Sách VĂN HÓA RAGLAI - NHỮNG GÌ CÒN LẠI

Tác giả: Phan Quốc Anh Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội - 2010Bán quyền thuộc về tác giả Phan Quốc Anh. Khi trích dẫn cần dẫn nguồn.

Raglai là một tộc người thiểu số sinh sống ở sườn đông cuối dãy Trường Sơn các tỉnh cực Nam Trung bộ gồm các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Người Raglai cư trú đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (trên 50%). Địa bàn cư trú của người Raglai là vùng khu VI anh hùng. Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân Raglai đã sát cánh cùng các dân tộc anh em tham gia tích cực và có những đóng góp vô cùng to lớn vào thắng lợi của cả nước. Vùng cư trú của tộc người Raglai là vùng khô nóng, khí hậu khắc nghiệt, ít mưa, thừa nắng nên đời sống kinh tế của bà con còn gặp nhiều khó khăn. Nếu chỉ nhìn về mặt hình thức từ trang phục, nhà cửa, nương rẫy, làng bản v.v...rất dễ ngộ nhận rằng văn hóa truyền thống của tộc người Raglai hoặc nghèo nàn, hoặc đã bị mai một, hòa tan với văn hóa dân tộc khác quá nhiều, không còn gì để nghiên cứu và không mấy hấp dẫn các nhà nhân học. Cũng có lẽ vì vậy nên trong hai dân tộc có dân tộc khá đông ở vùng văn hóa này, văn hóa tộc người Chăm luôn được quan tâm nghiên cứu với hàng chục nghìn công trình, bài viết, trong khi những công trình, bài viết về văn hóa Raglai có thể đếm trên đầu ngón tay. Nhưng qua thực hiện công trình này, chúng tôi thấy rằng, về chiều sâu văn hóa, tộc người Raglai đang lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, là kho tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu văn hóa các tộc người trong nhóm ngôn ngữ Nam đảo nói riêng và các tộc người Đông Nam Á nói chung. Có những giá trị văn hóa, về hình thức có thể biến thiên, nhưng về chiều sâu nội dung tương đối bền vững.




Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, quá trình đô thị hoá nhanh với việc xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, định canh, định cư, quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa v.v… đang đẩy nhanh tiến độ biến đổi toàn diện cả về hình thức lẫn nội dung văn hóa truyền thống. Đối với tộc người Raglai cũng vậy, những giá trị văn hóa được vun đắp từ nghìn đời nay, tưởng chừng như bền vững nhất đang trong giai đoạn có tốc độ mai một nhanh chóng nhất. Trong đó có những giá trị đang dần dần biến mất hẳn, không bao giờ có thể lấy lại được nữa.
Vì vậy, việc điều tra thực trạng các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng tộc người Raglai là vấn đề cấp thiết, đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nắm bắt những số liệu cụ thể về từng lĩnh vực để có chính sách nghiên cứu, bảo tồn và phát huy.
Với chủ trương đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhận thấy, đồng hành với sự phát triển là sự mai một văn hóa truyền thống. Vì vậy Chính phủ đã có chương trình “Bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam”. Để triển khai chương trình đó, Bộ VHTT và một số địa phương đã tiến hành thực hiện các đề tài điều tra thực trạng văn hóa các dân tộc. Ninh Thuận là tỉnh đa dân tộc, trong đó có 2 dân tộc có số dân đông nhất nước và đang lưu giữ kho tàng di sản văn hóa phong phú là dân tộc Chăm và dân tộc Raglai. Trong đó, với nhiều nguyên nhân, tốc độ mai một của văn hóa Raglai đang diễn ra rất nhanh chóng. Vì lẽ đó, việc điều tra, thống kê cái gì đã mất, cái gì còn lại, còn lại bao nhiêu là việc làm cần thiết và cấp bách.
Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể do tộc người Raglai cư trú ở vùng núi cao, điều kiện giao thông, đi lại trước đây rất khó khăn nên so với các tộc người khác nên văn hóa tộc người Raglai ít được các nhà khoa học quan tâm đầu tư nghiên cứu. Cho đến nay mới chỉ có một số bài viết và một số công trình nghiên cứu về tộc người Raglai của Mag Mod, Nguyễn Tuấn Triết, Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp v.v…nhưng mới chỉ mang tính chất nhận diện, giới thiệu. Năm 1991, Nguyễn Tuấn Triết xuất bản cuốn “Người Raglai ở Việt Nam”[1]; Năm 1998, các tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện, Nguyễn Văn Huệ ở Viện KHXH tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản công trình “Văn hóa & Xã hội người Raglai ở Việt Nam”[2]; Năm 2001, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hải Liên xuất bản cuốn “Trang phục cổ truyền Raglai”[3]; Năm 2003, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia dưới sự chủ biên của GS.TS Phan Đăng Nhật đã cho xuất bản công trình Luật tục Chăm và Luật tục Raglai[4]. Ngoài ra có một số bài viết rải rác đăng trên các tạp chí khoa học. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về tộc người Raglai chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu khái quát các lĩnh vực chung, chưa có những công trình chuyên sâu và chưa có tính chất điều tra, kiểm kê kho tàng văn hóa phi vật thể dân tộc Raglai, để từ đó hoạch định kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn và phát huy kho tàng văn hóa truyền thống của tộc người này.
Những năm gần đây, trong chương trình sưu tầm, biên dịch xuất bản sử thi các dân tộc Tây Nguyên, có một số sử thi Raglai đã và đang chuẩn bị xuất bản. Đây là những tư liệu quý giá để các nhà khoa học ngược dòng quá khứ đi tìm những nét văn hóa truyền thống của người Raglai. Hy vọng rằng, hàng nghìn trang sử thi Raglai sắp được biên dịch, xuất bản sẽ là kho tư liệu về quý giá về văn hóa truyền thống của người Raglai.
Từ lịch sử vấn đề nghiên cứu nêu trên, trong công trình này một mặt chúng tôi không đề cập đến những lĩnh vực đã có các tác giả nghiên cứu như: Trang phục truyền thống, luật tục, mặt khác cũng kế thừa có chọn lọc những thành tựu của những nghiên cứu đã có.
Phương pháp nghiên cứu
Với tên gọi: “Văn hóa Raglai, những gì còn lại”, đây là công trình điều tra, kiểm kê, đánh giá một cách toàn diện về những gì đã có, đang có, đã mất của kho tàng văn hóa truyền thống tộc người Raglai. Với sự mong muốn đạt kết quả tốt, chúng tôi tập hợp những nhà nghiên cứu tâm huyết với văn hóa truyền thống tộc người Raglai ở địa phương đi điền dã, sưu tầm tư liệu như Nguyễn Hải Liên, Đình Hy, Sử Văn Ngọc, Thập Liên Trưởng, Văn Món, Lê Xuân Lợi, Nguyễn Tuấn Triết, Phú Văn Hẳn. Công trình này sử dụng phương pháp điền dã, điều tra, kiểm kê toàn diện ở tất cả 14 xã, 78 thôn có người Raglai sinh sống trên toàn tỉnh Ninh Thuận , kết hợp với phương pháp thống kê, chuyên khảo, đối chiếu, so sánh.
Tính chất của công trình này chỉ như là một sụ điều tra, thống kê kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận, tỉnh có số người Raglai đang sinh sống đông nhất nước. Bên cạnh đó, công trình cũng đi sâu một số lĩnh vực trong kho tàng văn hóa truyền thống mà chưa có công trình nào đề cập đến.
Tính chất của công trình này chỉ như là một sụ điều tra, thống kê kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận, tỉnh có số người Raglai đang sinh sống đông nhất nước. Bên cạnh đó, công trình cũng đi sâu phân tích một số lĩnh vực trong kho tàng văn hóa truyền thống mà chưa có công trình nào đề cập đến.
Về phiên âm và sử dụng ký tự. Đây là một vấn đề khá phức tạp vì xưa nay người Raglai chưa có chữ viết. Năm 1996, Hội đồng khoa học tỉnh Khánh Hòa nghiệm thu đề tài “sưu tầm, nghiên cứu xây dựng chữ viết tiếng Raglai” do Trần Vũ, Chamaleq Tiếng và Nguyễn Thế Sang thực hiện. Từ năm 2000 đến năm 2004, Sở Khoa học công nghệ tỉnh Ninh Thuận đã hợp đồng với Viện Ngôn ngữ học tiến hành công trình khoa học xây dựng chữ viết Raglai và sách dạy chữ viết Raglai. Tuy nhiên, cả hai công trình đều chưa xây dựng được từ điển Raglai mà mới chỉ dừng lại ở vài nghìn từ thông dụng. Vì vậy, trong công trình này, chúng tôi chủ yếu sử dụng ký tự Raglai theo công trình của Viện ngôn ngữ, kết hợp với một số ký tự của công trình chữ viết Raglai tỉnh Khánh Hòa.
Mục đích công trình
Mục đích của công trình này là tổng điều tra, kiểm kê một số lĩnh vực di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai ở tỉnh Ninh Thuận, làm căn cứ khoa học để xây dựng kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của người Raglai; Xây dựng cơ sở dữ liệu làm căn cứ để các cơ quan Đảng, các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan chức năng hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội vùng đồng bào Raglai.
Kết quả nghiên cứu là một bản kiểm kê tư liệu thực tế, đánh giá thực trạng văn hóa truyền thống dân tộc Raglai ở Ninh Thuận, còn gì, mất gì? xu thế, khả năng triển vọng về số phận các giá trị văn hóa phi vật thể Raglai trong quá trình hội nhập và đô thị hoá hiện nay. Từ đó có những đề xuất cho các ngành chức năng kế hoạch nghiên cứu tiếp theo, cần nghiên cứu đề tài nào trước, đề tài nào sau? Trong thời gian bao lâu?
Nội dung công trình
Nội dung chủ yếu của công trình này là tổng hợp kết quả điều tra, kiểm kê, thống kê, lên danh mục các loại hình văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Tổng hợp, phân loại các nhóm tư liệu văn hóa truyền thống để từ đó đề xuất kế hoạch cấp bách, ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong chương trình bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của tộc người Raglai, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nghiên cứu, xuất bản và phổ biến những tư liệu về các lĩnh vực văn hóa truyền thống dân tộc Raglai.
Công trình này gồm...chương...
  




[1] Nguyễn Tuấn Triết, Người Raglai ở Việt Nam, Nxb KHXH, 1991.
[2] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ, Văn hóa Xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1998.
[3] Hải Liên, Trang phục cổ truyền Raglai, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
[4] Luật tục Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2003.



