BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM TRONG THƠ INRASARA - Luận văn thạc sĩ Thân Thị Anh Trang

 




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

 

 

 

THÂN THỊ ANH TRANG

 

 

 

 

BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM TRONG

THƠ INRASARA

 

 

 

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

 

 

 

 

 

 

 

                                         Bình Định – 10 /2014

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Inrasara là “đứa con tâm thức của dân tộc Chăm”, nhà thơ Chăm tài hoa. Anh được xem là một hiện tượng nổi bật, một đối tượng đáng nghiên cứu trong nền văn học đương đại. Tựa chú ong chăm chỉ, bền sức, vững lòng, đưa văn hóa Chăm “bắt đầu từ con số không, từ con số âm – có lẽ” qua “một cuộc đi dài”, xóa tan “lớp sương mù quá khứ”, Inrasara đã đưa văn hóa Chăm đến bờ rực rỡ ngưỡng vọng. Anh đóng góp khá lớn trên con đường định hình, tiếp nối, khẳng định tiếng thơ dân tộc Chăm, làm phong phú thơ ca Việt Nam đương đại.

Không chỉ thành công trong sáng tạo nghệ thuật, anh còn say mê nghiên cứu văn hóa, văn học và có nhiều thành tựu đáng nể.

Inrasara “mọc” vào đời như một huyền thoại và “mọc” vào thơ ca như cách loài xương rồng đơm hoa trên sỏi đá. Với thơ, ông hai lần đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1997, 2003), giải thưởng ASEAN (2005)… Anh được ví như thiên tài, kỳ nhân của làng viết.

Ngụp lặn và lớn dậy trong nền văn hóa Chăm, Inrasara tải chở hồn vía Chăm vào thơ. Sự tải chở ấy còn là con đường tìm về, thấu hiểu dân tộc mình. Khám phá bản sắc Chăm trong thơ anh là tìm về những giá trị văn hóa trân quý tưởng trầm tích thời gian phủ mờ, nay vụt sáng trong dòng tận hiến thơ Inrasara, bên cạnh đó cũng là để nhìn nhận đóng góp của thơ anh vào tiếng nói chung của nền văn học đương đại.

Cuộc hành hương đến thánh đài thi ca lặng lẽ và vinh quang ấy khiến Inrasara trở thành đối tượng cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học hướng đến. Hàng trăm bài viết, hàng chục bài tiểu luận, công trình lớn nhỏ tìm hiểu về con người, nghệ thuật thơ ca của vị thiên tài này, trong số đó không ít người gặt hái những thành công nhất định. Nhưng hầu như chưa có một công trình nào nghiên cứu về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara, đó là lí do quan trọng, tôi lựa chọn đề tài này.

2. Lịch sử vấn đề :

Xuất hiện trên thi đàn với tập thơ Tháp nắng và đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1997), Inrasara lập tức được giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước đánh giá cao. Với tinh thần lao động nghệ thuật miệt mài nghiêm túc, Inrasara lần lượt cho ra đời những đứa con “thơ” liên tiếp và đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá sâu sắc. Tác giả Nguyễn Đăng Cương nhận định: “Trái tim Inrasara được thắp sáng bởi hai mối tình: tình yêu quê hương và mái ấm gia đình. Càng yêu quê hương bao nhiêu, anh càng say mê với nền văn học của dân tộc bấy nhiêu”[15]. Trúc Thông cũng có những cảm nhận sâu sắc: “Ở Inrasara thì sự nặng tình quê hương đã trở thành khúc hát rộn rã, lúc u trầm, nghe sao mà say sưa, da diết!”[84]. Trong Inrasara, quê hương đã đồng nhất với trái tim với tâm hồn và cả con người ông. Quê hương là phần đẹp đẽ nhất trong tâm hồn nhà thơ. Tình yêu quê với Inrasara là “trách nhiệm với quê hương, dân tộc như một nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi ngoai được”[15]. Tác giả Lâm Tiến trong Văn hóa các dân tộc thiểu số đánh giá: “Inrasara đã đóng góp vào văn học các dân tộc thiểu số thêm một tiếng nói, một tâm niệm, một nỗi niềm đau đáu về quê hương dân tộc”[66].

Đến Inrasara, thơ các dân tộc thiểu số mới có được tiếng nói đầy đủ, sâu sắc, mãnh liệt, da diết về quê hương, dân tộc mình. Đó là sự vang vọng cũng là điềm dự báo về sự trỗi dậy mãnh mẽ của văn học viết lẫn bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Nó như một dự báo không mấy bình lặng trong việc giữ gìn và phát huy văn học dân tộc nói riêng và trong văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung. “Báo cáo tổng kết Sáng tác và Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn” cũng có nhận xét: “Với thơ, anh xuất hiện vài năm và nhanh chóng thu hút được sự chú ý của bạn đọc cả nước. Cảm xúc của anh vừa dạt dào, hồn nhiên lại giàu phẩm chất trí tuệ và tính khái quát. Các bài thơ của anh không ngắn nhưng không sa vào kể lể. Thơ anh giàu sức gợi. Gợi vào cái bát ngát hoang dại của kiếp đá, kiếp người, gợi cả vào cõi xa thẳm của những miền cố quận trong không gian, thời gian. Một tình cảm Chăm sâu đậm, u uẩn trong thơ Inrasara quả là đã đóng góp vào thơ Việt Nam một hương vị đáng quý. Rất đáng quý”[100]. Viết về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara, Hoàng Quảng Uyên trong “Yêu Inrasara” đã nhận định: “Người Chăm đã để lại cho đời những ngọn tháp ấy và chính “Tháp nắng”, “Tháp hoang”, “Tháp lạnh”… đã nâng nhà thơ Inrasara lên bầu trời thi ca”[94]. Lịch sử dân tộc đã khơi nguồn cảm hứng và sức sáng tạo cho thơ Inrasara, nhất là những ngọn tháp – biểu trưng của một nền văn hóa Champa một thời huy hoàng rực rỡ, ngày nay vẫn vươn mình uy nghi trong nắng và gió trời Phan. Văn hóa Chăm sau thời gian vùi mình vào quá khứ, đắm chìm, trôi nổi qua bao biến cố, từng chút ngủ quên, Inrasara như nhà khảo cổ đã khôi phục diện mạo văn hóa Chăm và đưa ra ánh sáng một dân tộc kiêu hãnh cùng bản sắc văn hóa đặc sắc.

Văn hóa – văn minh Champa – sau hơn 200 năm chìm dưới lớp bụi của thời gian và sự vô tình của lòng người – như một cánh rừng hoang chưa được khai phá, nó vừa hấp dẫn vừa thách thức và làm chồn chân kẻ thám hiểm. Các cố gắng của cá nhân hay tập thể mong vỡ hoang nó gần một thế kỉ qua, dù có những thành tựu nhất định, cũng chưa thật tương xứng với tầm vóc của nó. Người Chăm, chủ nhân của nền văn hóa – văn minh ấy hôm nay đang thừa hưởng những mảnh vụn của nó và chịu sự tác động trực tiếp từ nó. Con đường thơ Inrasara là hành trình về nguồn khám phá các vấn đề văn hóa – xã hội, khai tỏa thân phận một dân tộc đắm mình qua bao đau thương, bừng nở những giá trị văn hóa Champa đẹp đẽ.

Inrasara tự nhận là đứa con Chăm hồn nhiên và nhiệt tình với chữ nghĩa cha ông. Anh “mê ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời”[47]. Sara đau đáu về “mệnh” Chăm song vẫn khôn nguôi kiêu hãnh về văn hóa dân tộc mình. Đào sâu, sưu tầm, sáng tác, quảng bá, giới thiệu… Hết sức, hết cách, lẫn không ngừng sáng tạo, nhà thơ dồn tâm nén sức vào những tập thơ đậm giá trị, bật lên một bản sắc văn hóa Chăm sáng ngời như ngọc. Con người, phong tục, tập quán, thiên nhiên Chăm qua bàn tay khéo léo của thi nhân Sara như bước ra từ huyền thoại.

Chúng tôi tin rằng Bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara là công trình nghiên cứu đầu tiên về con người, phong tục, tập quán Chăm trong thơ Inrasara.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara.

3.2. Phạm vi nghiên cứu: Sáu tập thơ

- Tháp nắng – thơ và trường ca, NXB Thanh niên, H., 1996.

- Sinh nhật cây xương rồng – thơ song ngữ Việt – Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1997.

- Hành hương em – thơ, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999.

- Lễ tẩy trần tháng Tư – thơ và trường ca, NXB Hội Nhà văn, H., 2002.

- Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, NXB Hội Nhà văn, H., 2006.

- Ở nơi ấy [thơ thời cuộc], Tienve.org, 2010.

Đồng thời liên tục cập nhật tài liệu về Inrasara trên địa chỉ Inrasara. com để làm rõ cho đối tượng nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu đề tài Bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó chủ yếu là những phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê, so sánh. Chúng tôi chứng minh những nét riêng độc đáo bản sắc văn hóa mỗi dân tộc.

- Phương pháp lịch sử. Chúng tôi đặt thơ Inrasara trong tiến trình lịch sử văn học, nhằm mục đích khẳng định sự thăng hoa vượt bậc của văn hóa Chăm trong thơ anh trong sự đối sánh với thơ ca dân tộc thiểu số đương đại, từ đó khẳng định những đóng góp của Inrasara trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ ca Việt hiện đại nói chung.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp. Thực hiện thao tác này, chúng tôi có cái nhìn toàn diện về bản sắc văn hóa Chăm nói chung, bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara nói riêng.

- Lí thuyết thi pháp học. Chúng tôi nghiên cứu các hình thức nghệ thuật, chỉ rõ đặc trưng cơ bản sáng tạo thơ của Inrasara.

5. Đóng góp của luận văn:

5.1. Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara, góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm về con người, thiên nhiên, văn hóa dân tộc Chăm.

5.2. Luận văn góp phần xác định vị trí, những đóng góp của thơ Inrasara đối với sự phát triển của thơ ca đương đại.

6. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, thì Nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Văn hóa Chăm – mạch nguồn sáng tạo của thơ Inrasara.

Chương 2: Bản sắc văn hóa Chăm qua thiên nhiên và con người.

Chương 3: Bản sắc văn hóa Chăm qua ngôn ngữ, giọng điệu và thể loại.


NỘI DUNG

Chương 1

VĂN HÓA CHĂM – MẠCH NGUỒN SÁNG TẠO CỦA THƠ INRASARA

 

1.1.          Khái quát về người Chăm và văn hóa Chăm

1.1.1.   Người Chăm ở Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Thuận

Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Các cộng đồng người Chăm ở Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Hoa Kì... có quan hệ đồng tộc, đồng tôn.

Người Chăm hay còn gọi là người Chiêm, Hời, Chàm... là một trong năm tộc người thuộc nhóm ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo (Malayo – Polinesian) sinh sống ở miền Trung – Tây Nguyên (Chăm, Raglai, Churu, Giarai, Êđê). Trong các công trình nghiên cứu về dân tộc học từ xưa đến nay, còn tồn tại những ý kiến khác nhau về nguồn gốc người Chăm cũng như các tộc người trong ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam: Hoặc là  di cư từ thế giới đảo Đông Nam Á đến, hoặc là di cư từ các quần đảo nam Trung Quốc xuống vùng đất liền Đông Dương rồi từ đó di cư ra hải đảo Đông Nam Á. Một số nhà khoa học Liên Xô (cũ) cho rằng người dân Nam Đảo có nguồn gốc từ dân Bách Việt và họ xuống phía nam bằng hai con đường, đường thứ nhất qua Philipine, Indonesia tới tận châu Đại Dương, một bộ phận trở lại lục địa vào Malacca và Việt Nam. Có thể người Chăm và một số cư dân Nam Đảo là sự hòa huyết giữa Ấn Độ và Đông Nam Á.

Sau khi các nhà khảo cổ học tìm thấy những di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh đầu thế kỉ XX với niên đại từ 4000 năm đến 2000 năm trước công nguyên, các nhà khoa học giả thiết rằng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm. Những tác giả trong công trình “Văn hóa Chăm” đã dành một chương nói về văn hóa Sa Huỳnh và gọi đó là Văn hóa tiền Champa.

Theo các thư tịch cổ Trung Hoa, các nhà khoa học hiện nay đều cho rằng        vương quốc Champa được hình thành từ năm 192. Trải qua quá trình lịch sử hơn một thiên niên kỉ rưỡi tồn tại (từ 192 đến 1471), với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, nhà nước Champa đã trải qua rất nhiều biến động thăng trầm, ảnh hưởng lớn đến diễn trình lịch sử văn hóa Chăm.

Người Chăm ngày nay là con cháu của cư dân Champa cổ. Hiện nay, người Chăm cư trú tập trung trong các palei thuộc các tỉnh Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm còn sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh khác nhưng không nhiều.

Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở gần đây nhất (năm 2009), người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại 56 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.274 người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm ở Việt Nam), Bình Thuận (34.690 người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm ở Việt Nam), Phú Yên (19.945 người), An Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), Bình Định (5.336 người), Đồng Nai (3.887 người), Tây Ninh (3.250 người).

Người Chăm là một trong những cư dân sinh sống lâu đời trên mảnh đất Việt Nam. Về nguồn gốc tộc người, các nhà khoa học đã xếp người Chăm vào tiểu chủng Mongoloid phương Nam, nhóm loại hình Nam Á. Về ngôn ngữ, tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo) , đại chi Malayo – Polynesian (Mã Lai – Nam Đảo), chi Westen Malayo – Polynesian, tiểu chi Sundic, nhóm Malayic, nhóm Achinese Chamic, tiểu nhóm Chamic. Cùng chung tiểu nhóm này, ở Việt Nam còn có các dân tộc Êđê, Giarai, Churu, Raglai,…  đến từ “thế giới đảo”.

Do đặc điểm cư trú và bản sắc văn hóa mang đậm tính địa phương, người Chăm ngày nay được phân thành ba nhóm cộng đồng: Chăm Hroi, Chăm Panduranga và Chăm Nam Bộ. Trong đó người Chăm ở Ninh Thuận có số dân đông nhất, chiếm hơn 40% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng làng palei (làng Chăm) riêng biệt và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề… mang bản sắc văn hoá riêng.

Ninh Thuận là một tỉnh của vùng cực nam Trung Bộ đã nhiều lần thay đổi địa giới hành chính. Trong vương quốc Champa xưa, Ninh Thuận và Bình Thuận (Thuận Thành) thuộc châu Panduranga, nằm ở cực nam Trung Bộ và là một trong bốn châu (có giai đoạn là ba châu) của Champa bao gồm: Amaravati ở phía bắc từ vùng Bình Trị Thiên đến Quảng Nam; Kauthara từ Phú Yên đến Khánh Hòa và Panduranga từ Ninh Thuận đến bắc Bình Thuận. So với các châu phía bắc thì châu Panduranga ít được nhắc đến trong các tư liệu lịch sử hơn. Các bộ sử Trung Quốc trước đây và các tác giả phương Tây sau này viết về Champa đều chủ yếu tập trung vào vùng phía bắc Champa như Amaravati hay Vijaya, bởi vì đó là nơi đóng quân lâu đời của các triều đại Champa. Còn Panduranga như là một “hậu cứ” phía nam của Chiêm Thành lại ít có tư liệu đề cập tới, có lẽ vì vậy khu vực này cách xa những khu vực kinh đô của Champa và càng xa so với các nhà viết sử Đại Việt cũng như Trung Hoa. Trong khi đó, nguồn tư liệu về lịch sử của Champa chủ yếu dựa vào sử của Trung Quốc, Đại Việt, những truyền thuyết và số lượng bia ký ít ỏi của khu vực này.

Panduranga có giai đoạn là một châu cuối cùng ở phía nam Chiêm Thành, có giai đoạn là một tiểu vương quốc tự trị, cũng có lúc bị nhập vào Chân Lạp, có giai đoạn là “phiên vương”, “phó vương” của Chiêm Thành. Trong thời Hoàn Vương, suốt hơn một thế kỉ (từ 738 đến 859), Panduranga dựng được một triều đại thống trị tồn tại tới năm đời vua.

Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, sau khi Trà Toàn, vua Chiêm Thành thất thủ tại thành Trà Bàn (1471), biên giới Đại Việt vẫn chỉ mở đến đèo Cả, còn từ đó trở vào đến biên giới Chân Lạp (khoảng 1/5 đất của vương quốc Chiêm) vẫn là đất của Chiêm Thành do Bô Trì xưng vương. Đến năm 1653, vua Chiêm đánh ra Phú Yên nhưng lại bị quân Đại Việt đánh đuổi đến tận sông Phan Rang và đặt dinh Thái Khương – nay là đất tỉnh Khánh Hòa. Những năm sau đó mặc dù người Việt và người Hoa vào Chân Lạp thì vùng Panduranga vẫn tồn tại những vương triều và những hậu duệ cuối cùng của Chiêm Thành.

Các tài liệu lịch sử đều cho rằng cương vực lãnh thổ Champa xưa trải dài suốt duyên hải miền Trung, bao gồm những cao nguyên Trung phần Việt Nam ngày nay. Đặc điểm của dải đất này là: phía Tây bao bọc dãy núi cao Trường Sơn hình vòng cung, phía Đông là biển sâu, ở giữa là những mảnh đồng bằng nhỏ hẹp bị chia cắt bởi những dãy núi ăn ra biển thành các thung lũng, các con sông ngắn, thác cao không những không bồi đắp phù sa cho đồng ruộng mà còn cào đi những lớp màu mỡ của đất đai đổ ra cửa biển, đồng thời tạo ra các vũng, vịnh thuận lợi cho việc hình thành cảng thị thông thương với hải đảo và các tàu thuyền quốc tế qua lại cảng Champa, cũng là điều kiện thuận lợi cho những đội quân thủy chiến Champa xưa.

Nối giữa các vùng là các đèo để vượt núi. Nhưng từ xa xưa, giao thông chủ yếu bằng đường biển và lịch sử đã chứng minh rằng, những cuộc chiến tranh ngày xưa chủ yếu là thủy chiến. Đường bộ ngày xưa chỉ là những đường mòn trèo đèo lội suối. Vì vậy, sự đi lại giữa các vùng, xứ, tỉnh vô cùng trắc trở. Việc cai trị của các vương triều đối với các vùng vì thế cũng rất khó khăn. Các thủ lĩnh địa phương thường xuyên nổi dậy chống lại triều đình để giành độc lập, tự trị, thành lập những tiểu quốc.

Chính vì những đặc điểm địa lí như vậy, như các nhà khoa học nhận định, vương quốc Champa xưa không là một khối thống nhất mà là kiểu “Mandala” gồm nhiều tiểu quốc đa tộc.

Panduranga có nhiều vũng, vịnh đẹp và lợi hại như: vịnh Cam Ranh, vịnh      Vĩnh Hy, cảng Hòn Đỏ, mũi Pan –đa – rang (mũi Dinh), vịnh Cà Ná… Đó là những cửa biển thông thương với các vùng trong vương quốc, với các nước Nam Đảo và các khu vực khác trên thế giới. Đây là điều kiện để cho nền văn hóa mở Champa giao lưu tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có văn hóa Hồi giáo tiếp nhận từ Malaysia, Indonesia. Panduranga cũng như Ninh Thuận ngày nay là một vùng đặc thù về địa văn hóa tựa như miền sa thảo độc nhất Đông Nam Á châu.

Ninh Thuận có diện tích khoảng 3.430 km2 nằm vào khoảng 11o0814 đến 12o0945 vĩ bắc và 108o3308đến 109o1445 kinh đông, bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, nam giáp tỉnh Bình Thuận, đông giáp biển Đông, tây giáp tỉnh Lâm Đồng. Nguyễn Đình Tư trong tập khảo cứu Non nước Ninh Thuận đã miêu tả Ninh Thuận như sau: “Nhìn trên bản đồ, Ninh Thuận trông như một hình bình hành, hai góc nhọn ở phía Tây Bắc và Đông Nam, chiều dài các cạnh gần bằng nhau, khoảng trên dưới 60 km. Trên đại thể, địa thế Ninh Thuận giống như cái chảo. Ba phía tây – bắc – nam và một nửa phía tây – đông bị núi bao bọc chắn gió, chỉ còn một nửa phía Đông, từ Sơn Hải đến Ninh Chữ là thông ra biển, ở giữa là đồng bằng nhỏ hẹp…”[92].

Bờ biển Ninh Thuận dài 105km, vùng lãnh hải 18.000 km2, có các cửa biển chính như Vĩnh Hy, Khánh Hải, Đông Hải và Cà Ná. Nhìn trên bản đồ Ninh Thuận, bờ biển theo chiều những đường thẳng gãy như vậy được đánh dấu bằng một mũi đá nhô đầu ra biển. Nhiều đoạn bờ biển nằm sát ngay núi, có những ngọn núi cao tới hơn 1.000 m và hình thành trên những con suối nước ngọt chảy từ núi xuống, từ trong núi tạo nên những mạch nước ngọt ngầm ngay bờ biển. Đây cũng là lí do giải thích vì sao dọc bờ biển lại có những giếng cổ Chăm mà xa xưa là nguồn cung cấp nước ngọt của tàu thuyền đi lại trên biển vùng Champa.

Ninh Thuận có hai mùa: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Những dãy núi cao bao quanh đã trở thành bức bình phong chắn những luồng gió mùa Đông – Bắc và Tây – Nam mang mây và mưa tới đồng bằng Ninh Thuận. Vì vậy, vùng trời Ninh Thuận luôn trong xanh, nắng chói chang và có lượng mưa thấp nhất toàn quốc, mỗi năm chỉ có trên 50 ngày mưa. Lượng mưa trung bình hàng năm chỉ đạt 705 mm. Ngược lại, những khe núi hẹp và cửa biển hẹp lại tạo điều kiện cho những luồng gió thổi mạnh vào lòng chảo đồng bằng Ninh Thuận, cộng với khí hậu khô nóng nên về mùa khô, cả vùng Ninh Thuận gió cát mịt mù trên những cánh đồng khô hạn, nắng cháy như sa mạc.

Panduranga là vùng đất cực nam của Champa xưa, xa xôi và cách trở đối với các kinh đô của vương triều như Trà Kiệu của Amaravati (Quảng Nam), thành Đồ Bàn của Vijaya (Bình Định). Về địa lý chính trị, Panduranga là một vùng lãnh thổ tương đối độc lập, có lúc là tiểu vương quốc, có khi là phiên vương của Champa. Là vùng đất biên ải phía nam của Champa, Panduranga luôn phải đối đầu với các cuộc chiến tranh với Phù Nam, Chân Lạp và cả người Mạ phía tây nam. Như vậy, Panduranga là châu cuối cùng còn lại của Champa, là nơi còn lại của cộng đồng người Chăm, đó là người “Chăm jat – Chăm gốc”, mang trên mình số phận lịch sử, là chủ nhân lưu giữ những gì còn lại của văn hóa Chăm, là nơi tích tụ văn hóa Chăm tồn tại qua hàng nghìn năm. Chỉ còn ở đó, đền tháp Champa vẫn được người Chăm thờ cúng, là nơi diễn ra những lễ hội truyền thống.

Các nhà nghiên cứu đều cho rằng Champa xưa là một nước thưa dân. Các tư liệu không cho con số chính xác về dân số Chăm trong lịch sử. Tống sử viết là Champa có 38 huyện và dưới 30 ngàn gia đình vào thời Harrivarman III (1704        – 1810). Theo Đại Nam nhất thống chí, vào thập niên 1810, tổng số đinh của Phú Yên là 7.651, của Khánh Hòa là 5.000 và Bình Thuận (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay) là 9.200. Đây có lẽ chỉ là số đinh dân đồng bằng để đóng thuế bạ của cả người Chăm và người Việt. Như vậy, dân số Chăm trước đây cũng không nhiều…

Năm 1969, theo số liệu điều tra dân số, người Chăm ở Ninh Thuận – Bình Thuận là 33.600 người, đến trước năm 1975 là 40.000 người.Theo báo cáo của Ban dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận năm 2009, người Chăm ở Ninh Thuận có 67.274 người, cư trú tập trung ở 22 làng thuộc 13 xã 4 huyện, thành phố. Trong đó được phân chia ra thành hai cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng đồng tôn giáo lại sinh sống thành từng palei riêng biệt. Trong tổng số 22 làng palei thì có 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal.

Palei Chăm (làng Chăm) thường định cư trên những vùng gò đất cao, xung quanh là ruộng lúa và nương rẫy. Mỗi palei có khoảng từ 300-400 hộ gia đình, tập hợp bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Các khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng Bắc – Nam.

Trong mỗi palei Chăm đều có một đền thờ thần (sang Pô Yeang) và ở đầu làng có nhà làng (sang palei). Cách palei không xa thường có một nghĩa địa (kút, ghôr). Mỗi palei Chăm đều có đơn vị quản lí hành chính thôn, đoàn Thanh niên, hội Nông dân… Bên cạnh đó còn có Hội đồng phong tục (Hội đồng già làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính quyền tham gia giải quyết những vụ bất đồng của các thành viên trong làng liên quan đến phong tục, tập quán. Palei Chăm có luật tục riêng gọi là adat.

Đơn vị cơ cấu căn bản của hệ thống thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan hệ thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ nữ Chăm nắm quyền quyết định trong gia đình. Vai trò Cậu (cey) được đề cao và vẫn còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình người Chăm hiện nay.

Sinh hoạt làng (palei), gia đình (mưngawôm), tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản ánh đậm nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên các mặt: sự phân hoá xã hội, quan hệ về gia đình và hình thức hôn nhân; hình thái tín ngưỡng; phương thức sản xuất và quyền sở hữu tài sản… Vì vậy cơ chế xã hội truyền thống người Chăm gắn bó chặt chẽ với nhau và được vận hành bằng luật tục (adat). Người Chăm sống trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết thương yêu lẫn nhau, cùng nhau bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, những giá trị văn hoá của tổ tiên. Có thể nói làng, gia đình người Chăm là mắt xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ truyền bền vững, trở thành cái nôi bảo tồn và lưu giữ văn hoá Chăm, lễ hội Chăm trong suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.

Người Chăm định cư trên dải đất miền Trung với đặc điểm địa hình là miền đất hẹp, kéo dài và được cấu tạo bởi ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí hậu nơi đây khắc nghiệt, khô ẩm, nhiều nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí môi sinh đó đã hình thành nên nền kinh tế của người Chăm.

Trong nền kinh tế truyền thống của mình, người Chăm có một nền           nông nghiệp phát triển khá sớm với kĩ thuật đắp đập lấy nước trồng lúa như các đập Nha Trinh, Lâm Cấm và hệ thống kênh mương dẫn nước Ông Dàu, mương Cái đến từng khu dân cư cho đến nay vẫn còn sử dụng. Bên cạnh làm ruộng người Chăm còn là những người làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu… Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nông, người Chăm còn biết khai thác những khu rừng lớn có các loại gỗ mun, trầm hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích trên thị trường. Họ cũng biết khai thác tài nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở xa. Nói chung kinh tế truyền thống của người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh và hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn làm nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh Thuận như Bỉnh Nghĩa vẫn còn sống gần biển nhưng họ không làm nghề biển mà lại quay lưng với biển. Đa số (khoảng 95%) người Chăm Ninh Thuận ngày này sống bằng nghề nông, và một số ít làm nghề chăn nuôi và khai thác rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy truyền thống làm lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Kinh tế nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống của người Chăm hiện nay.

Người Chăm Ninh Thuận còn được biết đến với những làng nghề truyền thống nổi tiếng như làng gốm Bàu Trúc, làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp…

Người Chăm ở Ninh Thuận có một đời sống tâm linh phong phú với nhiều hình thái sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo. Các vị chức sắc đứng đầu các tôn giáo là Pô Dhia (Cả Sư – Bà la môn) và Pô Gru (Thầy Cả - Bà ni) và Hakem (Giáo Cả - Islam) giữ vai trò và vị trí quan trọng trong việc điều hành các hoạt động tôn giáo, kể cả một số hoạt động của người Chăm theo từng cộng đồng tôn giáo.

Tôn giáo đầu tiên của người Chăm có ảnh hưởng từ Ấn Độ giáo. Khi các thương gia Ả Rập dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hóa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm. Trên các di chỉ có niên đại vào thế kỷ thứ 11, các nhà khoa học phát hiện ra dấu vết của Hồi giáo. Tuy nhiên Hồi giáo xâm nhập cộng đồng người Chăm chính xác từ khi nào thì vẫn chưa được khẳng định. Cộng đồng người Chăm ở Việt Nam có 3 nhóm tín ngưỡng: người Chăm Bàlamôn theo Ấn độ giáo (đạo Bàlamôn); tín ngưỡng Chăm Bàni là tín ngưỡng kết hợp Hồi giáo với tín ngưỡng bản địa, Chăm Islam là tín ngưỡng thuần Hồi giáo.

Trừ các tôn giáo mới du nhập sau này với số lượng không lớn, người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn (Ấn Độ giáo) và Bàni (Hồi giáo bản địa hóa). Tên gọi như vậy nhưng đã từ lâu hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni tồn tại độc lập, không có mối quan hệ với nước ngoài, và qua quá trình lịch sử, cả hai tôn giáo này đã bị bản địa hóa, tạo cho mình một kiểu tôn giáo địa phương.

1.1.2.   Những giá trị văn hóa nổi bật của người Chăm

Văn hóa truyền thống của người Chăm gồm nhiều lớp, trong đó có lớp văn hóa truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á và về sau, người Chăm tiếp nhận Bàlamôn giáo, Hồi giáo. Trải qua quá trình bản địa hóa, những lớp văn hóa này đã hòa trộn vào nhau trở thành văn hóa truyền thống chung của người Chăm. Văn hóa Champa là sự tiếp nối của văn hóa Sa Huỳnh. Theo các tư liệu lịch sử, trước khi lập quốc, nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, dân tộc Chăm vẫn là một dân tộc bảo lưu nền văn hóa chuyên biệt “phi Hoa, phi Ấn”.

Trước khi tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, người Chăm cũng như các tộc người trên dải đất Việt Nam hiện nay có một nền văn hóa bản địa nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa mang nặng dáu ấn của tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước, chứa đựng trong mình đầy đủ những tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Đông Nam Á. Từ gần 2 thiên niên kỉ nay, người Chăm tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng chính những yếu tố tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước đã bản địa hóa rất nhiều yếu tố văn hóa.

Nền văn hóa người Chăm đã trải qua những thời kì phát triển rực rỡ với nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo. Đó là những truyền thuyết, truyện cổ tích, các bài giáo huấn ca, những truyện thơ trong đó chứa đựng những giá trị văn hóa mang đậm tính nhân văn với khát vọng vươn lên của con người, lồng trong đó những điều cấm kị, những điều răn đe hay lẽ phải và dễ đi vào lòng người. Những vũ điệu dân gian cổ truyền và nghệ thuật tạo hình trên đá, gỗ, gốm, trên phù điêu gắn với những công trình kiến trúc với những hình tượng giàu sức sống và lưu truyền cho tới ngày nay đã thu hút bao nhà nghiên cứu. Đó là nghệ thuật kiến trúc hình khối vuông, đền đài cao tầng được xây dựng trên những vùng đồi, núi đất giữa đồng bằng như tháp Po Klong, tháp Hòa Lai. Tháp Porôme với kĩ thuật xây dựng, kĩ thuật gắn kết gạch vẫn là những điều bí mật của người Chăm xưa mà các nhà khoa học ngày nay đang nghiên cứu. Và cũng chính nhờ xây dựng bằng gạch với kĩ thuật đặc biệt mà các công trình kiến trúc Champa trở nên nổi tiếng. Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp Champa cổ kính xây dựng bằng đất nung độc đáo. Là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và truyền thống lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn hoá, quá trình phát triển của tộc người. Người Chăm luôn mang trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền thống luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho nhau từ bao đời nay.

Có thể nói, trong di sản văn hóa người Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền tháp, điêu khắc, tượng thờ, thành quách, bia kí… Hầu hết từ miền Trung cho đến Tây Nguyên, nơi nào người Chăm sinh sống đều xây dựng đền tháp để thờ thần. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của đền tháp đối với người Chăm. Từ thế kỉ V đến VII người Chăm bắt đầu xây dựng đền tháp. Trước đó, tại thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) người ta đã tìm được dấu vết một ngôi đền bằng gỗ thờ thần Siva. Tiếp theo đó cho đến thế kỉ XVII, các đền tháp Champa tiếp tục ra đời mang nhiều phong cách khác nhau như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Bằng An, Chiên Đàn, Dương Long, tháp Nhạn, Bình Lâm, Hưng Thạnh, tháp Poklong Girai… Tất cả các tháp được xây dựng để thờ hai vị thần chính: Siva, Prahma. Về sau tháp Chăm ngoài thờ thần Ấn Độ giáo còn thờ thêm các vị vua Chăm.

Về nghệ thuật điêu khắc của người Chăm, một số nhà nghiên cứu cho rằng được hình thành và phát triển trên cơ sở yếu tố bản địa kết hợp với những yếu tố của văn hóa các nền văn minh lân cận nhưng yếu tố bản địa là nền tảng và càng về sau càng chiếm ưu thế. Vì thế các thần của Ấn Độ được Chăm hóa theo các đặc điểm nhân chủng của người Chăm. Điêu khắc Chăm cũng tuân theo nghệ thuật bất cân xứng và không chú trọng đến các chuẩn mực về hình thể khiến tác phẩm điêu khắc Chăm đẹp và ấn tượng. Điển hình cho phong cách này là tượng những vũ nữ Trà Kiệu (Quảng Nam) – một trong những kiệt tác nghệ thuật của Champa và Đông Nam Á.

Người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng văn hóa dân gian rất phong phú, không chỉ có các loại hình nghệ thuật ca, múa, nhạc dân gian mà còn có những truyện cổ tích, truyền thuyết (dalical), thơ (ariya) và ca dao tục ngữ… “Loại hình văn chương Chăm đã được nhiều người biết đến như: Dêwa Mưno, Inra Patra, Ariya Klang Anak… các tuyện kể vền Plăm dit, Plăm lak, sự tích bò thần Nadin, nàng Út, vua Patâu Tapai và nàng Ngà… Phần lớn các tác phẩm văn chương Chăm đều phản ánh ước vọng của người lao động, trong cuộc sinh hoạt, tình yêu lứa đôi và chiến đấu chống lại những bất công xã hội, đối nhân xử thế, hướng con người tới cái thiện và ước mơ có một cuộc sống thanh bình êm ả” [3,15].

Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây (những người Chăm Islam) cùng với sự duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì sử dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống. Trong văn học viết của người Chăm có hai thể loại: akayet (tráng ca) và ariya (thơ). Không ít tráng ca thể hiện bi kịch những cuộc đấu tranh tôn giáo Chăm. Ariya phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện phản ánh đời sống nội tâm đặc sắc của con người, dân tộc Chăm.

Cùng với nền văn học, người Chăm còn có một loại hình ca múa nhạc dân gian giàu bản sắc dân tộc. Trong các loại hình ca, múa, nhạc thì múa truyền thống chiếm vị trí quan trọng. “Múa Chăm có mặt trên các đền tháp tượng thờ như: tượng thần Siva, vũ nữ Ápsara… Múa Chăm còn hiện diện ở các đền tháp trong các dịp cúng, tế lễ, trong các lễ hội như lễ hội Katê, lễ hội múa đầu năm, lễ hội lúa mới… Tùy theo nghi lễ, đối tượng thần thánh, điệu trống lễ khác nhau thì họ có những điệu múa, trang phục, đạo cụ khác nhau. Người Chăm có hệ thống nhạc cụ như trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai, Chiêng, Kanhi, Rabap… với nhiều điệu nhạc khác nhau” [3,20]. Múa, nhạc Chăm không những phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày, nó luôn gắn liền với lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo, gắn với lễ hội. Đi đôi với múa, trong âm nhạc còn có những làn điệu dân ca mượt mà, sâu lắng như điệu hát Vãi chài, các câu ca ân tình, hát giao duyên…

Trải qua hơn 15 thế kỉ tồn tại và phát triển trên dải đất miền Trung Việt Nam, với điều kiện lịch sử xã hội và môi trường tự nhiên có nhiều bất cập, khó khăn nhưng người Chăm vẫn không ngừng sáng tạo và gìn giữ cho mình một nền văn hóa đa dạng và độc đáo.

1.1.3.   Nét đẹp văn hóa Chăm ở Ninh Thuận

Từ xa xưa, người Chăm đã xây dựng cho mình một nền văn hóa có sắc thái riêng biệt, độc đáo và đa dạng. Trong quá trình phát triển, người Chăm đã đạt đến trình độ cao về tổ chức xã hội và để lại một di sản văn hóa đặc sắc, phong phú từ sức mạnh nội tại cùng với sự tiếp nhận ảnh hưởng, tác động của quá trình giao lưu với các dân tộc khác.

Panduranga vốn tách biệt về chính trị - văn hóa với các “vùng Chăm” khác, được xem là nơi duy nhất trên đất nước có những người Chăm rặt (chính thống), người Chăm – văn hóa Chăm Ninh Thuận mang nét lấp lánh chuyên biệt.

Tín ngưỡng của người Chăm phong phú và đa dạng, trở thành bộ phận cấu thành nền văn hóa Chăm, chi phối sâu sắc đời sống cộng đồng. Đó là hình thức tín ngưỡng sơ khai nguyên thủy với tục thờ núi, thờ các loại cây, thờ biển; hình thức tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp với các lễ cúng thần, lễ xuống cày, lễ đắp đập mương…; hình thức tín ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên và hệ thống các tục lệ về các lễ trong đám cưới, đám ma, lễ nhập Kut, nhập Ghôr. Tất cả hình thức tín ngưỡng đó trở thành một bộ phận đời sống tâm linh của người Chăm nói chung, người Chăm Ninh Thuận nói riêng, là hạt nhân cơ bản hình thành diện mạo tôn giáo lễ hội Chăm.

Trong xã hội người Chăm ở Ninh Thuận, tôn giáo đóng vai trò quan trọng, chi phối hết thảy các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong cộng đồng. Tôn giáo là tiêu chuẩn phân biệt các nhóm người Chăm, quy định các sinh hoạt tinh thần của họ, cũng chính tôn giáo là nguồn gốc phân hóa xã hội người Chăm thành các đẳng cấp theo chế độ đẳng cấp Bàlamôn. Chế độ đẳng cấp đó đã ảnh hưởng đến Hồi giáo người Chăm làm xuất hiện tầng lớp tu sĩ Hồi giáo Chăm. Đây là hiện tượng độc đáo của Hồi giáo Chăm chưa từng bắt gặp ở nơi đâu trên thế giới.

Vì hai hệ thống tôn giáo khác nhau, trong lịch sử cũng có những xung đột, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, song cộng đồng Chăm ở Ninh Thuận đã biết vận dụng quan niệm lưỡng hợp âm dương dung hòa hai tôn giáo. Giữa người Chăm Bàlamôn và Chăm Hồi giáo vẫn quan hệ khăng khít trên cơ sở cùng một cộng đồng dân tộc có tiếng nói chung, chữ viết, các phong tục tập quán, tín ngưỡng của một dân tộc có từ ngàn xưa. Đặc điểm trên tạo một nét đặc sắc trong lịch sử người Chăm ở Ninh Thuận.

Lễ hội Chăm là một di sản đồ sộ, phản ánh nhiều khía cạnh của văn hóa, văn minh Champa như đền tháp, tượng thờ, kho tàng văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn chương Chăm. Lễ hội Chăm không chỉ là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng đồng, còn là nơi lưu giữ và phô diễn mọi sắc thái văn hóa trong một quá trình lịch sử khá dài của dân tộc Chăm.

Lễ hội Chăm được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản, phần LỄ và phần HỘI không tách rời nhau. “Lễ là phần tín ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo; còn hội là phần tập trung vui chơi giải trí, là phần đời sống văn hóa thường nhật, phần đời của con người, của cộng đồng. Hội gắn liền với lễ và chịu sự quy định của lễ, có lễ mới có hội” [3,11 ].

Lễ hội Chăm có giá trị cộng cảm và cộng mệnh. Lễ hội dân gian Chăm được coi như một loại bảo tàng tâm thứ lưu giữ các giá trị văn hóa, các sinh hoạt văn hóa Chăm. Người Chăm ở Ninh Thuận có trên 100 lễ hội lớn nhỏ quanh năm, trong đó có 20 lễ hội đặc sắc thuộc ba hệ thống: lễ hội nông nghiệp, nghi lễ vòng đời và nghi lễ gắn với tôn giáo. Đáng kể nhất là lễ hội Katê – người Chăm coi như ngày Tết, lễ Ra Mưwan, lễ Suk young (kinh hội).

Lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận diễn ra ở nhiều không gian và thời gian khác nhau, kết hợp với nhiều hình thức diễn xương mang tính nghệ thuật độc đáo và đậm đà bản sắc dân tộc. Âm nhạc và múa truyền thống của người Chăm là sự hỗn dung giữa văn hóa tôn giáo với sự sáng tạo mang tính dân gian bản địa, đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng Chăm. Dân tộc Chăm cổ đại sớm có nền văn hóa phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á. Do đó nghệ thuật múa truyền thống Chăm có điều kiện phát triển, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa của xã hội Chăm. Truyền thống là sự nối tiếp từ xưa – nay, trải qua nhiều thế hệ được gìn giữ, vun đắp. Nghệ thuật múa truyền thống Chăm ở Ninh Thuận được lưu giữ và sáng tạo từ ngàn năm, gồm múa trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo: Lễ hội Rija Nưgar, Rija Harey, Rija Dayaup… và múa trong các sinh hoạt hội hè như các điệu múa quạt, múa khan, múa đoa pụ…

Dân tộc Chăm có nền văn hiến phát triển cao. Âm nhạc truyền thống Chăm ở Ninh Thuận có cả ba hình thái của một nền âm nhạc đã phát triển. Đó là hình thái âm nhạc dân gian, hình thái âm nhạc cung đình và hình thái âm nhạc tín ngưỡng     – tôn giáo. Dù là hình thái nào thì âm nhạc dân tộc Chăm cũng có sắc thái trầm, mang tính tôn nghiêm.

Tháp Chăm, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng và kĩ năng chạm khắc trên gạch, trên những bức phù điêu bằng đá và đất nung của các tháp cho đến nay vẫn là một điều bí ẩn, một thành tựu độc đáo của người Chăm xa xưa. Tại Ninh Thuận hiện nay còn lại 3 cụm di tích tháp Chăm, đó là tháp Hòa Lai, tháp Pôrômê, tháp Poklong Girai. Ngoài ba ngọn tháp trên, người Chăm Ninh Thuận còn có 7 thánh đường Hồi giáo nằm rải rác ở các palei Chăm, vẫn còn một số hệ thống đền tháp đã bị phá hủy thành phế tích.

Làng nghề truyền thống là nơi một cụm dân cư sinh sống và sản xuất các sản phẩm thủ công mĩ nghệ cổ truyền. Sản phẩm làm ra là sự đúc kết các giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc. Nghề làm gốm của người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng và cộng đồng Chăm nói chung là một nghề khá phát triển và có lịch sử từ thời văn hóa Sa Huỳnh cách đây trên 2.500 năm. Ninh Thuận tồn tại làng gốm duy nhất       – làng gốm Bàu Trúc. Kỹ thuật làm gốm hoàn toàn bằng phương pháp thủ công truyền thống tạo những sản phẩm bình dị. Nghề dệt của người Chăm ở Ninh Thuận khá phát triển, cách đây không lâu là nguồn cung cấp vải chính cho các tầng lớp người Chăm và các dân tộc khác trong vùng. Nghề dệt thổ cẩm vẫn còn lưu truyền và phát triển tại làng Chăm Mỹ Nghiệp với trên 95% số gia đình Chăm làm nghề dệt. Sản phẩm dệt thổ cẩm tinh xảo với nhiều hoa văn trang trí mang đậm tính dân tộc.

1.2.          Nhà thơ Inrasara

1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con người

Inrasara tên thật là Phú Trạm, bút danh Inrasara, sinh năm 1957 tại làng Chăm Chakleng – Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

 Năm Đinh Dậu, đại hạn ở Ninh Thuận, thằng Klu cất tiếng khóc chào đời dưới mái nhà tranh trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Chakleng, làng duy nhất có tên trên bia kí cổ, nơi sinh của vị vua lớn nhất lịch sử Champa: Po Klaung Girai. Mặc dù gia cảnh cày thuê ruộng rẽ, cha mẹ vẫn lo cho năm chị em thằng Klu học hành. Tuổi thơ anh đắm mình trong không gian làng quê cùng những trò chọi gà, đá bóng, … rong ruổi thẩn thơ khắp các làng Chăm. Ngay từ năm lớp Ba, Phú Trạm đã biết lượm lặt các ca dao cuối sách Tập làm văn, để ráp lại thành bài có vần và học thuộc. Ít năm sau đó, thơ ca và định mệnh chữ nghĩa gắn liền với anh không dứt ra được.

Vào Trung học, ở trường nội trú thị xã Phan Rang cách làng gần hai mươi cây số. Những ngày nghỉ cuối tuần, thay vì về nhà, Trạm lang thang qua các làng Chăm, tìm đến các cụ già nghe nói sách, mượn các bản chép tay, chép cả từ điển Chăm – Pháp của Aymonier dày cộp.

Năm 1977, Trạm đỗ đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Hết năm nhất đại học, mê sách, anh bỏ ngang về quê cày thuê để kiếm tiền mua sách. Anh kiếm sống bằng đủ các nghề, nông dân, trồng nho, thú y, buôn chuyến, mở quán bán tạp hóa, dạy học… Anh mở lớp dạy tiếng Chăm cho đồng bào quê mình. Anh cật lực làm việc và nghiên cứu văn hóa, văn học Chăm.

Năm 1982, anh được mời về công tác tại Ban biên soạn sách Chăm               – Ninh Thuận và Trung tâm nghiên cứu Việt Nam – Đông Nam Á, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (1992), đồng là hội viên  Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Hội Văn học – Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam.

Anh đạt không ít giải thưởng lớn nhỏ về văn học, văn hóa Chăm: hai lần đạt giải thưởng cao quý của Hội Nhà Văn Việt Nam, một lần đạt giải thưởng ASEAN về văn học Chăm… Tên tuổi anh được vinh danh khắp thi đàn. Lấn sân sang nghiên cứu, anh lại nổi tiếng với danh xưng “nhà Chăm học”. Sau, anh được không ít trường đại học trong và ngoài nước mời về giảng hoặc nói chuyện về “Chăm”. Chăm là định mệnh của Sara và cũng chính Sara làm sáng ngời Chăm. Inrasara – nhà nghiên cứu, phê bình văn hóa, văn học – một tài năng quý giá của nước Việt đương đại.

Là một trí thức Chăm, một nhà “Chăm học”, nhưng trên hết, Inrasara là một người nghệ sĩ sáng tạo. Với tất cả chức phận cao cả đó, Inrasara đã cất công đi tìm những tồn lưu trong quá khứ Chăm. Nỗ lực này vừa là một tiếng nói đáp trả với cha ông, vừa như thể hiện một thiên chức của người nghệ sĩ. Có thể gọi anh bằng nhiều tên: nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ… Tuy nhiên anh thích mọi người gọi anh bằng cái tên đơn giản: Inrasara.

Nhà báo Trần Can cho rằng Inrasara là người con Chăm đặc biệt. Anh rất dễ gần, dễ mến. Hầu như ai tiếp xúc với anh đều có chung nhận định ấy. Sự giản dị và chân thành làm anh có khả năng thu phục lòng người môt cách kì lạ, khó lí giải. Đó chính là khả năng “siêu hồn nhiên” của một thiên tài đích thực luôn gây ảnh hưởng với người khác dẫu không hề cố ý. “Đấy là một người đàn ông rất… đàn ông. Khó đoán tuổi nhưng dễ gần… Bằng hoạt đông nghệ thuật không mệt mỏi của mình, anh đã tôn vinh văn hóa Chăm, Inrasara là một thực thể Chăm thốt lên tiếng nói của chính dân tộc mình, thở hơi thở dân tộc mình, hát bài hát dân tộc mình...”[32].

Mười năm trước trên thi đàn Việt Nam nổi lên cái tên rất lạ - Inrasara, lúc đầu còn khiêm tốn, càng về sau càng sáng, rồi rực rỡ hẳn lên và hiện tại phóng chiếu vượt ngoài biên cương, rạng rỡ trên tao đàn Đông Nam Á. Những gì làm được trong thời gian qua, với Inrasara, là thể hiện khát vọng khám phá, sáng tạo của anh, là con đường vạn dặm tìm về quê hương. Không khó để thấy, Inrasara tha thiết với quê hương với những định phận mong manh của kiếp người. Học giả, thi sĩ tên tuổi Inrasara dùng cả đời mình vận vào thơ văn bừng sáng văn hóa cả một dân tộc mấy mươi năm triền miên trong miền quên lãng.

Theo Phan Trung, Inrasara là tấm gương lao động nghệ thuật hiếm hoi, anh hội tụ đủ phẩm chất của một thi sĩ tài hoa đích thực, mà thái độ đối với văn chương và tác phẩm có sức lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ trẻ trong tiến trình phát triển văn học giai đoạn sau đổi mới.

1.2.2. Thành tựu trên các lĩnh vực

Trước khi được biết đến với tư cách một nhà thơ, Inrasara đã nổi tiếng, được vinh danh trong vai trò nhà nghiên cứu văn hóa Chăm.

Sáu năm Trung học, vào những chiều thứ bảy, chủ nhật – thay vì “xuất trại” về quê như các bạn, chàng thiếu niên Sara lang thang đến các làng Chăm khác: Phước Nhơn, Thành Tín, Văn Lâm, Hữu Đức… Bước chân tuổi trẻ rong ruổi trên khắp ngõ hẻm quê hương. Tâm hồn anh mở ngõ đón nhận những mới lạ, ngạc nhiên tiếp ngạc nhiên: câu hát, giọng nói, phương ngôn, màu áo… Hồn nhiên tắm mình trong không khí đời sống Chăm dần dần niềm đam mê với văn hóa Chăm tượng hình trong anh. Inrasara đã dành trọn cuộc đời để nghiên cứu, xác lập vị thế văn hóa Chăm. Trong tâm thức Sara luôn có một dòng sông Chăm đêm ngày thao thiết chảy, thao thiết với sự lở bồi của văn hóa Chăm. Và có lẽ văn hóa Chăm đã chọn Sara từ tiền kiếp.

Khá nhiều nhà nghiên cứu tiên phong viết về văn hóa Chăm như: Aymonier, Landes, Durand, Moussay, Thiên Sanh Cảnh… để liên tục trong nhiều thế hệ cho ra đời các công trình giá trị: lịch sử Champa, nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật múa, phong tục tập quán, ngôn ngữ chữ viết Chăm… Nhưng dường như văn hóa Chăm chưa được khai thông đến mạch nguồn, đang dần bị chìm lấp, có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Ý thức được điều đó, Inrasara đã lần nhiều lần làm nhiều cuộc đi dài khắp các plây Chăm Ninh Thuận sưu tầm tất cả những gì thuộc về văn hóa Chăm. Từ rất sớm, Inrasara đã nung nấu ý định sưu tầm Folkloren Chăm. Cứ mỗi kì nghỉ hè, Sara lại về các làng Chăm tìm kiếm, ghi chép. Hành trình về nguồn của Sara là một đam mê không tính toán đến thành tích hay lợi lộc. Làm là chơi. Đó là tâm tính Chăm đặc sệt. Từng ví mình là công dân Đức, gánh một trách nhiệm nặng nề - như thiên hạ nói, Inrasara biết hành trình tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc sẽ lắm chông gai, thử thách bởi “Chăm luôn bắt đầu từ con số không, từ con số âm – có lẽ” [45]: không mảnh tư liệu ban đầu, không tiền bạc, không nguồn tài trợ… Còn mục tiêu thì xa hun hút. Khó càng thêm khó! Ngôn ngữ trong các văn bản Chăm là ngôn ngữ cổ, khó đọc, khó dịch. Lòng nhiệt thành tuổi trẻ, nhẫn nại, yêu nghề sâu sắc, mong muốn tìm hiểu tâm hồn dân tộc mình cùng sự mê đắm ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời giúp nhà nghiên cứu Inrasara lao về phía trước. Với những công trình nghiên cứu đồ sộ, Inrasara đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của văn hóa Chăm nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.

Inrasara có một tập thơ sáng tác bằng tiếng Chăm và một bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm từ thời cắp sách. Năm 1975, Inrasara khởi thảo Từ điển Việt – Chăm. Năm 1984, biên soạn Từ vựng học tiếng Chăm. Từ năm 1994 đến năm 1995, in xong bộ Văn học Chăm, khái luận – văn tuyển ba tập. Năm 1999, in Các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm. Năm 2003, Inrasara cho in cuốn Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại và gần đây nhất là Trường ca Chăm, Sử thi Chăm, Tagalau 1 – 15,… Càng ngày các công trình nghiên cứu văn hóa của Inrasara càng dày đặc. Nếu kể hết các tác  phẩm nghiên cứu, sưu tầm hoặc các sáng tác văn hóa Chăm của Sara đến nay có thể trải dài vài nghìn trang giấy. Thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu của Inrasara khá lớn, khai tỏa vùng Chăm cổ kính và hiện đại.

Inrasara sớm có những nhận xét xác thực về “chuyện chữ”. Anh kể chuyện “chữ hoang” đầy vẻ bí ẩn, kể chuyện huyền thoại sinh động, hấp dẫn. Những trang viết về “đám tang chữ” của Sara lạ, sống động. Đọc sáng tác Inrasara, thân phận chữ Chăm hôm nay thoát ra “cơn hấp hối”, khấp khởi vui mừng, chờ đợi bàn tay hồi sinh từ Sara. Inrasara đã bước đầu chuẩn hóa, làm phong phú ngôn ngữ Chăm hơn trước. Inrasara đã cùng Bùi Chán Thế, Lương Đức Thắng… biên soạn bộ Từ điển Chăm – Việt, Từ điển Việt – Chăm, bổ sung khá nhiều từ vựng mới. Inrasara sáng tác nhiều thơ tiếng Chăm. Việc sáng tác vừa để lưu giữ tiếng nói của dân tộc vừa làm cho vốn từ Chăm giàu có hơn. Thêm vào đó, Inrasara từng tổ chức lớp dạy chữ, tiếng Chăm, cứu vãn tiếng Chăm khỏi cơn thương khó. Cuối cùng, Inrasarra đã cất công sưu tầm, rồi nghiên cứu tỉ mỉ về văn học Chăm cổ.

Khác với các nhà nghiên cứu chuyên về khảo cổ, lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật Chăm, Inrasara tập trung vào văn học Chăm. Đây là lĩnh vực mà chúng ta còn thiếu hiểu biết và là mảng trống to lớn mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Các nhà nghiên cứu đã quá ấn tượng với một nền văn minh cổ để lại những dấu vết vừa hùng vĩ vừa kì bí qua những tháp Chàm, bia ký… mà quên đi dậu huệ dân tộc này vẫn còn và đang cố gắng giữ gìn, bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, văn hóa, lịch sử mà tổ tiên họ gắng truyền lại qua bao đổi thay, bất trắc của lịch sử, đời người. Chính vì thế, vai trò của Inrasara rất quan trọng. Inrasara đã dày công nghiên cứu, sưu tầm và dịch văn học Chăm. Sara chịu khó đi, chịu khó tìm tòi, sao chép và hệ thống lại trường ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm… Thậm chí, theo lời anh, những tư liệu cực kì quý hiếm để có được, Sara đã phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình. Với sử thi, Sara đã vận dụng thao tác so sánh, chỉ ra sự gần gũi, điểm khác biệt giữa sử thi Chăm và sử thi các dân tộc thiểu số khác. Nghiêm túc truy tìm nguồn gốc sử thi, chính Sara đã có những lí giải hợp lí về một số thuật ngữ vùng sử thi này. Ở mảng truyện cổ, Sara thắp lửa tin về tư liệu cho giới chuyên môn. Với thể lục bát Chăm, Sara đã gợi không ít điểm lí thú cho những nhà nghiên cứu phụ cận. Ngoài công việc sưu tầm, nghiên cứu, Inrasara còn tuyên truyền, quảng bá văn hóa, văn học Chăm trên mọi phương diện. Có thể nói, với văn học Chăm, Inrasara đã “gợi mở và gợi hứng sáng tạo” cho thế hệ Chăm tương lai.

Bên cạnh những thành tựu về nghiên cứu văn học – văn hóa Chăm, Inrasara đã gặt hái không ít thành công trong lĩnh vực sáng tác. Anh nổi danh nhất với vai trò nhà thơ:

Không ít bạn trách tôi mất thời giờ cho thơ tiếng Chăm

có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?

nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó

dù chỉ còn dăm ba người

                                       dù chỉ còn một người

                                                                    hay ngay cả chẳng còn ai

                             (“Ngụ ngôn của Đất”, Tháp nắng)

Chỉ sau 10 năm xuất hiện trên thi đàn, Inrasara đã nhận không ít giải thưởng. Anh đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1997) với tập thơ đầu tay Tháp nắng. Khoác vòng nguyệt quế khi chưa là thành viên Hội Nhà văn Việt Nam, Inrasara nhanh chóng cuốn hút sự chú ý của công luận, báo hiệu một tài năng thơ đích thực, có sức bật lớn. Toàn bộ chủ đề tập Tháp nắng toát lên niềm khao khát tìm thấy một bản sắc Chăm giàu sức tái sinh.

Sau Tháp nắng, tập thơ Sinh nhật cây xương rồng đánh dấu sự định hình và vượt lên chính mình của nhà thơ Inrasara. Vùng Chăm bí ẩn cuốn người đọc vào tứ thơ và cái lạ nhà thơ gửi gắm. Năm 1999, tập thơ Hành hương em trình làng lôi kéo sức chú ý giới mộ thơ bởi chất triết lí và chiêm nghiệm. Năm 2003, lần thứ hai đoạt giải thưởng Hội Nhà văn, anh lại được hội đồng nghệ thuật nồng nhiệt ca ngợi: “Với Lễ tẩy trần tháng Tư, Inrasara đã đạt tới niềm khoái cảm tự do đầy bình tĩnh của một thi sĩ. Từ Tháp nắng, bằng 6 năm trầm mình trong lao động thi ca, nhà thơ đã vững đứng trên một đỉnh cao mới của chính anh. Vừa cô đặc vừa đầy ắp, tràn ngập hình ảnh đời sống quá khứ và hiện tại, cùng với sự vận động không ngừng về phía trừu tượng, luôn hủy diệt và làm mới theo cách dạy bảo của thần Shiva, Inrasara đã tạo dựng một hệ thống thi pháp riêng. Có thể nói dài về những đóng góp của anh vào thơ Việt hiện đại; một thi sĩ Việt tram phần trăm, nguồn gốc Chăm trăm phần trăm, không xa lạ với những luồng sáng di chuyển của văn hóa, văn chương, thi ca hôn nay. Hoan nghênh người nghệ sĩ không chỉ vào tháng Tư mới hành tẩy trần, anh tẩy trần và tẩy trần liên thông trong đạo – sáng    - tạo.”[84].

Inrasara thật sự là biểu tượng thành công trong hành trình dồn tâm nén sức khai tỏa văn hóa dân tộc. Năm 2005, anh vinh dự nhận được Giải thưởng văn học ASEAN cho tập thơ The Purification Festival in April (Lễ tẩy trần tháng Tư). Inrasara cũng nhận được giải thưởng Work of Month (Tác phẩm của tháng) vào tháng 9 năm 2006 cho chùm thơ mang tên Chuyện người đời thường trong tập Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức thuộc trang web tienve.org. Ngoài ra, Inrasara còn được vinh danh trong các giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam dành cho tập thơ Sinh nhật cây xương rồng (1998) và một số giải thưởng khác.

Sở hữu không ít giải thưởng cao quý, chứng tỏ những đóng góp thầm lặng của cá nhân nhà thơ đã được độc giả ghi nhận. Phá bỏ mặc cảm tự ti dân tộc, Inrasara trình làng “một  nền văn học dân tộc trong một nền văn minh”; góp phần đẩy bánh xe thơ Việt về phía hiện đại, cổ vũ mạnh mẽ phong trào thơ các dân tộc thiểu số dấn thân vào hương lộ sáng tạo. Giải thưởng ASEAN tiếp lửa cho những nhiệt huyết thi ca Sara, thêm một lần khẳng định tài thơ giúp anh vững tin đưa thơ Việt hòa chung nhịp đập với thơ ca khu vực và thế giới.

Không dừng ở địa hạt sáng tạo, Inrasara vận mình vào việc nghiên cứu, lí luận – phê bình. Bằng tư duy khoa học chính xác, Insarasa nhạy bén chỉ ra những rối bời trong làng thơ Việt với Chưa đủ cô đơn để sáng tạo (2006), Song thoại với cái mới (2008). Cùng xuất hiện trong năm 2014, hai cuốn tiểu luận mới nhất của Inrasara là Thơ Việt - hành trình chuyển hướng say Nhập cuộc về hướng mở bật ra lối đi mới cho thơ tân hình thức đồng thời khẳng định lối nghĩ mới thú vị thi nhân Việt hôm nay cần viết như một công dân thế giới.

Nhận xét về lối phê bình của Inrasara, Lâm Tiến viết: “Inrasara là người viết lí luận phê bình nghiêm túc, táo bạo, sắc sảo, đưa ra được những vấn đề mang tính lí luận và thực tiễn của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Ông quan tâm nhiều tới tiếng nói và chữ viết và vấn đề bản sắc dân tộc trong văn học… Inrasara không bao giờ hài lòng với truyền thống của cha ông; ông muốn đập nó ra để lọc lấy tinh chất, tìm trong đó những chất liệu, phương tiện và kinh nghiệm nghệ thuật cần thiết cho mục đích sáng tạo nghệ thuật của mình để tái tạo lại trong những tác phẩm mới hiện đại hơn”[68]. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “Inrasara là một cây bút phê bình lỗi lạc. Bài anh viết về văn học của thiểu số có thể ngang hàng với bài Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh.”[104].

Inrasara cho rằng nhà phê bình còn giúp cho người đọc chuẩn bị tâm thế, tư duy thẩm mĩ hiện đại để thưởng thức văn học hiện đại trọn vẹn nhất. Anh cũng gióng lên hồi chuông mạnh mẽ về trách nhiệm của nhà thơ và xã hội đối với tương lai thơ.

Được xướng danh trong vai trò nhà thơ, nhà nghiên cứu – phê bình văn học song thật khiếm khuyết khi bỏ qua danh xưng Inrasara – nhà viết tiểu thuyết. Hoạt động chữ nghĩa trên nhiều lĩnh vực khác nhau, việc chuyển mình hẳn là một thử thách đáng kể. Inrasara quan niệm rằng, tiểu thuyết là kho lưu giữ sinh hoạt của một dân tộc trong thời đại nhất định, vừa biệt lập vừa bổ sung cho những thiếu hụt của lịch sử. Với tư cách là một thể loại nghệ thuật đương đại, tiểu thuyết mang tiềm năng biểu đạt cả về nội dung lẫn hình thức. Ở đó, cá nhân, cộng đồng mặc sức kể, tả, suy tư, chiêm nghiệm về phận người, phận đời. Dùng 15 năm suy niệm, Insarasa đổi lại bằng cuốn tiểu thuyết Chân dung cát xuất bản năm 2006. Cố gắng “nói những điều đã cũ”[102], Inrasara dồn nén cả “mệnh”, “phận” dân tộc thành quyển tiểu thuyết Hàng mã kí ức (2011). Mang theo lối sáng tác hậu hiện đại, Inrasara cắt dán nhiều thể loại văn chương trong tiểu thuyết của mình, mang lại lối thể nghiệm hoàn toàn mới mẻ, toát lên cái nhìn độc đáo về gương mặt tinh thần Chăm, chân dung Chăm với tất cả các góc độ, trải xuyên suốt chiều thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai.

Lãng du trong nhiều miền đất, nhiều nền văn hóa, Inrasara cởi bỏ mọi vướng bận của đời, dốc mình trong hành trình sáng tạo. Được xướng danh như một kỳ nhân làng viết, Inrasara say mình trong sáng tác, nghiên cứu. Nhưng chưa bao giờ tình yêu quê hương, dân tộc, văn hóa Chăm vơi cạn trong anh, và có lẽ luôn vẫy gọi anh tiến về thánh đường thi ca.

1.2.3. Inrasara: Người say mê kể chuyện văn hóa Chăm

Với nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa, ngôn ngữ Chăm, nhiều tập thơ - trường ca như Tháp nắng, Sinh nhật cây xương rồng, Hành hương em, Lễ tẩy trần tháng tư... cùng một số tiểu thuyết, Inrasara - người con của làng Chăm Ninh Thuận - dường như đã làm được điều mà anh mong muốn: kể chuyện của dân tộc Chăm cho thế giới bên ngoài. Ngoài ra, Inrasara còn say mê kể chuyện văn hóa Chăm qua 15 quyển Tagalau do anh trực tiếp chủ biên. 

Từ một thế kỉ nay, người ta gần như lột trần tất cả những gì có thể làm được để làm cho nền văn minh – văn hóa Chăm được giữ gìn và nhận biết. Người ta làm rất nhiều, nhưng dường như lại quên đi (hay chưa để tâm đến mấy) chủ nhân tạo lập nền văn minh ấy: dân tộc Chăm. Dân tộc Chăm với niềm vui, nỗi buồn của họ, với tâm tư nguyện vọng của họ, với yêu thương giận ghét của họ, với những tất bật trong ngày hôm nay, ưu tư cho ngày mai của họ. Một dân tộc không chỉ tồn tại trong quá khứ mà là một dân tộc Chăm của thực tại sống động với tâm hồn phong phú. Inrasara dành không ít trang viết về thế hệ Chăm cùng những biến suy trong lòng xã hội Chăm – một vùng mờ đau đáu đổi thay, về thân phận dân tộc Chăm xưa – nay. Anh chẳng ngại ngần bộc bạch vết “đau” Chăm, đưa lịch sử Champa trải dài trong thơ, trường ca. Lịch sử hào hùng song lắm bi thương, những phận người cuồng xoay trong nỗi khó, bao làng Chăm xác xơ mòn gầy trong cơn lốc đói kém… Tình quê, văn hóa dân tộc như sợi chỉ kết nối bao cộng đồng Chăm, bao bước chân tha hương. Cuộc đời, xã hội Chăm như được thắp sáng, thấu tận trong những truyện kể của Inrasara. Nỗ lực của chú ong bền bỉ Inrasara quả được dư luận đền bù xứng đáng khi được biết đến như là một thi nhân, một nhà nghiên cứu say mê kể chuyện văn hóa Chăm.

1.2. Sự tiếp nhận văn hóa Chăm từ truyền thống dân tộc trong thơ Inrasara

Trước khi trở thành một nhà thơ, Inrasara là người nghiên cứu văn hóa, văn học Chăm. Hồn thơ Sara được nuôi dưỡng từ chính đời sống tinh thần phong phú và bản sắc văn hóa của dân tộc Chăm. Inrasara từng giới thiệu về mình:

Tôi

đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp

đứa con của nắng bốn mùa cát trắng hanh hao

đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét

và của đôi mắt Tháp Chàm mất ngủ xanh xao

                             ( “Đứa con của Đất, Tháp nắng )

Inrasara xuất thân từ gia đình thuần nông có đến sáu anh chị em làng Chakleng– Mỹ Nghiệp, làng Chăm duy nhất có tên trong bia cổ Champa đã tồn tại hơn ngàn năm. Anh có người cha cần cù chịu khó và đam mê sách cổ. Bản thân thi sĩ vốn yêu thích ngôn ngữ Chăm cùng với niềm đam mê từ người cha truyền cho đã mở ra con đường đến với thơ của anh. Sara đã dành cho quê hương tình cảm nặng sâu. Và chính nguồn sữa văn hóa dân tộc đã nuôi lớn tình yêu thi ca nơi anh:

Mẹ nuôi tôi bằng nguồn sữa ca dao buồn

Cha nuôi tôi bằng cánh tay săn Glơng Anak

ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương mù truyền thuyết

plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn dế, tiếng mõ trâu

(“Đứa con của Đất”,Tháp nắng)

Và cũng chính quê hương vực thơ anh dậy:

Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên

rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ

như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống tan hoang thành phố

tôi tìm lại tôi

tìm thấy nắng của quê hương

(“Đứa con của Đất”, Tháp nắng)

Inrasara yêu dân tộc mình bằng tình yêu của đứa con xa quê, luôn hướng về quê khi bước chân phiêu lãng khắp các phương trời. Quê hương là nơi trở về sau bao tháng ngày tha hương và quê hương vẫn an nhiên giang rộng tay ôm, tha thiết yêu những người con tha hương lầm lỡ:

Ngày em về quê hương ôm em như chưa từng có em

Như quê hương có em lại rồi sau tháng ngày lưu lạc

(Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Quê hương là vậy, đẹp đẽ và bao dung như tâm hồn con người. Mỗi khi xa quê, Inrasara luôn tìm về con đường thân quen, nơi đó có biểu tượng của một nền văn hóa dân tộc:

Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng

Biển bên kia, và cát bên này

(“Tháp nắng”, Tháp nắng)

Với tình yêu quê hương thiêng liêng, nhà thơ đã “cúi xuống ghì ôm quê hương như chưa từng có quê hương” để cảm nhận hơi ấm trong từng thớ đất quê hương và hơn hết là nguồn mạch sức sống, nguồn mạch cảm hứng sáng tạo mà quê hương mang lại. Quê hương Chăm đã trở thành một tín niệm riêng trong thơ Inrasara: đau khổ, trầm luân mà đầy yêu thương và tự hào.

Inrasara quan niệm, thơ như là con đường tìm về cội nguồn, thấu hiểu tâm hồn dân tộc mình. Con đường ấy đồng nhất với con đường anh tìm về quê hương tâm linh, con đường tìm về với bản thể. Khuôn mặt thi nhân không ít lần suy niệm trên hành trình trở về ấy. Anh luôn ấp ôm mối u hoài về thân phận dân tộc, văn hóa Chăm. Có thể nói, trở về quê hương tâm linh/ bản thể luôn luôn là tiếng gọi mãnh liệt nhất/ thiêng liêng nhất, sáng tỏ nhất của con người. Đó là cội nguồn dân tộc tính của thơ ca Inrasara.

Ngay từ khi cắp sách đến trường, Inrasara đã thuộc lòng nhiều thi phẩm cổ điển Chăm. Chàng thiếu niên Inrasarra đi khắp các làng Chăm, vừa làm thơ vừa sưu tầm các bản chép tay văn học cổ điển và văn học dân gian, đọc nhiều cuốn sách văn hóa dân tộc. Từ đó, văn hóa, văn học Chăm ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Inrasara. Nhà thơ mang trong mình dòng máu Chăm và tự nhận mình phải lòng nét đẹp văn hóa Chăm. Anh hiểu thấu đáo và luôn tự hào về văn hóa dân tộc mình. Sara khẳng định:

… con là Chăm ngay ban đầu vỡ ra tiếng khóc

(còn hơn thế: chín tháng mười ngày trước khi vỡ tiếng khóc)

khi con cắm rễ nơi đây

hay khi con lang bạt tận cùng trời

con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa cuối đời.

(“Ẩn ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Say mê văn hóa Chăm, văn hóa Chăm ngấm vào cốt tủy Inrasara, tràn vào những thi phẩm của anh. Thơ Inrasara mang một chất men lạ say lòng độc giả mà không cần dụng công câu chữ như khá nhiều nhà thơ đương đại khác, anh chỉ nói về Chăm. Nhưng chất thơ đã nằm sẵn trong Chăm mất rồi, Inrasara nói bình thường vẫn thành thơ – thơ hay. Inrasara hiểu rõ nền văn hóa dân tộc mình, anh khái quát:

Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui

chịu chơi cả trong đau khổ

                   ( “Ẩn ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư )

Ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa, văn học Chăm, thơ Inrasara có nhiều câu gần với văn học dân gian, lấy chất liệu từ văn học dân gian. Những miền “cố quận” mà Inrasara hay dùng cùng với ngôn ngữ thơ được chắt lọc cho thấy chất dân gian dường như đã khảm sâu vào hồn thơ anh:

Ơi miền cố quận xa!

Cố quận kẻ thân yêu ta rơi lại bên bờ

Cố quận bạn bè ta lạc bước bôn ba

Cố quận của đêm cháy nồng mùa hạ

Cố quận ta bỏ đi bươn bả

Đang giục ta trở về

(“Đường trở về”, Tháp nắng)

Những điệu đua buk, câu ariya đi vào thơ Sara thật tựa hơi thở:

Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi

tôi lạc mất điệu đua buk, câu ariya, bụi ớt

(“Đứa con của Đất”, Tháp nắng)

Những vần điệu dân gian đã trở nên quen thuộc, ghi sâu vào trí nhớ mọi người con Chăm:

Glơng Anak, Pauh Catwai phải vội vã

viết đã rất ngắn

như thể trối trăng

(“Tam tấu trước ngưỡng thế kỉ XXI”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Đọc thơ Inrasara, dù viết bằng tiếng Việt hay tiếng mẹ đẻ, độc giả không khỏi bắt gặp cách nói Chăm thân quen trong lời thơ:

Rồi một ngày em đi

Xa cái Chạng gầy, bỏ bờ cỏ dại

Xa tiếng mõ trâu chiều, bỏ thằng Klu xóm dưới

(“Nỗi buồn ứng trước”, Sinh nhật cây xương rồng)

Hơi thở Chăm, cuộc sống Chăm thấm đượm qua từng trang thơ Inrasara. Nó mộc mạc, tự nhiên, chân thành như chính con người nơi ấy. Nhạc điệu thơ Inrasara mang đậm dấu ấn văn hóa Chăm. Đó là nhạc điệu náo nức chờ mong mùa lễ hội. Đó là sự hòa điệu của tiếng trống baranưng, tiếng kèn saranai và điệu lòng thi nhân:

Em về

Nắng hanh hao lối mòn – điệu đua buk

triền vai

rung rinh màu thổ cẩm

lời ca dao buồn trong mắt

(“Katê mới”, Sinh nhật cây xương rồng)

Chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa – văn học Chăm, thơ Inrasara vừa đậm đà bản sắc văn hóa Chăm từ nội dung trữ tình đến hình thức biểu đạt, lại vừa sâu lắng nhờ có tri thức. Sự am hiểu nguồn cội của một nhà nghiên cứu ngụp lặn vào đời sống Chăm, thao thức, trăn trở, một mực hướng về dân tộc, hướng về quê hương, hướng về truyền thống. Nguồn văn hóa – văn học dân gian Chăm không chỉ nuôi sống tâm hồn con người mà nó còn thể hiện sự trường tồn của một dân tộc, khẳng định mình trong tiến trình phát triển của lịch sử. Những người con tha thiết với dân tộc đang từng ngày để cho nguồn văn hóa – văn học quê hương tuôn chảy trong thơ mình, một mực hướng về quê quán nguồn cội, hơn hết là thỏa mãn nguyện vọng khiến văn hóa – văn học trường tồn mãi với thời gian.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 2

BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM QUA THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI

 

2.1. Hình ảnh thiên nhiên

2.1.1. Hình ảnh tháp Chàm muôn mặt

Nghệ thuật kiến trúc Champa sớm “thuần hóa” văn hóa bản địa cùng tinh hoa văn hóa các dân tộc Đông Nam Á. Người Chăm và văn hóa Chăm mang một thân phận đặc biệt, một bản sắc riêng biệt, độc đáo. Một trong những giá trị biểu hiện của bản sắc văn hóa Chăm đầu tiên phải kể đến là biểu tượng Tháp Chàm. Tháp Chàm là công trình kiến trúc đền tháp Champa thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chăm. Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hóa Champa từ giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.

Tháp Chàm là khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ nguồn đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt tháp đa số là hình vuông, có không gian bên trong chật hẹp, thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng mặt trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên bề mặt tường ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất chắc chắn, bền vững. Tháp Chăm kết tinh mọi tinh hoa văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc Chăm. Trải qua bao biến động của cõi vô thường, tháp Chăm trở thành biểu tượng của dân tộc Chăm. Cất giấu số phận        dân tộc Chăm, vẻ đẹp, sự linh thiêng của thánh địa huyền miên tháp Chàm luôn là nỗi ám ảnh của thi nhân xưa – nay.

Xưa, Chế Lan Viên tìm mình nơi những ngọn tháp của nước Đồ Bàn hoang tàn, điêu phế. Cái tôi bản thể mang ẩn ức thời đại tìm thấy niềm an ủi, một miền tâm linh để trú ngụ cảm thông. Nay, tháp đi vào thơ Inrasara như một định phận:

Người xưa không trở lại nữa rồi

Tháp miệt mài đứng đợi

Sáng trưa chiều tối, sáng trưa chiều

Tháp lạnh.

Biết trú nơi đâu những chuyến mưa về muộn

Dừng bước lưng chừng đêm

Tháp ướt dầm, ướt dầm, ướt dầm

Tháp lạnh.

Cánh tay gầy run để lạc mất đàn con

                                                chỏng chơ tháp đứng

Mang mang giữa vùng trăng

Nhớ ấm hơi người, nhớ bàn chân

Tháp lạnh.

                   (“Tháp lạnh”, Hành hương em)

Ngọn “tháp lạnh” tựa thân phận chênh vênh trong hiện tại đời. Biểu tượng của cái đẹp từng ngày bị dập vùi, cô đơn, buồn thương, mất mát. Nhà thơ suy tư, đánh thức con người trước vẻ đẹp bị bỏ rơi đến tàn phai. Định phận mong manh của những ngọn tháp cũng là định phận mong manh của dân tộc trong thơ Sara.

Tháp trong thơ Irasara còn là tháp hoang cô độc. Tháp xa lạ và bí mật, tải chở kí ức sinh phần của dân tộc. Ngọn tháp là chứng nhân kết nối quá khứ với hiện tại, đánh thức con người đối mặt với quá khứ và hiện tại, đối mặt với hiện hữu và hư vô:

Tháp hoang

Như thình lình mọc lên từ đất

Đầy lông lá – âm u – dọa nạt…

Tháp hoang

Đột ngột xô tôi về đối mặt

Quá khứ

Lao xao bầy dơi đen

Tháp hoang

Người bỏ rơi – lịch sử bỏ quên

Riêng bước chân thời gian thì nhớ

Tháp hoang

Như quen thân – như xa lạ

Hồn người xưa vỗ dòng máu ứ 

Tháp hoang

Khi bất chợt bác tiều phu nhớ

Dân buôn lậu nhớ - nhà viết sử nhớ

Hồn tháp đã bay xa

                   (“Tháp hoang”, Tháp nắng)

“Hồn tháp đã bay xa” là lời tiên mệnh xuất phát từ nỗi thấu hiểu và niềm trở trăn đau đáu về thân phận tháp của người con Chăm.

Trong cảm thức về định phận mong manh, tháp trong thơ Sara còn hiện lên như một hiện sinh cô độc và kiêu hãnh:

Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng

Biển bên kia và cát bên này

Biết mấy vạn đời rồi tháp nắng

Trên đồi hoang

                                                như dấu lặng

                                                                   phơi bày

Không một bụi cây – không một làn mây

Bao la nắng và mênh mông cát

Âm thanh câm – thời gian vắng mặt

Trắng không gian đậm đặc tứ bề

Không có một bài thơ ngợi ca

Không lấy một lời ca ngợi ca

Tháp vẫn đang miệt mài với nắng

Trong hoang mạc lòng nhân gian lạnh

Chuyến xe Sài Gòn – Phan Rang

                             Tôi đi lại quá trăm lần

Tháp có đó – tôi vờ như không có

Thoáng sát na không gian bùng vỡ

Tháp hiện nguyên hình

                                         -     tháp nắng      

                                                             -  thênh thang

                             (“Tháp nắng”, Tháp nắng)

Bằng cảm thức vũ trụ, Inrasara nhìn thấy ở tháp với nhiều khuôn mặt. Có lúc tháp bị bỏ rơi (“Tháp lạnh”), có lúc lại cô độc kiêu hãnh (“Tháp nắng”), có khi tháp lại xa lạ, bí ẩn (“Tháp hoang”), khi lại u linh, cuốn hút, huyễn tưởng (“Tháp Chàm muôn mặt”):

Đôi lúc

nửa đêm

tôi nghe tháp mọc ngang trời…

Như giấc mộng như lóa mắt

                                                tháp có mặt

như chớp xé như âm vang…

chợt  mắc cạn

ở lưng đồi

thằng bạn tôi nhìn thấy. Bật nhớ…

Ngọn tháp đổ

tiếng kêu dội vào thành đêm

                    (“Tháp Chàm muôn mặt”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Tháp im lặng thấu thị tất cả, thấu thị khuôn mặt của mình, thấu thị khuôn mặt của đời. Thấu thị cả những kẻ không thấu thị. Thấu thị lẽ thường – đời. Thấu thị cả chiều sâu văn hóa Chăm trong những tiến lùi đau thương của thời gian.

Xuất hiện với mật độ dày trong thơ Inrasara, tháp thường trụ trong hồn anh, hay chính anh hợp nhất hồn mình vào tháp. Hình ảnh tháp Chăm thấm vào máu thịt, vào từng suy nghĩ, cảm xúc của Inrasara. Sara viết về tháp Chăm với giọng nâng niu, thành kính, trân trọng. Những ngọn tháp khơi nguồn xúc cảm khá nhiều nhà thơ nhưng đến thơ Inrasara, cái nhìn về tháp mới trở nên đa diện, đa phong cách một “tháp Chàm muôn mặt”, có chiều sâu hơn cả, bởi lẽ tháp chính là số phận dân tộc anh cũng đồng thời là nguồn sống, hơi thở của anh. Inrasra đã thổi vào tháp linh hồn con người, vì vậy nó có sức ám ảnh lạ lùng. Truy tìm, khám phá tận cùng văn hóa, tâm hồn Chăm trong hồn tháp, ngược dòng quá khứ để thấu nhận khát vọng cha ông gửi gắm vào những ngọn tháp, Inrasara nghiễm nhiên xác lập     “tháp thơ” cho riêng mình. Tháp thơ của một thi sĩ yêu – đau văn hóa mình, dân tộc mình. Trái tìm, tâm hồn Inrasara đã, đang và sẽ mãi mãi thuộc về Chăm:

con là Chăm ngay ban đầu vỡ tiếng khóc

(còn hơn thế: chín tháng mười ngày

                             vỡ tiếng khóc)

khi con cắm rễ nơi đây

hay khi con lang bạt tận cùng trời

con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa

                                       cuối đời.

                   (“Ẩn ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

2.1.2.   Hình ảnh quê hương

Quê hương là nơi neo đậu vững chắc nhất tâm hồn của con người. Ở bất cứ nơi đâu, trong bất kì chiều đồng hiện thời gian nào, quê hương vẫn là chốn ấm áp thân thương nhất réo rắt bước chân trở về từ người con quê. Inrasara dành không ít trang thơ viết về quê hương mình, đặc biệt ít có nhà thơ nào dùng 37 trang thơ viết hẳn nên khúc trường ca Quê hương (Tháp nắng) như anh. Trân trọng, chăm chút là thế song khi viết về quê hương, nhà thơ không tụng ca quê hương như lẽ thường tình người đời:

Ôi! Quê hương! Quê hương

Quê hương gầy, quê hương xanh xao

Quê hương không có rặng dừa thơ mộng của ca dao

Quê hương không có cánh cò bay xa, không có

                             bản tình ca thôn dã

                             (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Quê hương hiện sinh qua những vần thơ trĩu nặng nỗi buồn, anh xót xa về một miền quê đói nghèo, khắc nghiệt:

Quê hương cằn khô, nóng bức nghèo nàn

Quê hương buồn. Quê hương yêu thương

Quê hương em lũ trẻ con chơi bẩn

Những bà mẹ gầy còm, những cụ già râu trắng

Những cô gái gánh gạo vai sờn…

Quê hương có những vú đồi khô khốc

Quê hương không có cụm mây che mát trẻ em đầu

                                       húi trọc

Không có giọt mưa cho khát lũ trâu gầy

Quê hương ôm nỗi sầu to lớn khôn khuây

                             (“Trường ca Quê hương”, Tháp nắng)

Quê hương anh đó với bốn mùa cát trắng hanh hao, là biển khơi trùng trùng bão thét, là Phan Rang chứ không đâu khác, không thể khác. Đó là định phận, định mệnh không thể đổi thay… Những gian khổ của quê hương đã làm cho những vần thơ của Inrasara đẹp màu nắng gió và đậm nét bươn chải. Inrasara không thi vị hóa quê hương mình. Quê hương nghèo nàn những Sara vẫn yêu quê. Với Sara, quê hương là nỗi đau, là niềm nhức nhối khôn nguôi. Quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất cho niềm thơ Inrasara. Mặc dù quê hương chỉ để lại cho người con quê           con đường bóng tối, gia tài lớn nhất là hai bàn chân để ra đi và trở về cùng trái tim nóng hổi để yêu thương nuôi dưỡng hồn thơ lớn dậy. Tất cả đã đi vào miền nhớ không dễ gì phai nhạt để rồi, người con tha hương Inrasara luôn đau đáu về “vận” và “mệnh” dân tộc mình. Với thi nhân Sara, thơ như là con đường tìm về quê hương, cội nguồn dân tộc, thấu hiểu tâm hồn dân tộc mình. Con đường ấy đồng nhất với con đường anh tìm về quê hương tâm linh, con đường tìm về với bản thể:

Lớn lên

tôi đụng đầu với chiến tranh

tôi cụng đầu với cơm áo, hiện sinh, hiện tượng

tôi chới với giữa dòng ngữ ngôn hoang đãng

rồi cuộn chìm trong thung lũng tình yêu em.

Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi

tôi lạc mất điệu đua buk, câu ariya, bụi ớt

trái tim đui

tôi như người bị vứt

rớt giữa cánh rừng hoang trụi lá mùa xanh.

                   (“Đứa con của đất”, Tháp nắng)

Quê hương tâm linh/ bản thể luôn luôn là tiếng gọi mãnh liệt nhất/ thiêng liêng nhất, sáng tỏ nhất của con người. Đó là cội nguồn dân tộc tính của thơ ca. Quê hương Chăm trở thành một tín niệm riêng trong thơ Inrasara, chẳng những đau khổ, trầm luân mà còn tràn đầy yêu thương, hi vọng và tự hào:

Ta đi suốt bề dọc, chiều ngang đất nước

Góp tượng nhà mồ, góp sử thi khan

Vào Mĩ Sơn góp trăm ngọn tháp Chàm

Ta góp trống đồng, góp thơ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi

Góp ngàn dòng ca dao, vạn câu tục ngữ

Góp niềm kiêu hãnh chung, góp cả nỗi đau riêng

                    (Trường ca “Quê hương”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Hình tượng quê hương không ít lần xuất hiện trong thơ Inrasara. Thao thiết tình quê, nhà thơ Inrasara tha thiết yêu thương, ngợi ca, kiêu hãnh về văn hóa dân tộc mình, nhưng Inrasara cũng hiểu hơn ai hết bản sắc dân tộc không phải là cái gì đó tiên thiên có sẵn trong cội nguồn, phải luôn được sáng tạo và bồi đắp.“Bản sắc dân tộc ở trong văn hóa nói chung và văn học nói riêng, không phải là một đại lượng nhất thành bất biến, cũng không có sẵn từ khởi thủy. Con đường hình thành của nó không phải là theo lối tự sinh biệt lập. Trái lại bản sắc cũng được hình thành từ giao lưu tiếp nhận, cộng sinh tạp giao, đồng hóa với các nhân tố văn hóa, văn học từ bên ngoài từ đó sinh thành, phát triển tạo ra bản sắc”[103]. Đằng sau những dòng thơ sâu sắc, đằng sau hình ảnh quê hương Chăm khó nghèo nhưng giàu văn hóa là sự minh triết trong chiều sâu tư tưởng nhà thơ Chăm – Inrasara. Sự minh triết được thức nhận, lớn dậy từ chính nỗi đau định phận mong manh của dân tộc anh. Inrasara khai mở một vòm trời suy tư trong lòng người đọc, níu độc giả vào nốt trầm suy niệm để rồi bằng cách tự nhiên nhất, thơ Inrasra đi vào lòng người, lòng đời.

2.1.3. Hình ảnh sông Lu

Tên tuổi, sự nghiệp văn chương của thi nhân thường gắn bó với một địa danh cụ thể. Chẳng hạn, Nguyễn Khắc Hiếu gắn với núi Tản, sông Đà; Hoàng Cầm về với sông Đuống, Dương Thuấn hát với sông Năng, tên tuổi Đỗ Trung Lai gắn với Đêm sông Cầu. Ở mảng văn xuôi, Nguyễn Tuân vin dựa vào sông Đà khẳng định sức mạnh của tùy bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường mượn sông Hương để ngợi ca vùng đất cố đô Huế đẹp và thơ mộng… Tên tuổi Inrasara phải gắn với sông Lu. Trong tâm thức của Sara có một dòng sông Chăm đêm ngày thao thiết chảy, thao thiết với sự lở bồi của văn hóa Chăm truyền thống. Được tắm gội trên con sông Lu ngàn năm tuổi, Inrasara tâm sự: “Có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm hồn tôi, có biết bao con sông, mương, đầm khuất đi  không còn lại dấu vết nhưng tên tuổi của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy tâm thức của tôi”[47]. Con sông quê hương Chăm có mặt trong không ít bài thơ của Inrasara  “Sông Lu thức cùng tôi đêm nay”, “Sông Lu và tôi”, “Sông Lu”, “Tụng ca của nước”...  Sông Lu hiền hòa đêm ngày dưỡng bồi mảnh đất quê khô hạn:

tự vỡ bờ chở phù sa bồi ruộng

đất quê hương. Cả khi sông Lu bị

con người biến thành thứ mương tháo vô

dụng, sông Lu vẫn cần cù mang phù

sa đổ vào biển. Sông như là mang

phù sa đổ vào biển.

                   (“Sông Lu”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Sông Lu trong thơ Inrasara chất chứa bao kỉ niệm tuổi thơ, là nơi tẩy rửa thân xác, linh hồn và cả ngôn ngữ. Dòng sông cứ thao thiết chảy mãi, nó không còn là sông Lu của riêng người Chăm nữa. Sông Lu với Sara là một biểu trưng, một người tri kỉ chứng kiến hành trình ra đi – trở về của anh. Và tất cả con sông, dù chúng mang tên khác, hình thành từ suối nguồn khác hay chảy vào cửa biển khác nhưng Sara vẫn gọi chúng là sông Lu. Con sông hiện hình cho suối nguồn Chăm, thi sĩ đêm ngày gắng sức làm rạng danh văn hóa dân tộc:

Sông Lu sinh ra cùng tôi năm đinh

dậu. Hai mươi tháng hạn sông Lu nằm

phơi thân trầm dòng vào lòng đất. Sông

Lu chảy quyết liệt lúc tôi vỡ tiếng

nói đầu đời, sông Lu ẩn mình trong

tôi khi tôi bỏ làng đi lang bạt,

lần lữa sông Lu lại ra đời với

tôi ngày trở về. Đừng ai hỏi sông

Lu ở đâu, đất Phan Thiết sông Lu

lớn dậy chảy ngang trời Sài Gòn bay

Tokyo, sông Lu tắt Baghdad

hát cùng Euphrates. Sông Lu ngã bệnh

             (“Sông Lu”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Tựa chứng nhân chứng kiến dấu vết thời gian lướt qua làng quê Chăm thân yêu, dòng sông Lu mãi mãi chảy trong lòng nhà thơ Chăm Inrasara, là ngọn nguồn, cũng là đích hướng đến cho những nỗ lực đưa văn hóa Chăm, thơ ca Chăm đến gần công chúng thưởng lãm.

2.1.4. Hình ảnh ngôi nhà

Hình ảnh ngôi nhà được Inrasara nhắc đến trong một số bài thơ: “Kẻ canh đêm”, “Truyền thuyết về ngôi nhà”, “Con đường vỡ”, “Thi sĩ”… Với Sara, ngôi nhà chính là nơi che chở, gìn giữ những giá trị cuộc đời:

Ngôi Nhà

Ra đi vạn bước chân tràn bờ dự phóng

Vạch chằng chịt lối mòn lên khắp bề mặt

                                       trần gian

Khuôn định những thăng trầm của bóng

                                       và âm vang.

Ngôi Nhà

Ra đi những dòng chảy lòa của sống

Đứa bé ra ràng đi tìm đất đứng

Cô bé dậy thì đi tìm tọa độ yêu

Cụ già hom hem mò mẫm bóng gậy chiều

Gắng gượng đi tìm sinh lực sót.

                   (“Truyền thuyết về ngôi nhà”, Sinh nhật cây xương rồng)

Ngôi nhà trong thơ Inrasara còn là nơi bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, canh giữ chìa khóa văn hóa Champa:

Ngôi Nhà

Ra đi bồng bềnh câu chữ

Lưu lạc bản trường ca bỏ hoang

(“Truyền thuyết về ngôi nhà”, Sinh nhật cây xương rồng)

2.1.5. Hình ảnh con đường

Hình ảnh con đường xuất hiện nhiều lần trong thơ Inrasara. Đó là con đường đời với những lần ra đi và trở lại:

Khi tôi chỉ còn bóng tối làm bạn đồng hành

Và khi con đường năm trong bước chân

Con đường bạt núi đồi, thành phố

Con đường bang tìm những con đường chưa khai mở ở trần gian

                  (“Con đường”, Tháp nắng)

Đó là con đường tìm về cội nguồn của dân tộc. Con đường ấy dẫn thi sĩ tìm về với bản thể:

Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên

rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ

như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống hoang tàn thành phố

tôi tìm lại tôi

tìm thấy nắng quê hương

                   (“Đứa con của đất”, Tháp nắng)

Nhà thơ là người mang sứ mệnh tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Cái đẹp mới mẻ làm nên những vần thơ có sức sống lâu dài. Con đường là nơi đưa bước chân thi sĩ tìm đến phương trời mới lạ. Trên hành trình thơ nhọc nhằn, cái mới luôn vẫy gọi những bước chân phiêu lưu Inrasara:

Sóng lớp bàn tay lao xao vẫy anh về phía trước

Nhìn đăm đắm anh là những dáng buồm căng

                   (“Khát vọng biển”, Hành hương em)

Con đường trong thơ Inrasara còn là con đường từ plây ra phố vì bao cuộc mưu sinh áo cơm:

Ra đi từ linh hồn ruộng đồng

linh hồn ngọn đồi

nàng đi về hướng phố

          (“Chân dung nàng”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Con đường nối làng quê Chăm với đô thị giúp mọi người tiếp cận với      cuộc sống văn minh, hiện đại hơn. Nhưng đi theo con đường ấy, người ta cũng dễ quên đi bản sắc văn hóa Chăm, “bập bềnh giữa ngữ ngôn hoang đãng”, để rồi “một ngày em quên mình là Chăm”.

Dân tộc Chăm đã từng chịu nhiểu đau khổ, chiến tranh, loạn lạc. Hành trình đi tìm sự sống của họ gắn với con đường. Con đường đưa bước chân người Chăm thoát khỏi bóng tối đau thương:

Họ là đoàn hành hương cuối cùng

Ra đi từ đêm của thế kỉ cũ

                   (“Hành hương về bên kia đêm tối”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Mang theo những nét đẹp truyền thống, họ đang bước trên con đường đi từ quá khứ đến hiện tại bằng bước chân mạnh mẽ:

Những chàng trai Pablap

chân trần lang bạt

kì hồ ciet gha harơk lên vai

gánh dọc thế kỉ hai mươi

hiên ngang gánh sang hai mốt

không lần ngưng nghỉ

   (“Chuyện 7. Kẻ quê hương”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Con đường thời đại của người Chăm được mở lối bằng những bước chân “xát mòn vẹt đau cho mầm đắng trồi lên”. Họ quên đi những mặc cảm của “đứa con hoang lịch sử” để hòa mình vào cuộc sống lớn của dân tộc:

Chúng ta trút gánh nặng xuống

Lên đường! Con đường băng qua buổi chiều những triều đại

                             (“Con đường”, Tháp nắng)

Con đường là không gian chủ đạo gợi mở cho những không gian khác xuất hiện trong thơ. Con đường cũng là nơi ngoái nhìn quá khứ và hướng tới tương lai nên con đường luôn gợi mở những lối đi, dẫn dắt cuộc đời tìm về đúng hướng:

Đưa em về đến đỉnh cao tuyệt diệu

của con đường

đưa em về gần gũi quê hương

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

 

2.2. Hình ảnh con người

Văn học là nhân học nên con người là đối tượng, là trung tâm phản ánh của văn học. Con người là kết tinh những giá trị chân – thiện – mĩ ngàn đời. Những cá thể người ít nhiều phản ánh nền văn hóa sinh dưỡng họ. Nền văn hóa Champa rèn đúc những hình hài, phẩm chất người đậm bản sắc, tựa như từ họ, hơi thở Chăm hồn nhiên toát ra một cách đáng ngưỡng mộ.

2.2.1. Con người đời thường

Con người trong thơ Inrasara lầm lụi, kiên trì với những tiếng rao, nhịp khung cửi, lò nung gốm… Họ là những người mẹ, người anh nơi plei lao động “không lần ngưng nghỉ”, “không có giờ văn chương”. Họ là những người em gái “bị nhổ khỏi plây, bị văng vào phố”, “những số phận/ đi theo đoàn riêng lẻ/ dáng đi sụp đổ/ biến hút vào trưa”, để rồi lâm vào cảnh “bập bềnh ngôn ngữ hoang đãng”. Những con người bình dị oằn thương trong nỗi áo cơm:

Da thịt em nở - áo quần em chật

nhân khẩu tăng phần – khuôn nhà mãi hẹp

thôn xóm cứ mở - ruộng đất cứ teo

Em bị nhổ khỏi plây

bị văng vào phố

Em không có dây chuyền/ không có quần jean

mang linh hồn ngọn đồi

em lạc vào phố lạ.

Em vào giặt giũ trong căn gác lạ

em thợ phụ trong xưởng may lạ

em hoảng hốt trong con hẻm lạ…

Tay em không có nhẫn

em còn đôi mắt buồn

túi em không có tiền

em còn bàn chân đất

           (“Tam tấu ở ngưỡng cửa thế kỉ XXI”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Hay:

Ông về. Nhà đang hết thời

cánh trẻ đổ hút vào phố

(không thể tránh)

 (“Chuyện ông Klơng Man”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Không chỉ vậy, những phận người buồn thương chẳng ít lần vùi mình dưới đáy xã hội:

con ma nào đưa tôi ngồi quán

tôi rơi vào mắt cô gái Chăm đầu tiên bán bia ôm

em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con nít.

                   (“Bất ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Những số phận khó nghèo, nỗi đời cơ cực ấy đi vào thơ Sara cùng nỗi động lòng thương cảm:

Mãi vũng áo cơm

Mãi đỉnh cô đơn

Khiêm cung giữa bạt ngàn đau khổ

Thắp nắng dăm ba số phận mọn hèn

                   (“Thi ca và thi sĩ”, Hành hương em)

Sinh trưởng, trải mình qua bao đói kém nơi plây nghèo, cuộc đời Sara cũng như bao phận Chăm, nếm chẳng ít gian khó, nhọc nhằn nhưng họ vẫn thấy tự hào về những người xung quanh mình:

Plây ta nghèo

Gió trưa tràn bãi nắng

Cha trần thân quần quật cuốc nắng

Cuốc mãi hoài hút bóng ban mai

                    (“Nỗi buồn ứng trước”, Sinh nhật cây xương rồng)

Với mẹ, với vợ và những đứa con thân yêu, Inrasara dành không ít tình cảm thương mến. Hình ảnh những con người bình dị quê hương đi vào thơ anh tự nhiên như hơi thở. Họ không chỉ hiện lên với những phẩm chất chịu thương, chịu khó, lam lũ, cần cù kiếm sống mà còn hiện lên với hình ảnh đẹp đẽ, là những con người ngập tràn đam mê và sự thăng hoa trong những dịp lễ hội:

nhanh hơn nữa. Tôi thấy nắng tràn

không kịp cho giọt sương còn nán ngủ

nắng vây bọc mái tóc thiếu nữ xuống sông lấy nước, cây cột, tấm tranh, màu áo, tiếng gọi nhau tràn về đầu làng

dựng lên kajang cuộc lễ

                    (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Những người con Chăm khắp muôn phương “đều bước về plây” mỗi dịp lễ hội. Họ đắm mình trong không khí náo nức, linh thiêng, tẩy sạch những muộn phiền, tội lỗi và thắp lên niềm vui sống:

Sau Lễ tẩy trần tháng Tư năm nay

cả con sẻ nhỏ yếu, cái kiến mọn hèn nhất

cũng có đất để sống, để chơi

                    (“Ẩn ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Sau mỗi dịp lễ hội linh thiêng, những người con Chăm lại được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục hành trình đời mình. Và trong hành hình cuộc đời không ít nhọc nhằn, khốn khó đó, hành trang đời sống tinh thần của họ luôn đậm đà bản sắc dân tộc với những điệu kamơng, đua buk, với điệu kèn saranai hay ginăng trầm hùng, dáng tháp uy nghiêm bí ẩn, nàng Apsara quyến rũ, mị hoặc và bao trang sách cổ chứng đựng truyền thuyết Champa hào hùng.

2.2.2. Con người tha hương

Cảm thức về con người trong thơ Inrasara mang một dấu ấn riêng đậm nét. Đó là con người tha hương. Tha hương trở thành nỗi ám ảnh trong thơ Inrasara:

Đường trở về

Khi kẻ tha hương nán lại trên đỉnh cao

Ôm mang lần cuối bóng dáng quê hương vào

                                       vùng tim tư lự

Còn quay lại nhìn – nhưng nhức, nôn nao

                                  (“Đường trở về”, Tháp nắng)

Hay:

Vẫn là kẻ tha phương ở mọi chân trời

Nhìn sự vật trần gian bằng đôi mắt

                                       người ngái ngủ

Mãi đóng sập trước chúng ta cánh cửa cuộc đời…

Vẫn là khách tha phương ở mọi

                                       chân trời

Trườn lướt nặng nề trên phong bì sự vật

Chúng ta còn bần cùng hơn người hành khất

Đang làm kẻ lang thang trước ngưỡng cửa cuộc đời

                    (“Kẻ canh đêm”, Sinh nhật cây xương rồng)

Làm khách tha hương, bước chân lãng du nhọc nhằn nơi xứ người, đến khi trở lại quê hương sau bao mùa bất trắc sao họ lại ôm mặt khóc òa? Bởi giữa quê hương mà thấy thiếu quê hương, ấy là cảm thức Chăm. Có thể nói, tha hương là cảm thức thường trực trong hồn thi sĩ, cũng là cảm thức về thân phận con người phương Đông vốn có truyền thống gắn bó chặt chẽ với quê hương chôn nhau cắt rốn. Do đó, việc ra đi và rời xa quê hương luôn đẩy con người phương Đông vào tâm thế tha hương. Tha hương như một mặc cảm, một nỗi đau và vì tha hương nên luôn thường trực trạng thái bơ vơ, ngóng đợi quê nhà. Trạng huống cảm xúc này đậm đặc trong Đường thi như một thi tứ quen thuộc:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

                    (“Hoàng Hạc Lâu”, Thôi Hiệu)

Và nguồn mạch đó vẫn chảy tràn đến thơ Mới:

Làng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

                              (“Tràng giang”, Huy Cận)

Đến thơ đương đại, trạng huống này xuất hiện nhiều trong thơ Inrasara. Hình ảnh con người tha hương trong thơ anh luôn gắn với con đường, bàn chân, hành hương, hành trình… Khảo sát thơ Inrasara, độc giả dễ dàng nhìn thấy sự trở đi trở lại nhiều lần những hình ảnh trực tiếp nói về sự ra đi hay gợi về sự tha hương như: “Đường trở về”, “Con đường lửa thiêng”, “Con đường vỡ”, “Dấu chân trầm”, “Hành hương em”, “Những dấu chân ơn nghĩa”, “Hành hương về bên kia đêm tối”… Rõ ràng đây là một tín hiệu nghệ thuật.

Sự ra đi của những con người tha hương được quê hương ban tặng món quà đặc biệt – nỗi nhớ:

Ôi! Phải chăng chỉ kẻ bỏ xa quê hương quê hương mới ban cho nỗi nhớ

Nỗi nhớ quê hương

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Sự ra đi và nỗi nhớ quê hương trong thơ Inrasara đã khai mở một nguồn cảm xúc mới mẻ, tinh tế và nhân văn. Nhớ quê hương là niềm hân hưởng cuộc đời, là hạnh phúc được quê hương ban tặng.

2.2.3. Con người tận hiến – vô danh

Nếu hạt lúa không chết đi

Nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang đầy hoa trái

                             (Kinh Phúc âm)

Hai câu Phúc âm ám ảnh Inrasara trong một buổi chiều cuối thu mưa phùn, giá rét ở Hà Nội: “Những con người bình thường đến tầm thường, những con người cật lực trong nỗi vô danh của hạt thóc vãi rơi sau vụ gặt thịnh mùa, chịu ở lại với đám ruộng bỏ giá suốt những tháng hạn, với nắng gió, chim chóc… để bật lên cây lúa chắc nịch sau những ngày mưa đầu năm; những con người chịu nở trọn lòng mình trong bóng tối… luôn cuốn hút tâm hồn tôi một cách kì lạ… Chúng ta đến, chúng ta đi, và chúng ta bị quên lãng. Có thể những tên tuổi này sớm bị quên lãng trong kí ức mọi người, như họ mong được thế. Như hạt giống chỉ muốn mình bị lãng quên để có được cây lúa xanh tươi trổ bông trĩu gié cho đời người và cho đời sau”[47].

Sâu xa hơn, lay động sâu thẳm hơn, khi tinh thần của câu Phúc âm kia gần gũi/ tồn chứa trong chiều sâu văn hóa Chăm – con người Chăm: Ấy là tận hiến và vô danh.

Chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng Ấn, Chăm gần như không có sử. Con người, địa danh, những sự kiện lịch sử hóa thân/ tồn tại theo phương thức huyền thoại trong lòng đồng tộc. Trong văn học Chăm, hầu như tất cả các tác phẩm đều vô danh hoặc khuyết danh, dù có không ít sáng tác đậm phong cách cá nhân. Vô danh, được vô danh là tư tưởng rất quan trọng trong nhân sinh quan Chăm. Con người vô danh trong thơ Inrasara hiện hình trong việc thấu tận, nghiền ngẫm về lẽ đời, về nỗi vô thường của con người, từ việc thấu hiểu định phận mong manh của con người, thấu nhận rõ cái đích hiện sinh, ý nghĩa hiện sinh của cá thể người:

Cái đích cuối cùng của cuộc hiện sinh không là gì cả

Nhưng lẽ nào chúng ta sống không làm gì cả

Để cho cuộc đời chúng ta không ra gì cả…

Người đời chọn: những cái sướng, niềm vui

Nhưng chính những vết thương, nỗi đau

Đã nâng chúng ta bay cao, khôn lớn.

Là già cỗi

                             Khi trái tim khép kín

Khi linh hôn thôi tuôn trào

Khi hoài vọng hết bay cao

Khi đôi chân kéo lê trong đầm ký ức

Hãy sống như là một bùng vỡ

Một bùng vỡ không cần đến tiếng động ồn ào.

                    (“Đoản thi thư nhất dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)

Cũng có thể lí giải vô danh bắt nguồn từ quan niệm vòng đời của Chăm. Chăm vẫn quan niệm, cõi trần là cõi tạm. Cuộc đời là cõi tạm, nên con người nhẹ nhõm thênh thang trên cõi đời. Con người vô danh trên mặt đất. Đây chính là vẻ đẹp tâm hồn Chăm, giá trị đích thực của Chăm được người con Chăm nâng niu, thấu cảm:

Người Champa đến đất này đào mương trồng lúa

đốt rừng làm rẫy

yêu nhau

sinh con đẻ cái

làm thơ rồi ra đi

gởi Mĩ Sơn ở lại

                   (“Những dấu chân ơn nghĩa”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Tận hiến, ở góc nhìn nào đó rất gần với tư tưởng Nho gia. Con người Nho gia sinh ra dấn thân lập danh, lập nghiệp, tận hiến cứu đời nhưng là để lập thân, để khẳng định Tài – Tâm – Chí, để thân mình không vô danh trong vũ trụ đất trời, lòng người. Nguyễn Công Trứ - đại biểu của tư tưởng Nho giáo trong khát vọng  lập thân, lập danh trăn trở: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.

Ngược lại, với Chăm, con người trong tuyệt đỉnh tận hiến là vô danh cùng cỏ cây vũ trụ. Những công trình kiến trúc chùa tháp Chăm vô danh, cô độc, kiêu hãnh giữa vũ trụ nhân gian. Những nghệ nhân Chăm tài hoa không tên tuổi, vô danh cùng trời đất. Nhưng là sự vô danh cho sáng tạo hiện tồn/ trường tồn. Dòng chảy tận hiến mạnh mẽ:

Hãy hình dung trăm ý tưởng tài hoa chịu làm vô danh cho tháp Chàm có mặt

hãy hình dung thêm vạn bàn tay sần chai vì nó, đã ẩn mình

thì sá chi thơ anh cõi còm chiều ngày tất bật

hãy thả cho gió bạt chúng về mấy cõi hư vinh

                    (“Ngụ ngôn viết cho mình”, Hành hương em)

Tự hào, biết ơn truyền thống vô danh của dân tộc, Inrasara lặng lẽ uống nguồn dưỡng chất cha ông để lớn dậy. Nhưng, kẻ tận hiến trong Inrasara còn bắt nguồn từ một tình yêu và niềm kiêu hãnh, từ ý thức mình là đứa con Chăm, dòng máu Chăm chảy trong thân thể mình, thi nhân Chăm – Inrasara khẳng định một trách nhiệm thẳm sâu:

Để nuôi ta, ta rút tinh chất từ cha ông

Thì phải cất cho đời sau dòng nhựa.

                    (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Nhẹ nhàng và sâu lắng, Inrasara gửi đến độc giả một tư tưởng ứng xử/ nhân sinh quan cao đẹp. Anh lặng lẽ tận hiến cho quê hương:

Không ít bạn trách tôi mất thời giờ cho thơ tiếng Chăm

có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?

Nhưng tôi lại muốn lãng phí cả đời cho nó

Dù chỉ còn dăm ba người

                                                dù chỉ còn một người

                                                                    hay ngay cả chẳng có ai!

                             (“Ngụ ngôn của đất”, Tháp nắng)

Dường như với Inrasara, tận hiến là hoan ca giữa lòng cuộc đời. Thi nhân sẵn sàng ẩn mình trong bóng tối để lắng nghe tiếng nói những đêm thiêng, tiếng nói của cái tôi bản thể cô đơn bị lãng quên ngàn vạn năm. Anh như cây xương rồng sẵn sàng cháy sáng giữa vú đồi Phan Rang khô khát…

Nếu như văn hóa, văn học Việt chủ yếu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo là tận hiến lập danh thì tư tưởng tận hiến vô danh Champa góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc. Với nhiều người đọc, tận hiến vô danh là một bình diện nhân sinh quan mới mẻ, đáng nghiền ngẫm, suy niệm.

Và như vậy, Inrasara qua thơ mình đã tải chở/ làm hiện thể lên chiều sâu  văn hóa Chăm. Hơn thế, anh đã mở rộng chiều kích văn hóa ấy bằng tình yêu tha thiết với quê hương. Anh đã làm được điều anh nói: “Văn hóa Chăm không phải là xác thối để diều bâu quạ rỉa…tôi ngụp lặn trong văn hóa Chăm, lớn dậy và làm giàu có nền văn hóa mình”[100].

 2.3. Các lễ hội tiêu biểu

Bản sắc là vấn đề sống còn của một dân tộc. “Không có bản lĩnh bản sắc thì một dân tộc không thể tồn tại lâu dài” (Phạm Văn Đồng). Văn học nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng là nơi sáng tạo, lưu giữ, soi thấu bản sắc văn hóa của một dân tộc. Hẹp hơn, với thơ, bản sắc dân tộc là một yếu tính. Nhà thơ chân chính là một hiện tồn, một đại diện cho gương mặt, tâm hồn dân tộc mình. Nhà thơ lớn lên từ những dưỡng chất văn hóa dân tộc mình, bản thân nhà thơ, tựa thỏi nam châm hút về hết thảy những vỉa tầng kim loại – văn hóa dân tộc. Thế nên, đóng góp đầu tiên của các nhà thơ dân tộc vào nền thơ ca nước nhà là bản sắc dân tộc độc đáo hiện tồn qua/ trong thơ họ. Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác như Lò Ngân Sủn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Dương Thuấn…, Inrasara đang đóng góp bản sắc dân tộc Chăm riêng biệt, độc đáo vào gương mặt văn học đương đại.

Một trong những biểu hiện tiêu biểu/ thường trực về bản sắc dân tộc trong thơ các nhà thơ dân tộc thiểu số chính là việc họ đã tái hiện thành công những sinh hoạt văn hóa lễ hội của dân tộc mình. Lễ Tết Tày hồn hậu đi vào thơ Dương Thuấn:

Chiều ba mươi Tết

Cắt từng chùm giấy đào

Em dán lên trước cửa

Hồng phúc khách đến sớm mai

Em dán lên từng cây quả

Cầu mùa sau quả sai

(“Năm mới” – Dương Thuấn)

 Cùng với lễ Tết, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) – lễ hội sinh hoạt độc đáo của dân tộc Tày cũng đi vào thơ Dương Thuấn:

Mùa xuân đến anh đi thăm Ba Bể

Đi hội Lồng Tồng nghe bao tiếng ca

Có tung còn đấu bò, thi hát

Có cô gái Tày đang đợi khách xa

(“Mời anh vào Ba Bể” – Dương Thuấn)

Tiếng hát Sli, lượn, cây đàn tính, đêm hát Then… những thanh âm tâm hồn Tày ngân nga, tỏa sáng trong lòng độc giả:

Đêm hát then đầu năm giải hạn

Làm nảy lên giàn búp trên cành

Xua tan đi những buồn đau trắc ẩn

Của đời người từng gặp nỗi gian truân

Lời then như muôn hạt mưa xuân

Rơi vào đất nhú lên thành lộc biếc

Rơi vào tóc cho tình yêu thêm rạo rực

Rơi vào mây hóa những chiếc cồng vồng

                              (“Đêm then” – Dương Thuấn)

Việc tái hiện lễ hội dân tộc dường như là điều khả nhiên với bất cứ nhà thơ dân tộc nào. Họ tái hiện và gửi gắm vào đó không ít sự nâng niu, trân trọng, tự hào. Và như vậy, nếu lễ hội mang bản sắc dân tộc có trước/ hiện tồn như một đề tài/ chất liệu thì chính những xúc cảm riêng tư/ cá thể của nhà thơ đã làm thăng hoa bản sắc ấy, lưu giữ, đem lại những bình diện mới cho thi liệu bản sắc truyền thống. Các nhà thơ ít nhiều làm phong phú bản sắc dân tộc mình, được nhìn từ lẽ đó.

Là một dân tộc có nhiều lớp văn hóa tích tụ, đắp bồi trong quá trình lịch sử lâu dài, văn hóa Chăm tích chứa những di sản phong phú, đồ sộ, hiếm có trong kho tàng văn hóa 54 dân tộc Việt Nam. Từ vị trí địa lí đặc biệt của mình, văn hóa Chăm thâu nhận nhiều tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo, Hồi giáo, Bà lamôn giáo… các tôn giáo này được tiếp biến, trộn hòa với tín ngưỡng văn hóa bản địa. Sự hỗn dung văn hóa đa tầng độc đáo này giúp Chăm sở hữu lượng văn hóa lễ hội cực lớn – 80 lễ hội văn hóa khác nhau. Theo tiến sĩ Phan Quốc Anh, văn hóa lễ hội là nơi dung chứa mọi yều tố của bản sắc văn hòa: “Từ không gian (chiều rộng) đến thời gian (chiều dài) của văn hóa, từ văn hóa cá nhân đến văn hóa cộng đồng”[3].

Các lễ hội Chăm thường gắn với đền tháp, thánh đường Hồi giáo huyền miên…gắn với 72 điệu trống Ginăng, 72 cung điệu – trạng huống cảm xúc tâm hồn Chăm… gắn với tiếng kèn Saranai náo nức, day diết… gắn với điệu múa Apsara tinh tế, đam mê, huyễn dụ… tất cả…. Bản thân tâm thức lễ hội  - văn hóa Chăm đã tiềm ẩn những giá trị độc đáo vô song, một hấp lực văn hóa hiếm có trong đại gia đình các dân tộc anh em.

2.3.1. Lễ hội Katê

Trong 80 lễ hội Chăm, theo Sayaka – Văn Món, Katê là lễ hội dân gian đặc sắc nhất, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của cộng đồng, nơi hội tụ những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính – nơi ngưng tụ những nghệ thuật chế tác tuyệt mĩ. Lễ hội còn xuất trình công chúng nghệ thuật một nền nghệ thuật ca – múa – nhạc dân gian mang phong cách riêng biệt, độc đáo. Katê thực sự cuốn hút tất cả thành viên trong cộng đồng - ở tất cả các cấp độ, gắn kết mọi người trong một môi trường tín ngưỡng đặc sắc. Người đọc đắm mình trong lễ hội làng Chăm đầy huyền thoại. Dẫu xuôi Nam ngược Bắc, đi đâu về đâu, Katê vẫn là nơi những người con Chăm luôn hướng về quê nhà mỗi mùa lễ hội. Katê, với Sara là mùa của khát khao luyến ái, khát khao sum vầy:

Mỗi tháng, mỗi mùa đợi em về chẳng được

Đành mong em về chỉ mỗi Katê sang

                   (“Tứ tuyệt buồn”, Hành hương em)

Katê đi vào thơ Inrasara với nhiều chiều cảm thức: gió Katê, mùi mưa Katê hay chuyến mưa nồng nã Katê. Đặc biệt, Katê đi vào tâm hồn Inrasara  quyện hòa cùng tiếng trống Ginăng, Baranưng, với dòng ariya, điệu mamăng, đua buk… Sự quyện hòa âm thanh, vũ điệu, lời ca làm nên một mùa “Katê riêng” sinh động. Và tình yêu, trong nỗi khao khát song trùng với Katê trở nên xôn xao, da diết:

Em về

nắng hanh hao – điệu đua buk

                                                                    triền vai

                                       rung rinh màu thổ cẩm

                                       lời ca dao diệu vợi buồn trong mắt

Em về

                                       dáng gầy cổ tháp

                                       bãi cát vàng – lá dừa hát

                                                                    nỗi dưa

                                       trán dãi sương cho lòng đỏ ngọt

Em về

                                       nôn nao dòng anh sám hối

                                       trận đi – dù vô tội

                                       cũng làm đau nửa lối cuộc về.

Em về

                                       mang mang mùi đất

                                       hoa bằng lăng, hoa xương rồng

                                                                             khát

                                       trống ginăng rạo rực

                                       gió Katê

Em về…

(“Katê mới”, Sinh nhật cây xương rồng)

Katê là nơi hạnh ngộ tình yêu. Tình yêu lứa đôi đan lồng trong tình yêu sắt son với quê hương xứ sở. Tình yêu của những người con Chăm xa quê tìm về nhau trong mùa Katê. Bài thơ được pha hòa, kết dệt bằng những màu sắc Chăm: điệu đua buk, màu thổ cẩm, cổ tháp, sắc bằng lăng, xương rồng, điệu ginăng… Một vùng miền tâm chức Chăm quyến dụ, rưng rưng trong hạnh phúc luyến ái của thi sĩ.

Dân tộc Chăm là dân tộc của lễ hội. Với họ, Katê là dịp lễ hội văn hóa đặc sắc, bởi đó là nơi phản chiếu sinh hoạt cộng đồng và hội tụ những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc. Tài năng của Inrasara khi viết về lễ hội Katê:  Anh không chỉ tái hiện không khí bề ngoài mà còn giúp độc giả cảm nhận được tâm thức Chăm, đắm mình vào niềm tin của lễ hội, lặn sâu vào  miền bí ẩn thiêng liêng để thức dậy nét đẹp văn hóa Champa. Nói cách khác, Inrasara đã khắc chạm vào bề sâu văn hóa dân tộc mình.

2.3.2. Lễ tẩy trần tháng Tư

Lễ tẩy trần tháng Tư thực sự đưa người đọc cảm nhập vào một thế giới        lễ hội – tâm linh riêng Chăm. Lễ tẩy trần là lễ linh thánh của người Chăm, được tổ chức vào đầu năm Chăm lịch nhằm tống tiễn cái xấu, tẩy rửa cái cũ ra khỏi palei, đón chào cái mới về với thôn làng. Văn hóa tâm linh chứng nghiệm: “Trong một trường hợp đặc biệt về sự thúc bách tắm rửa, người ta khám phá ra rằng lễ tục tắm rửa là một cố gắng xua đuổi một cảm thức tội lỗi mãnh liệt. Nó là lễ tẩy rửa nội tâm, là biểu hiện tượng trưng khát vọng con người đối với sự trong sạch nội tâm”[3]. Từ gốc nghĩa sâu xa ấy, Inrasara đã chọn nắng – ánh sáng làm “môi giới”, “khởi động của khởi động” lễ hội thiêng liêng:

Nắng đã khởi động trên đồi tháng Tư

khởi động sớm hơn nhiều thế kỉ trước

khi biển còn chưa thức giấc

sớm hơn cả ký ức thầy chủ lễ già

Sớm hơn. Nắng đã khởi động

nắng cưỡi trên chiếc roi mây vũ sư Kaing

đánh thức trống baranưng còn nằm phủ bụi trên sà nhà

lay dậy tiếng gáy cặp gà trống đêm cuối cùng chờ hiến tế.

Nhanh hơn. Tôi thấy nắng vỡ

trên bước chân viên pháp sư bước gấp xuống đồi

nhanh hơn nữa. Tôi thấy nắng tràn

không kịp cho giọt sương còn nán ngủ

nắng vây bọc mái tóc đám thiếu nữ xuống sông

lấy nước, cây cột, tấm tranh, màu áo

tiếng gọi nhau tràn về đầu làng để dựng lên

kajang cuộc lễ

nắng vồ chụp cả khan mưtham bà vũ nữ

bay qua 365 ngày tẩy nhiễm nỗi trần gian

                   (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Cảm thức riêng Chăm bắt nguồn từ cảm thức văn hóa Ấn – đồng nhất giữa con người – vũ trụ - thần linh mới có thể tạo nên một hình tương lạ bất ngờ - nắng huyền miên, sinh động và lạ kì. Nắng như sinh thể thiên nhiên vũ trụ đánh thức sinh thể người, đánh thức cõi huyền bí thiêng liêng, đưa vạn vật đi qua lễ tẩy trần, tìm thấy linh thể của mình. Để rồi, phía bên kia bờ sông, lễ tẩy trần đang vẫy gọi:

bên kia, về phía bên kia nơi bờ sông quê hương tháng Tư đang Lễ tẩy trần.

Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?

trong đau hoan lạc

hát vang bài tụng ca của nước

                                       chảy đi

                                       chảy đi

                                       chảy trôi đi

                                       chảy trôi tất cả đi …

giở một vòm trời khác.

                             (“Lời đề từ”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Nhà thơ dõi theo diễn tiến buổi lễ bằng cả tâm thức Champa:

Lễ tẩy trần tháng Tư đang khởi động

Tiếng thầy chủ lễ lầm rầm khấn tiếng baranưng vỗ

vẫn còn chưa đủ - bài kinh lễ nguyện cầu

chưa đủ cho niềm vui Ông.

Kho chúng ta đầy ứ từ - những từ mòn chán

đầy ứ từ/ vẫn không thấy manh mún từ ngợi ca

                                       niềm vui

một từ vươn ngang tầm ngọn lửa

ngang tầm lễ tẩy trần.

Không còn từ để gọi. Ông thét lên. Các từ xếp cánh và

                                       lủi mất

chỉ có tiếng thét Ông tràn vào khoảng trống trần gian

A…U…M

Ông thét lên

                   (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Không phải ngẫu nhiên mà hiện thể đầu tiên trong nghi thức hành lễ tẩy trần lại là ngôn ngữ. Từ định phận nhà thơ là người “canh giữ” ngôi nhà ngôn ngữ của dân tộc, Inrasara hơn ai hết, ý thức được giá trị hiện tồn của ngôn ngữ dân tộc mình. Anh muốn khẳng định, ngôn ngữ chính lả sự khởi đầu cho mọi sáng tạo, là phương tiện giao nối, thức dậy vạn vật:

A…U..M

Ông thét lên

tiếng thét dội đến bầy trâu gặm cỏ đồi xa dỏng

                                       tai nghe

oan hồn bị lãng quên ngàn năm đội tro ngồi dậy

cánh chim giật mình bay ra vội vã quay lại

như sợ bị tranh mất nguồn vui tẩy trầ n.

AUM…AUM…AUM

Ông đã thấy

cửa trời mở như vòng tay người vợ kiếp xưa ông mở

đám mây mùa tràn về như chỏm tóc đứa con trai

                                       kiếp sau ông bay về

Ông dang tay

Ông bước tới, đạp tới bằng bàn chân ngay qua còn

                                       Đẫm bùn

sá gì ngọn lửa lẹt đẹt với tiếng vỗ tay ahei lẹt đẹt

sá gì tiếng trống ginăng đánh giục truy đuổi sợ hãi

Ông biến vào lửa Ông nhảy vào lửa Ông là ngọn lửa

sạch lần cuối cùng/ sạch muôn ngàn lần nữa

cho thế giới một lần được sạch. Như thế.

Nhanh. Nhanh hơn

Khói bốc lên thành mây, khuôn mặt người cụm mây

                                       mái tóc vạn sợi mây, cả khoảng không gian

                                       tảng mây mưa khổng lồ.

chúng đang lở, đang vỡ và sắp ném tới trận mưa.

Đã vỡ lễ tẩy trần tháng Tư. Ông thấy

vỡ đất, trời, âm thanh bài tụng ca

vỡ niềm vui chờ đợi giấu kín.

                   (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Trong “Lễ tẩy trần tháng Tư” không chỉ thân xác, linh hồn con người, vạn vật được tắm gội trên dòng sông, Inrasara còn khao khát tẩy trần cả những con chữ:

Buổi sáng – rất sảng khoái, tôi ra sông Lu

gánh theo đầu bên kia 41 inư akhar Cham K C T, đầu này

                                       nhúm chữ cái Latinh A B C

nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng đứa một

và tôi vui vẻ tắm với chúng.

                             (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Thằng Klu (con trai Chăm) năm nào hồn nhiên tắm gội và lặng lẽ vẽ mặt mình vào sông thì nay trầm mình tắm gội cùng những con chữ dân tộc trên dòng sông linh thánh. Thi sĩ trên dòng sông thi ca tắm gội, giao đãi mình, cất cao tiếng hát, lời ca, khước từ mọi cái bóng cũ kĩ, đón nhận phần tinh khiết nhất của cuộc đời, khởi động mọi sáng tạo hiện tồn mới về con người, vạn vật.

Có thể nói, văn hóa lễ hội là đời sống tâm thức, tiềm thức, vô thức của mỗi dân tộc. Mỗi nhà thơ dân tộc được xem là đậm đà bản sắc dân tộc không thể không tái hiện lễ hội, mà cao hơn, nhà thơ phải chạm được vào đời sống tinh thần bề sâu/ bề xa ấy của dân tộc mình, đồng thời nhân đôi niềm đam mê vô cùng với nét đẹp văn hóa truyền thống đến với công chúng thưởng lãm. Điều này, số ít nhà thơ có nội lực văn hóa mới làm được. Inrasara đứng vào số ít ấy.

2.4. Các sắc thái tình cảm nổi bật

2.4.1. Tình yêu quê hương

Thơ Inrasara là tiếng lòng vẫy gọi bước chân những người con tha hương, là niềm trăn trở về định phận mong manh về quê hương, dân tộc, văn hóa Chăm. Hành trình tìm về quê hương, đôi chân thi nhân lặng bước qua miền “cố quận”, miền tha thiết tình quê:

Đường trở về

Bước chân người lưỡng lự

Tiếng gọi xa như tiếng gọi gần

Tiếng gọi vọng lại từ cố quận quen thân

Hay tiếng gọi dội từ thành tim tư lự.

Ơi miền cố quận xa!

Cố quận kẻ thân yêu ta rơi lại lên bờ

Cố quận thân yêu ta rơi lại bên bờ

Cố quận bạn bè ta lạc bước bôn ba

Cố quận ta bỏ đi bươn bả

Đang giục ta trở về

                   (“Đường trở về”, Tháp nắng)

Những người con quê lớn dậy từ “bầu sữa ca dao buồn”, bằng “sương mù truyền thuyết”, da diết gắn hồn mình cùng những âm vang bóng ảnh cánh diều, hồn dế, tiếng mõ trâu, với “ánh nhìn của cha”, “nửa nụ cười của mẹ”, “bàn tay diệu vợi của em”. Tình yêu quê hương trở thành “định phận” day dứt, mãnh liệt, sôi trào trong mạch sống người con miền nắng. Tình yêu quê khiến họ linh hiển hóa quê hương mình:

Giữa mênh mông màu nắng quê hương

Hỏi tôi còn tìm thiên đường nơi đâu

                   (“Ngụ ngôn của đất”, Tháp nắng)

Tình yêu quê hương là thứ tình cảm nhân văn nhất thuộc sở hữu con người. Mỗi cá nhân yêu quê với mức độ đậm nhạt, cách biểu hiện khác nhau, nhưng thật khó tìm một người như Inrasara – tựa loài ong chăm chỉ, dùng một đời góp nhặt, tích hương đượm sắc cho văn hóa dân tộc.

2.4.2. Tình yêu đôi lứa

Tình yêu đôi lứa – thứ tình cảm không thể vắng bóng trong cuộc đời, càng không thể thiếu trong hồn những con người vốn đa tình đa cảm Champa. Không ồn ào, cuống quýt, tình yêu của những đôi trai thanh gái tú thường được điểm khắc mỗi mùa Katê. Đó là thứ tình lặng lẽ, sâu lắng, đằm thắm của chàng trai mong đợi người mình thầm yêu mỗi độ Katê sang (“Tứ tuyệt buồn”). Thứ tình quyến luyến, đong đầy: Nhìn mặt đây lòng chưa thôi nhớ/ không uống – li đầy vẫn muốn nâng/ đất cằn mà tình người cứ nở rộ (“Khúc 2. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư).

Dễ dàng nhận thấy, thơ tình Inrasara có sự gắn bó cảm xúc hai chiều chặt chẽ giữa em đi – em về. Những người “em tha hương” vì mưu sinh để lại khoảng trống xúc cảm lớn trong lòng người ở lại:

Em đi thơ rũ dòng buồn

tháp gầy bên chiều vẫy gọi

cát đồi vào đêm không nói

biển réo ngu ngơ

Em xa

ngút mắt bờ xương rồng dõi

tha phương tháng ngày dật dờ.

Không có vui ra đi

chỉ còn đau ở lại

                    (“Khúc 1. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Hay:

Không em

tìm quê hồn sầu xứ lạ

chán mộng du lạc miền phố sá

chiều mông mênh.

Mong cầm tay về xứ gian nan

màu mặt thôi đẫm buồn dĩ vãng

thơ khát khao gieo tiếng vui đầy.

                   (“Khúc 3. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Tình yêu xa cách không tránh được giây phút nhớ nhung, sầu muộn. Để rồi một ngày “em về”, nhân gian như được thắp sáng bởi những sắc màu lung linh của tình yêu:

Có em

tháng bảy bằng lăng đồi trở ấm

cây quê hương giũ bụi cát lầm

đường cày vỡ sáng trán nông dân

                   (“Khúc 3. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Và:

Em về bồn chồn đường plây nhỏ

nắng bay vòm tóc diệu kỳ

lòng tôi nở tràn gió.

Tháng mười mưa mưa mưa mưa

em về sáng đồi sương cũ.

                   (“Khúc 1. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Con người Chăm với tình yêu hồn hậu tha thiết đã đánh thức phần nguyên khiết, ấm áp nhất trong phần con người tình nhân của Inrasara. Tình yêu Chăm mang sắc màu thánh thiện, lấp lánh, huyền ảo, vi diệu đến lạ kì, song cũng đượm chẳng ít nét buồn thương trong nhớ nhung, xa cách. Một thứ tình mong manh tựa như khối pha lê trong suốt chực òa vỡ bởi những đẩy xô, bon chen, “định mệnh” khó tránh từ cuộc sống. Tình yêu, tình nhân trong thơ anh cũng không nằm ngoài định phận mong manh. Bởi vì bản thể tình yêu vốn đau khổ và cô đơn. Thơ tình của anh không nằm ngoài qui luật ấy, thậm chí, nó còn đậm hơn bởi cảm thức hiện sinh và những ẩn ức từ nỗi đau thân phận dân tộc. Nhưng, một điều lạ, những câu thơ tình Inrasara gắn liền trong tình yêu Chăm, trong sự gắn kết không tách lìa với quê hương, gắn liền với ý thức tận hiến cho quê hương, lại mang một giọng điệu thiết tha, ấm áp.

Chương 3

BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM

QUA NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU VÀ THỂ LOẠI

 

3.1.  Thể thơ

“Nghệ thuật bắt đầu từ nơi mà hình thức bắt đầu” [60]. Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật một nhà thơ không thể không nói đến hình thức dung chứa ý tưởng. Việc lựa chọn thể loại phù hợp giúp người nghệ sĩ thể hiện thành công ý tưởng. Inrasara trải nghiệm qua nhiều thể loại thơ khác nhau, từ các thể thơ truyền thống như lục bát, ngũ ngôn, tứ tuyệt… đến các thể thơ hiện đại như thơ tự do, thơ văn xuôi rồi những bài thơ tân hình thức, hậu hiện đại…  Thể trường ca cũng được Inrasara thể nghiệm thành công. Một điều đặc biệt là càng phiêu lưu, trải nghiệm cảm xúc qua nhiều thể thơ, nhà thơ Chăm Inrasara càng lặn sâu vào bản thể, khai phá, bừng nở những giá trị văn hóa Chăm đẹp đẽ, huyền hoặc, mê ảo.

3.1.1. Các thể thơ truyền thống

Mặc dù số lượng không nhiều nhưng các bài thơ làm theo thể thơ truyền thống của Inrasara cũng khá thành công.

Inrasara thường sử dụng thể thơ ngũ ngôn để thể hiện những tình cảm         dồn nén. Mỗi bài thơ ngũ ngôn (“Inrahani”, “Diệp Mi Lan”, “Thu”, “Hoài cảm 1”) lại mang đến cho người đọc cảm xúc mới lạ riêng biệt. Nhà thơ thường ngắt bốn câu thành một khổ và mỗi khổ mang một ý trọn vẹn:

Đôi khi giữa phố vui

Tôi thương về Plây cũ

Đôi khi sau cuộc chơi

Tôi chết trong hoài nhớ

                   (“Hoài cảm 1”, Sinh nhật cây xương rồng)

Nhịp điệu trong mỗi khổ thơ thường hài hòa, nhịp nhàng, hô ứng:

Như đỉnh đầu ngọn lá

Mang chứa gió đại dương

Em đến từ tha phương

Mang tình yêu xứ sở

 

Tôi đến từ rách nát

Của vạn nỗi lạc lầm

Niềm đau dài phiêu bạt

Chiều cố quận dừng chân…

 

Là dòng sông quê hương

Tôi về nhìn tư lự

Em về soi nỗi nhớ

Ngày tháng làm tha phương.

                             (“Inrahani”, Tháp nắng)

Thơ tứ tuyệt của Inrasara súc tích và gợi mở:

Glang Anak tuổi thơ tôi đã thuộc

Rồi qua mấy mùa hoang, tôi đọc lại trăm lần

Vẫn thấy mình cứ quẩn quanh đời chật

Tập thơ mỏng gầy lại mở tới mênh mông.

                   (“Tứ tuyệt Inrasara. Glang Anak”, Hành hương em)

Thơ tứ tuyệt của Inrasara chặt chẽ và có xu hướng hoài cổ. Glang Anak thể hiện sự trường tồn, bất tử của áng thi cổ. Dòng hồi ức lịch sử Champa hào hùng, tươi đẹp òa vỡ, vinh danh một dân tộc trong một nền văn minh linh hiển:

Những đêm Chàm nặng màu gạch

Trôi kí ức và mù sương dĩ vãng

Dĩ vãng vỡ òa và bật sáng

Sáng ngọn lửa cháy màu gạch nung

                   (“Tứ tuyệt Inrasara. Gạch nung”, Hành hương em)

Nét chung nổi bật thơ tứ tuyệt Inrasara là sự hài hòa về thanh điệu tạo nên âm hưởng mượt mà. Sứ mệnh của thơ được Sara nói đến trong tiếng thơ nhẹ nhàng, trong sáng:

Em lại trách anh mãi triết lí xa trong khi mắt mẹ

                                       buồn gần

Gót chân gái quê lấm lem mà tứ thơ anh cứ là

                                       sang trọng

Thì em trách!

Anh chỉ mong đưa thơ chắn che từ vòng xa,

                                       vòng rộng

Mai bão có thốc về cũng nguôi bớt rét

                                       vòng trong.

                    (“Thơ tứ tuyệt Inrasara. Xa và gần”, Hành hương em”)

Độc giả được trải nghiệm cảm giác mới lạ khi thưởng thức thơ tứ tuyệt Inrasara ở chỗ nhà thơ không bò bó trong bảy, tám chữ mà mở rộng biên độ câu tới mười ba, mười bốn âm tiết. Nhưng bạn đọc vẫn không dứt ra được sự phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn đậm đà, sâu sắc của thơ tứ tuyệt Inrasara, trên hết là bị quyến dụ bởi sắc thái Chăm e ấp dưới bút lực Sara.

Lục bát là thể thơ cổ truyền đặc trưng của Việt Nam. Thể thơ truyền thống này cũng góp mặt trong một số bài thơ của Inrasara: “Chế Thảo Lan”, “Em”, “Anh”… Thơ lục bát Inrasara đậm tính truyền thống trong việc sử dụng ngôn từ, sự hài hòa về nhịp điệu gợi mở bao khung cảnh Chăm say đắm:

Chênh vênh chuyến lữ còn dài

Bước chân ảo vọng đã chai gót trần

Xa vời một cõi hư danh

Mang em vào giữa đất trần – nằm say

                   (“Chế Thảo Lan”, Tháp nắng)

Thử sức với thể thơ này, Inrasara điêu luyện gieo vần, ngắt nhịp:

Về đây rừng núi bao dong

Tháp trong nét cổ, em trong dáng hiền

Nắng chiều đổ bóng em nghiêng

Quàng tay với bóng anh lên đỉnh đồi.

                             (“Em”, Tháp nắng)

Trải mình qua các thể thơ truyền thống Việt Nam song thi liệu vẫn là bản sắc văn hóa, khung cảnh, dân tộc, con người Chăm. Chăm là nơi khởi đầu nội lực thơ Inrasara, cũng là nơi dung chứa bao huyền bí cuốn hút bước chân khai phá nơi độc giả. Gịọng thơ mượt mà, phóng khoáng nhưng sâu sắc, đậm đà không thôi vẫy gọi bạn đọc tìm đến thơ Sara.

3.1.2. Các thể thơ hiện đại

Cái vốn truyền thống của thơ Việt và thơ Chăm đều được Inrasara tiếp nhận và sáng tạo. Hành trình “chỉ có cái mới luôn vẫy gọi” thôi thúc anh, các giá trị sáng tạo của anh có thể đang còn ở phía trước. Có thể khẳng định, trong năm tập thơ, thơ tự do vẫn là thể thơ Inrasara gặt hái được nhiều thành công nhất.

Nhu cầu nội tại của đời sống, khi ý thức cá nhân phát triển cao độ, thơ không chỉ là tiếng nói “đồng ý, đồng tình, đồng chí”, mà còn là phương tiện đi vào thế giới tâm linh của con người với những vùng khuất, vùng mờ của vô thức, tiềm thức hoặc chuyên chở những bộn bề, gai góc, phức tạp của hiện thực. Thơ tự do mang đủ những phẩm chất thỏa mãn yêu cầu biểu đạt mới. Hình thức thơ tự do nhất, phóng khoáng nhất để con người có thể trình bày cảm nhận của mình về thế giới một cách khác nhau, đưa đến cái mới trong hình trình sáng tạo. Inrasara cũng không năm ngoài xu thế thơ thời đại. Thơ tự do với những yếu tính của nó, gần với quan niệm thơ Inrasara “chỉ có cái khác lạ đang vẫy gọi”. Ở một phương diện khác, có thể nói con người luôn suy tư về dân tộc, văn hóa Chăm của Inrasara chỉ có thể tìm đến thể thơ tự do mới mong tải chở hết những suy niệm của mình:

con ma nào đưa tôi ngồi quán

tôi rơi vào mắt cô gái Chăm đầu tiên bán bia ôm

em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con nít

ồ, tôi có thể dòm gì, làm gì em cũng được

nhưng tôi muốn dòm gì/ làm gì?

đôi mắt em chuyển màu suy nghĩ tôi

có gì liên quan giữa bắp chân tròn thô đậm rơm rạ em với cặp giò thon thả

vũ nữ Apsara xưa?

… Con ma lôi tôi khỏi quán

Tổ tiên góp sức gì vào xuống cấp hôm nay?

tâm hồn đám hậu duệ khô gạch nung

âm tắc vòm họng dân Quảng 500 năm không chịu mất vết

vẫn đậm mắt buồn tháp hoang

vẫn môi dày, mày rậm, tóc gợn, da ngăm, bắp tay săn chắc

                    (“Bất ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Bài thơ là niềm suy niệm của nhà thơ về cái bấp bênh của thân phận một con người và rộng hơn là một thế hệ người. Tính chất không gò bó số lượng chữ trong câu của thể thơ tự do cho phép Inrasara đi sâu khám phá, giãi bày những suy nghĩ, những liên tưởng chợt hiện trong tâm trí. Hình ảnh thơ, ý thơ vì thế mới mẻ, bất ngờ. Những câu hỏi liên tục đặt ra cuốn người đọc vào dòng chảy suy tưởng của nhà thơ. Từ những suy tưởng ngắn ngủi, chợt hiện, Inrasara mở rộng biên độ suy niệm, nhà thơ luôn thường trực đau đáu về vận Chăm, mệnh Chăm trước cơn lốc biến suy của thời đại. Độc giả ít nhiều cuốn theo những day dứt âm trầm của chính tác giả. “Bất ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay” vẫn là niềm khoái hoạt của triết nhân cô đơn thấu thị.

Thể thơ tự do mở đường cho cuộc hành hương tư tưởng của Inrasara. Cuộc hành hương ấy được nhắc đến trong các bài thơ: “Tháp Chàm muôn mặt”, “Hành hương về bên kia đêm tối”, “Cư sĩ và đám mây, Sầu ca trên đỉnh tháp”, “Tiếng trống Ginăng”, ‘”Con đường”… Dựa vào khả tính của thơ tự do, Inrasara đã đánh thức hiện hữu và hư vô, tự nhiên và con người, cuốn trào người đọc vào không – thời gian Chăm. Với thơ tự do, hình ảnh siêu thực được Inrasara lựa chọn để biểu đạt trong thơ phát huy tối đa giá trị:

Trong khởi động khó nhọc này

chỉ có vẫy gọi khác lạ

hơn cả vẫy gọi của loài hổ mang biển

hoặc loài ma trơi nhiệt đới

hoặc oan hồn nhà tu khổ hạnh bị chối từ

mới mong một lần đánh thức linh hồn hoang hóa chúng ta

Cái vẫy gọi của chênh vênh cánh tay gẫy tượng Shiva khoét rỗng

phần nửa nụ cười bị sứt mẻ Apsara

dáng sắp nghiêng đổ tháp Yang Paksan

khúc gẫy gập sông Lu thình lình cạn nước

                   (“Khởi động của khởi động”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Sự phóng khoáng của hình thức câu thơ đã cho phép dung chứa liên tục những hình ảnh thơ siêu thực: vẫy gọi của loài hổ mang biển, loài ma trơi nhiệt đới, oan hồn nhà thơ khổ hạnh bị chối từ. Inrasara đã “đánh thức” tâm hồn/ tư duy độc giả bằng những hình ảnh mới lạ. Không gian Chăm hư ảo, bộn bề hư – thực, tất cả đều hiện thể. Một cuộc hành trình kiếm tìm/ truy tìm ý nghĩa hiện tồn của con người hay một kiểu mong manh/ vô thường của con người hiện đại.

Đào sâu vào phía khuất lấp của bản thể, lộn trái cái túi cuộc sống vốn chằng chịt vết vá, thơ tự do của Inrasara mang lại nhịp điệu suy tưởng mạnh mẽ, đặc biệt để lại dấu ấn riêng bằng những hình ảnh, những cuộc hành hương tinh thần Chăm riêng biệt, độc đáo.

Thơ văn xuôi của Inrasara không nhiều, có các bài như “Tặng phẩm của dòng sông”, “Trà Ma Hani”, “Chấm phá Trà Vigia”, “Thượng đế lạc hậu”… Thơ văn xuôi Inrasara chinh phục độc giả bằng hình ảnh dồi dào, ngôn ngữ phong phú, linh hoạt, đặc biệt là chất giọng khỏe khoắn:

Như bà mẹ vắt cạn bầu sữa dòng sông trầm mình nuôi lớn hai bờ cây. Cho mùa khô gió reo vào đường lá còn nghe vọng tiếng nói dòng sông

Hay khi ánh trăng soi cành xanh còn thấy động hình ảnh dòng sông gợn chảy. Hay khi trưa cháy nắng ngã mình dưới tàn cây anh nông dân còn được nhìn bóng dáng dòng sông

        (“Tặng phẩm dòng sông”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Ở những bài thơ giàu chất văn xuôi tự sự, thơ Inrasara gắn chặt với đời thường. Những câu thơ dài như một đoạn văn nhưng vẫn giàu tính nhạc và nhịp điệu. Đặc biệt, việc Inrasara sử dụng những câu thơ dài triền miên, bất tận, đọc không đoạn ngắt, không chấm, không phẩy tạo hơi thở miên man, cuốn mãi không ngừng:

Những kẻ không lời ra đi cỏn ngoái lại trông

gió thổi vào khoảng không họ bỏ lại

trôi những cánh đồng, rửa những mái núi

cho lộ thiên đồi tháp ủ niềm bí mật câm

thắc thỏm qua bước bạo động của thời gian

                   (“Cái nhìn ngoái lại”, Hành hương em)

Những câu thơ như tiếng lòng không bến dừng của thi nhân. Những câu thơ dài cuốn độc giả vào nhịp suy tưởng đến giật mình, khi biết mình hoàn toàn bị chinh phục bởi Chăm. Đó là sức sống nội tàng của thơ văn xuôi Inrasara, gợi mở một hồn thơ giàu cảm xúc và suy tưởng.

Thể hiện tinh thần độc sáng, hầu hết các nhà thơ hiện đại thường tìm đến thơ  vắt dòng. Inrasara là một trong vài nhà thơ ở Sài Gòn đã tiếp nhận đầy sáng tạo lối thơ này. 18 bài thơ tân hình thức trong tập thơ Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức là thành quả của sự phiêu lưu đó.

Từ thơ truyền thống đến thơ tự do và thơ Tân hình thức, thơ anh luôn đổi thay cho phù hợp nhịp đập mỗi thời đại. Thơ Tân hình thức của Inrasara gần gũi, dung dị với đời sống Chăm:

Tôi có thằng bạn mắc bệnh ăn

chữ. Không thứ gì khác hắn ăn

sáng trưa chiều tối hắn nhai ngấu nghiến.

vợ hắn khóc hai năm nay rồi

    (“Chuyện 2. Ăn chữ”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Những câu thơ của Inrasara có sự phân tách nhưng điểm dừng không cụ thể tạo điều kiện cho mạch thơ chảy triền miên. Với việc vận dụng lối thơ vắt dòng, Inrasara đã tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật về sự chuyển tải cảm xúc và cách kể chuyện đời thường đầy sáng tạo. Đôi khi, hiện tượng vắt dòng trong thơ Inrasara còn đem đến cho người đọc những bất ngờ thú vị và tạo tính đa nghĩa cho thơ:

Năm 1257 tôi sinh tại Mĩ

Sơn ngày 20 tháng 9 đúng

bảy thế kỉ sau tôi ra đời

trong làng vô danh tận Brasil

   (“Chuyện 11. Chuyện tôi”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

3.1.3. Trường ca

Trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca xuất hiện vào thời cổ đại dưới dạng sử thi. Để biểu đạt nội dung trữ tình, Inrasara đã thêm trường ca vào danh sách thể loại, với hai tác phẩm được xếp vào hàng đỉnh cao của thể trường ca Việt Nam. Đó là trường ca “Quê hương” và trường ca “Tháp nắng”.

Với dung lượng lớn (gần 400 câu), trường ca “Quê hương” được Trúc Thông đánh giá “là một trong số trường ca hay nhất của thơ Việt hiện đại”[83]. Nhân vật trữ tình trải lòng qua bao chiều kích quá khứ - hiện tại. Những vần thơ của Inrasara đã nói hộ tâm linh dân tộc, cả niềm kiêu hãnh và những đau thương. Bản trường ca với 9 đoản ca cho thấy dấu ấn Chăm đậm đà trong tâm trí nhà thơ. Inrasara nhắc lại nhiều lần hai chữ “quê hương”: “Quê hương gầy, quê hương xanh xao”, quê hương như có sức kéo cho mỗi phận đời thay đổi:

Quê hương xa xôi nhưng quê hương rất gần

Ngày em về quê hương ôm em như chưa từng có em

Như quê hương có em sau tháng ngày lưu lạc

Quê hương mãi dõi theo em đến tận cùng trái đất

Quê em cho em sức mạnh bàn chân

Sức mạnh của con tim trong, cánh tay trần

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Tư tưởng thơ khỏe khoắn nhưng sao giọng thơ không giấu nổi nét ngậm ngùi:

Đêm xa quê hương đầu tiên đêm lạnh trắng phận người

Hơn cả đêm xa xưa em rời lòng mẹ

Đêm xám hoang tương lai, đục mờ quá khứ

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Trường ca “Quê hương” bộc lộ nguồn cảm hứng lặn rất sâu vào dân tộc Chăm yêu dấu của anh, trải qua những đợt sóng thơ gập ghềnh lịch sử tối òa tan vào biển lớn đại gia đình dân tộc Việt Nam, báo hiệu một sức sáng tạo dồi dào ở chặng đường tiếp theo.

Khẳng định tài năng ở thể loại trường ca và năng lực sáng tạo của thi nhân, năm 2002, Inrasara trình làng bản trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư”. Tập thơ mang lại cho anh giải thưởng ASEAN danh giá, xác lập vị trí kì nhân làng viết đương đại Inrasara.

Trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” dài 43 trang (từ trang 47 đến trang 90), được xây dựng thành 10 đoản khúc. Lấy chất liệu từ cuộc hành lễ theo nghi thức tôn giáo Bàlamôn của cộng đồng Bà Chăm, vượt qua sự kể, tả, thuật, Inrasara dõi theo buổi lễ với từng mốc xúc cảm. Khởi đầu trường ca là tụng ca sông – nước. Dòng sông và nguồn nước sẽ tắm gội cho mọi người được trong sạch lại. Kết thúc của nó lại là lửa. Con người sạch nhờ nước và lửa:

Ông biến vào lửa Ông nhảy cùng lửa Ông là lửa

sạch lần cuối cùng, sạch muôn ngàn lần nữa

cho thế giới một lần được sạch. Như thế

                   (“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Lễ tẩy trần giúp con người và cả thế giới sống lại, mỗi năm một lần, tiếp sức chịu đựng cuộc sống với tính nhị nguyên âm/ dương của nó: niềm vui/ nỗi đau, sáng/ tối. Nếu linga, lingam, liwa. Lingal (dương vật, cái cày) là những âm vang bất tận ngợi ca phồn thực (hành dục và lao động để sản sinh, no đủ) thì AUM là âm vang tẩy trần linh thánh. Trường ca ngân vang tiếng AUM, vỡ òa trong cảm xúc thiêng liêng được thánh hóa trong sạch đến vô ngần. Hành trình tư tưởng của Inrasara trở về với di sản văn hóa – tín ngưỡng dân tộc, nhưng ở một tầm cao mới, một cách tân mới.

Về mặt hình thức, trong trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư”, Inrasara tiếp nhận ngôn ngữ điện ảnh một cách sáng tạo. Yếu tố điện ảnh và nhịp điệu khẩn trương, căng thẳng ở những trường đoạn miêu tả/ biểu đạt nghi thức và tâm thế hành lễ thật nhuần nhị, sinh động, thiêng liêng.

Văn chương luôn đòi hỏi sự sáng tạo và thể nghiệm. Ý thức tìm tòi, đổi mới sáng tác của Inrasara rất hiếm có trong văn giới. Hai bản trường ca “Quê hương” và “Lễ tẩy trần tháng Tư” là thành quả ghi nhận sự nỗ lực không ngừng của Inrasara.

3.2.  Ngôn ngữ

3.2.1.  Khái niệm ngôn ngữ

Ngôn ngữ văn học là “ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học”[79]. Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản, là đối tượng miêu tả của văn học. Vì vậy mà văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Nói như M.Gorki, “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ được các nhà văn, nhà thơ chọn lọc, rèn giũa trong quá trình lao động nghệ thuật. Ngôn ngữ văn học bao gồm các thuộc tính: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm, tính thẩm mĩ… trong đó tính hình tượng và tính thẩm mĩ là những thuộc tính bản chất nhất, xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác, qui định những thuộc tính ấy. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà thơ, nhà văn.

  “Vấn đề ngôn ngữ trong thơ ca của từng tác giả rõ ràng lại phụ thuộc vào phong cách sáng tạo và bút pháp độc đáo riêng của từng nhà thơ”[19,372]. Nó biểu hiện đầy đủ những mặt mạnh, mặt hạn chế tương ứng với từng phong cách.

3.2.2. Sự kết hợp các loại ngôn ngữ

Lịch sử thi ca Việt Nam từ xưa đến nay đã ghi nhận nhiều tên tuồi có cách sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, độc đáo và tinh tế. Thế kỉ XX đánh dấu việc chuyển mình mạnh mẽ của ngôn ngữ thơ. Insarasa được vinh danh như là một đại diện tiêu biểu của giới sáng tác Chăm thời kì mới. Trả lời cho cách mở đầu bài thơ, Inrasara phát biểu: “Thường thì tôi bắt đầu một bài thơ qua gợi hứng từ ngữ. Tôi thấy một chữ hay, nắm lấy nó, tìm tứ và hình ảnh rồi khi bắt nhịp được thì bài thơ trào ra”[104]. Như vậy, ngôn ngữ đóng vai trò khơi nguồn và dẫn dắt cấu tứ, hình ảnh trong thơ Inrasara.

Ngôn ngữ là tiếng nói dân tộc, mang bản sắc văn hóa dân tộc. Sử dụng   ngôn ngữ dân tộc mình để làm nổi bật văn hóa dân tộc là điều không phải bất cứ ai cũng làm tốt. Nhưng với Inrasara, con người đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm ấy đã tạo nên sức hút kì diệu của ngôn từ. Với tiếng Việt, anh yêu tha thiết, với tiếng Chăm như là máu mủ của anh. Và có thể nói, Inrasara là nhà thơ dân tộc thiểu số Chăm biết dung hợp cả hai yếu tố Chăm – Việt. Thơ Inrasara dung chứa sự phong phú, đa dạng, sinh động của ngôn ngữ.

Sử dụng tiếng Việt (tiếng Kinh) để sáng tác thơ như bao nhà thơ dân tộc thiểu số khác nhưng đó không phải là rào cản ngăn bước chân sáng tác của Inrasara. Ngược lại, anh sử dụng tiếng Việt điêu luyện thậm chí điêu luyện hơn cả tiếng Chăm. Đó là thứ tiếng Việt vừa phong phú, uyển chuyển, vừa mang đậm sắc thái Chăm. Inrasara chỉ mượn tiếng Việt để truyền tải thế giới Chăm, tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ Chăm. Đó cũng là một trong những lí do khiến thơ Inrasara giàu bản sắc mà không bị Việt hóa.

Inrasara đã từng nói: “Thơ có thay đổi hình dạng bao nhiêu lần hay lang thang lạc bước đến phương trời nào đi nữa, nó cũng phải trở về, trở về nơi xuất phát của nó: con người, trong ngôi nhà của nó – ngôn ngữ”[50]. Vì thế, Inrasara rất dụng công khi lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt.

Ngôn ngữ thơ Inrasara vừa sang trọng, truyền thống lại vừa đời thường, hiện đại. Nhà thơ thường sử dụng ngôn ngữ bác học, sang trọng (linh hồn, ban mai, định mệnh, hoang mạc, giai điệu, binh đao…) kết hợp với ngôn ngữ bình dân, đời thường khi đề cập đến những vấn đề mang tầm vóc nhân loại hay mang tính linh thánh. Những biểu hiện trái ngược này đậm nét trong Trường ca “Tháp nắng” và tập thơ Lễ tẩy trần tháng Tư. Cách kết hợp ngôn ngữ vừa giúp mạch thơ trôi chảy trong chiều quá khứ - hiện tại, vừa làm cho thơ Inrasara trở nên gần gũi, cao sang, vừa sâu sắc tính minh triết:

Khi nỗi đau đi vào nỗi đau khai hoang ánh sáng

soi khoảng hồn đã quá xanh xao

chúng ta nhìn vào mắt nhau không mộng mị

kí ức chở số phận chúng ta rời bỏ ga buồn.

Trong kiêu hãnh đắng cay

khi ốc đảo biết gọi mời ốc đảo

ngón tay đan ngón tay hơi ấm không hề gầy

rắn rỏi hơn đức tin vào Chúa.

Con sông, cánh rừng ngày xưa chết yểu

tên chợt bật trên môi chúng

em tin chúng có thể nâng linh hồn từng tủi thân

                                                được/ mất

gượng dậy tìm về?

Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang ánh nắng

tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa

                                                gieo cánh đồng làng

em nhân giống dân ca vào giai điệu mới

bờ cỏ vang vang ngôn ngữ được mùa

                   (“Hạt mùa mới”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Với chuyện thường nhật, ngôn ngữ thơ Inrasara gần với ngôn ngữ              đời thường, dân dã, mộc mạc, lối nói dung dị (mày, tao, xà lỏn, teo vòm vú, nhăn răng…) kết hợp với thể Tân hình thức:

Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên

khóa cuối trung học trước khi làm lang

thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói

mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ

ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như

khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,

hôm nào trời trăng nào biết? Tôi đã

chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ

không một lời bà quay lưng đi dáng

lom khom muốn đổ. Bốn mươi năm bà

quên, tôi thì cứ nhớ. Tôi đã chơi

bóp cổ chú chó con hàng xóm

      (“Chuyện 13. Trẻ dại”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Đó là cách thay đổi giọng điệu cho phù hợp với đề tài một cách linh hoạt, hiệu quả. Nói cách khác, đó là sự thay đổi hình thức thể hiện khát vọng tự do trong tư duy của con người thời đại mới.

Tự nhận mình là kẻ cư trú giữa đường biên văn hóa Chăm – Việt, nhà thơ đã kết hợp cả hai ngôn ngữ Chăm và Việt tạo nên “cách kể một câu chuyện mang đậm dấu ấn cá nhân”[23]. Inrasara chú ý kết hợp những điều mới lạ của thơ Việt với bản sắc trong thơ Chăm để tạo nên loại ngôn ngữ đậm chất Inrasara – vừa truyền thống vừa hiện đại:

đã tắm gội/ đã làm lễ Tẩy trần

linga lingal lingam liwa langgal

vẫn cứ trì hoãn

như là thèm được chết trở lại.

Anh nông dân bỏ dở nửa đường cày

đứng chờ những từ nhập cuộc 

chúng ta hay chúng đang già đi?

Nghiêm trang trước mặt trời thách thức, viên pháp sư

                                       tập đánh vần

ông đọc to từng tiếng một

LINGA… LINGAL… LINGAM… LIWA…LINGAL

Cuộc đánh vần lặp đi lặp lại gần hết đời đến mòn nhẵn

                                       chữ chúng ta sạch

                                       miệng chúng ta sạch

                                       đất chúng ta sạch,

                                       tâm linh chúng ta sạch

Heleh!

                    (“Khởi động của khởi động”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Truyền thống dân tộc được Inrasara tẩm ướp trong thơ với vẻ đẹp tự nhiên, vốn có. Không lạm dụng ngôn ngữ địa phương, Inrasara vẫn khiến độc giả cảm nhận được sinh khí của một dân tộc có bề dày văn hóa và sức sống mãnh liệt. Sử dụng nhiều biệt ngữ địa phương một cách hiệu quả giúp nhà thơ giãi bày được những nỗi niềm khó nói trong thẳm sâu tâm hồn:

chúng tôi lớn lên từ Mĩ Sơn, Dương Long

chúng tôi lớn lên từ nhà Yơ, nhà Halam/

                    chúng tôi lớn lên từ chòi lợp tôn Mĩ

lớn lên từ Panwơc Pađit, Pauh Catwai/

          cũng lớn lên từ Truyện Kiều, thơ Nguyễn Trãi

          (“Bất ngờ cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Inrasara hạn chế tối đa việc sử dụng dấu chấm câu hay những liên từ (và, hay 0 bằng việc sử dụng dấu ngăn cách (/ ; -) tạo những nhịp đứt gãy, ngắt quãng đầy chủ ý trong thơ. Có khi anh sử dụng những câu đơn đặc biệt (Đừng khóc, Bao giờ, Hãy đón lấy, Chảy đi…) nhằm thức dậy những cảm xúc một cách mạnh mẽ.

Mạch thơ Inrasara trôi chảy, tự nhiên không phụ thuộc vào vần. Trong tập Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, Ở nơi ấy/ thơ thời cuộc, vần hầu như rất ít xuất hiện, nhà thơ ngắt nhịp câu tùy hứng nhưng vẫn đảm bảo sự hài hòa về âm điệu. Lời thơ vì thế giống như lời tâm sự:

Phăng mầy ạ

thiên tài thì mầy ăn đứt rồi

khi tụi tao còn viết sai chính tả  tiếng Việt

thơ mầy đã rao bán khắp xóm cùng thôn

Đẹp trai thì mầy đẹp rồi

mầy trắng như Kinh ấy

Giờ

mầy lang bạt xó xỉnh nào của đời hả Phăng

     (“Thư cho & của Phăng”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

Trong thơ Inrasara, vẻ đẹp của ngôn ngữ và chiều sâu tư tưởng luôn tỉ lệ thuận với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện để nhà thơ truyền tải tư tưởng, trí tuệ và tri thức. Vì vậy, một khi nhà thơ làm chủ được ngôn ngữ thì làm chủ được trí tuệ và tri thức. Inrasara đã làm được điều đó. Ngôn ngữ bình thường dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ Inrasara đã trở nên đẹp đẽ, trau truốt, bóng bẩy và đầy giá trị triết lí.

3.2.3. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm

Bên cạnh việc kết hợp ngôn ngữ, thơ Inrasara còn giàu tính tạo hình và biểu cảm. Thơ Inrasara đặc sắc, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. “Sự mạnh khỏe về hình ảnh thơ đã thành đốm lửa ấm khiến người đọc có thể đạt tới khoái cảm hoan lạc về trí tuệ. Chính điều này đã làm nên sự hấp dẫn, một phẩm chất thi sĩ riêng của Inrasara, cho dù thơ Inrasara mang giọng buồn. Không vui nhưng không hề ảm đạm. Thơ Inrasara mang vẻ đơn côi bi hùng như tháp Chàm, vẫn cứ sừng sững độc trọi giữa đất trời bao la”[80].

Nghệ thuật so sánh được Inrasara vận dụng thường xuyên rất linh hoạt, đa dạng. Những hình ảnh so sánh mới lạ: em như con ma hỏng chân – chập chờn, nhẹ bỗng (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng). Các hình thức so sánh trong thơ Inrasara hết sức phong phú: so sánh ngang bằng, so sánh kép, so sánh A như B, A như B1,, B2,… chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Các quan hệ từ so sánh được Inrasara sử dụng theo cấu trúc năng động tạo trường liên tưởng khá lớn:

Bóng của tháp như dòng sông ma

trườn qua đêm tối những thời đại

                   (“Tháp Chàm muôn mặt”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Hay:

Lổm ngổm bò dậy làm người

[như]  một phép lạ

                   (“Tam tấu trước ngưỡng thế kỉ XXI”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Đặc biệt, Inrasara kế thừa nghệ thuật so sánh kép trong văn chương Chăm, mà một thời là nghệ thuật đắc dụng trong thơ Chế Lan Viên:

Tháp Xah Inư sống đời độc thân

có lứa có bạn là Tháp Đôi

lũng Mĩ Sơn tháp ở đại gia đình

làm tam nhân hành thì Ba Tháp

đủ đầy cả thôi mà cứ muốn thất truyền

Như giấc mộng như lóa mắt

                                                          tháp có mặt

như chớp xé như âm vang

                   (“Tháp Chàm muôn mặt”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Có thể nói việc sử dụng nhiều hình thức so sánh phản tư duy duy lí được Inrasara sử dụng nhiều. Anh luôn nhìn sự vật, hiện tượng trong thế so sánh, đối lập, liên hệ, đối chiếu, liên tưởng. Thơ Inrasara rất ít những phương trình so sánh đơn, nhiều phương trình so sánh đa tầng, nối tiếp nhau, cung cấp cho mệnh đề so sánh nhiều sắc thái ý nghĩa và giá trị biểu cảm. Lối so sánh này đòi hỏi người viết có khả năng ngôn ngữ phong phú, có nhiều liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo, táo bạo, đột xuất với những kiểu loại đa dạng. Thơ tự do với việc mở rộng tối đa hình thức của nó đã giúp Inrasara tạo ra những vế so sánh với cấu trúc toàn vẹn, nhiều tầng bậc, hình ảnh, gợi ra cái đa dạng, bề bộn, sinh động vốn có của cuộc đời, khơi dậy cả trầm tích văn hóa Chăm. Vì thế mà thơ Inrasara thỏa mãn chiều sâu của nhận thức và trí tuệ, có nghĩa hàm ngôn phong phú, sâu sắc, có giá trị nhận thức cao.

Bổ sung vào mảnh đất tạo hình và biểu cảm thơ Inrasara là nghệ thuật đối lập, tương phản. Nhà thơ tạo ra những cặp đối lập trong một câu thơ, có khi ở một cặp câu:

Yêu nhau ở Phan Rang 6 lần, đau khổ cũng ngần ấy lần

giàn lửa không thiêu hết tóc em trưa ấy

đêm nay nung sôi lồng ngực anh.

gục ngã ở Phan Rang 7 lần, gượng đứng dậy hơn 7 lần…

Dứt áo rồi quay lại Phan Rang cả trăm lần

Sinh ra và chết ôi Phan Rang chỉ một lần

  (“Những ngày trống. Ngày 8. Sinh chỉ một lần”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Nghệ thuật đối lập xuất hiện khá dày đặc trong nhiều bài thơ: “Chấm phá Trà Vigia”, “Trà Ma Hani”, “Anh Đạm”, “Ngụ ngôn loài xương rồng”… Ngay cả tựa đề một số bài thơ cũng dung chứa phép đối lập, tương phản: “Hữu thể và hư vô”, “Cuộc sống nhưng không”, “Vay – Trả”….

Biện pháp đắc dụng và thành công hơn cả trong thơ Inrasara là ẩn dụ.       Ẩn dụ là phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia, mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo. Ẩn dụ được sử dụng nhiều trong thơ ca, thể hiện phong cách cá nhân, mang phong cách dân tộc và thời đại. Ẩn dụ đặc biệt mang lại những biểu niệm mới về hình ảnh và cảm xúc cho thơ Inrasara. Trong thơ Inrasara, sự liên tưởng được khởi phát ngay ở nhiều nhan đề bài thơ: “Tháp nắng”, “Cư sĩ và đám mây kí ức”, “Những ngày rỗng”. Thơ Inrasara gây ấn tượng cho độc giả mạnh mẽ bởi những hình ảnh ẩn dụ nổi bật được lặp đi lặp lại: ngôi nhà, mặt đất, con đường, bàn chân, những ngày rỗng… Trong đó, hình tượng tháp Chàm được gửi gắm toàn bộ thế giới tâm hồn, tâm linh, là những chiêm nghiệm xưa và nay của thi nhân. Ngôi nhà là nơi che chở, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa Chăm. Con đường không chỉ là lối đi giữa nhân gian mà còn là lối đi được khai mở bằng ý tưởng và nối dài thêm bằng sức sáng tạo. Còn những ngày rỗng lại là lời nhắc nhở về nguồn cội, là sự tỉnh ngộ trước ơn lốc thời gian, là tiếng lòng đồng cảm hay là sự quyết tâm dứt bỏ những vướng bận để bước đi trên hành trình sáng tạo. Những ngày rỗng là những ngày tâm hồn thảnh thơi đón nhận luồng gió mới khơi nguồn cảm hứng. Những hình ảnh ẩn dụ này tựa trục xoay trong mốc hành trình thơ Inrasara giúp nhà thơ kiến tạo những vần thơ đa nghĩa và giàu cảm xúc. Đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Inrasara phần nào là nhờ sự đa tầng nghĩa của phương thức tu từ ẩn dụ trên tạo nên.

Ẩn dụ, so sánh, đối lập đều là những biện pháp nghệ thuật có đất dụng trong thơ Inrasara góp phần làm giàu tính gợi hình, biểu cảm cho ngôn ngữ thơ anh. Song, ngôn từ thơ Inrasara thật sự lột xác và gợi cảm, gợi tình khi anh “trầm mình” trong nghệ thuật trùng điệp.

Nghệ thuật trùng điệp tạo nên hệ thống hình ảnh trùng điệp với những lớp cảm xúc gối lên nhau hết lớp này đến lớp khác. Những bài thơ dài như: “Quê hương”, “Lễ tẩy trần tháng Tư”, “Những ngày rỗng”, “Ngụ ngôn của đất”, “Con đường”… mang hơi thở sử thi phần nhiều là nhờ nghệ thuật trùng điệp. Nghệ thuật trùng điệp làm cho câu thơ Inrasara khắc khoải, trầm buồn phút hành hương:

… vũ điệu của buổi tiệc cuối cùng

Giây phút cuối cùng của ngày cuối cùng

Của tháng cuối cùng của thế kỉ cuối cùng. Tiếng mấp máy môi cuối cùng

Nghoảnh lại cuối cùng. Buồn cuối cùng

Phụt tắt cuối cùng

Tro bụi cuối cùng.

Gió gượng thổi ngọn gió cuối cùng

(“Hành hương về bên kia đêm tối”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Phép điệp câu, điệp cấu trúc được Inrasara sử dụng một cách hiệu quả tạo nên những vần thơ âm vang:

Con lừa đi tìm gánh nặng

Nhà văn đi  tìm tiếng tăm

Thầy tu đi tìm thượng đế

Riêng con đến gặp cuộc đời

            (“Đoản thi thứ hai dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)

Sử dụng nghệ thuật điệp, Inrasara có thể nhấn mạnh về giọng điệu, thuyết phục về giọng điệu, thuyết phục về tư tưởng và thể hiện cảm xúc một cách sâu sắc, khéo léo xô đẩy bạn đọc vào vai người đối thoại với chính nhà thơ:

Làm sao gọi em ngược về thế kỉ Huyền Trân?

làm sao chuyển dịch tôi sang ngữ ngôn huyền sử?

… Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?

                   (“Tụng ca của nước”, Hành hương em)

Ngôn ngữ tạo hình thơ Inrasara vươn lên tầm cao mới bằng việc sử dụng   liên tục những câu thơ ngắn:

Chợt trang nghiêm nắng viện bảo tàng

Chợt kiêu sa choáng cao ốc Sài Gòn

Nhảy múa

Nhảy múa

Nhảy múa

               (“Tụng ca của nước”, Hành hương em)

Trầm mình trong văn hóa Champa ngưỡng vọng, Inrasara – người đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm đã chinh phục độc giả bằng thứ ngôn ngữ giàu sức tạo hình, biểu cảm. Với Inrasara, sáng tạo ngôn ngữ riêng của mình trong ngôn ngữ cộng đồng, phiêu lưu đi tìm dưỡng chất mới cho mùa màng văn học dân tộc bội thu là sứ mệnh đời anh. Nguyễn Thị Minh Thái từng có nhận định xác đáng về ngôn ngữ thơ anh: “Thơ Inrasara thật khỏe, không bi lụy mà như cây đại ngàn qua bão táp vẫn vươn lên đón nắng trời. Tiếng Việt của anh đạt đến mức điêu luyện. Đấy là thứ tiếng Việt phong phú, giàu biểu cảm, được sử dụng uyển chuyển đến mức tài hoa, điều mà không nhiều lắm tác giả người Kinh có được” [80].

3.3.  Giọng điệu

3.3.1. Khái niệm giọng điệu

Theo Khrapchenko, giọng điệu không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện giá trị của tác phẩm văn học mà còn “là một yếu tố cấu thành của tác phẩm nghệ thuật, của sáng tác của nhà văn nói chung, phong cách là một hệ thống. Trong hệ thống đó trước hết cần phải chú ý tới sự tổng hợp của những phương tiện giọng điệu. Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở “giọng điệu chủ yếu” vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh”[80]. Bên cạnh giọng điệu chủ yếu còn có những sắc điệu khác nhau làm phong phú những phối cảnh cảm xúc trong việc lí giải những hiện tượng, những khía cạnh khác nhau và giống nhau của đối tượng sáng tác.

Giọng điệu của mỗi nhà văn phản ánh thái độ, lập trường, tư tưởng, đạo đức, thị hiếu thẩm mĩ của họ đối với hiện tượng được miêu tả “thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [79]. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Mỗi nhà văn, nhà thơ khi sáng tác bắt buộc phải tạo cho mình một giọng điệu riêng nếu như muốn thành nghệ sĩ lớn. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn, nhà thơ chưa thể có tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật.

Khác với văn xuôi tự sự, thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng bởi vậy giọng điệu trong thơ trữ tình chủ yếu là giọng đơn. Giọng điệu trữ tình được thể hiện ở nhiều cấp độ: giọng điệu của từng tác phẩm, giọng điệu chung của tác giả, giọng của thời đại văn học… Giọng điệu trữ tình chịu sự qui định của tư thế trữ tình, cảm hứng chủ đạo và góc độ giao tiếp.

Giọng điệu trữ tình mang tính cá thể hóa của nhà thơ. Tính cá thể hóa ấy thể hiện trong giọng điệu ở một số phương diện: vùng văn hóa quen thuộc với nhà thơ, vốn từ vựng hay dùng, một số môtip hình ảnh quen thuộc, môtip đề tài và chủ đề lặp lại, sở thích và cá tính.

Giọng điệu của những tài năng lớn bao giờ cũng vừa mang tính cá thể vừa mang tính siêu cá thể. Đây là một phương diện để tạo thành phong cách nhà thơ. Ở những phong cách nghệ thuật lớn, giọng điệu cá nhân không bao giờ tách riêng giọng điệu siêu cá thể của cả thời đại nhưng vẫn tìm được chỗ đứng cho riêng mình. Nó như giọng lĩnh xướng trong một dàn đồng ca, hòa nhập mà không tan.

3.3.2. Giọng trầm của suy niệm

Trong sáng tạo nghệ thuật, ngay từ khi xuất hiện, Inrasara đã khẳng định mình ở một giọng điệu riêng. Giọng điệu của Inrasara bắt nguồn từ quan niệm nhân sinh cũng là quan niệm nghệ thuật chi phối hơi thơ, hồn thơ anh. Đó là nỗi trầm tư trước định phận mong manh của thân phận người, thân phận của một nền văn hóa, thân phận của một dân tộc. Theo Inrasara, sự hiện hữu của con người thể hiện ở việc con người trầm tư về chính sự hiện hữu. Không trầm tư/ suy tư, chúng ta không hiện hữu. Quan niệm nhân sinh của Inrasara bắt nguồn từ ẩn ức dân tộc – nỗi buồn thân phận Chăm. Nền văn minh Chăm rực rỡ xưa kia chỉ còn trong kí ức, chỉ còn lại vết tích qua những ngôi tháp hoang buồn. Sinh ra, lớn lên giữa những ngôi tháp hoang cô độc – biểu tượng của nền văn hóa Chăm rực rỡ, giữa bạt ngàn gió, nắng cháy, sa mạc cát Phan Rang… thân phận tháp đã khởi lên trong lòng anh câu hỏi vì sao? Vì sao? Nỗi trầm tư sớm đưa anh tìm đến triết học và được anh tải chở/ hiện thể qua thơ với một giọng trầm, điệu trầm của suy niệm.

Âm nhạc Chăm, những giai điệu nuôi dưỡng tâm hồn Inrasara cũng là những giai điệu trầm buồn. Theo tiến sĩ Phan Quốc Anh thì không chỉ những khúc nhạc trong tang ca ai oán nỉ non mà hầu hết các bài dân ca Chăm đều nặng chất trữ tình hơn là duyên dáng, vui tươi, bởi âm nhạc và múa chỉ dành cho các nghi lễ cầu thần thánh nên nền âm nhạc Chăm ít có khúc ca oai hùng, mạnh mẽ. Thêm vào đó, những tác phẩm văn học dân gian Chăm, các câu Ariya mà từ bé Inrasara đã thuộc nằm lòng như Ariya Xah Pakei, Ariya Cam – Bini cũng mang âm hưởng trầm buồn.

Ariya Cam – Bini Trường ca Chăm – Bàni kể lại chuyện tình của chàng trai Bàni và cô gái Bàlamôn không được sự đồng tình của cộng đồng, các trận hành hạ của cha mẹ cô gái, sự chịu đựng đau khổ của họ. Cuối cùng cả hai đi đến cái chết bi thảm:

… Yêu chàng thân thể mòn hao/ Vết lằn roi lại thêm đau nổi mình/ Ví có đói chẳng buồn ăn uống/ Có xới cơm, chén chẳng dám đầy…/ … Em mất rồi/ Thôi thì đã hết/ Niềm yêu đương ta viết thành thơ/ Lửa lên ta vỡ khóc òa/ Lao vào giàn lửa, ném thơ gởi đời/ Lửa bùng cháy hết cả đôi/ Gương tình chung thùy cho người soi chung.

Có lẽ, tất cả các nhân tố trên đã hun đúc nên giọng trầm, điệu trầm suy niệm của Inrasara.

Trong đời thực, Inrasara là đứa con tha phương luôn đau đáu về quê hương với những phận đời Chăm quê anh, với thân phận tháp hoang, với thân phận những cây xương rồng cô độc trên nắng gió bão bùng sa mạc… Có thể nói, tha hương, với Inrasara vừa là nỗi lưu đày, vừa là trách nhiệm. Có lẽ, chính khối hỗn dung tình yêu – thân phận – trách nhiệm ấy đã mở rộng chiều kích suy niệm trong thơ anh.

Trường ca Quê hương là một dòng suy niệm chảy dài về quê hương yêu thương đói nghèo, về thân phận những đứa con Chăm tha hương. Giọng suy niệm buồn da diết âm vang trong không ít câu thơ:

Là quê hương em/ Dù sáu đỉnh Chà Bang nắng hè khô khốc/ Dù vụ lúa năm này ruộng nẻ chân chim/ Nhưng làm sao quên/ Những ánh nhìn thân quen, những khuôn mặt mới quen/ Những tiếng nói đơn sơ, những nụ cười đơn giản/ Kho kí ức tuổi thơ – những năm, những tháng/ Những trận đòn sau những buổi tắm sông/ Những ngày mưa dài hay những đêm trăng/ Cả những buổi đầu đến trường bỡ ngỡ/ Làm sao cho khỏi nhớ/ Quê hương?/…/ Ôi! Quê hương/ Hôm nay về với nước mắt chảy dài/ Em nhìn quê hương quê hương nhìn em, thầm lặng/ Trên vừng trán nỗi chờ đợi đã hằn sâu. Im lặng/ (Ngôn ngữ thành dư thừa nơi xứ cô đơn)

Lẽ thường, con người trong những niệm tưởng về quê hương, quê hương thường hiện lên như cái nôi của bình yên tâm hồn. Nếu có giọng buồn thì  ắt hẳn đó là nỗi buồn xa cách, nhớ thương. Đó là kết quả của một tâm thế trữ tình nhớ thương, mong đợi, khao khát trở về quê hương. Inrasara khác, cái tâm thế trữ tình của anh về quê hương lả tâm thế của người đau đáu và suy tư. Dĩ nhiên, nhớ thương, mong đợi, khao khát trở về hay đau đáu, suy tư về quê hương đều khởi nguồn từ tình yêu quê hương nhưng, hai tâm thế trữ tình ấy sinh ra hai giọng điệu khác, hai thế giới hình ảnh khác. Thế giới hình ảnh trong suy tư Inrasara là hình ảnh trần trụi, đói nghèo về quê hương, là bằng chứng của tình yêu quê hương.

Về dấu hiệu văn bản, những trăn trở, suy tư, tình yêu đau của Inrasara về thân phận những người Chăm quê anh bộc lộ qua rất nhiều dấu hỏi trong thơ: 38/ 81 bài thơ mang dấu hỏi. Trong Trường ca Quê hương có những đoạn thơ dày đặc dấu hỏi: “…Ai đang đi kia?/ Băng cánh đồng khô chân hối hả/ Đội giành gốm to đi giữa trưa nắng hạ/ Có kịp bữa cơm, đám con đói lao xao?/ Ai đang bước kia/ Quẩy bó lúa ướt nhèm đang vượt lội/ Bờ vùng thì trơn mà sân hợp tác xã thì xa/ (Đường nội đồng vỡ hoang trong cơn lũ đêm qua)/ Ôi đôi vai tuổi đôi mươi đã sớm sần chai lằn đòn gánh/ Tóc em nước mưa chưa khô mà lưng em mồ hôi đã đẫm/ Có kịp không, cho mơ ước lớn khôn?/ Ai đang đi kia /…/ Và ai đang đi kia?... Điệp khúc Ai đang đi kia? Ai đang đi kia?” chừng như là điệp khúc cùng lúc của nhịp vỡ âu lo và suy tưởng. Và nếu những câu hỏi biểu thị nỗi ám ảnh/ suy tư của Inrasara về thân phận những người dân Chăm, thì chính cái giọng suy niệm buồn day diết đã chuyển tải nỗi ám ảnh của anh đến với bạn đọc. Giọng suy tư của Inrasara da diết buồn khi viết về thân phận tháp:

Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng

Biển bên kia và cát bên này

Biết mấy vạn đời rồi tháp nắng

Trên đồi hoang như dấu lặng phơi bày…

Không có một bài thơ ngợi ca

tháp vẫn đứng miệt mài với nắng

trong hoang mạc lòng nhân gian lạnh

                   (“Tháp nắng”, Tháp nắng)

Một điệu buồn của niềm kiêu hãnh! Dường như Inrasara luôn tìm kiếm câu trả lời vì sao cho mọi hiện tồn quanh anh. Nhà văn Nguyễn Minh Thái cho rằng thơ Inrasara mang giọng buồn, không vui nhưng không hề ảm đạm. Tác giả Nguyễn Vĩnh Tiến cũng khẳng định thơ Inrasara đầy suy tư và chính vì vậy anh hay triết lí về con người, cuộc sống. Trước mỗi sự kiện, anh không miêu tả, giãi bày mà đi vào chiều sâu suy tư, mở rộng chiều kích suy tư. Suy niệm giúp anh lặn sâu vào bản thể:

Giã từ câu thơ trong xanh tôi hối hả đi ngược hoàng hôn

Tôi hối hả sống hối hả yêu hối hả ôm mang hối hả

Đi

Và đi

Và đi…

Khi hố thẳm tối đen ở chân trời hoắc mở

Tôi gặp tôi đứng trần truồng trước định mệnh vô âm

Chợt thấy bóng xương rồng nở chật trái tim mù sương

Tôi vội vã quay về quỳ dưới chân đồi và khóc

                    (“Sinh nhật cây xương rồng”, Sinh nhật cây xương rồng)

Cái sắc điệu buồn day diết của suy niệm Inrasara khi anh cất lời về quê hương, về thân phận những người Chăm tha hương, về tháp Chàm chính là khúc niệm tình tha thiết của anh về quê hương Chăm Panduranga thân yêu.

Với Inrasara, lặn sâu/ chiêm nghiệm để trả lời câu hỏi vì sao trước mỗi hiện tượng là mạch ngầm kết nối thơ anh. Điều này thống nhất vời hình tượng một Inrasara triết nhân – cô đơn, tự tại, thống nhất trong nguồn cảm hứng viết về những ngày Rỗng – những ngày suy niệm của anh.

Giản dị mà sâu sắc. Không dấu vết của kĩ thuật thơ. Không chỉ bất ngờ về dòng tư tưởng Inrasara gửi gắm trong thơ, mà còn bất ngờ, khâm phục bởi những dòng cảm nghiệm được anh viết ra. Một trong những đặc tính của thơ triết lí là những thức nhận bất ngờ về cuộc sống, con người. Nhưng, cũng vì để đạt đến tính triết lí, nhiều khi, nhà thơ đánh mất thi điệu/ thi ảnh. Chỉ khi, những suy niệm kia xuất phát từ những rung cảm chân thành của nhà thơ trước cuộc đời mới mong chinh phục hồn độc giả. Những nốt trầm suy niệm quả là âm giai của tâm hồn.

Ở giọng suy niệm buồn day diết, Inrasara đã tạo ra được những hình tượng thơ ám ảnh, đó là tháp Chàm, là quê hương Chăm yêu thương, đói nghèo, là hình ảnh người em trong kiếp phận tha hương. Giọng suy niệm buồn day diết của Inrasara gắn với phương diện cái tôi trữ tình của anh: Đứa con của tâm thức Chăm. Một đứa con của tình yêu Chăm sâu đậm, đứa con ấy lặn sâu vào thân phận dân tộc mình, bản thể mình để chắt ra những nghiệm sinh đẹp.

3.3.3. Giọng đối thoại rắn rỏi

Trong sáng tác của những nhà thơ cách mạng, nổi bật là Tố Hữu, Chế Lan Viên… giọng điệu đối thoại được sử dụng phổ biến. Họ đối thoại để tuyên truyền tư tưởng, chính sách, đường lối cách mạng. Các nhà thơ kháng chiến thường dùng những hô ngữ (ôi, ơi), cách xưng hô gần gũi (mẹ, mế, cha, anh, em. Con và gọi tên mẹ Tơm, Nhiều…), dấu câu   (? – hỏi, ! – chấm than). Cùng mục đích tuyên truyền, cổ vũ cách mạng, nhưng giọng thơ Tố Hữu thiên về tâm tình, giọng thơ Chế Lan Viên nghiêng về lí trí:

Con tàu lên Tây Bắ,c anh đi chăng?

Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô? Tàu đói những vẫn trăng

                  (“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên)

Giọng điệu đối thoại phá vỡ mọi sự ngăn cách giữa tác giả và độc giả. Anh thường nêu ra những vấn đề để người đọc cùng chia sẻ và suy ngẫm. Inrasara đối thoại để bày tỏ nỗi niềm Chăm của mình. Dân tộc Chăm bước qua bao biến suy, oằn mình trong cơn lốc khó nghèo. Dân tộc Chăm thời hiện đại vẫn còn nhiều khiếm khuyết trong cả sinh hoạt lẫn nếp nghĩ. Bao giờ dân tộc Chăm mới đi lên, mới hội nhập được vào không khí chung của đất nước là vấn đề nhà thơ luôn trăn trở.

Đối tượng Inrasara đối thoại tương đối rộng. Trước hết là đối thoại với     thời gian. Thời gian ám ảnh thi sĩ sâu đậm và lâu dài hơn cả. Thi sĩ là kẻ luôn ý thức về thời gian và đối thoại thường trực với nó. Đối thoại với thời gian nhằm mục đích tìm lối đi cho mình, cho người Chăm. Đối thoại với thời gian cũng là tìm về, khẳng định những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa Champa rực rỡ, đáng ngưỡng vọng.

Trở về quá khứ để tìm về mạch nguồn sống của dân tộc. Thi sĩ luôn tìm thấy sự kết nối xưa và nay:

Bây giờ về plây nhỏ

Huyền lại mắt em xưa?

Bao giờ bồng lối cỏ

Bềnh nữa tóc xanh mưa?

Khóc – tôi bời mộng cũ.

                   (“Hoài cảm 1”, Sinh nhật cây xương rồng)

Đối diện với hiện tại, tâm trạng nhà thơ thường bất an:

Vào một đêm rất khuya

Người từ miền sâu bóng tối

Thức giấc

Trong cô đơn

Có chăng cuộc sống đã chồng chất gánh nặng?

                   (“Thực tại”, Tháp nắng)

Inrasara chủ yếu đối thoại với tương lai. Thi sĩ luôn mong chờ tương lai với tinh thần lạc quan, những vẫn chưa hết băn khoăn, lo lắng:

… Tôi đã neo hi vọng cuối cùng

Vào lộ trình đêm tịch mịch

Mai rồi trôi về đâu – không biết.

Có bật ít mầm xanh?

                   (“Hành trình”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Nhà thơ không ít lần đối thoại với quê hương, bày tỏ tình yêu tha thiết của cái tôi ăm ắp tình cảm. Chẳng hạn, Inrasara đối thoại với sông Lu:

Có ai nghe tiếng hát

sáng mai?

khi sông Lu gặp tôi nơi suối nguồn

róc rách về ngôn ngữ sạch trong

Khi sông Lu ẩn cư miền sa mạc

còn ai nâng chông chênh tiếng hát

sớm mai?

                   (“Sông Lu thức cùng tôi đêm nay”, Hành hương em)

Đối thoại với con người quê hương:

Có đất nào như đất ấy không?

Sao em vẫn yêu đất quê hương suốt ngoằn ngoèo khúc ruột

Có đất nào như đất ấy không?

Trí thức là nửa mùa: mảnh bằng cử nhân thì đã đủ

Vốn kiến thức nửa mùa may lắm mới mang nổi cái thân

Chẳng ai nhìn cao hơn, không người nhìn xa hơn

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Nhiều lúc, nhà thơ tự đối thoại với bản thân mình:

Glang Anak tuổi thơ tôi đã thuộc

Rồi qua mấy mùa hoang, tôi đọc lại trăm lần

Vẫn thấy mình quẩn quanh đời chật

Tập thơ mỏng gầy mở tới mênh mông

                   (“Glang Anak – Tứ tuyệt Inrasara”, Hành hương em)

Thi sĩ đối thoại để đúc kết những khám phá của anh trên bình diện tư tưởng:

Cái đích cuối cùng của cuộc hiện sinh không

                                       là gì cả

Nhưng lẽ nào chúng ta sống không làm gì cả

Để cuộc đời chúng ta không ra gì cả.

Hắn nghĩ sẽ bay cao rất cao

Khi chế độ mở toang cửa rộng

- Hắn sẽ chẳng bao giờ lết tới đâu

Bởi không tự vũ trang đôi cánh.

Tất cả đều bị khất lại

Ngay cả sống người ta cũng nhiều lần khất lại

Dù thời gian không đợi ai khất lại bao giờ.

Hãy để trái tim rộng mở

Cho cuộc sống bước vào và đi ra

Đừng để thế giới lướt qua

Với trái tim luôn đóng cửa.

                   (“Đoản thi thứ nhất dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)

Hay:

Sự thất bại không là gì cả

Khi con muốn khai phá con đường riêng của riêng con

Mặc những thành công dễ dãi của

                                       kẻ đang bước theo lối mòn của thiên hạ.

Mỗi sáng thức giấc

Hãy để mặt trời cất đi của con mảnh sợ hãi

                                       đọng lại

Và con trang trọng bước vào ngày mới

(“Đoản thi thứ hai dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)

Hơn thế, giọng đối thoại rắn rỏi làm hiện thể một Inrasara minh triết, rõ ràng quyết liệt trong tư tưởng và hành trình lựa chọn cách sống, cách hiện tồn có ý nghĩa. Giọng đối thoại rắn rỏi ấy đậm nét trong Ngụ ngôn anh viết cho mình. Đó là những thức nhận/ thú nhận chân thành với chính cuộc đời anh. Thơ anh sâu sắc bởi được ướp tẩm vốn văn hóa, tri thức đầy đặn nơi anh. Mọi đối thoại, truy vấn, liên hệ của anh đều đi đến mong muốn chạm vào tính qui luật. Đối thoại, truy vấn chính mình, anh đi đến một xác quyết đầy tinh thần trách nhiệm, một “bùng vỡ” trong chiều sâu tư tưởng:

Để nuôi ta, ta rút từ cha ông

Thì phải cất cho đời sau dòng nhựa

                   (Trường ca “Quê hương”, Tháp nắng)

Có thể nói giọng đối thoại rắn rỏi đã nâng tầm những cảm nghiệm của anh lên tầm tư tưởng khái quát. Nhưng trên hết, qua giọng đối thoại rắn rỏi, độc giả bắt gặp Inrasara trong hình ảnh đẹp của một người không chỉ luôn âu lo cho Chăm mà còn đẹp hơn trong hình ản thi nhân luôn trăn trở truy tìm giá trị sống/ ý nghĩa hiện tồn đích thực cho mỗi phận người, mà trước hết cho chính anh.

3.3.4. Giọng trữ tình tha thiết

Bên cạnh những triết luận, những đối thoại sắc sảo, giọng thơ Inrasara còn thấm đẫm chất trữ tình. Thơ Inrasara chuyên về trữ tình đời tư và thế sự. Khơi nguồn cho giọng trữ tình thơ Inrasara là sự tiếc nuối, hoài niệm, nhớ mong, thành kính.

Với giọng thơ bùi ngùi, buồn thương, nhà thơ nuối tiếc cho những giá trị truyền thống dân tộc đang từng ngày mai một. Đó là hình ảnh của “Tháp hoang”, “Điệu cuồng vũ buồn”, “Chuyện chữ”… Nhà thơ run rẩy lòng, kêu cứu cho tiếng vọng con chữ:

Nét chữ cong queo          âm tiết run rẩy

kêu vào khoảng trống

cứu              chúng          tôi

DAUNG               KLAUNG             HAI

116 câu ariya lầm lụi đi            về

bì  bõm biển sóng

len khe hẹp bóng tối

dắt díu                  đi

xin     cứu    chúng          tôi

đường cong chữ bám nhau chặt hơn

âm tiết run rẩy hơn

                   (“Chuyện chữ”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)

“Nỗi thân” của con chữ thật đáng xót xa, vẫy vùng trong một khoảng trời đơn côi, tuyệt vọng, mong chờ ánh sáng cứu vớt. Bằng việc tạo khoảng trống giữa những con chữ, câu thơ như những tiếng nấc nghẹn. Giọng thơ như dâng lên rồi nghẹn lại tạo cảm giác bất lực, tiếc nuối.

Sự tiếc nuối của thi sĩ còn thể hiện trong cái nhìn của quá khứ với những lỗi lầm không thể chuộc lại (“Chuyện 13.Trẻ dại”), về những giấc mơ bị giam cầm từ rất sớm/ dẫu bé con, về sự trì hoãn trước tiếng gọi của con đường và cả việc bỏ quên niềm đam mê sáng tạo của người bạn thơ:

Chuyến đi hôm xưa

                                       những tưởng chuyến cuối cùng

Sao anh vội xế trưa, đang khi mặt trời

                                                                             đứng bóng!

Thiên kỉ mới mở mênh

                                                                             Anh thì xếp cánh

Hồn vô ưu rơi mất lối chim gầy

Bến bờ hun hút xa, bàn chân bước hẫng

                             (“Khát vọng biển”, Hành hương em)

Viết về tình cảm với người thân, giọng thơ Inrasara càng tha thiết trữ tình, thành kính:

Còn ngọn lửa đám thiêu cha ở góc tối cửa rừng

lay kí ức tuổi thơ con

động cựa.

bóng cha xưa đi lẩn bóng đồi

đồi ôm mang dọa nạt.

mẹ gầy khô dáng bước

rừng hôm nay đâu cũng lối mòn.

chỉ còn nỗi trắng thoang thoảng thốt

chất đầy tiếng chim khuya

thổi bạt ngàn đám lửa thiêu cha

nén kí ức tuổi thơ cha, nín lặng

                   (“Kí ức rừng”, Hành hương em)

Ở mảng thơ tình, Inrasara cất vang giọng thơ đằm thắm, ngọt ngào,            tha thiết:

Và tôi yêu em

tôi nhìn em thẳm sâu đôi mắt tháp đêm

tôi hôn em đắm say triền môi biển sóng

tôi ghì em đê mê vòng tay cát nóng

                   (“Ngụ ngôn mùa Đông”, Lễ tẩy trần tháng Tư)

Thơ Inrasara mang giọng buồn, không vui nhưng không hề ảm đạm. Đọc thơ Inrasara, độc giả thấy rõ điều đó. Bên cạnh giọng thơ buồn thương, tiếc nuối, hoài niệm về một dân tộc Chăm trong quá khứ, thơ Inrasara còn có cả niềm vui, niềm hi vọng:

Sóng lớp bàn tay lao xao vẫy anh về phía trước

Nhìn đăm đắm anh là những dáng buồm căng

Chắc đậm dòng sông anh chảy tràn biển khác

Chuyến hôm nay

                                                          chắc chi là chuyến cuối cùng

                             (“Khát vọng biển”, Hành hương em)

Tình yêu quê hương là động lực giúp Inrasara vươt qua “đời thách thức”. Sau những tháng ngày tha hương, nhà thơ lại trở về với tình yêu nguyên vẹn và một niềm tin mãnh liệt về sự hồi sinh:

Lại xanh trong tôi – dù rừng đã cháy

Lại chảy trong tôi – dù sông đã chết

                             (“Đường trở về”, Tháp nắng)   

Chính tình yêu tha thiết với quê hương, với văn hóa Champa đã chắp bút cho những sáng tạo của Inrasara. Giọng trữ tình tha thiết quyến dụ bởi những xúc cảm đa diện, khi tha thiết, hi vọng, khi lại buồn bã, tiếc nuối. Hơi thơ có lúc gấp gáp, hối hả, lúc mượt mà, đằm thắm. Tất cả tạo ra một chất giọng trữ tình riêng biệt mang dấu ấn Inrasara. Giọng thơ trữ tình Inrasara ngân vang những giai điệu trữ tình ngọt ngào, thiết tha, say đắm.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

  1. Inrasara là nhà thơ đương đại xuất sắc. Tiếp nhận những ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa Chăm – văn học Chăm, Inrasara bộc lộ một tài năng đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo. Bút lực thi nhân hướng đến cả việc nghiên cứu, phê bình, sáng tác tiểu thuyết… nhưng có lẽ điều cuối cùng nhà thơ hướng tới là bản sắc văn hóa Chăm.

  2. Trên phương diện nội dung trữ tình, cái tôi trữ tình Inrasara mang tâm thế cô đơn. Cái tôi cô đơn lặn sâu vào bản thể, vào văn hóa dân tộc, tải chở hồn vía, bản sắc Chăm vào thơ. Tự nhận mình là người con đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm, Inrasara yêu nền văn hóa dân tộc mình. Mọi nỗ lực sáng tạo của anh chỉ nhằm làm thức dậy một nền văn hóa đã bị chìm lấp dưới tro bụi thời gian và lòng người.

Về khả năng chiếm lĩnh hiện thực, Inrasara đưa độc giả về với quê hương, con người Champa, dựng lên cả một không khí lễ hội đặc sắc khi vui tươi, lúc mê trầm, linh hiển, dụ hoặc. Thơ Inrasara cuốn hút độc giả bởi thứ tình cảm mang tính bản thể nhất của con người – tình yêu quê hương, quyến dụ bởi thứ tình yêu kín đáo, âm trầm, đắm say. Để lộ thiên hoàn toàn một nền văn hóa Chăm, Inrasara dựng nên những hình ảnh mang tính biểu tượng về quê hương Chăm, tháp Chàm, sông Lu, con đường…  và những lễ hội văn hóa Chăm như Lễ tẩy trần, lễ hội Katê trong những vần thơ khắc khoải nhưng đầy tự hào. Những con người Chăm đớn đau trong kiếp hạnh tha hương, hân hoan trong niềm tận hiến – vô danh đã chạm khắc nên những chân dung riêng Chăm. Và hiện thực quê hương Chăm khó nghèo, oằn mình trong bao giông gió của lịch sử được Inrasara thể hiện khá trọn vẹn. Tất cả tạo nên một bản sắc văn hóa Chăm đẫm đầy trong thơ Inrasara.

  3. Trên phương diện nghệ thuật biểu hiện, Inrasara đã tạo cho mình giọng điệu riêng. Đó là giọng trầm của suy niệm, giọng đối thoại sắc sảo và sự mượt mà, đằm thắm của giọng trữ tình tha thiết. Có thể nói, Inrasara là nhà thơ cách tân nhất hiện nay. Inrasara luôn có ý thức đổi mới thơ. Điều đó thể hiện qua ngôn ngữ thơ và thể thơ. Ngôn ngữ thơ Inrasara vừa đẹp, sang trọng, truyền thống lại vừa đời thường, thông tục. Biểu hiện trái ngược này thường xuất hiện đồng thời trong cùng một bài thơ nhất là những trường ca, như trường ca Quê hương. Cách sử dụng ngôn ngữ như vậy dễ tạo nên mạch thơ nói về sự trôi chảy từ quá khứ đến hiện đại. Mặt khác, ngôn ngữ thơ Inrasara giàu tính tạo hình và biểu cảm. Sự cách tân về nghệ thuật còn thể hiện qua việc Inrasarra sáng tác bằng rất nhiều thể thơ như thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ tân hình thức. Ngoài ra, Inrasarra còn sử dụng rải rác các thể thơ cổ điển như ngũ ngôn, thơ tứ tuyệt và thơ lục bát. Inrasara đặc biệt thành công với những thể nghiệm về trường ca. Thi liệu biểu hiện vẫn là bản sắc văn hóa Chăm. Những cách tân trên cơ sở truyền thống của Inrasara không nằm ngoài việc đưa bản sắc văn hóa Chăm đến gần giới thưởng lãm.

  4. Có mạch nguồn từ văn hóa Chăm cùng những đặc sắc trong nội dung trữ tình và nghệ thuật biểu hiện, nhà thơ dân tộc thiểu số thực sự đưa thơ mình hòa vào dòng chảy thơ ca dân tộc đương đại, mở tung cánh cửa văn hóa Chăm – một nền văn hóa hào hùng tưởng như đã rơi vào quên lãng. Bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara là chìa khóa nghiên cứu, tìm về cội nguồn dân tộc tính trong thơ anh, làm linh hiển một dân tộc trong một nền văn hóa Champa. Con đường thơ Inrasara còn dài ở phía trước, nhưng chúng tôi tin rằng, chỉ khi anh tiếp tục lặn sâu vào văn hóa dân tộc anh, lặn sâu vào tâm thức/ tâm cảm/ tâm linh Chăm, anh mới có thể xây thêm những tháp thơ của riêng mình. Cầm giữ cái “gien” Chăm, cầm giữ và thức dậy, làm lớn mạnh mạch hồn/ mạch nguồn Chăm trong đời sống thi ca dân tộc, Inrasara quả là một hiện sinh độc đáo trong thơ và qua thơ.

 


 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Thi An (2004), “Bàn về giọng điệu trong thơ trữ tình”, http://baobinhdinh.com.vn.

2.     Hoàng Văn An (2008), “Nắng còn ngời trên tháp và mở ra một Inrasara – nhà thơ”, http://Inrasara.com.

3.     Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận, Luận án tiến sĩ, Viện Văn hóa thông tin.

4.     Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (sưu tầm và          biên soạn, 2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lí thuyết,      NXB Hội Nhà văn, Trung tâm Văn  hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

5.     Thu Ba – Trà Chân (2007), “Inrasara – tháp Chàm bốn mặt”, Diễn đàn           văn nghệ Việt Nam, (147).

6.     Phan Xuân Biên (chủ biên, 1989), Người Chăm ở Thuận Hải, Sở Văn hóa          – Thông tin Thuận Hải.

7.     Phan Xuân Biên (1990), “Tính đa dạng của văn hóa Chăm”, Tạp chí Khoa học xã hội, (4).

8.     Phan Xuân Biên (1993), “Văn hóa Chăm, những yếu tố bản địa và bản địa hóa”, Tạp chí Dân tộc học, (1),  (7 – 12).

9.     Phạm Quốc Ca (2003),  Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 – 2000, NXN Hội Nhà văn, Hà Nội.

10.  Trần Can (2008), “Giải mã hiện tượng Inrasara”, http://Inrasara.com.

11.  Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

12.  Nông Quốc Chấn (chủ biên, 2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn học các dân tộc thiểu số, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13.  Nông Quốc Chấn – Hoàng Tuấn Cư – Vi Hồng Nhân (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

14.  Trần Kim Cúc (16-4-2000), “Inrasara, cái nhìn ngoái lại”, Báo Thanh niên    cuối tuần.

15.  Nguyễn Đăng Cương (30 – 04 – 1984), “Người đi tìm kho báu văn học Chăm”, Báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh.

16.  Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, NXB Khoa học     xã hội, Hà Nội.

17.  Khắc Dũng (2007), “Inrasara, đi là để trở về, Đặc san Đà Lạt trẻ, (4).

18.  Dohamide (1974), Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn.

19.  Hữu Đạt (1998), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

20.  Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại, NXB Giáo dục,    Hà Nội.

21.  Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

22.  Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình Việt Nam, NXB Văn học,   Hà Nội.

23.  Lý Đợi ( 2003 ), Đọc Lễ tẩy trần tháng Tư của Inrasara, http://kesach.org.

24.  Văn Giá (2008), Viết cùng bạn viết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

25.  Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, NXB Thuận Hóa – Huế.

26.  Lê Thị Việt Hà (2009), Hành trình cách tân thơ Inrasara, Luận văn Thạc sĩ    Ngữ văn, Ngành Lí luận văn học, Trường Đại học sư phạm Vinh.

27.  Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội,           Hà Nội.

28.  Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

29.  Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển Văn học Việt Nam (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.

30.  Nguyễn Hòa (2007), “Xu hướng Tân hình thức, hậu hiện đại trong thơ: Chiếc áo rộng cho một cơ thể còm, http://cand.com.vn.

31.  Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa thông tin,    Hà Nội.

32.  Văn Công Hùng (2007), “Hoa xương rồng trên cát, Báo Tiền phong           cuối tuần, (30).

33.  Thu Huyền (2007), “Inrasara: Sẽ không có cuộc cách mạng thơ trong tương lai gần” (phỏng vấn), Báo Văn nghệ trẻ, (32).

34.  Khế Iêm (2000), “Chú giải về thơ tân hình thức”, Tạp chí Thơ, (18).

35.  Inrasara (1996), Tháp nắng – thơ và trường ca, NXB Thanh niên, Hà Nội.

36.  Inrasara (1997), Sinh nhật cây xương rồng – thơ song ngữ Việt – Chăm, NXB Văn hóa – Dân tộc, Hà Nội.

37.  Inrasara (1999), Hành hương em – thơ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

38.  Inrasara (2002), Lễ tẩy trần tháng Tư – thơ và trường ca, NXB Hội Nhà văn,     Hà Nội.

39.  Inrasara (2006), Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

40.  Inrasara (2008), Ở nơi ấy [Thơ thời cuộc], Tienve.org.

41.  Inrasara (2008), Song thoại với cái mới, tiểu luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

42.  Inrasara (2006), “Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”, Tạp chí Tia sáng,    Hà Nội.

43.  Inrasara (2011), Tagalau 12, NXB Văn học, Hà Nội.

44.  Inrasara (2013), Thả diều ở xứ nắng, NXB Kim Đồng, Hà Nội.

45.  Inrasara (2006), “Thơ dân tộc thiểu số, từ một hướng nhìn động”, http:// inrasara.com.

46.  Inrasara (2008), “Tân hình thức, một hướng đi mới”, http:// inrasara.com.

47.  Inrasara (2008), Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại, tiểu luận, NXB Văn học, Hà Nội.

48.  Inrasara (1994), Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

49.  Inrasara (2006), Chưa đủ cô đơn để sáng tạo, NXB Văn nghệ, Hà Nội.

50.  Inrasara (2009), “Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại”, http://tienve.org.

51.  Đỗ Trọng Khơi (2007), Thơ hay trong một cách nhìn, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

52.  Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

53.  Lê Thị Tuyết Lan – Nguyễn Thị Thu Hương (2008), Tìm hiểu thế giới        nghệ thuật thơ Inrasara, Nghiên cứu văn học, Đại học KHXH & NV TP Hồ Chí Minh.

54.  Ngô Sĩ Liên và các tác giả (1972), Đại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch của Cao Huy Du, Đào Duy Anh hiệu đính) tập I,II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

55.  Trần Xuân Linh (1995), “Văn học Chăm, công trình của cả một thời thanh xuân”, Tạp chí Thời văn, (7).

56.  Thạch Linh (2004), “Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003: Một mùa đúng vụ”, http:// www.tuoitre.com.

57.  Vi Thùy Linh, “Tôi sống cật lực như thể ngày mai sẽ chết”, http://vietnam.net.

58.  Lê Bảo Âu Long (2006), “Inrasara, đứa con của tháp Chàm”, Tạp chí VTV, (4), Đài truyền hình Việt Nam.

59.  Chu Nguyên Long (2006), “Tâm hồn Chăm qua Lễ tẩy trần tháng Tư”, Báo Quốc tế, số Xuân.

60.  Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

61.  Hoàng Thiên Nga (2003), “Inrasara khai hoang trên từng trang viết”, http://Inrasasa.com.

62.  Nguyễn Vĩnh Nguyên (2000), “Có một người hành hương”, http://Inrasara.com.

63.  Nguyễn Vĩnh Nguyên (2003), “Inrasara cãi nhau với bóng mình”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (443).

64.  Nguyễn Vĩnh Nguyên (2004), “Inrasara, nhà thơ trầm tưởng” (phỏng vấn), Tạp chí Văn hóa dân tộc, (8).

65.  Trần Hoàng Nhân (2005), “Nhà thơ Inrasara – gương mặt văn hóa Chăm”, Tạp chí Tài hoa trẻ, (384).

66.  Phan Đăng Nhật – Lâm Tiến – Dương Thuấn (1997), Văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

67.  Vũ Nho (2004), “Thơ Inrasara, Những khúc ca đỉnh tháp”, Báo Thơ, (16).

68.  Lê Thiếu Nhơn (2008), “Inrasara và góc nhìn thơ đương đại Việt Nam”, http://lethieunhon.com.

69.  Dương Tấn Phát (1950), Bộ luật hôn nhân Chàm, NXB Sài Gòn.

70.  Cao Xuân Phổ (1988), Người Chăm và điêu khắc Chăm, NXB Sài Gòn.

71.  Lê Minh Sơn dịch (1978) (M.B.Khravchenco), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

72.  Lò Ngân Sủng (1997), “Đọc thơ Inrasara”, Tạp chí Văn, (70).

73.  Đặng Đức Siêu (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại học sư phạm,         Hà Nội.

74.  Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn,          Hà Nội.

75.  Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

76.  Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

77.  Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

78.  Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.

79.  Trần Đình Sử (chủ biên, 2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

80.  Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Lời bình “Con đường lửa thiêng” – Tuyển tập Văn học Dân tộc và Miền núi, (3).

81.  Vũ Thanh (2003), “Giọng điệu thơ trữ tình – Một cuốn sách có giá trị”,        Tạp chí Văn học, (3).

82.  Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,          NXB Văn học, Hà Nội.

83.  Phan Trung Thành (2006), “Đi giữa truyền thống và hiện đại”, Đài truyền hình Việt Nam VTV1.

84.  Trúc Thông (1998), “Đọc Tháp nắng của Inrasara”, Báo Văn nghệ, (27).

85.  Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

86.  Hà Văn Thùy (2000), “Inrasara, bay lên từ tháp cổ”, Tạp chí Văn hóa                – nghệ thuật Công an, (11).

87.  Trần Nhã Thụy (2003), “Inrasara, người tìm kiếm & kiến tạo vẻ đẹp Chăm”, Tạp chí Tài hoa trẻ , (253).

88.  Võ Thị Hạnh Thủy (2008), Thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

89.  Đặng Tiến (2008), “Thơ là gì ?”, http://tienve.org.

90.  Lâm Tiến, Tham luận tại hội nghị VHNT và DTTS, Hà Nội, 4 – 2006 (101).

91.  Phan Lạc Tuyên (1997), “Nông nghiệp cổ truyền của người Chăm ở Thuận Hải”, Tạp chí Dân tộc học, (1).

92.  Nguyễn Đình Tư (1971), Non nước Ninh Thuận, Sống mới xuất bản, Sài Gòn.

93.  Phạm Quang Trung (1998), “Thơ Inrasara đến từ quan niệm”,Tạp chí Văn, (85).

94.  Hoàng Quảng Uyên (2000), “Yêu Inrasara”, Một mình trong cõi thơ,             NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

95.  Trần Quốc Vượng (Chủ biên, 1996), Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa    Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

96.  Trần Quốc Vượng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

97.  Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với           con người Việt Nam hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

 

BÁO ĐIỆN TỬ

98.  Ở nơi ấy [thơ thời cuộc], http://Inrasara.com

99.  Website Inrasara.com.

100.        Website Vietbao.com.

101.        Website Wikipedia.com.

102.        Website tapchsonghuong.com.

103.        Website baomoi.com.

104.        Website giadinh.net.vn.

 

 

 


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn