cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học liên quan đến di sản văn hóa phi vật
thể để có sự nhận diện chính xác các giá trị văn hóa của người Chăm tỉnh Ninh
Thuận (trong đó có lễ hội Katê), từ đó tham mưu đề xuất các giải pháp bảo tồn
và phát huy các giá trị một cách phù hợp, kịp thời. Việc nghiên cứu về hệ thống
lễ hội Chăm cần thực hiện đồng bộ, toàn diện và chuyên sâu để có sự nhận thức
đúng đắn và kịp thời, nhận diện và dự báo nguy cơ mai một của các loại hình di
sản văn hóa của người Chăm để có những chính sách phù hợp từng giai đoạn, từng
loại hình cụ thể. Việc nghiên cứu khoa học, sưu tầm, thu thập, bổ
sung, khai thác, phổ biến giá trị tư liệu lễ hội truyền thống của người Chăm là
một việc lớn và lâu dài, đòi hỏi phải có chiến lược phát triển, hoạch định kế
hoạch cụ thể, thậm chí dự báo vấn đề ngắn hạn và dài hạn. Vì lẽ đó cần có định
hướng cho công tác quản lý nghiên cứu, bổ sung cũng như hoạch định kế hoạch
từng giai đoạn sao cho không trùng lặp về nội dung, đồng thời giai đoạn sau có
thể kế thừa thành tựu của giai đoạn trước. Do đó, cán bộ quản lý nhà nước về
hoạt động văn hóa nói chung, và lễ hội nói riêng cần có cái nhìn hệ thống, nắm
vững phương pháp tiếp cận hệ thống đối với toàn bộ công việc của mình.
Cụ thể hơn, trong việc sưu tầm, nghiên cứu, đánh
giá, thúc đẩy sự phát triển lễ hội truyền thống của người Chăm trong bối cảnh
mới, cần chú ý tới những khía cạnh sau đây: tạo nên phong trào toàn dân tham
gia sinh hoạt văn hóa lễ hội bằng những gì mà mỗi người có thể làm được: sưu
tầm hiện vật, tìm hiểu lịch sử quê hương, thu thập tư liệu về lễ hội, đóng góp
sức lực vào hoạt động lễ hội, vào phổ biến giá trị văn hóa lễ hội trong xã hội,
tìm hiểu, tìm lại, phục chế di tích văn hóa, di tích lịch sử gắn với lễ hội. Có
những chuyên đề, công trình nghiên cứu chuyên sâu, nhiều mặt về lễ hội truyền
thống của người Chăm trên các phương diện: tổng thể chung, thực trạng, đánh giá
tương lai, cái được và mất, vị thế, ý nghĩa, chức năng... trong bối cảnh mới.
Mở những hội thảo, hội nghị chuyên đề về lễ hội truyền thống Chăm trên bình
diện chung cũng như những nét riêng để hiểu rõ, nắm vững từng đối tượng lễ hội.
Cùng với việc
nghiên cứu khoa học là việc đưa các thành tựu khoa học vào ứng dụng thực tiễn
để phát huy giá trị các công trình khoa học đó. Việc này vừa có thể đáp ứng nhu
cầu học tập nghiên cứu của cộng đồng, vừa góp phần nâng cao nhận thức của cộng
đồng về giá trị di sản văn hóa của người Chăm trong lễ hội Katê, từ đó nâng cao
hiệu quả hoạt động bảo tồn di sản văn hóa trong những năm tới.
Cùng với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, văn
hóa là của dân, do dân và vì dân. Ngoài sự quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ từ nguồn
ngân sách tài chính của Nhà nước để xây dựng và phát triển văn hóa thì xã hội
hóa văn hóa trở thành quy luật tất yếu khách quan. Thực hiện xã hội hóa thông
qua các hình thức sau:
Kêu gọi các cá nhân, dòng tộc, con em người Chăm
đang làm việc và sinh sống trong tỉnh, ngoài tỉnh và cả những người Chăm định
cư ở nước ngoài đóng góp tiền, đồ vật để tổ chức lễ hội và trùng tu sửa chữa
các hạng mục công nhỏ trong khuôn viên các đền, tháp nơi thường xuyên tổ chức các
lễ hội của người Chăm.
Xây dựng các dự án đấu thầu kinh doanh các hoạt
động trong lễ hội và kêu gọi các nhà thầu tham gia. Mở rộng hợp tác trong và
ngoài nước để thu hút tối đa nguồn vốn của các tổ chức, ngành văn hóa ở Trung
ương và nguồn viện trợ quốc tế cho hoạt động lễ hội ở địa phương.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động lễ hội
với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm thu hút các nguồn
vốn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân cho hoạt động văn hóa.
Tích cực khai thác và huy động nguồn thu qua các
hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa – du lịch để lại chỉ bổ sung
cho hoạt động lễ hội nói riêng và hoạt động Văn hóa Thông tin nói chung.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước đầu
tư xây dựng các các công trình văn hóa, tôn tạo, bảo tồn các đền, tháp để đảm
bảo không gian tổ chức lễ hội và phục vụ nhu cầu du khách về tham dự lễ hội.
Xây dựng phương án để phòng việc thái qúa trong
thực hiện xã hội hóa thành tư nhân hóa các hoạt động lễ hội, dẫn đến tình trạng
buông lỏng quản lý.
Ngoài ra, duy trì quản lý chặt chẽ nguồn tài
chính thu – chi trong tổ chức lễ hội cũng như nguồn nhân lực cố định và di động
tham gia vào lễ hội theo quy định của Nhà nước và của địa phương cơ sở.
Trên cơ sở nội dung của Nghị quyết 33 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
9 khóa XI định hướng các giải pháp
như: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
văn hóa; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; Xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; Tăng
cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa,... Thực hiện các văn bản chỉ đạo từ Trung ương,
Nhà nước đã cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách về quản
lý hoạt động lễ hội như: Ban hành các Chương trình hành động của Tỉnh ủy, UBND
nhân dân ban hành các Kế hoạch cụ thể hóa các Chương trình hành động của Tỉnh
ủy. Song song với đó ngành VHTTDL cũng đã triển khai cụ thể hóa các kế hoạch
của UBND phối hợp các Sở, ban ngành thực hiện một cách hiệu quả và mang lại kết
quả cao.
Để công tác quản lý lễ hội Katê nói riêng, quản lý lễ hội Chăm nói chung,
trên cơ sở nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Katê của
người Chăm tỉnh Ninh Thuận, tôi xin đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao
công tác quản lý hoạt động lễ hội của người Chăm nói chung và lễ hội Katê nói
riêng như:
Giải pháp đầu tư bảo tồn các di tích đền, tháp – nơi tổ chức lễ hội: việc
bảo tồn đầu tư cơ sở hạ tầng tại các đền, tháp nơi đồng bào dân tộc Chăm tổ
chức lễ hội Katê nói riêng và lễ hội dân tộc Chăm nói chung là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của lễ hội. Đầu tư sửa chữa và nâng cấp các hạng
mục công trình góp phần bảo tồn các di tích đền, tháp tạo sự phấn khởi và niềm
tin để đồng bào Chăm hăng say lao động và sản xuất. Một mặt nào đó, huy động
các nguồn vốn và kinh phí của địa phương để nâng cao kết cấu hạ tầng xây dựng
và nâng cấp các tuyến đường giao thông kết nối các điểm tua góp phần phát triển
du lịch tỉnh Ninh Thuận.
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội:
nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc tổ chức
hoạt động lễ hội Katê. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lễ hội
như: hướng dẫn, tổ chức, công tác tuyên truyền, vệ sinh môi trường, an toàn
giao thông và công tác trật tự xã hội, quản lý các nguồn thu và chi trong lễ
hội một cách hiệu quả.
Giải pháp công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong lễ
hội Katê, nhà nước có chính sách cụ thể và kinh phí thích đáng cho việc khai
thác, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Thường xuyên tuyên
truyền, giáo dục và khơi dậy niềm tự hào dân tộc, giúp họ hiểu được những giá
trị đích thực về lễ hội. Lễ hội Katê là lễ hội lớn và có ý nghĩa quan trọng
nhất của người Chăm Bàlamôn, lễ hội là do cộng đồng sáng tạo ra nhằm phục vụ
nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân nên việc bảo tồn lễ hội cũng là để phục
vụ nhu cầu lâu dài của cộng đồng.
Ngoài ra, giải pháp quảng bá truyên truyền lễ hội nhằm phát huy điểm đến du
lịch góp phần phát triển kinh tế xã hội là một giải pháp không kém phần quan
trọng trong quá trình bảo tồn và phát huy lễ hội Katê, bởi lẽ lễ hội càng thu
hút đông đảo lượng khách du lịch đến tham quan nghiên cứu thì góp phần tạo
doanh thu từ các dịch vụ du lịch, mang lợi nguồn thu cho cộng đồng địa phương
và góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Nâng cao nhận thức cho nhà quản lý
văn hóa các cấp và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
hoạt động lễ hội góp phần nâng cao ý thức cho các ngành các cấp để có những cơ
chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, hỗ trợ phát
triển lễ hội gắn với phát triển du lịch. Nhận thức của các nhà quản lý văn hóa
các cấp được đào tạo và nâng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý,
tổ chức, hưởng dẫn lễ hội một cách khoa học và mang lại hiệu quả cao.
Nghiên cứu khoa học về hệ thống lễ hội Chăm là một công việc cần tiến hành
thường xuyên và lâu dài, để có thể nhận chính xác các giá trị văn hóa của người
Chăm (trong đó có lễ hội Katê), từ đó tham mưu đề xuất các giải pháp bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội một cách phù hợp và kịp
thời.
Đồng thời tăng cường công tác xã hội hóa hoạt động lễ hội: thực hiện chủ
trương xã hội hóa hoạt động lễ hội với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm nhằm thu hút các nguồn vốn của các danh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân
cho hoạt động văn hóa.
Trong các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, lễ hội truyền thống được
xem là loại hình di sản tiêu biểu. Là sinh hoạt văn
hóa cộng đồng hấp dẫn, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Lễ hội
đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh và hưởng thụ, sáng
tạo văn hóa của nhân dân.
Gần 100 lễ nghi, lễ hội quanh
năm của người Chăm Ninh Thuận là môi trường tốt nhất để bảo lưu, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Chăm. Trong kho tàng di sản lễ hội đồ sộ ấy,
lễ hội Ka tê là lễ hội lớn nhất, đặc sắc nhất, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể truyền thống, được người Chăm coi như là “tết”. Lễ hội Katê
như một bức tranh toàn cảnh về văn hóa truyền thống Chăm cả về nội dung lẫn
hình thức và các đặc trưng dân gian của lễ hội, là lễ hội tiêu biểu cho hàng
trăm lễ hội Chăm ở Ninh Thuận. Lễ hội Ka tê là một phần di sản văn hóa của quý
giá quá khứ của cộng đồng tôn giáo xa xưa nhất còn bảo lưu được cho đến ngày
nay. Hoạt động lễ hội là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh
thần của người Chăm, và trên hết, lễ hội là tấm gương phản ảnh quan niệm vũ
trụ, nhân sinh, là nơi bày tỏ khát vọng tâm linh, là nơi thể hiện những giá trị
văn hóa dân gian, nghệ thuật diễn xướng đặc sắc của người Chăm từ ngàn xưa để
lại.
Nhờ triển khai các quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc quan tâm, bảo tồn
các di sản văn hóa dân tộc ở nước ta được đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua, việc quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Katê nói riêng,
lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực
góp phần bảo tồn các di tích đền, tháp Chăm, bảo tồn các di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể trong lễ hội Katê; Ngày hội Văn hóa Chăm – Ka tê
được tổ chức hàng năm góp phần tôn vinh bản sắc văn hóa Chăm. Khi nhập ngành du
lịch về với văn hóa, lễ hội Ka tê đã được nhà nước hỗ trợ đầu tư tổ chức ngày
càng quy mô trên cơ sở đảm bảo các yếu tố văn hóa truyền thống và để hội đồng
chức sắc tự thân vận động tổ chức và gắn với hoạt động du lịch, góp phần thúc
đẩy sự phát triển chung về kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
làm được trong công tác quản lý nhà nước về lễ hội, vẫn còn những hạn chế nhất
định cần phải khắc phục, điều chỉnh. Lễ hội là của cộng đồng dân cư, dưới sự
điều hành của Hội đồng phong tục và đội ngũ chức sắc tôn giáo nên đôi khi, sự
hỗ trợ và quản lý quá sâu, yêu cầu tổ chức quá hoành tráng của cơ quan quản lý
nhà nước đôi khi lại làm ảnh hưởng đến những đặc trưng dân gian của lễ hội.
Để lễ hội Katê diễn ra đúng
theo quy định của Nhà nước cần vận dụng tốt công cụ quản lý nhà nước, đó là các
quan điểm của Đảng về văn hóa, là cơ chế chính sách bảo tồn văn hóa dân tộc, là
các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản dưới luật của Chính phủ, Bộ VHTTDL,
Sở VHTTDL, UBND các cấp. Đối với các lễ hội Chăm nói chung và lễ hội Kate nói
riêng, cần có sự kết hợp hài hòa giữa chính quyền địa phương và
nhân dân trong việc tham gia hoạt động lễ hội. Để nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống trong lễ hội thì cần phải có những phân tích, quan điểm và
chính sách phù hợp; kèm theo đó là hệ thống các giải pháp phù hợp với thực
trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Chăm tại Ninh Thuận. Công
trình nghiên cứu: “Quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh Thuận (Qua nghiên cứu
trường hợp lễ hội Katê)” về cơ bản đã giải quyết được một số vấn đề sau:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản
lý nhà nước về văn hóa, quản lý nhà nước đối với việc bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa, lễ hội và lễ hội truyền thống; vai trò
của Nhà nước trong việc duy trì và phát huy lễ hội truyền thống. Phân tích
những yếu tố tác động đến quá trình quản lý nhà nước về di sản văn hóa, di sản
văn hóa phi vật thể, về lễ hội và hoạt động lễ hội truyền thống tại Ninh Thuận
nói chung và lấy đó làm cơ sở để áp dụng vào việc phân tích và định hướng
nghiên cứu lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh Thuận.
Tập trung khảo sát, phỏng vấn, phân tích thực trạng hoạt động lễ hội Katê của người Chăm
tại Ninh Thuận gồm: công tác quản lý bảo tồn các di tích đền, tháp; công tác
quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa; gắn kết lễ hội Katê với du lịch góp phần phát triển kinh tế xã
hội của địa phương. Từ đó, có thể thấy những thành tích đạt được của nhà quản
lý các cấp về văn hóa nói chung và về lễ hội nói riêng, những vấn đề còn tồn
tại và hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của nhà quản lý văn
hóa các cấp, chính quyền địa phương đã làm ảnh hưởng đến quá trình bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống, nét văn hóa đặc sắc riêng biệt của lễ
hội truyền thống đang bị tác động thời kỳ mở cửa giao lưu tiếp biến văn hóa
giữa người Kinh và người Chăm, và việc gắn kết lễ hội với du lịch chưa phát huy
được hiệu quả.
Trên cơ sở nội dung của Nghị quyết 33 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
9 khóa XI định hướng các giải pháp
như: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
văn hóa; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; Xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; Tăng
cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa,... Thực hiện các văn bản chỉ đạo từ Trung ương,
Nhà nước đã cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách về quản
lý hoạt động lễ hội như: Ban hành các Chương trình hành động của Tỉnh ủy, UBND
nhân dân ban hành các Kế hoạch cụ thể hóa các Chương trình hành động của Tỉnh
ủy. Song song với đó ngành VHTTDL cũng đã triển khai cụ thể hóa các kế hoạch
của UBND phối hợp các Sở, ban ngành thực hiện một cách hiệu quả và mang lại
nhiều kết quả cao. Để công tác quản lý lễ hội Katê nói riêng, quản lý lễ hội
Chăm nói chung, trên cơ sở nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ
hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận, tôi xin đưa ra một số giải pháp góp
phần nâng cao công tác quản lý hoạt động lễ hội của người Chăm nói chung và lễ
hội Katê nói riêng như: Thứ nhất, giải pháp đầu tư bảo tồn các di tích đền, tháp – nơi tổ chức lễ hội: việc
bảo tồn đầu tư cơ sở hạ tầng tại các đền, tháp nơi đồng bào dân tộc Chăm tổ
chức lễ hội Katê nói riêng và lễ hội dân tộc Chăm nói chung là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của lễ hội. Đầu tư sửa chữa và nâng cấp các hạng
mục công trình góp phần bảo tồn các di tích đền, tháp tạo sự phấn khởi và niềm
tin để đồng bào Chăm hăng say lao động và sản xuất. Một mặt nào đó, huy động
các nguồn vốn và kinh phí của địa phương để nâng cao kết cấu hạ tầng xây dựng
và nâng cấp các tuyến đường giao thông kết nối các điểm tua góp phần phát triển
du lịch tỉnh Ninh Thuận.Thứ hai, giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội: nhằm nâng cao
ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc tổ chức hoạt động lễ
hội Katê. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lễ hội như: hướng dẫn,
tổ chức, công tác tuyên truyền, vệ sinh môi trường, an toàn giao thông và công
tác trật tự xã hội, quản lý các nguồn thu và chi trong lễ hội một cách hiệu
quả. Thứ ba, giải pháp công tác bảo tồn và phát huy,
bao gồm cả bảo tồn di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể trong
lễ hội Katê. Nhà nước cần có chính sách cụ thể và kinh phí thích đáng cho việc
khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Thường xuyên tuyên
truyền, giáo dục và khơi dậy niềm tự hào dân tộc, giúp họ hiểu được những giá
trị đích thực về lễ hội. Lễ hội Katê là lễ hội lớn và có ý nghĩa quan trọng
nhất của người Chăm Bàlamôn, lễ hội là do cộng đồng sáng tạo ra nhằm phục vụ
nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân nên việc bảo tồn lễ hội cũng là để phục
vụ nhu cầu lâu dài của cộng đồng. Thứ tư, giải pháp
quảng bá truyên truyền lễ hội nhằm phát huy điểm đến du lịch góp phần phát
triển kinh tế xã hội là một giải pháp không kém phần quan trọng trong quá trình
bảo tồn và phát huy lễ hội Katê. Bởi lẽ, lễ hội càng thu hút đông đảo lượng
khách du lịch đến tham quan nghiên cứu thì góp phần tạo doanh thu từ các dịch
vụ du lịch, mang lợi nguồn thu cho cộng đồng địa phương và góp phần phát triển
kinh tế xã hội của địa phương. Thứ năm, nâng cao nhận thức cho nhà quản lý văn hóa các cấp và đào tạo nguồn nhân lực
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội góp phần nâng cao ý thức
cho các ngành các cấp để có những cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đầu tư, hỗ trợ phát triển lễ hội gắn với phát triển du lịch.
Nhận thức của các nhà quản lý văn hóa các cấp được đào tạo và nâng cao sẽ tạo
điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, tổ chức, hướng dẫn lễ hội một cách khoa
học và mang lại hiệu quả cao. Thứ sáu, nghiên cứu khoa học về hệ thống lễ hội Chăm là một công việc cần tiến hành
thường xuyên và lâu dài, để có thể nhận chính xác các giá trị văn hóa của người
Chăm (trong đó có lễ hội Katê), từ đó tham mưu đề xuất các giải pháp bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội một cách phù hợp và kịp
thời. Thứ bảy, đồng thời tăng cường công tác xã hội hóa
hoạt động lễ hội: thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động lễ hội với phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm thu hút các nguồn vốn của các danh
nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân cho hoạt động văn hóa.
Tiếng việt
1.
Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp (1991), Văn hóa Chăm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.
Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp, Lê Xuân (1989), Người Chăm ở Thuận Hải, Sở Văn hóa thông tin Thuận Hải.
3.
Đào Duy Anh (2005), Từ điển Hán – Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
4.
Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng
đời của người Chăm Ninh Thuận, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5.
Phan Quốc Anh (1999), vài suy nghỉ về việc nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh
Thuận, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á.
6.
Phan Quốc Anh (1999), “Lễ hội Katê
của người Chăm ở Ninh Thuận”.
7.
Phan Quốc Anh (2002), “Những đặc
trưng của lễ hội Katê”.
8.
Phan Quốc Anh (2012), “Văn hóa Chăm
với phát triển du lịch ở Ninh Thuận”.
9.
Ban quản lý Dự án, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2015), Báo cáo công tác trùng tu và tu bổ các di
tích trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn năm 2005 đến 2015.
10.
Ban chấp hành trung ương (2014), Nghị
quyết 33 của Hội nghị BCH Trung ương 9 khóa XI, Hà Nội.
11.
Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và
nhà ở trung ương (2009), Báo cáo kết quả
tổng điều tra dân số và nhà ở, Hà Nội.
12.
Ban chấp hành Trung ương tỉnh Ninh
Thuận (2011), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh
Thuận, Nxb Chính trị Quốc gia.
13.
Ban quản lý di tích tháp Pô Klong
Girai (2011), Báo cáo công tác quản lý di
tích năm 2008.
14.
Nguyễn Chí Bền, Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2006, tr.425-459.
15.
Trương Quốc Bình (2010), Việt Nam công tác quản lý di sản văn hoá, Du
Lịch Việt Nam, Số 7, tr 58-59.
16.
Ban Bí thư Trung ương (2015), Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 05/02/2015 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội.
17.
Bộ VHTTDL (2004), số
447/BVHTTDL-TCCB ngày 20/02/2004 về việc “Quản
lý di sản văn hóa phi vật thể ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”.
18.
Bộ Văn hóa Thông tin (2001), Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT Quy chế tổ
chức lễ hội.
19.
Ngô Thị Chính (2007), “Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát
triển kinh tế - xã hội của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận”.
20.
Đinh Đức Cần (1996), “Tìm về lễ hội Katê”.
21.
Quang Đại Cẩn (2008), “Lễ hội Katê
truyền thống của người Chăm Ninh Thuận”.
22.
Chi cục thống kê huyện Ninh Phước (2013), Niên giám thống kê huyện Ninh Phước năm 2013, Ninh Thuận.
23.
Chương trình hành động số 05-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
của tỉnh ủy.
24.
Chương trình hành động số 20-CTr/TU về phát triển về văn hóa, thể dục thể
thao giai đoạn 2011 -2015 và định hướng đến năm 2020.
25.
Cục thống kê tỉnh Ninh Thuận (2012), Niên
giám thống kê tỉnh Ninh Thuận năm 2012, Nxb Cục thống kê, Ninh Thuận.
26.
Cục di sản Văn hóa (2007), Bảo vệ di
sản văn hóa, tập 1.
27.
Cục di sản Văn hóa (2005), Một con
đường tiếp cận Di sản văn hóa.
28.
Ngô Văn Doanh (2002), Văn hóa cổ Chămpa, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
29.
Ngô Văn Doanh (1994), Tháp
Chăm Sự thật và huyền thoại, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
30.
Ngô Văn Doanh (1998), Lễ hội Rija
Nưgar, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
31.
Ngô Văn Doanh (2006), Lễ hội chuyển
mùa của người Chăm, Nxb TPHCM.
32.
Nguyễn Hồng Dương (2007), “Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín
ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay”.
33.
Nguyễn Thị Ngọc Hân (2013), Luận văn
“Khai thác các giá trị văn hóa Chăm phục
vụ phát triển du lịch ở Ninh Thuận”.
34.
Nguyễn Thanh Hải (2003), Khóa luận “Bảo tồn giá trị Văn hóa và phát
triển Du lịch – Qua trường hợp lễ hội Katê truyền thống của người Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận” (ĐH KHXH&NV TP.HCM).
35.
Nguyễn Xuân Hồng (2014), Tài liệu
hướng dẫn môn Lễ hội truyền thống ở Nam Bộ, Trường Đại học Văn hóa tp, HCM.
36.
Hoàng Hương (2012), Đề tài “Điều tra
hiện trạng lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh Thuận”.
37.
Kiều Thu Hoạch (2013), “ Bài phỏng
vấn về hiểu rõ văn hóa truyền thống thì lễ hội truyền thống sẽ ý nghĩa nhiều
hơn”.
38.
Inrasara (2008), Văn hóa xã hội Chăm
nghiên cứu và đối thoại, Nxb Văn học, Hà Nội.
39.
Kỷ yếu Hội Thảo (2007), Bảo tồn lễ
hội dân gian các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Bộ VHTT – Vụ Văn hóa
Dân tộc.
40.
Nguyễn Xuân Kính (2013), “Nghệ nhân dân gian”, Hội thảo khoa học vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự
nghiệp đổi mới đất nước, tr. 69 -90.
41.
Vũ Thị Kiều, khóa luận “Công tác tổ chức lễ hội và quản lý lễ hội
Đình làng Như Xuyên, xã Đồng Qúy, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”.
42.
Nguyễn Khắc Ngữ (1967), “Mẫu hệ
Chàm”.
43.
Nhiều tác giả (2000), “Bảo tồn, phát
huy văn hóa nghệ thuật Chăm trong cuộc sống hôm nay” tài liệu hội thảo do
tạp chí VHNT tổ chức tại Ninh Thuận.
44.
Trương Văn Món (Sakaya) (2003), Lễ hội người Chăm, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
45.
Trương Văn Món (Sakaya) (2008), “Sự
biến đổi tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam”, trong Sự biến đổi của
tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nhiều tác giả, Thế giới, Hà Nội,
tr.131 – 173.
46.
Bá Trung Phụ (2001), Gia đình và hôn
nhân của người Chăm ở Việt Nam.
47.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam: Luật Di sản, 2001.
48.
Phạm Thanh Quy (2002), “Qúa trình tìm
hiểu về lễ hội và lễ hội truyền thống ở Việt Nam”.
49.
Bùi Hoài Sơn (2013), “Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt”,
Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh.
50.
Bùi Hoài Sơn (2010), Di sản cho ai và
câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền thống ở Việt Nam, tạp chí Di sản văn
hóa số 3 (32), Tr 10-14).
51.
Trần Ngọc Sơn (2007), Luận văn “Khai
thác lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận phục vụ mục đích du lịch”, Đại học
Huế.
52.
Sở VHTTDL (2012), số 879/BC-SVHTTDL
ngày 30/11/2012, Báo báo công tác Văn
hóa, Thể thao, Du lịch và gia đình năm 2012.
53.
Sở VHTTDL (2003), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
54.
Sở VHTTDL (2014), Kế hoạch số
1669/KH-SVHTTDL ngày 11/12/2014 về việc “Lập
lễ hội Katê di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia”.
55.
Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch
(2014), tài liệu hướng dẫn thực hiện “việc
cưới, việc tang, lễ hội”.
56.
Sở VHTTDL tỉnh Ninh Thuận (2015), số 5755/KH-SVHTTDL ngày 14/8/2015 về việc
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
57.
Sở Kế hoạch và Đầu tư (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020.
58.
Huỳnh Quốc Thắng (2007), “Khai thác
lễ hội và các sự kiện góp phần phát triển du lịch tại thành phố Hồ Chí Minh”,
Nxb trẻ, TPHCM.
59.
Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb TP.
HCM.
60.
Ngô Đức Thịnh (2001), “Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
61.
Ngô Đức Thịnh và Frank Proscha, “Folklore
một số thuật ngữ đương đại”.
62.
Từ điển Việt – Hàn (2005), Nxb Từ điển Bách khoa.
63.
Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 11/2006/NĐ-CP Ngày 18/1/2006 về
việc “Quy định chi tiết thi hành một số
điều của luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di
sãn văn hóa”.
64.
Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 39 ngày 3/12/1998.
65.
Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết
định số 1211/2007/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 về việc phê duyệt chương trình mục tiêu
quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015.
66.
Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định số 98/2010/ NĐ-CP về việc “Ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh
doanh văn hóa công cộng”.
67.
Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1270/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2011
về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”.
68.
Tỉnh ủy Ninh Thuận (2014), số
383/CTr-TU, ngày 27/6/2014 về “Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”.
69.
UBND tỉnh Ninh Thuận (2015), số 5755/UBND-VX, ngày 14/7/2015 về triển khai
chương tình hành động Tỉnh ủy “Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”.
70.
UBND tỉnh Ninh Thuận (2005), số
1232/2005/QĐ-UBND ngày 17/02/2005 về “Ban
hành quy chế quản lý di sản văn hóa phi vật thể văn hóa phi vật thể trên địa
bàn tỉnh Ninh Thuận”.
71.
UBND tỉnh Ninh Thuận (2013), Chỉ thị
số 27/CT-UBND ngày 15/5/2013 của UBND tỉnh về “Triển khai thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội”.
72.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1984), “Các
dân tộc ít người ở Việt Nam – các tỉnh phía Nam”.
73.
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam thực hiện (1998), “Lễ hội Katê của đồng bào Chăm Ninh Thuận”.
74.
Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Công văn số 124/VHNTVN-TTDLDSVH ngày
22/4/2013 về Công tác kiểm kê lễ hội Katê
trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
75.
Viện văn hóa (2013), Báo cáo tổng
quan về kiểm kê khoa học lễ hội Katê của người Chăm tại Ninh Thuận.
Tiếng Pháp
76.
A. Cabaton (1901), “Nouvelles recherches sur les Chams” (Nghiên cứu về lễ nghi
và nghi thức tôn giáo của người Chăm).
77.
Marco
Polo (Italia) (1298), “Lelivre de Marco Polo” (Người Chăm và đời sống của họ).
78.
Odiric d G. Maspero (1928) , Vương quốc Chàm,
Paris (Lê Tư Lành dịch).
79.
E. Pordenone, (TK,
XVI) “Những cuộc viễn du sang Châu Á”.
Các nguồn website
80.
https://www.goode.com.
Tuổi trẻ Văn hóa giải trí Bảo tàng “3
không” độc nhất vô nhị.
81.
http:vhttdlkv3.gov.vn. “Ngày hội
VHTTDL vùng đồng bào dân tộc Chăm – Ninh Thuận.
82.
http:vhttdlkv3.gov.vn. “Phỏng vấn ông
Phan Quốc Anh – GĐ Sở VHTTDL tỉnh Ninh Thuận”.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 04
1. Tính cấp thiết của đề tài 04
2. Mục đích nghiên cứu 06
3. Tổng quan tình hình
nghiên cứu 07
4. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Ý nghĩa khoa học và thực
tiễn 11
7. Bố cục của luận văn 11
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận 13
1.1.1. Khái niệm quản lý, quản
lý nhà nước về văn hóa và lễ hội 13
1.1.2. Khái niệm di sản văn
hóa, di sản văn hóa phi vật thể, lễ hội và lễ hội truyền thống 17
1.1.3. Vai trò của Nhà nước
trong duy trì và phát huy lễ hội truyền thống 25
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 27
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh
tế và xã hội của người Chăm tỉnh Ninh Thuận 27
1.2.2. Đặc điểm về văn hóa truyền
thống của người Chăm tỉnh Ninh Thuận 29
1.2.3. Khái quát về lễ hội của
người Chăm tỉnh Ninh Thuận 34
Tiểu kết 41
CHƯƠNG 2: THỰC
TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI CHĂM Ở NINH THUẬN (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LỄ
HỘI KATÊ)
2.1. Tổng quan
về lễ hội Katê 44
2.1.1.
Khái quát về lễ hội Katê 44
2.1.2.
Ý nghĩa và giá trị của lễ hội Katê 49
2.2. Thực trạng quản lý hoạt động lễ hội Chăm ở Ninh Thuận (qua nghiên cứu trường hợp lễ hội Katê) 50
2.2.1. Công tác quản lý và bảo
tồn các di tích đền, tháp nơi tổ chức lễ hội Katê 50
2.2.2. Công tác quản lý nhà nước
về hoạt động lễ hội Katê 53
2.2.3. Công tác bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa trong lễ hội Katê 57
2.2.4. Gắn kết lễ hội Katê với
phát triển du lịch góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương 60
2.3. Đánh
giá thực trạng công tác quản lý hoạt động lễ hội Katê 65
2.3.1. Những
thành tích đạt được 65
2.3.2. Những
hạn trong công tác quản lý 69 68
2.3.3. Nguyên nhân những thành
tựu và hạn chế 76
Tiểu kết 78
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI CHĂM Ở NINH THUẬN (QUA
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LỄ KATÊ)
3.1. Một số quan điểm quản lý
của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa 80
3.1.1. Một số quan điểm của Đảng
và Nhà nước 80
3.1.2. Văn bản quản lý nhà nước
và các chính sách đối với việc bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản văn hóa từ Trung ương 83
3.1.3. Văn bản quản lý nhà nước
và cụ thể hóa chính sách đối với
việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tại địa phương 86
3.2. Giải pháp quản lý nhà nước
về hoạt động lễ hội của người Chăm tỉnh Ninh Thuận (qua nghiên cứu trường hợp lễ
hội Katê) 90
3.2.1. Giải pháp đầu tư bảo tồn
các di tích đền, tháp – nơi tổ chức lễ hội 90
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội 92
3.2.3. Giải pháp bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa trong lễ hội Katê 95
3.2.4. Giải pháp tuyên truyền
quảng bá lễ hội Katê phát huy điểm đến du lịch 98
3.2.5. Nâng cao nhận thức cho
nhà quản lý văn hóa các cấp và đào tạo nguồn nhân lực 101
3.2.6. Giải pháp nghiên cứu
khoa học về hệ thống lễ hội Chăm 104
3.2.7.
Tăng cường công tác xã hội hóa 105
Tiểu kết 106
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 119