Phần thứ nhất
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Chương I

            NGƯỜI RAGLAI Ở NINH THUẬN


1. Sơ lược về quá trình tộc người
 Raglai là một trong năm tộc người thuộc ngữ hệ Malayo - Polinésien (Nam đảo) ở Việt Nam. Tên tộc người này được các tài liệu phiên âm và dùng các ký tự khác nhau như: Raglai, Radlai, Oranglai, Roglai, Rắclây.v.v… Người Raglai cư trú ở vùng núi cao, dọc triền đông cuối dãy Trường Sơn ở các tỉnh cực nam Trung bộ. Điều kiện giao thông, đi lại vùng này rất khó khăn nên văn hóa truyền thống của người Raglai chưa được nghiên cứu nhiều. Người Raglai lại chưa có chữ viết nên tư liệu thành văn cổ hầu như không có. Những tài liệu nghiên cứu về văn hóa Raglai của các nhà khoa học trong và ngoài nước rất ít, có thể nói là ít nhất trong 5 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinésien ở Việt Nam[1].
Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất nguồn gốc tộc người của các cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinésien ở Việt Nam (Chăm, Raglai, Chu Ru, Êđê, Giarai). Có hai luận thuyết đáng chú ý. Một luận thuyết cho rằng các tộc người này đều có nguồn gốc hải đảo Đông Nam Á  (những giả thuyết này dùng những căn cứ như: hình thuyền trên kagor nhà mồ trong lễ bỏ mả, lễ ăn trâu và một số tư liệu chứng minh họ có nguồn gốc văn hóa biển)[2]. Các nhà khoa học Nga cũng cho rằng các dân tộc Nam đảo di cư từ các đảo vùng biển nam Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Luận thuyết thứ hai cho rằng các dân tộc đều di cư theo đường bộ từ nam Trung Quốc, qua Việt Nam, Lào rồi từ đó di cư ra hải đảo. Gần đây, có ý kiến cho rằng, do trước đây các đảo Đông Nam Á  đều “dính” với đất liền, các dân tộc Đông Nam Á  đều ở đất liền. Qua quá trình tạo sơn, các hải đảo “tách” ra, trôi xa dần đất liền. Một bộ phận dân cư “trôi” theo, trở thành các cư dân hải đảo ngày nay. Tóm lại, lịch sử quá trình tộc người của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo - Polinésienở Việt Nam (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê đê, Giarai) vẫn mới chỉ dừng lại ở một vài giả thuyết. Nhưng rõ ràng, các dân tộc trong một nhóm ngôn ngữ (có thể không phải cùng một nguồn gốc chủng tộc) nhưng chắc chắn phải có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong lịch sử tồn tại và phát triển. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa người Raglai với người Chăm, người Churu, Rai, Giarai, Ê đê.
Trong mối quan hệ lịch sử tộc người của người Raglai ở Ninh Thuận và Bình Thuận, đáng chú ý là mối quan hệ giữa người Raglai với người Churu và người Chăm.
Mối quan hệ với người Churu: Người Raglai ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều cho rằng, trước kia, người Raglai chỉ cư trú ở vùng phía tây nam Khánh Hoà, sau đó di cư dần về phía nam. Địa bàn ngày nay người Raglai đang sinh sống ở Ninh Thuận và Bình thuận là địa bàn cư trú trước đây của người Churu. Vì vậy, giữa văn hóa người Raglai và người Churu có nhiều nét tương đồng.
Mối quan hệ với người Chăm: Hiện nay đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về mối quan hệ Chăm – Raglai. Trong phần Mở đầu của công trình “Luật tục Chăm và luật tục Raglai”, nhóm biên soạn cũng đã phân tích khá sâu, khá dài về các ý kiến khác nhau về mối quan hệ này. Chung quy lại là có hai quan điểm chính. Một là quan điểm của Nguyễn Tuấn Triết trong công trình người Raglai ở Việt Nam, theo đó, “Người Raglai và người Chăm có mối quan hệ gần gũi, cùng nhóm ngữ hệ, nhưng phát triển độc lập với nhau”[3]. Hai là quan điểm của nhóm tác giả trong công trình “Văn hóa xã hội người Raglai ở Việt Nam”, cho rằng người Raglai và người Chăm có mối quan hệ gần gũi nhất, gắn bó hữu cơ, lâu dài, toàn diện, ở vị trí tiếp nối và có quan hệ hai chiều. Người Raglai là một tộc người trong thành phần cư dân của Chămpa cổ đại...”[4]. Các tác giả của công trình này đã chứng minh luận điểm của mình bằng khối lượng các tư liệu văn hóa truyền thống như tục ngữ, thơ ca, phong tục tập quán, lễ hội, ngôn ngữ, nông nghiệp, thủy lợi, chăn nuôi.
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, các dân tộc trong cùng nhóm ngữ hệ thường có cùng nguồn gốc tộc người. Thực ra, theo chúng tôi, ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh nhỏ trong nghiên cứu nguồn gốc tộc người. Bởi vì, ngôn ngữ vẫn là cái có rất muộn trong quá trình hình thành các tộc người. Hai tộc người sống cận cư, cộng cư sẽ phải ảnh hưởng ngôn ngữ lẫn nhau và thường là ngôn ngữ tộc người đa số (chủ thể) sẽ là ngôn ngữ được sử dụng nhiều hơn, dần dần lấn át và làm mất đi ngôn ngữ của dân tộc thiểu số hơn.
Theo một số nhà nghiên cứu, vương quốc và những tiểu quốc Chăm Pa xưa có những thời kỳ là quốc gia thống nhất đa dân tộc, bao gồm một số các dân tộc sống ở vùng núi phía tây[5]. Nếu vậy, tất yếu có sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá lẫn nhau. Hơn nữa, giữa người Chăm và người Raglai vốn là một dân tộc cùng ngữ hệ, có rất nhiều nét tương đồng về văn hoá, thậm chí về các nguồn gốc của các giả thuyết tô tem giáo với thị tộc Cau (Pi năng) và thị tộc Dừa (Li - u) của người Chăm liên quan đến tộc họ còn lưu giữ đến hôm nay ở người Raglai. Hàng năm, vào dịp lễ hội Katê, người Chăm vẫn mang cờ hoa võng lọng lên vùng rừng núi của người Raglai làm lễ đón nhận y trang của các vị vua - thần Chăm về các đền tháp Chăm tế lễ. Trong kho tàng văn hoá dân gian Chăm có nhiều tư liệu nói đến mối quan hệ Chăm - Raglai, đều cho rằng Chăm với “Raglai là anh em, Raglai là con út của vua". Người Chăm còn gọi người Raglai là “Chăm núi". Người Chăm và người Raglai được coi như là anh/chị em của nhau: “Chap sa ai Raglai adơi” (Chăm là chị, Raglai là em) hay “Chap ai Raglai adơi” (Chăm là anh, Raglai là em). Người Raglai ở Phước Hà ngày nay vẫn giữ y trang của Pô Inư Nưgar, người Raglai ở Tà Dương vẫn giữ y trang của Pô Klongirai và cứ mỗi năm đến lễ hội Ka tê, người Chăm phải cho người lên rước về để làm lễ. Với quan niệm rằng người Raglai là “em út”, theo chế độ mẫu hệ thì người em út là người thừa kế, nuôi dưỡng cha mẹ và giữ “chiết a tâu”[6] của tộc họ, gia đình. Nếu giả thuyết này là đúng (Raglai và Chăm có chung nguồn gốc tộc người), sẽ phải xem xét lại định hướng nghiên cứu văn hoá cổ đại Chăm Pa, bởi ngoài giả thuyết là chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh, người Chăm còn có một bộ phận dân tộc gốc rễ đang lưu giữ lớp văn hoá cổ đại Chăm, không chịu ảnh hưởng của các tôn giáo Ấn Độ. Phải chăng đó là văn hoá “phi Hoa, phi Ấn” còn dáng dấp văn hoá nguyên thuỷ mà chúng ta gọi là văn hoá truyền thống của người Raglai hôm nay?
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, hiện nay đang tồn tại hai cách phân vùng văn hóa Raglai như sau:
Cách phân vùng thứ nhất chủ yếu dựa theo địa giới hành chính: Nhóm Raglai bắc có nhiều nét khác biệt là nhóm Raglai ở hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh ở tỉnh Khánh Hòa, nhóm Raglai nam là nhóm Raglai còn lại ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Đây là cách phân vùng của một số tác giả nghiên cứu về tộc người Raglai như J. Shrock, V. Cobbey, L. Lee. Mở đầu là cuốn sách viết về các dân tộc ít người ở miền nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1966, đã chia tộc người Raglai làm hai nhóm: Raglai bắc và Raglai nam, nhưng sự phân biệt ấy chỉ có ý nghĩa về mặt địa lý đơn thuần.
Cách phân vùng thứ hai là cách phân vùng theo độ đậm nhạt của văn hóa truyền thống. Cách phân vùng này lấy Quốc lộ 27 làm ranh giới. Từ phía bắc quốc lộ 27 trở ra Khánh Hòa là nhóm Raglai bắc bao gồm bà con Raglai ở 2 huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa và các huyện Thuận Bắc, Bác Ái ở Ninh Thuận. Từ phía nam Quốc Lộ 27 trở vào đến Bình Thuận là nhóm Raglai nam bao gồm bà con Raglai ở các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước của tỉnh Ninh Thuận, ở huyện Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc của tỉnh Bình Thuận, một số làng Raglai ở Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng[7].
Theo chúng tôi, cách phân vùng thứ hai là hợp lý hơn cả. Bởi vì qua quá trình điều tra nghiên cứu cho thấy, văn hoá truyền thống của người Raglai ở khu vực phía bắc (lấy quốc lộ 27 làm mốc phân chia), so với văn hoá truyền thống của người Raglai khu vực phía nam, ngoài những nét tương đồng chung, cũng có những sự biến đổi dẫn đến mức độ đậm nhạt và sự khác biệt tương đối rõ nét. Tuy nhiên, sự phân chia ấy cũng chỉ là một sự quy ước. Ngay trong một tiểu vùng, một huyện hay một xã, cũng đã có những nhiều nét tương đồng và dị biệt về văn hóa truyền thống rồi. Những tương đồng và dị biệt ấy thể hiện từ ngôn ngữ, các làn điệu dân ca, truyện cổ, sử thi cho đến phong tục tập quán, sự biến đổi họ, tên v.v…
2. Dân số, địa bàn cư trú
Dân tộc Raglai cư trú khá tập trung, sinh sống tương đối độc lập ở các triền núi phía tây thuộc 3 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và ở huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng, trong đó tập trung đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (trên 50%). Sự biến đổi qua các đợt điều tra dân số như sau:
Số liệu điều tra dân số năm 1979: 57.484 người
Số liệu điều tra dân số năm 1989: 71.696 người
Số liệu điều tra dân số năm 1995: 72.365 người
Theo số liệu của nhóm tác giả công trình “Văn hóa xã hội của người Raglai ở Việt Nam” xuất bản năm 1998 thì dân số Raglai có 84.716 người phân bổ như sau:
- Ở Khánh Hoà có 29.750 người ((Khánh Vĩnh 10.190 người, Khánh Sơn 10.104 người, Cam Ranh 7.381 người, Diên Khánh 1.491 người, Ninh Hoà 690 người).
- Ở Bình Thuận có khoảng 9.560 người, sinh sống ở các huyện Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình
- Ở Lâm Đồng có gần 1.000 người Raglai, tập trung ở xá Bảo Thuận, huyện Di linh.
- Ở Ninh Thuận có 44.406 người, trong đó tập trung ở huyện Ninh Sơn (bao gồm cả huyện Bác ái ngày nay) là 24.574 người, huyện Ninh Hải là 16.215 người.
Kết quả điều tra dân số Raglai do nhóm thực hiện công trình này năm 2003, ở Ninh Thuận có 50.381 người, cư trú ở 78 thôn trên 24 xã thuộc 4 huyện trong tỉnh Ninh Thuận, được phân bố như sau:
- Huyện Bác Ái: 17.572 người Raglai, cư trú ở 9 xã, 33 thôn
- Huyện Ninh Sơn:  9.901 người Raglai, cư trú ở 6 xã, 15 thôn
- Huyện Ninh Hải: 18.760 người Raglai, cư trú ở 6 xã, 22 thôn
- Huyện Ninh Phước: 4.148 người, cư trú ở 3 xã, 8 thôn
Toàn tỉnh: 57.442 người. Cụ thể như sau:
Bảng biểu A1. Dân số Raglai toàn tỉnh Ninh Thuận

TT

Huyện

Số xã
Số thôn
Số khẩu
Số hộ
Số hộ kinh
Tỷ lệ hộ Raglai
01
Bác Ái
09
33
18.918
3.445
63
96,5%
02
Ninh Sơn
06
15
11.334
1.880
46
96,6%
03
Ninh Hải
06
22
22.674
3.924
218
98,26%
04
Ninh Phước
03
08
4.516
670
0
100%

Tổng cộng
24
78
57.442
9.919
327
97,8%

Bảng biểu A2: Dân số Raglai ở Huyện Bác Ái[8]


Số
TT
Số
thôn
Số khẩu

Số hộ

Số hộ kinh
Tỷ lệ

Raglai

01

Phước Bình

06
2.809
649
9
84,1%
02
Phước Chính
03
1.151
212
0
100%
03
Phước Đại
02
2.484
371
20
95%
04
Phước Hòa
02
1.015
182
0
100%
05
Phước Tân
03
1.875
372
0
100%
06
Phước Tiến
04
2.611
539
54
90,1%
07
Phước Thành
05
2.304
334
0
100%
08
Phước Thắng
04
2.897
492
0
100%
09
Phước Trung
04
1.772
294
0
100%

Tổng cộng

33
18.918
3.445
63
96,5%

Bảng biểu A3: Dân số các thôn Raglai ở Huyện Ninh Sơn

Số

TT

Số thôn
Số khẩu
Số hộ
Số hộ Kinh
Tỷ lệ Raglai
1
Lương Sơn
01
800
213
0
100%
2
Nhơn Sơn
02
449
48
0
100%
3
Mỹ Sơn
02
2.194
326
21
93,6%
4
Hòa Sơn
01
195
39
0
100%
5
Lâm Sơn
03
4.477
628
25
96%
6
Ma Nới
06
3.219
626
0
100%

Tổng cộng:
15
11.334
1.880
46
98,26%

Bảng biểu A4: Dân số Raglai ở Huyện Ninh Hải

TT

Số thôn
Số khẩu
Số hộ
Số hộ kinh
Tỷ lệ Raglai
1
Phước Chiến
05
3.847
727
0
100%
2
Phương Hải
01
2.252
376
0
100%
3
Lợi Hải
05
8.813
1.445
112
91,4%
4
Công Hải
04
5.332
915
106
88,4%
5
Phước Kháng
05
1.965
365
0
100%
6
Vĩnh Hải
02
465
96
0
100%


Tổng cộng
22
22.674
3.924
218
96,6%
Bảng biểu A5: Dân số Raglai ở Huyện Ninh Phước

TT

Số thôn
Số khẩu
Số hộ
Số hộ Kinh
Tỷ lệ Raglai
1
Phước Sơn
03
1.515
268
0
100%
2
Phước Thái
01
523
91
0
100%
3
Phước Hà
04
2.478
402
0
100%

Tổng cộng:
08
4.516
771
0
100%

Như vậy, nếu so sánh với số liệu 44.406 người năm 1995 với số liệu 50.381 người năm 2003, ta thấy qua 8 năm (1995 - 2003), dân số Raglai ở Ninh Thuận tăng 5.975 người, bằng 13% (trong 8 năm), tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,6%/năm.
3. Vài nét về văn hóa truyền thống
Người Raglai mang đầy đủ trên mình những yếu tố văn hoá truyền thống của các dân tộc trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo. Do cư trú trên miền rẻo cao, giao thông đi lại khó khăn nên văn hoá Raglai chưa được nghiên cứu nhiều, tư liệu về văn hoá truyền thống rất ít so với các dân tộc cùng ngữ hệ. Cũng bởi cư trú ở phía đông vùng rừng núi nam dãy Trường Sơn, qua bước đầu tìm hiểu văn hoá truyền thống, nhất là nghiên cứu kho tàng chuyện cổ, chuyện kể, sử thi, các phong tục tập quán như lễ bỏ mả, lễ ăn đầu lúa, quan niệm về vũ trụ, thần linh, hệ thống nhạc cụ v.v… chúng tôi thấy có đủ căn cứ để xếp dân tộc Raglai vào khu vực các dân tộc Nam Tây Nguyên. Bởi từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên mới chỉ tập trung nghiên cứu các dân tộc ít người như Ba Na, Ê Đê, Gia rai v.v…ở Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Nông.
Là một dân tộc ở miền rừng núi, sống du canh du cư với nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp, cũng như các dân tộc thiểu số vùng cao khác, người Raglai từ bao đời nay đã hình thành nên cho mình một nền văn hoá riêng gắn với điều kiện môi sinh của cư dân nông nghiệp nương rẫy Nam Trung Bộ. Nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, người Raglai vẫn mang trên mình những tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước (biểu hiện qua hệ thống nghi lễ cầu mùa, lễ ăn đầu lúa, lễ mừng lúa mới và các phong tục tập quán khác) những tàn tích của cư dân hải đảo (như hình kagor trong lễ bỏ mả). Người Raglai cũng đã giao lưu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc khác, đặc biệt là mối quan hệ tộc người và văn hoá tộc người giữa người Chăm và người Raglai hiện nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.
4. Sự giao lưu, biến đổi văn hóa
4.1. Sự giao lưu văn hoá trong thời kỳ chiến tranh cách mạng.
Địa bàn rừng núi nơi người Raglai cư trú chính là chiến khu kháng chiến (khu VI) của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Dân tộc Raglai đã từng sản sinh ra những người con anh hùng lực lượng vũ trang như: Pi Năng Tắc, Pi Năng Thạnh, Chamaleq Châu và hàng chục bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hàng trăm thương binh liệt sỹ đã hy sinh cho công cuộc kháng chiến. Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ, người Raglai đã đồng cam cộng khổ với đội ngũ cán bộ kháng chiến của Khu VI anh hùng, góp phần to lớn vào sự thành công thắng lợi giải phóng đất nước. Trong giai đoạn này, văn hoá kháng chiến với phong trào chống mê tín dị đoan, chống những phong tục cúng kính bị coi là lạc hậu lên cao, người Raglai cũng đã bỏ đi một số lễ hội và một số phong tục cúng kính. Lúc bấy giờ, phong trào văn nghệ quần chúng được các đơn vị kháng chiến triển khai, bên cạnh những tiết mục mang màu sắc văn hoá truyền thống Raglai, xuất hiện rất nhiều những lời ca điệu múa mang từ những vùng quê xa xôi vào. Cho đến hôm nay, khi đi sưu tầm văn nghệ dân gian Raglai, chúng tôi vẫn được xem rất nhiều những điệu múa kháng chiến mang từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa vào như “Vui sản xuất”, “Vui mùa gặt”, múa “Gậy tiền” của các dân tộc ít người miền núi phía bắc, những bài hát như “Đường cày đảm đang”, “Chắc tay súng, vững tay cày” và một số làm điệu dân ca các dân tộc miền núi phía bắc v.v…đã ăn sâu trong tiềm thức người Raglai. Bên cạnh đó, hầu hết đồng bào Raglai đã quên trang phục truyền thống của mình. Trang phục phụ nữ Raglai hiện nay ảnh hưởng của trang phục phụ nữ Chăm như váy, khăn thổ cẩm. Đối với đàn ông thì mặc trang phục của người Kinh, quấn khăn Chăm, đa số là trang phục bộ đội cũ. Các cơ quan chức năng như Sở Văn hóa thông tin, Hội Văn nghệ dân gian, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số mở ra các hội thảo, xây dựng các công trình nghiên cứu trang phục Raglai và phục hồi một số trang phục nhưng xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
4.2. Sự giao lưu, biến đổi trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau ngày giải phóng, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách văn hóa dân tộc, nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến. Nhưng cho đến nay, do điều kiện địa lý, khí hậu khắc nghiệt và với nhiều nguyên nhân khác, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của người Raglai vẫn còn gặp những khó khăn nhất định.
Năm 2005, cơ sở hạ tầng vùng đồng bào Raglai cư trú đã cơ bản hoàn thiện, 100% các xã có người Raglai sinh sống đã có đầy đủ cơ sở điện, đường, trường trạm, hầu hết đã phủ sóng phát thanh truyền hình, đã cơ bản hoàn thành chương trình định canh định cư cho toàn bộ vùng đồng bào Raglai. Nhà nước và chính quyền địa phương thực hiện rất nhiều những chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của bà con Raglai ngày càng được cải thiện rõ rệt. Huyện mới Bác Ái mới được tái lập đầu năm 2001, toàn huyện có 9 xã với trên 95% là người dân tộc Raglai, sống theo từng palơi rải rác dọc theo con đường quốc lộ 27B được xây dựng. Năm 2005, Nhà nước đầu tư những công trình thủy lợi lớn ở vùng đồng bào Raglai như công trình hồ thủy lợi Sông Trâu ở xã Phước Chiến, huyện Ninh Hải, hồ thủy lợi Sông Sắt ở xã Phước Thành, Phước Thắng, huyện Bác Ái với dung tích hàng trăm triệu m3. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng cao Ninh Thuận. Nhưng bên cạnh đó, ở đây cũng đang diễn ra quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh. Người Raglai nhanh chóng tiếp thu những yếu tố văn hoá mới đang ồ ạt đến và dần xa rời yếu tố văn hóa cổ truyền. Những người làm công tác văn hoá cần có nghĩa vụ sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, níu kéo lại sự ra đi của những giá trị văn hoá truyền thống quý giá được hình thành từ ngàn đời nay của người Raglai.
4.3. Nguy cơ mai một văn hoá truyền thống tộc người Raglai trong quá trình hoà nhập, phát triển
4.3.1. Sự biến đổi xã hội từ việc thay đổi môi trường sống
Quá trình phát triển, hoà nhập, đô thị hoá đã đưa rất nhiều những yếu tố, thành tố văn hóa mới vào và trực tiếp làm biến đổi văn hoá tộc người Raglai. Đó là các yếu tố: chính sách định canh định cư đưa bà con về các khu “phố núi” với những dãy nhà xây trệt, với cơ sở hạ tầng được xây dựng hiện đại: điện, nước sạch nông thôn (nước tự chảy), trường học, trạm xá, bưu điện văn hoá xã, hệ thống truyền thanh, hệ thống nghe nhìn với nhiều chương trình truyền hình phong phú, trong đó có những chương trình phát thanh truyền hình bằng tiếng Raglai; đường quốc lộ chạy qua hứa hẹn sự phát triển kinh tế thương mại và du lịch. Nhiều chương trình kinh tế đã được triển khai, phát sinh thêm nghề chăn nuôi bò, dê, tập canh tác trên ruộng lúa nước, các chương trình mục tiêu ưu đãi từ chính sách dân tộc miền núi của Đảng và Nhà nước v.v…
Sau khi định canh định cư, đưa bà con đến khu vực cư trú và canh tác mới lạ, (từ làng trên núi trở thành làng ven núi), một số palơi được định cư ở dưới bằng (thành làng đồng bằng) và sản xuất lúa nước, bà con Raglai hầu hết chưa quen những tập quán và các kỹ thuật thâm canh loại lúa này nên năng suất không cao. Trung tâm khuyến nông các cấp và các ngành chức năng đang cố gắng giúp bà con đổi mới phương thức canh tác nhưng đây là một việc khó. Để thay đổi một tập quán canh tác du canh du cư tồn tại hàng bao đời nay là cả một việc không đơn giản. Cần có phương pháp tập huấn, tuyên truyền sao cho dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của bà con.
Những nhân tố trên đây ít nhiều đã thúc đẩy quá trình biến đổi văn hoá tộc người Raglai trong quá trình hoà nhập, phát triển. Nhưng bên cạnh đó, nó cũng là những yếu tố làm mai một hoặc biến đổi văn hóa truyền thống. Chúng ta đều hiểu rằng, mọi xã hội, mọi vùng, mọi dân tộc trên thế giới đều hướng đến sự phát triển, nâng cao mức sống cho người dân. Nhưng việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc phải đồng hành với sự phát triển mới là sự phát triển bền vững. Bởi vì, những giá trị văn hóa truyền thống được hình thành và đúc kết từ bao đời nay, nếu đã ra đi thì không bao giờ có thể lấy lại được. Ngược lại, nếu những yếu tố văn hóa xưa cũ, không còn phù hợp với thời đại mà lại níu kéo sự phát triển, cũng cần nghiên cứu, loại bỏ.
4.3.2.  Sự biến đổi cấu trúc xã hội truyền thống
Cấu trúc xã hội truyền thống của người Raglai được hình thành từ lâu đời. Đó là cấu trúc theo khu vực cư trú cơ sở mà người Raglai gọi là palơi (buôn, làng), nhỏ hơn là bur, ở đó hiện hữu bền vững những tộc họ gắn kết với nhau theo chế độ mẫu hệ. Trong mỗi palơi hay bur bao gồm không nhiều các tộc họ, mỗi tộc họ lại có một câu chuyện cổ về sự tích của dòng họ mình. Điển hình là các dòng họ: Pi năng (cây cau), Chamaleq hay Mấu (dây máu) v.v…nhưng tên của người Raglai đa số đã bị Việt hoá. Ví dụ như: Chamaleq Thị Loan. Pi năng Thị Hoa, Katơr  Thân, Bo Xuân Ngấm, Mấu Thị Bích v.v…
Những năm gần đây, quá trình phát triển, giao lưu đã xuất hiện nhiều hơn sự kết hôn giữa người Raglai với người các dân tộc khác, kéo theo sự biến đổi phong tục tập quán của chế độ mẫu hệ truyền thống, biểu hiện trong những việc như khai sinh, đăng ký họ, tên, vấn đề thừa kế tài sản đất đai. Đây là một vấn đề nhạy cảm, các nhà quản lý cần phải nghiên cứu kỹ để xử lý, vừa phù hợp với pháp luật, vừa phù hợp với luật tục của bà con dân tộc đã hình thành từ bao đời nay, vốn là một thói quen tiềm ẩn của các gen di truyền văn hóa.
Với việc tái lập huyện Bác Ái, xây dựng khu huyện lỵ mới, xây dựng đường quốc lộ đi xuyên qua các palơi Raglai, nhiều dân tộc khác sẽ đến định cư hai bên đường Quốc lộ. Đặc biệt là tại huyện lỵ Bác Ái đang xây dựng và các khu trọng điểm kinh tế, du lịch, tất yếu sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, kèm theo đó là sự biến đổi văn hoá tộc người.
Khác với các dân tộc vùng Tây Nguyên, người Raglai không có già làng, không có nhà rông để sinh hoạt chung mà trong đó, vai trò già làng là quan trọng. Người Raglai gắn kết với nhau chủ yếu bằng tộc họ và vai trò trưởng họ được đề cao. Trưởng họ của người Raglai, do sự chi phối của chế độ mẫu hệ nên phải là nữ. Người trưởng họ có quyền quyết định những công việc lớn của dòng họ, quyết định các nghi lễ của dòng họ. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hoá, vai trò người trưởng họ ngày càng bị lu mờ. Dân làng chủ yếu tập hợp dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp hành chính và trực tiếp là người trưởng thôn do dân bầu ra.
Đa số các nghi lễ truyền thống của người Raglai đã và đang dần mất đi. Cho đến nay, người Raglai không còn có tết năm mới cho riêng mình, một số người ăn tết theo người Việt. Mặc dù, qua bước đầu nghiên cứu, xưa kia, người Raglai cũng có lễ hội “ăn lúa mới” là nghi lễ lớn nhất đón năm mới theo hệ thống lịch lễ hội của các cư dân Đông Nam Á khác. Về tính chất và thời điểm rất gần với lễ hội đầu năm Rija Nưgar của người Chăm, tết Chon chơ Nam thmay của người Kh’me, tết của Bunpimay của Lào, lễ Soong Kran của người Thái Lan, lễ Thagyagin của người Myanma v.v…Những lễ nghi có tính Shaman giáo đang dần mất đi, chỉ còn một vài gia đình tổ chức các nghi lễ nhỏ trong phạm vi dòng tộc hay trong nôi bộ một gia đình. Các hình thức shaman trong cúng chữa bệnh đã gần như mất hẳn trong vùng đồng bào Raglai.
Những nghề thủ công truyền thống xa xưa cũng đang mất dần trong trí nhớ người Raglai. Ngoài một số thôn duy trì được nghề rèn, còn lại hầu hết những nghề truyền thống khác đều đã mất. Có hay không nghề dệt vải của người Raglai. Câu hỏi này vẫn còn bỏ ngỏ. Gần đây, trong quá trình thực hiện dự án điều tra, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên, trong sử thi Udai – Ujai và Uya – Yuhea của người Raglai có mô tả đến nghề dệt của người Raglai nhưng đó cũng chưa hẳn là căn cứ để kết luận là người Raglai có nghề dệt hay không? Hoặc có thể đã tồn tại nghề dệt xa xưa nhưng do không phát triển nên ngày nay đã mất.
Một mất mát lớn nữa trong quá trình phát triển là, cùng với chính sách định canh định cư, các làng Raglai cổ không còn tồn tại. Người Raglai đã dần bỏ nhà sàn đặc trưng của mình và làm những căn nhà ở trệt, lợp tôn hoặc ngói. Chỉ còn vài chiếc nhà sàn nho nhỏ đựng bắp, lúa, khoai. Nhà sàn dài đã biến mất.
Tuy nhiên, dù đã và đang quá trình đô thị hoá mãnh liệt, về hình thức có thể đã có nhiều thay đổi, nhưng về cơ bản, nội dung các giá trị văn hoá truyền thống Raglai, nhất là văn hóa phi vật thể vẫn tồn tại khá bền vững. Chiếc “bình” có thể đã thay mới, nhưng trong chiếc bình ấy vẫn là rượu cũ. Rượu cần Raglai vẫn đầy chất men say, đầy hương vị của một tộc người đã âm thầm vượt qua mọi thử thách để lưu giữ vốn văn hóa truyền thống của mình. Nhưng rõ ràng, mối đe dọa đến sự tồn vong văn hóa truyền thống tộc người trong giai đoạn này là có thật.
5. Những giá trị văn hoá cần sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
5.1. Người Raglai vẫn duy trì được chế độ mẫu hệ. Đây là một trong những rường cột cơ bản để gìn giữ, níu kéo được văn hoá dân tộc truyền thống Raglai. Hiện nay, người Raglai vẫn giữ được những phong tục gắn với chế độ mẫu hệ như trong hôn nhân gia đình (tục cưới chồng, ở rể, con theo họ mẹ), trong quyền thừa kế (con gái út được quyền thừa kế). Tuy nhiên, luật hôn nhân gia đình là chung cho cả nước. Vì vậy, có nhiều điểm không phù hợp với văn hoá các dân tộc thiểu số, nhất là những dân tộc vẫn đang duy trì hoặc vẫn còn một số tập tục của chế độ mẫu hệ. Đặc biệt, một số nghi lễ truyền thống như đám cưới, đám tang, lễ bỏ mả sau đám tang vẫn duy trì được những phong tục tập quán truyền thống.
5.2. Ngôn ngữ Raglai là một trong những rường cột để bảo tồn văn hóa. Nhờ bảo tồn được ngôn ngữ riêng mà người Raglai đang lưu giữ được kho tàng truyện cổ dân gian, chuyện kể, sử thi, tục ngữ, thành ngữ, câu đố dân gian hết sức phong phú và đa dạng. Bộ chữ viết Raglai đang được gấp rút hoàn thành để đưa vào phổ biến và sử dụng là một trong những biện pháp quan trọng để bảo tồn văn hóa Raglai.
Nhưng, như chúng tôi đã phân tích và cảnh báo nhiều năm nay, kho tàng văn hoá truyền thống Raglai đang mất đi từng ngày, đòi hỏi các cơ quan có trách nhiệm phải có kế hoạch trong chương trình mục tiêu điều tra, sưu tầm văn hoá phi vật thể cấp bách.
5.3. Kho tàng âm nhạc dân gian, hệ thống các bài hát lễ, hát cúng mang tính shaman giáo cùng với hệ thống nhạc cụ dân gian, dân tộc Raglai vẫn còn khá phong phú như mã la, cồng chiêng, đàn đá, các loại khèn bầu, kèn môi, các loại trống, sáo v.v.. Điều đáng lo ngại là những nghệ nhân sản xuất và biết sử dụng ngày càng ít đi. Lớp trẻ Raglai đã và đang làm quen với âm nhạc hiện đại, đặc biệt là tiếp cận rất nhanh với những dòng nhạc có tính chất kích động, có thể là do tính “lửa Tây Nguyên” còn đọng trong tố chất âm nhạc Raglai, là gen di truyền âm nhạc trong dòng máu tộc người. Những đêm lễ hội bỏ mả, thay vì đánh mã la, uống rượu cần thì ngày nay, đa số thanh thiếu niên lại uống rượu đế, nhảy theo nhạc disco.
5.4. Một yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ gìn sắc thái văn hoá truyền thống Raglai, đó chính là bản tính, đặc tính, những phẩm chất tốt đẹp như sự chân thành, trung thực, sống có nghĩa tình, cần cù, chịu thương chịu khó, sống hết mình, một lòng theo Đảng, theo cách mạng của người Raglai. Ngoài ra, khi đi điền dã, thực địa, tâm sự với người Raglai, chúng tôi thấy người Raglai có những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, quan niệm cõi sống, cõi chết, về hồn vía, hồn linh và có một hệ thống thần linh khá phong phú. Những giá trị văn hoá phi vật thể ấy khó lòng mờ phai trong đời sống tâm linh người Raglai, cần có những công trình nghiên cứu đầy đủ và nghiêm túc để có thể hiểu sâu hơn về một tộc người, làm căn cứ để hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.







[1] Nhiều tác giả. “Văn hóa & xã hội người Raglai ở Việt Nam”. Nxb KHXH, 1998, tr. 1.
[2] Trong một lần tiếp xúc với GS Tol Goda - Trường Đại học Kobe – nhân dịp đến Việt Nam nghiên cứu về sự biến đổi xã hội truyền thống Raglai ở Ninh Thuận, GS chưa nhất trí với luận cứ nói trên, vì có thể hình thuyền trên Kagor trên nhà mồ trong lễ bỏ mả có thể chỉ là biểu tượng của mặt trăng.

[3] Nguyễn Tuấn Triết: Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 1991, tr 28,29,30,37.
[4] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ, Văn hóa Xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1998.
[5] Theo chúng tôi, đây cũng vẫn chỉ là những giả thiết.
[6] Một loại giỏ được đan bằng mây, nơi cất giữ những đồ quý giá, gia truyền của gia đình, tộc họ, thường được treo nơi trang trọng.
[7] Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại tỉnh Ninh Thuận cũng lấy quốc lộ 27 để phân chia địa giới hành chính các huyện Bác Ái, Anh Dũng, Bác Ái đông và Bác Ái tây.
[8] Số liệu trên do nhóm điều tra văn hóa thống kê năm 2003. Đến nay, dân số trên địa bàn huyện Bác Ái đã biến động nhiều, nhất là sau khi tái lập huyện Bác ái và hoàn thành con đường quốc lộ 27B. Theo số liệu chúng tôi nắm được, dân số huyện Bác sí đến tháng 6/2006 đã tăng lên 21.290 người. Số hộ các dân tộc khác lên trung tâm huyện ngày càng nhiều.


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn