BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
THÂN THỊ ANH TRANG
BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM TRONG
THƠ INRASARA
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Bình Định
– 10 /2014
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Inrasara là “đứa con tâm thức của dân tộc
Chăm”, nhà thơ Chăm tài hoa. Anh được xem là một hiện tượng nổi bật, một đối tượng
đáng nghiên cứu trong nền văn học đương đại. Tựa chú ong chăm chỉ, bền sức, vững
lòng, đưa văn hóa Chăm “bắt đầu từ con số không, từ con số âm – có lẽ” qua “một
cuộc đi dài”, xóa tan “lớp sương mù quá khứ”, Inrasara đã đưa văn hóa Chăm đến
bờ rực rỡ ngưỡng vọng. Anh đóng góp khá lớn trên con đường định hình, tiếp nối,
khẳng định tiếng thơ dân tộc Chăm, làm phong phú thơ ca Việt Nam đương đại.
Không chỉ thành công trong sáng tạo nghệ
thuật, anh còn say mê nghiên cứu văn hóa, văn học và có nhiều thành tựu đáng nể.
Inrasara “mọc” vào đời như một huyền thoại
và “mọc” vào thơ ca như cách loài xương rồng đơm hoa trên sỏi đá. Với thơ, ông
hai lần đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1997, 2003), giải thưởng
ASEAN (2005)… Anh được ví như thiên tài, kỳ nhân của làng viết.
Ngụp lặn và lớn dậy trong nền văn hóa
Chăm, Inrasara tải chở hồn vía Chăm vào thơ. Sự tải chở ấy còn là con đường tìm
về, thấu hiểu dân tộc mình. Khám phá bản sắc Chăm trong thơ anh là tìm về những
giá trị văn hóa trân quý tưởng trầm tích thời gian phủ mờ, nay vụt sáng trong
dòng tận hiến thơ Inrasara, bên cạnh đó cũng là để nhìn nhận đóng góp của thơ
anh vào tiếng nói chung của nền văn học đương đại.
Cuộc hành hương đến thánh đài thi ca lặng
lẽ và vinh quang ấy khiến Inrasara trở thành đối tượng cho nhiều nhà nghiên cứu,
phê bình văn học hướng đến. Hàng trăm bài viết, hàng chục bài tiểu luận, công
trình lớn nhỏ tìm hiểu về con người, nghệ thuật thơ ca của vị thiên tài này,
trong số đó không ít người gặt hái những thành công nhất định. Nhưng hầu như
chưa có một công trình nào nghiên cứu về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ
Inrasara, đó là lí do quan trọng, tôi lựa chọn đề tài này.
2.
Lịch sử vấn đề :
Xuất hiện trên thi đàn với tập thơ Tháp nắng và đạt giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam (1997), Inrasara lập tức được giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình
trong và ngoài nước đánh giá cao. Với tinh thần lao động nghệ thuật miệt mài
nghiêm túc, Inrasara lần lượt cho ra đời những đứa con “thơ” liên tiếp và đã nhận
được nhiều ý kiến đánh giá sâu sắc. Tác giả Nguyễn Đăng Cương nhận định: “Trái tim Inrasara được thắp sáng bởi hai mối
tình: tình yêu quê hương và mái ấm gia đình. Càng yêu quê hương bao nhiêu, anh càng say mê với nền văn học của
dân tộc bấy nhiêu”[15]. Trúc Thông cũng có những cảm nhận sâu sắc: “Ở Inrasara thì sự nặng tình quê hương đã trở thành khúc hát rộn rã, lúc
u trầm, nghe sao mà say sưa, da diết!”[84]. Trong Inrasara, quê hương đã đồng
nhất với trái tim với tâm hồn và cả con người ông. Quê hương là phần đẹp đẽ nhất
trong tâm hồn nhà thơ. Tình yêu quê với Inrasara là “trách nhiệm với quê hương, dân tộc như một nỗi day dứt, ám ảnh không
nguôi ngoai được”[15]. Tác giả Lâm Tiến trong Văn hóa các dân tộc thiểu
số đánh giá: “Inrasara đã đóng góp
vào văn học các dân tộc thiểu số thêm một tiếng nói, một tâm niệm, một nỗi niềm
đau đáu về quê hương dân tộc”[66].
Đến Inrasara, thơ các dân tộc thiểu số mới
có được tiếng nói đầy đủ, sâu sắc, mãnh liệt, da diết về quê hương, dân tộc
mình. Đó là sự vang vọng cũng là điềm dự báo về sự trỗi dậy mãnh mẽ của văn học
viết lẫn bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Nó như một dự báo không mấy
bình lặng trong việc giữ gìn và phát huy văn học dân tộc nói riêng và trong văn
hóa các dân tộc thiểu số nói chung. “Báo cáo tổng kết Sáng tác và Giải thưởng
văn học của Hội Nhà văn” cũng có nhận xét: “Với
thơ, anh xuất hiện vài năm và nhanh chóng thu hút được sự chú ý của bạn đọc cả
nước. Cảm xúc của anh vừa dạt dào, hồn
nhiên lại giàu phẩm chất trí tuệ và tính khái quát. Các bài thơ của anh không
ngắn nhưng không sa vào kể lể. Thơ anh giàu sức gợi. Gợi vào cái bát ngát hoang
dại của kiếp đá, kiếp người, gợi cả vào cõi xa thẳm của những miền cố quận
trong không gian, thời gian. Một tình cảm Chăm sâu đậm, u uẩn trong thơ
Inrasara quả là đã đóng góp vào thơ Việt Nam một hương vị đáng quý. Rất đáng
quý”[100]. Viết về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara, Hoàng Quảng
Uyên trong “Yêu Inrasara” đã nhận định: “Người
Chăm đã để lại cho đời những ngọn tháp ấy và chính “Tháp nắng”, “Tháp hoang”,
“Tháp lạnh”… đã nâng nhà thơ Inrasara lên bầu trời thi ca”[94]. Lịch sử dân tộc đã khơi nguồn cảm hứng và sức
sáng tạo cho thơ Inrasara, nhất là những ngọn tháp – biểu trưng của một nền văn
hóa Champa một thời huy hoàng rực rỡ, ngày nay vẫn vươn mình uy nghi trong nắng
và gió trời Phan. Văn hóa Chăm sau thời gian vùi mình vào quá khứ, đắm chìm,
trôi nổi qua bao biến cố, từng chút ngủ quên, Inrasara như nhà khảo cổ đã khôi
phục diện mạo văn hóa Chăm và đưa ra ánh sáng một dân tộc kiêu hãnh cùng bản sắc
văn hóa đặc sắc.
Văn hóa – văn minh Champa – sau hơn 200
năm chìm dưới lớp bụi của thời gian và sự vô tình của lòng người – như một cánh
rừng hoang chưa được khai phá, nó vừa hấp dẫn vừa thách thức và làm chồn chân kẻ
thám hiểm. Các cố gắng của cá nhân hay tập thể mong vỡ hoang nó gần một thế kỉ
qua, dù có những thành tựu nhất định, cũng chưa thật tương xứng với tầm vóc của
nó. Người Chăm, chủ nhân của nền văn hóa – văn minh ấy hôm nay đang thừa hưởng
những mảnh vụn của nó và chịu sự tác động trực tiếp từ nó. Con đường thơ
Inrasara là hành trình về nguồn khám phá các vấn đề văn hóa – xã hội, khai tỏa
thân phận một dân tộc đắm mình qua bao đau thương, bừng nở những giá trị văn
hóa Champa đẹp đẽ.
Inrasara tự nhận là đứa con Chăm hồn nhiên
và nhiệt tình với chữ nghĩa cha ông. Anh “mê
ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời”[47]. Sara đau đáu về “mệnh” Chăm song
vẫn khôn nguôi kiêu hãnh về văn hóa dân tộc mình. Đào sâu, sưu tầm, sáng tác,
quảng bá, giới thiệu… Hết sức, hết cách, lẫn không ngừng sáng tạo, nhà thơ dồn
tâm nén sức vào những tập thơ đậm giá trị, bật lên một bản sắc văn hóa Chăm
sáng ngời như ngọc. Con người, phong tục, tập quán, thiên nhiên Chăm qua bàn
tay khéo léo của thi nhân Sara như bước ra từ huyền thoại.
Chúng tôi tin rằng Bản sắc văn hóa Chăm
trong thơ Inrasara là công trình nghiên cứu đầu tiên về con người, phong tục,
tập quán Chăm trong thơ Inrasara.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1.
Đối tượng nghiên cứu: Bản sắc văn
hóa Chăm trong thơ Inrasara.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu: Sáu tập thơ
-
Tháp nắng – thơ và trường ca, NXB Thanh niên, H., 1996.
-
Sinh nhật cây xương rồng – thơ song ngữ Việt – Chăm, NXB Văn
hóa Dân tộc, H., 1997.
-
Hành hương em – thơ, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999.
-
Lễ tẩy trần tháng Tư – thơ và trường ca, NXB Hội Nhà văn, H.,
2002.
-
Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức,
NXB Hội Nhà văn, H., 2006.
-
Ở nơi ấy [thơ thời cuộc], Tienve.org, 2010.
Đồng thời liên tục cập nhật tài liệu về
Inrasara trên địa chỉ Inrasara. com để làm rõ cho đối tượng nghiên cứu.
4.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài Bản sắc văn hóa Chăm
trong thơ Inrasara, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
chủ yếu là những phương pháp sau:
-
Phương pháp thống kê, so sánh. Chúng tôi chứng minh những nét riêng độc đáo bản
sắc văn hóa mỗi dân tộc.
-
Phương pháp lịch sử. Chúng tôi đặt thơ Inrasara trong tiến trình lịch sử văn học,
nhằm mục đích khẳng định sự thăng hoa vượt bậc của văn hóa Chăm trong thơ anh
trong sự đối sánh với thơ ca dân tộc thiểu số đương đại, từ đó khẳng định những
đóng góp của Inrasara trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số
nói riêng, thơ ca Việt hiện đại nói chung.
-
Phương pháp phân tích – tổng hợp. Thực hiện thao tác này, chúng tôi có cái nhìn
toàn diện về bản sắc văn hóa Chăm nói chung, bản sắc văn hóa Chăm trong thơ
Inrasara nói riêng.
-
Lí thuyết thi pháp học. Chúng tôi nghiên cứu các hình thức nghệ thuật, chỉ rõ đặc
trưng cơ bản sáng tạo thơ của Inrasara.
5.
Đóng góp của luận văn:
5.1.
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về bản sắc văn hóa Chăm trong thơ
Inrasara, góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm về con người, thiên nhiên, văn hóa
dân tộc Chăm.
5.2.
Luận văn góp phần xác định vị trí, những đóng góp của thơ Inrasara đối với sự
phát triển của thơ ca đương đại.
6.
Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu
tham khảo, thì Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương
1: Văn hóa Chăm – mạch nguồn sáng tạo của thơ Inrasara.
Chương
2: Bản sắc văn hóa Chăm qua thiên nhiên và con người.
Chương
3: Bản sắc văn hóa Chăm qua ngôn ngữ, giọng điệu và thể loại.
NỘI DUNG
Chương 1
VĂN HÓA CHĂM – MẠCH NGUỒN SÁNG TẠO CỦA THƠ INRASARA
1.1.
Khái quát về người Chăm và văn hóa
Chăm
1.1.1.
Người Chăm ở Việt Nam nói chung và tỉnh
Ninh Thuận
Người Chăm là
một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền
văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ
sắt. Các cộng đồng người Chăm ở Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Hoa Kì... có
quan hệ đồng tộc, đồng tôn.
Người Chăm
hay còn gọi là người Chiêm, Hời, Chàm... là một trong năm tộc người thuộc nhóm
ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo (Malayo – Polinesian) sinh sống ở miền Trung – Tây
Nguyên (Chăm, Raglai, Churu, Giarai, Êđê). Trong các công trình nghiên cứu về
dân tộc học từ xưa đến nay, còn tồn tại những ý kiến khác nhau về nguồn gốc người
Chăm cũng như các tộc người trong ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam: Hoặc
là di cư từ thế giới đảo Đông Nam Á đến,
hoặc là di cư từ các quần đảo nam Trung Quốc xuống vùng đất liền Đông Dương rồi
từ đó di cư ra hải đảo Đông Nam Á. Một số nhà khoa học Liên Xô (cũ) cho rằng
người dân Nam Đảo có nguồn gốc từ dân Bách Việt và họ xuống phía nam bằng hai
con đường, đường thứ nhất qua Philipine, Indonesia tới tận châu Đại Dương, một
bộ phận trở lại lục địa vào Malacca và Việt Nam. Có thể người Chăm và một số cư
dân Nam Đảo là sự hòa huyết giữa Ấn Độ và Đông Nam Á.
Sau khi các
nhà khảo cổ học tìm thấy những di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh đầu thế kỉ XX với niên đại
từ 4000 năm đến 2000 năm trước công nguyên, các nhà khoa học giả thiết rằng chủ
nhân của văn hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm. Những tác giả trong
công trình “Văn hóa Chăm” đã dành một chương nói về văn hóa Sa Huỳnh và gọi đó
là Văn hóa tiền Champa.
Theo các thư
tịch cổ Trung Hoa, các nhà khoa học hiện nay đều cho rằng vương quốc Champa được hình thành từ
năm 192. Trải qua quá trình lịch sử hơn một thiên niên kỉ rưỡi tồn tại (từ 192
đến 1471), với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, nhà nước Champa đã
trải qua rất nhiều biến động thăng trầm, ảnh hưởng lớn đến diễn trình lịch sử
văn hóa Chăm.
Người Chăm ngày nay là con cháu của cư dân
Champa cổ. Hiện nay, người Chăm cư trú tập trung trong các palei thuộc
các tỉnh Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An
Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm còn sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên
và một số tỉnh khác nhưng không nhiều.
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở gần
đây nhất (năm 2009), người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại
56 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.274
người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm ở Việt Nam), Bình Thuận (34.690 người,
chiếm 21,4% tổng số người Chăm ở Việt Nam), Phú Yên (19.945 người), An Giang (14.209
người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), Bình Định (5.336 người), Đồng Nai
(3.887 người), Tây Ninh (3.250 người).
Người Chăm là một trong những cư dân sinh
sống lâu đời trên mảnh đất Việt Nam. Về nguồn gốc tộc người, các nhà khoa học
đã xếp người Chăm vào tiểu chủng Mongoloid phương Nam, nhóm loại hình Nam Á. Về
ngôn ngữ, tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo) , đại chi Malayo –
Polynesian (Mã Lai – Nam Đảo), chi Westen Malayo – Polynesian, tiểu chi Sundic,
nhóm Malayic, nhóm Achinese Chamic, tiểu nhóm Chamic. Cùng chung tiểu nhóm này,
ở Việt Nam còn có các dân tộc Êđê, Giarai, Churu, Raglai,… đến từ “thế giới đảo”.
Do đặc điểm cư trú và bản sắc văn hóa mang
đậm tính địa phương, người Chăm ngày nay được phân thành ba nhóm cộng đồng:
Chăm Hroi, Chăm Panduranga và Chăm Nam Bộ. Trong đó người Chăm ở Ninh Thuận có số dân đông nhất, chiếm hơn 40% người
Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng làng palei (làng Chăm) riêng biệt
và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế
đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương,
làng nghề… mang bản sắc văn hoá riêng.
Ninh Thuận là một tỉnh của vùng cực nam
Trung Bộ đã nhiều lần thay đổi địa giới hành chính. Trong vương quốc Champa
xưa, Ninh Thuận và Bình Thuận (Thuận Thành) thuộc châu Panduranga, nằm ở cực
nam Trung Bộ và là một trong bốn châu (có giai đoạn là ba châu) của Champa bao
gồm: Amaravati ở phía bắc từ vùng Bình Trị Thiên đến Quảng Nam; Kauthara từ Phú
Yên đến Khánh Hòa và Panduranga từ Ninh Thuận đến bắc Bình Thuận. So với các
châu phía bắc thì châu Panduranga ít được nhắc đến trong các tư liệu lịch sử
hơn. Các bộ sử Trung Quốc trước đây và các tác giả phương Tây sau này viết về
Champa đều chủ yếu tập trung vào vùng phía bắc Champa như Amaravati hay Vijaya,
bởi vì đó là nơi đóng quân lâu đời của các triều đại Champa. Còn Panduranga như
là một “hậu cứ” phía nam của Chiêm Thành lại ít có tư liệu đề cập tới, có lẽ vì
vậy khu vực này cách xa những khu vực kinh đô của Champa và càng xa so với các
nhà viết sử Đại Việt cũng như Trung Hoa. Trong khi đó, nguồn tư liệu về lịch sử
của Champa chủ yếu dựa vào sử của Trung Quốc, Đại Việt, những truyền thuyết và
số lượng bia ký ít ỏi của khu vực này.
Panduranga có giai đoạn là một châu cuối
cùng ở phía nam Chiêm Thành, có giai đoạn là một tiểu vương quốc tự trị, cũng
có lúc bị nhập vào Chân Lạp, có giai đoạn là “phiên vương”, “phó vương” của
Chiêm Thành. Trong thời Hoàn Vương, suốt hơn một thế kỉ (từ 738 đến 859),
Panduranga dựng được một triều đại thống trị tồn tại tới năm đời vua.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, sau khi
Trà Toàn, vua Chiêm Thành thất thủ tại thành Trà Bàn (1471), biên giới Đại Việt
vẫn chỉ mở đến đèo Cả, còn từ đó trở vào đến biên giới Chân Lạp (khoảng 1/5 đất
của vương quốc Chiêm) vẫn là đất của Chiêm Thành do Bô Trì xưng vương. Đến năm
1653, vua Chiêm đánh ra Phú Yên nhưng lại bị quân Đại Việt đánh đuổi đến tận
sông Phan Rang và đặt dinh Thái Khương – nay là đất tỉnh Khánh Hòa. Những năm
sau đó mặc dù người Việt và người Hoa vào Chân Lạp thì vùng Panduranga vẫn tồn
tại những vương triều và những hậu duệ cuối cùng của Chiêm Thành.
Các tài liệu lịch sử đều cho rằng cương vực
lãnh thổ Champa xưa trải dài suốt duyên hải miền Trung, bao gồm những cao
nguyên Trung phần Việt Nam ngày nay. Đặc điểm của dải đất này là: phía Tây bao
bọc dãy núi cao Trường Sơn hình vòng cung, phía Đông là biển sâu, ở giữa là những
mảnh đồng bằng nhỏ hẹp bị chia cắt bởi những dãy núi ăn ra biển thành các thung
lũng, các con sông ngắn, thác cao không những không bồi đắp phù sa cho đồng ruộng
mà còn cào đi những lớp màu mỡ của đất đai đổ ra cửa biển, đồng thời tạo ra các
vũng, vịnh thuận lợi cho việc hình thành cảng thị thông thương với hải đảo và
các tàu thuyền quốc tế qua lại cảng Champa, cũng là điều kiện thuận lợi cho những
đội quân thủy chiến Champa xưa.
Nối giữa các vùng là các đèo để vượt núi.
Nhưng từ xa xưa, giao thông chủ yếu bằng đường biển và lịch sử đã chứng minh rằng,
những cuộc chiến tranh ngày xưa chủ yếu là thủy chiến. Đường bộ ngày xưa chỉ là
những đường mòn trèo đèo lội suối. Vì vậy, sự đi lại giữa các vùng, xứ, tỉnh vô
cùng trắc trở. Việc cai trị của các vương triều đối với các vùng vì thế cũng rất
khó khăn. Các thủ lĩnh địa phương thường xuyên nổi dậy chống lại triều đình để
giành độc lập, tự trị, thành lập những tiểu quốc.
Chính vì những đặc điểm địa lí như vậy,
như các nhà khoa học nhận định, vương quốc Champa xưa không là một khối thống
nhất mà là kiểu “Mandala” gồm nhiều tiểu quốc đa tộc.
Panduranga có nhiều vũng, vịnh đẹp và lợi
hại như: vịnh Cam Ranh, vịnh Vĩnh
Hy, cảng Hòn Đỏ, mũi Pan –đa – rang (mũi Dinh), vịnh Cà Ná… Đó là những cửa biển
thông thương với các vùng trong vương quốc, với các nước Nam Đảo và các khu vực
khác trên thế giới. Đây là điều kiện để cho nền văn hóa mở Champa giao lưu tiếp
xúc văn hóa với các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có văn hóa Hồi giáo
tiếp nhận từ Malaysia, Indonesia. Panduranga cũng như Ninh Thuận ngày nay là một
vùng đặc thù về địa văn hóa tựa như miền sa thảo độc nhất Đông Nam Á châu.
Ninh Thuận có diện tích khoảng 3.430 km2
nằm vào khoảng 11o08’14” đến 12o09’45”
vĩ bắc và 108o33’08” đến 109o14’45”
kinh đông, bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, nam giáp tỉnh Bình Thuận, đông giáp biển
Đông, tây giáp tỉnh Lâm Đồng. Nguyễn Đình Tư trong tập khảo cứu Non nước
Ninh Thuận đã miêu tả Ninh Thuận như sau: “Nhìn trên bản đồ, Ninh Thuận trông như một hình bình hành, hai góc nhọn
ở phía Tây Bắc và Đông Nam, chiều dài các cạnh gần bằng nhau, khoảng trên dưới
60 km. Trên đại thể, địa thế Ninh Thuận giống như cái chảo. Ba phía tây – bắc –
nam và một nửa phía tây – đông bị núi bao bọc chắn gió, chỉ còn một nửa phía
Đông, từ Sơn Hải đến Ninh Chữ là thông ra biển, ở giữa là đồng bằng nhỏ hẹp…”[92].
Bờ biển Ninh Thuận dài 105km, vùng lãnh hải
18.000 km2, có các cửa biển chính như Vĩnh Hy, Khánh Hải, Đông Hải
và Cà Ná. Nhìn trên bản đồ Ninh Thuận, bờ biển theo chiều những đường thẳng gãy
như vậy được đánh dấu bằng một mũi đá nhô đầu ra biển. Nhiều đoạn bờ biển
nằm sát ngay núi, có những ngọn núi cao tới hơn 1.000 m và hình thành trên những
con suối nước ngọt chảy từ núi xuống, từ trong núi tạo nên những mạch nước ngọt
ngầm ngay bờ biển. Đây cũng là lí do giải thích vì sao dọc bờ biển lại có những
giếng cổ Chăm mà xa xưa là nguồn cung cấp nước ngọt của tàu thuyền đi lại trên
biển vùng Champa.
Ninh Thuận có hai mùa: mùa mưa từ tháng 9
đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Những dãy núi cao bao
quanh đã trở thành bức bình phong chắn những luồng gió mùa Đông – Bắc và Tây –
Nam mang mây và mưa tới đồng bằng Ninh Thuận. Vì vậy, vùng trời Ninh Thuận luôn
trong xanh, nắng chói chang và có lượng mưa thấp nhất toàn quốc, mỗi năm chỉ có
trên 50 ngày mưa. Lượng mưa trung bình hàng năm chỉ đạt 705 mm. Ngược lại, những
khe núi hẹp và cửa biển hẹp lại tạo điều kiện cho những luồng gió thổi mạnh vào
lòng chảo đồng bằng Ninh Thuận, cộng với khí hậu khô nóng nên về mùa khô, cả
vùng Ninh Thuận gió cát mịt mù trên những cánh đồng khô hạn, nắng cháy như sa mạc.
Panduranga là vùng đất cực nam của Champa
xưa, xa xôi và cách trở đối với các kinh đô của vương triều như Trà Kiệu của
Amaravati (Quảng Nam), thành Đồ Bàn của Vijaya (Bình Định). Về địa lý chính trị,
Panduranga là một vùng lãnh thổ tương đối độc lập, có lúc là tiểu vương quốc,
có khi là phiên vương của Champa. Là vùng đất biên ải phía nam của Champa,
Panduranga luôn phải đối đầu với các cuộc chiến tranh với Phù Nam, Chân Lạp và
cả người Mạ phía tây nam. Như vậy, Panduranga là châu cuối cùng còn lại của
Champa, là nơi còn lại của cộng đồng người Chăm, đó là người “Chăm jat – Chăm gốc”, mang trên mình số
phận lịch sử, là chủ nhân lưu giữ những gì còn lại của văn hóa Chăm, là nơi
tích tụ văn hóa Chăm tồn tại qua hàng nghìn năm. Chỉ còn ở đó, đền tháp Champa
vẫn được người Chăm thờ cúng, là nơi diễn ra những lễ hội truyền thống.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng Champa xưa
là một nước thưa dân. Các tư liệu không cho con số chính xác về dân số Chăm
trong lịch sử. Tống sử viết là Champa có 38 huyện và dưới 30 ngàn gia đình vào
thời Harrivarman III (1704 –
1810). Theo Đại Nam nhất thống chí, vào thập niên 1810, tổng số đinh của
Phú Yên là 7.651, của Khánh Hòa là 5.000 và Bình Thuận (Ninh Thuận và Bình Thuận
ngày nay) là 9.200. Đây có lẽ chỉ là số đinh dân đồng bằng để đóng thuế bạ của
cả người Chăm và người Việt. Như vậy, dân số Chăm trước đây cũng không nhiều…
Năm 1969, theo số liệu điều tra dân số,
người Chăm ở Ninh Thuận – Bình Thuận là 33.600 người, đến trước năm 1975 là
40.000 người.Theo báo cáo của Ban dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận năm 2009,
người Chăm ở Ninh Thuận có 67.274 người, cư trú tập trung ở 22 làng thuộc 13 xã
4 huyện, thành phố. Trong đó được phân chia ra thành
hai cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (Chăm ảnh
hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng đồng tôn giáo lại sinh sống thành từng palei riêng biệt.
Trong tổng số 22 làng palei thì có 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal.
Palei Chăm
(làng Chăm) thường định cư trên những vùng gò đất cao, xung quanh là ruộng lúa
và nương rẫy. Mỗi palei có khoảng từ 300-400 hộ gia đình, tập hợp bởi nhiều tộc
họ sinh sống với nhau. Các khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng Bắc – Nam.
Trong mỗi
palei Chăm đều có một đền thờ thần (sang Pô Yeang) và ở đầu làng có nhà làng
(sang palei). Cách palei không xa thường có một nghĩa địa (kút, ghôr). Mỗi
palei Chăm đều có đơn vị quản lí hành chính thôn, đoàn Thanh niên, hội Nông dân…
Bên cạnh đó còn có Hội đồng phong tục (Hội đồng già làng) chăm lo cúng tế và
cùng với chính quyền tham gia giải quyết những vụ bất đồng của các thành viên
trong làng liên quan đến phong tục, tập quán. Palei Chăm có luật tục riêng gọi
là adat.
Đơn vị cơ cấu
căn bản của hệ thống thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia tộc. Những mối quan
hệ bên mẹ là quan hệ thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên được thờ phụng là tổ
tiên bên mẹ. Quyền thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ nữ Chăm nắm quyền
quyết định trong gia đình. Vai trò Cậu (cey) được đề cao và vẫn còn chi phối mạnh
mẽ trong gia đình người Chăm hiện nay.
Sinh hoạt làng (palei), gia đình (mưngawôm), tộc họ (gơp tian) của
người Chăm phản ánh đậm nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên các mặt: sự phân hoá xã
hội, quan hệ về gia đình và hình thức hôn nhân; hình thái tín ngưỡng; phương thức
sản xuất và quyền sở hữu tài sản… Vì vậy cơ chế xã hội truyền thống người Chăm
gắn bó chặt chẽ với nhau và được vận hành bằng luật tục (adat). Người Chăm sống
trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết thương yêu lẫn nhau, cùng nhau bảo vệ, lưu giữ
thuần phong mỹ tục, những giá trị văn hoá của tổ tiên. Có thể nói làng, gia
đình người Chăm là mắt xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ với nhau, tạo nên một
cơ cấu xã hội cổ truyền bền vững, trở thành cái nôi bảo tồn và lưu giữ văn hoá
Chăm, lễ hội Chăm trong suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Người Chăm định
cư trên dải đất miền Trung với đặc điểm địa hình là miền đất hẹp, kéo dài và được
cấu tạo bởi ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí hậu nơi đây khắc nghiệt,
khô ẩm, nhiều nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí môi sinh đó đã hình
thành nên nền kinh tế của người Chăm.
Trong nền
kinh tế truyền thống của mình, người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm với
kĩ thuật đắp đập lấy nước trồng lúa như các đập Nha Trinh, Lâm Cấm và hệ thống
kênh mương dẫn nước Ông Dàu, mương Cái đến từng khu dân cư cho đến nay vẫn còn
sử dụng. Bên cạnh làm ruộng người Chăm còn là những người làm vườn giỏi. Họ trồng
nhiều hoa màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa,
hồ tiêu… Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nông,
người Chăm còn biết khai thác những khu rừng lớn có các loại gỗ mun, trầm
hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích trên thị trường. Họ cũng biết
khai thác tài nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở xa. Nói chung kinh tế truyền
thống của người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba
hình thái kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống kinh tế Chăm phát triển phồn
thịnh và hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay,
một số ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn
làm nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh Thuận như Bỉnh Nghĩa vẫn còn sống gần
biển nhưng họ không làm nghề biển mà lại quay lưng với biển. Đa số (khoảng 95%)
người Chăm Ninh Thuận ngày này sống bằng nghề nông, và một số ít làm nghề chăn
nuôi và khai thác rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy truyền thống làm lúa nước
và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Kinh tế nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo
trong đời sống của người Chăm hiện nay.
Người Chăm
Ninh Thuận còn được biết đến với những làng nghề truyền thống nổi tiếng như
làng gốm Bàu Trúc, làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp…
Người Chăm ở
Ninh Thuận có một đời sống tâm linh phong phú với nhiều hình thái sinh hoạt tín
ngưỡng và tôn giáo. Các vị chức sắc đứng đầu các tôn giáo là Pô Dhia (Cả Sư –
Bà la môn) và Pô Gru (Thầy Cả - Bà ni) và Hakem (Giáo Cả - Islam) giữ vai trò
và vị trí quan trọng trong việc điều hành các hoạt động tôn giáo, kể cả một số
hoạt động của người Chăm theo từng cộng đồng tôn giáo.
Tôn giáo đầu
tiên của người Chăm có ảnh hưởng từ Ấn Độ giáo. Khi các thương gia Ả Rập dừng
chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hóa, Hồi giáo
(Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm. Trên các di chỉ có niên đại
vào thế kỷ thứ 11, các nhà khoa học phát hiện ra dấu vết của Hồi giáo. Tuy
nhiên Hồi giáo xâm nhập cộng đồng người Chăm chính xác từ khi nào thì vẫn chưa
được khẳng định. Cộng đồng người Chăm ở Việt Nam có 3 nhóm tín ngưỡng: người
Chăm Bàlamôn theo Ấn độ giáo (đạo Bàlamôn); tín ngưỡng Chăm Bàni là tín ngưỡng
kết hợp Hồi giáo với tín ngưỡng bản địa, Chăm Islam là tín ngưỡng thuần Hồi
giáo.
Trừ các tôn giáo mới du nhập sau này với số
lượng không lớn, người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay theo hai tôn giáo chính là
Bàlamôn (Ấn Độ giáo) và Bàni (Hồi giáo bản địa hóa). Tên gọi như vậy nhưng đã từ
lâu hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni tồn tại độc lập, không có mối quan hệ với nước
ngoài, và qua quá trình lịch sử, cả hai tôn giáo này đã bị bản địa hóa, tạo cho
mình một kiểu tôn giáo địa phương.
1.1.2.
Những giá trị văn hóa nổi bật của người
Chăm
Văn hóa truyền thống của người Chăm gồm
nhiều lớp, trong đó có lớp văn hóa truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp
lúa nước Đông Nam Á và về sau, người Chăm tiếp nhận Bàlamôn giáo, Hồi giáo. Trải
qua quá trình bản địa hóa, những lớp văn hóa này đã hòa trộn vào nhau trở thành
văn hóa truyền thống chung của người Chăm. Văn hóa Champa là sự tiếp nối của
văn hóa Sa Huỳnh. Theo các tư liệu lịch sử, trước khi lập quốc, nằm trong cơ tầng
văn hóa Đông Nam Á, dân tộc Chăm vẫn là một dân tộc bảo lưu nền văn hóa chuyên
biệt “phi Hoa, phi Ấn”.
Trước khi tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ,
người Chăm cũng như các tộc người trên dải đất Việt Nam hiện nay có một nền văn
hóa bản địa nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa mang nặng dáu
ấn của tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước, chứa đựng trong mình đầy đủ những tín
ngưỡng dân gian của các dân tộc Đông Nam Á. Từ gần 2 thiên niên kỉ nay, người
Chăm tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng chính những yếu tố tín ngưỡng nông nghiệp
lúa nước đã bản địa hóa rất nhiều yếu tố văn hóa.
Nền văn hóa người Chăm đã trải qua những
thời kì phát triển rực rỡ với nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo. Đó là những
truyền thuyết, truyện cổ tích, các bài giáo huấn ca, những truyện thơ trong đó
chứa đựng những giá trị văn hóa mang đậm tính nhân văn với khát vọng vươn lên của
con người, lồng trong đó những điều cấm kị, những điều răn đe hay lẽ phải và dễ
đi vào lòng người. Những vũ điệu dân gian cổ truyền và nghệ thuật tạo hình trên
đá, gỗ, gốm, trên phù điêu gắn với những công trình kiến trúc với những hình tượng
giàu sức sống và lưu truyền cho tới ngày nay đã thu hút bao nhà nghiên cứu. Đó
là nghệ thuật kiến trúc hình khối vuông, đền đài cao tầng được xây dựng trên những
vùng đồi, núi đất giữa đồng bằng như tháp Po Klong, tháp Hòa Lai. Tháp Porôme với
kĩ thuật xây dựng, kĩ thuật gắn kết gạch vẫn là những điều bí mật của người
Chăm xưa mà các nhà khoa học ngày nay đang nghiên cứu. Và cũng chính nhờ xây dựng
bằng gạch với kĩ thuật đặc biệt mà các công trình kiến trúc Champa trở nên nổi
tiếng. Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp
Champa cổ kính xây dựng bằng đất nung độc đáo. Là một bộ phận của nền văn hoá
dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và truyền thống
lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong
phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn hoá, quá trình phát triển
của tộc người. Người Chăm luôn mang trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân
tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền thống luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng
và liên tục truyền cho nhau từ bao đời nay.
Có thể nói, trong di sản văn
hóa người Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền tháp, điêu khắc, tượng thờ,
thành quách, bia kí… Hầu hết từ miền Trung cho đến Tây Nguyên, nơi nào người
Chăm sinh sống đều xây dựng đền tháp để thờ thần. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng
của đền tháp đối với người Chăm. Từ thế kỉ V đến VII người Chăm bắt đầu xây dựng
đền tháp. Trước đó, tại thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) người ta đã tìm được dấu vết
một ngôi đền bằng gỗ thờ thần Siva. Tiếp theo đó cho đến thế kỉ XVII, các đền
tháp Champa tiếp tục ra đời mang nhiều phong cách khác nhau như Mỹ Sơn, Trà Kiệu,
Bằng An, Chiên Đàn, Dương Long, tháp Nhạn, Bình Lâm, Hưng Thạnh, tháp Poklong
Girai… Tất cả các tháp được xây dựng để thờ hai vị thần chính: Siva, Prahma. Về
sau tháp Chăm ngoài thờ thần Ấn Độ giáo còn thờ thêm các vị vua Chăm.
Về nghệ thuật điêu khắc của người Chăm, một
số nhà nghiên cứu cho rằng được hình thành và phát triển trên cơ sở yếu tố bản
địa kết hợp với những yếu tố của văn hóa các nền văn minh lân cận nhưng yếu tố
bản địa là nền tảng và càng về sau càng chiếm ưu thế. Vì thế các thần của Ấn Độ
được Chăm hóa theo các đặc điểm nhân chủng của người Chăm. Điêu khắc Chăm cũng
tuân theo nghệ thuật bất cân xứng và không chú trọng đến các chuẩn mực về hình
thể khiến tác phẩm điêu khắc Chăm đẹp và ấn tượng. Điển hình cho phong cách này
là tượng những vũ nữ Trà Kiệu (Quảng Nam) – một trong những kiệt tác nghệ thuật
của Champa và Đông Nam Á.
Người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng
văn hóa dân gian rất phong phú, không chỉ có các loại hình nghệ thuật ca, múa,
nhạc dân gian mà còn có những truyện cổ tích, truyền thuyết (dalical), thơ
(ariya) và ca dao tục ngữ… “Loại hình văn
chương Chăm đã được nhiều người biết đến như: Dêwa Mưno, Inra Patra, Ariya
Klang Anak… các tuyện kể vền Plăm dit, Plăm lak, sự tích bò thần Nadin, nàng
Út, vua Patâu Tapai và nàng Ngà… Phần lớn các tác phẩm văn chương Chăm đều phản
ánh ước vọng của người lao động, trong cuộc sinh hoạt, tình yêu lứa đôi và chiến
đấu chống lại những bất công xã hội, đối nhân xử thế, hướng con người tới cái
thiện và ước mơ có một cuộc sống thanh bình êm ả” [3,15].
Người Chăm có
tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây (những người Chăm Islam) cùng với
sự duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh
thánh Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng
loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì sử
dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống. Trong văn học viết của người
Chăm có hai thể loại: akayet (tráng ca) và ariya (thơ). Không ít
tráng ca thể hiện bi kịch những cuộc đấu tranh tôn giáo Chăm. Ariya
phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện phản ánh đời sống nội tâm
đặc sắc của con người, dân tộc Chăm.
Cùng với nền
văn học, người Chăm còn có một loại hình ca múa nhạc dân gian giàu bản sắc dân
tộc. Trong các loại hình ca, múa, nhạc thì múa truyền thống chiếm vị trí quan
trọng. “Múa Chăm có mặt trên các đền tháp
tượng thờ như: tượng thần Siva, vũ nữ Ápsara… Múa Chăm còn hiện diện ở các đền
tháp trong các dịp cúng, tế lễ, trong các lễ hội như lễ hội Katê, lễ hội múa đầu
năm, lễ hội lúa mới… Tùy theo nghi lễ, đối tượng thần thánh, điệu trống lễ khác
nhau thì họ có những điệu múa, trang phục, đạo cụ khác nhau. Người Chăm có hệ
thống nhạc cụ như trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai, Chiêng, Kanhi, Rabap… với
nhiều điệu nhạc khác nhau” [3,20]. Múa, nhạc Chăm không những phục vụ đời sống
sinh hoạt hàng ngày, nó luôn gắn liền với lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo, gắn với
lễ hội. Đi đôi với múa, trong âm nhạc còn có những làn điệu dân ca mượt mà, sâu
lắng như điệu hát Vãi chài, các câu ca ân tình, hát giao duyên…
Trải qua hơn
15 thế kỉ tồn tại và phát triển trên dải đất miền Trung Việt Nam, với điều kiện
lịch sử xã hội và môi trường tự nhiên có nhiều bất cập, khó khăn nhưng người
Chăm vẫn không ngừng sáng tạo và gìn giữ cho mình một nền văn hóa đa dạng và độc
đáo.
1.1.3.
Nét đẹp văn hóa Chăm ở Ninh Thuận
Từ xa xưa, người Chăm đã xây dựng cho mình
một nền văn hóa có sắc thái riêng biệt, độc đáo và đa dạng. Trong quá trình
phát triển, người Chăm đã đạt đến trình độ cao về tổ chức xã hội và để lại một
di sản văn hóa đặc sắc, phong phú từ sức mạnh nội tại cùng với sự tiếp nhận ảnh
hưởng, tác động của quá trình giao lưu với các dân tộc khác.
Panduranga vốn tách biệt về chính trị -
văn hóa với các “vùng Chăm” khác, được xem là nơi duy nhất trên đất nước có những
người Chăm rặt (chính thống), người Chăm – văn hóa Chăm Ninh Thuận mang nét lấp
lánh chuyên biệt.
Tín ngưỡng của người Chăm phong phú và đa
dạng, trở thành bộ phận cấu thành nền văn hóa Chăm, chi phối sâu sắc đời sống cộng
đồng. Đó là hình thức tín ngưỡng sơ khai nguyên thủy với tục thờ núi, thờ các
loại cây, thờ biển; hình thức tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp với
các lễ cúng thần, lễ xuống cày, lễ đắp đập mương…; hình thức tín ngưỡng liên
quan đến thờ cúng tổ tiên và hệ thống các tục lệ về các lễ trong đám cưới, đám
ma, lễ nhập Kut, nhập Ghôr. Tất cả hình thức tín ngưỡng đó trở thành một bộ phận
đời sống tâm linh của người Chăm nói chung, người Chăm Ninh Thuận nói riêng, là
hạt nhân cơ bản hình thành diện mạo tôn giáo lễ hội Chăm.
Trong xã hội người Chăm ở Ninh Thuận, tôn
giáo đóng vai trò quan trọng, chi phối hết thảy các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội trong cộng đồng. Tôn giáo là tiêu chuẩn phân biệt các nhóm người
Chăm, quy định các sinh hoạt tinh thần của họ, cũng chính tôn giáo là nguồn gốc
phân hóa xã hội người Chăm thành các đẳng cấp theo chế độ đẳng cấp Bàlamôn. Chế
độ đẳng cấp đó đã ảnh hưởng đến Hồi giáo người Chăm làm xuất hiện tầng lớp tu
sĩ Hồi giáo Chăm. Đây là hiện tượng độc đáo của Hồi giáo Chăm chưa từng bắt gặp
ở nơi đâu trên thế giới.
Vì hai hệ thống tôn giáo khác nhau, trong
lịch sử cũng có những xung đột, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, song cộng đồng
Chăm ở Ninh Thuận đã biết vận dụng quan niệm lưỡng hợp âm dương dung hòa hai
tôn giáo. Giữa người Chăm Bàlamôn và Chăm Hồi giáo vẫn quan hệ khăng khít trên
cơ sở cùng một cộng đồng dân tộc có tiếng nói chung, chữ viết, các phong tục tập
quán, tín ngưỡng của một dân tộc có từ ngàn xưa. Đặc điểm trên tạo một nét đặc
sắc trong lịch sử người Chăm ở Ninh Thuận.
Lễ hội Chăm là một di sản đồ sộ, phản ánh
nhiều khía cạnh của văn hóa, văn minh Champa như đền tháp, tượng thờ, kho tàng
văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn chương Chăm. Lễ hội Chăm
không chỉ là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng đồng, còn là nơi lưu giữ và
phô diễn mọi sắc thái văn hóa trong một quá trình lịch sử khá dài của dân tộc
Chăm.
Lễ hội Chăm được cấu thành bởi hai bộ phận
cơ bản, phần LỄ và phần HỘI không tách rời nhau. “Lễ là phần tín ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con
người, là phần đạo; còn hội là phần tập trung vui chơi giải trí, là phần đời sống
văn hóa thường nhật, phần đời của con người, của cộng đồng. Hội gắn liền với lễ
và chịu sự quy định của lễ, có lễ mới có hội” [3,11 ].
Lễ hội Chăm có giá trị cộng cảm và cộng mệnh.
Lễ hội dân gian Chăm được coi như một loại bảo tàng tâm thứ lưu giữ các giá trị
văn hóa, các sinh hoạt văn hóa Chăm. Người Chăm ở Ninh Thuận có trên 100 lễ hội
lớn nhỏ quanh năm, trong đó có 20 lễ hội đặc sắc thuộc ba hệ thống: lễ hội nông
nghiệp, nghi lễ vòng đời và nghi lễ gắn với tôn giáo. Đáng kể nhất là lễ hội
Katê – người Chăm coi như ngày Tết, lễ Ra Mưwan, lễ Suk young (kinh hội).
Lễ hội của người Chăm ở Ninh Thuận diễn ra
ở nhiều không gian và thời gian khác nhau, kết hợp với nhiều hình thức diễn
xương mang tính nghệ thuật độc đáo và đậm đà bản sắc dân tộc. Âm nhạc và múa
truyền thống của người Chăm là sự hỗn dung giữa văn hóa tôn giáo với sự sáng tạo
mang tính dân gian bản địa, đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng
Chăm. Dân tộc Chăm cổ đại sớm có nền văn hóa phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á. Do
đó nghệ thuật múa truyền thống Chăm có điều kiện phát triển, đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt văn hóa của xã hội Chăm. Truyền thống là sự nối tiếp từ xưa – nay, trải
qua nhiều thế hệ được gìn giữ, vun đắp. Nghệ thuật múa truyền thống Chăm ở Ninh
Thuận được lưu giữ và sáng tạo từ ngàn năm, gồm múa trong các nghi lễ dân gian,
nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo: Lễ hội Rija Nưgar, Rija Harey, Rija Dayaup… và múa
trong các sinh hoạt hội hè như các điệu múa quạt, múa khan, múa đoa pụ…
Dân tộc Chăm có nền văn hiến phát triển
cao. Âm nhạc truyền thống Chăm ở Ninh Thuận có cả ba hình thái của một nền âm
nhạc đã phát triển. Đó là hình thái âm nhạc dân gian, hình thái âm nhạc cung
đình và hình thái âm nhạc tín ngưỡng –
tôn giáo. Dù là hình thái nào thì âm nhạc dân tộc Chăm cũng có sắc thái trầm,
mang tính tôn nghiêm.
Tháp Chăm, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng
và kĩ năng chạm khắc trên gạch, trên những bức phù điêu bằng đá và đất nung của
các tháp cho đến nay vẫn là một điều bí ẩn, một thành tựu độc đáo của người
Chăm xa xưa. Tại Ninh Thuận hiện nay còn lại 3 cụm di tích tháp Chăm, đó là
tháp Hòa Lai, tháp Pôrômê, tháp Poklong Girai. Ngoài ba ngọn tháp trên, người
Chăm Ninh Thuận còn có 7 thánh đường Hồi giáo nằm rải rác ở các palei Chăm, vẫn
còn một số hệ thống đền tháp đã bị phá hủy thành phế tích.
Làng nghề truyền thống là nơi một cụm dân
cư sinh sống và sản xuất các sản phẩm thủ công mĩ nghệ cổ truyền. Sản phẩm làm
ra là sự đúc kết các giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc. Nghề làm gốm của người
Chăm ở Ninh Thuận nói riêng và cộng đồng Chăm nói chung là một nghề khá phát
triển và có lịch sử từ thời văn hóa Sa Huỳnh cách đây trên 2.500 năm. Ninh Thuận
tồn tại làng gốm duy nhất – làng gốm
Bàu Trúc. Kỹ thuật làm gốm hoàn toàn bằng phương pháp thủ công truyền thống tạo
những sản phẩm bình dị. Nghề dệt của người Chăm ở Ninh Thuận khá phát triển,
cách đây không lâu là nguồn cung cấp vải chính cho các tầng lớp người Chăm và
các dân tộc khác trong vùng. Nghề dệt thổ cẩm vẫn còn lưu truyền và phát triển
tại làng Chăm Mỹ Nghiệp với trên 95% số gia đình Chăm làm nghề dệt. Sản phẩm dệt
thổ cẩm tinh xảo với nhiều hoa văn trang trí mang đậm tính dân tộc.
1.2.
Nhà thơ Inrasara
1.2.1.
Vài nét về tiểu sử và con người
Inrasara tên thật là Phú Trạm, bút danh
Inrasara, sinh năm 1957 tại làng Chăm Chakleng – Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
Năm
Đinh Dậu, đại hạn ở Ninh Thuận, thằng Klu cất tiếng khóc chào đời dưới mái nhà
tranh trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Chakleng, làng duy nhất có tên
trên bia kí cổ, nơi sinh của vị vua lớn nhất lịch sử Champa: Po Klaung Girai. Mặc
dù gia cảnh cày thuê ruộng rẽ, cha mẹ vẫn lo cho năm chị em thằng Klu học hành.
Tuổi thơ anh đắm mình trong không gian làng quê cùng những trò chọi gà, đá
bóng, … rong ruổi thẩn thơ khắp các làng Chăm. Ngay từ năm lớp Ba, Phú Trạm đã
biết lượm lặt các ca dao cuối sách Tập làm văn, để ráp lại thành bài có vần và
học thuộc. Ít năm sau đó, thơ ca và định mệnh chữ nghĩa gắn liền với anh không
dứt ra được.
Vào Trung học, ở trường nội trú thị xã
Phan Rang cách làng gần hai mươi cây số. Những ngày nghỉ cuối tuần, thay vì về
nhà, Trạm lang thang qua các làng Chăm, tìm đến các cụ già nghe nói sách, mượn
các bản chép tay, chép cả từ điển Chăm – Pháp của Aymonier dày cộp.
Năm 1977, Trạm đỗ đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh. Hết năm nhất đại học, mê sách, anh bỏ ngang về quê cày thuê để kiếm
tiền mua sách. Anh kiếm sống bằng đủ các nghề, nông dân, trồng nho, thú y, buôn
chuyến, mở quán bán tạp hóa, dạy học… Anh mở lớp dạy tiếng Chăm cho đồng bào
quê mình. Anh cật lực làm việc và nghiên cứu văn hóa, văn học Chăm.
Năm 1982, anh được mời về công tác tại Ban
biên soạn sách Chăm – Ninh Thuận và Trung tâm nghiên cứu
Việt Nam – Đông Nam Á, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh (1992), đồng là hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Hội Văn học – Nghệ thuật các
Dân tộc thiểu số Việt Nam.
Anh đạt không ít giải thưởng lớn nhỏ về
văn học, văn hóa Chăm: hai lần đạt giải thưởng cao quý của Hội Nhà Văn Việt
Nam, một lần đạt giải thưởng ASEAN về văn học Chăm… Tên tuổi anh được vinh danh
khắp thi đàn. Lấn sân sang nghiên cứu, anh lại nổi tiếng với danh xưng “nhà
Chăm học”. Sau, anh được không ít trường đại học trong và ngoài nước mời về giảng
hoặc nói chuyện về “Chăm”. Chăm là định mệnh của Sara và cũng chính Sara làm
sáng ngời Chăm. Inrasara – nhà nghiên cứu, phê bình văn hóa, văn học – một tài
năng quý giá của nước Việt đương đại.
Là một trí thức Chăm, một nhà “Chăm học”,
nhưng trên hết, Inrasara là một người nghệ sĩ sáng tạo. Với tất cả chức phận
cao cả đó, Inrasara đã cất công đi tìm những tồn lưu trong quá khứ Chăm. Nỗ lực
này vừa là một tiếng nói đáp trả với cha ông, vừa như thể hiện một thiên chức của
người nghệ sĩ. Có thể gọi anh bằng nhiều tên: nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ…
Tuy nhiên anh thích mọi người gọi anh bằng cái tên đơn giản: Inrasara.
Nhà báo Trần Can cho rằng Inrasara là người
con Chăm đặc biệt. Anh rất dễ gần, dễ mến. Hầu như ai tiếp xúc với anh đều có
chung nhận định ấy. Sự giản dị và chân thành làm anh có khả năng thu phục lòng
người môt cách kì lạ, khó lí giải. Đó chính là khả năng “siêu hồn nhiên” của một
thiên tài đích thực luôn gây ảnh hưởng với người khác dẫu không hề cố ý. “Đấy là một người đàn ông rất… đàn ông. Khó
đoán tuổi nhưng dễ gần… Bằng hoạt
đông nghệ thuật không mệt mỏi của mình, anh đã tôn vinh văn hóa Chăm, Inrasara
là một thực thể Chăm thốt lên tiếng nói của chính dân tộc mình, thở hơi thở dân
tộc mình, hát bài hát dân tộc mình...”[32].
Mười năm trước trên thi đàn Việt Nam nổi
lên cái tên rất lạ - Inrasara, lúc đầu còn khiêm tốn, càng về sau càng sáng, rồi
rực rỡ hẳn lên và hiện tại phóng chiếu vượt ngoài biên cương, rạng rỡ trên tao
đàn Đông Nam Á. Những gì làm được trong thời gian qua, với Inrasara, là thể hiện
khát vọng khám phá, sáng tạo của anh, là con đường vạn dặm tìm về quê hương.
Không khó để thấy, Inrasara tha thiết với quê hương với những định phận mong
manh của kiếp người. Học giả, thi sĩ tên tuổi Inrasara dùng cả đời mình vận vào
thơ văn bừng sáng văn hóa cả một dân tộc mấy mươi năm triền miên trong miền
quên lãng.
Theo Phan Trung, Inrasara là tấm gương lao
động nghệ thuật hiếm hoi, anh hội tụ đủ phẩm chất của một thi sĩ tài hoa đích
thực, mà thái độ đối với văn chương và tác phẩm có sức lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng
đến các thế hệ trẻ trong tiến trình phát triển văn học giai đoạn sau đổi mới.
1.2.2.
Thành tựu trên các lĩnh vực
Trước khi được biết đến với tư cách một
nhà thơ, Inrasara đã nổi tiếng, được vinh danh trong vai trò nhà nghiên cứu văn
hóa Chăm.
Sáu năm Trung học, vào những chiều thứ bảy,
chủ nhật – thay vì “xuất trại” về quê như các bạn, chàng thiếu niên Sara lang
thang đến các làng Chăm khác: Phước Nhơn, Thành Tín, Văn Lâm, Hữu Đức… Bước
chân tuổi trẻ rong ruổi trên khắp ngõ hẻm quê hương. Tâm hồn anh mở ngõ đón nhận
những mới lạ, ngạc nhiên tiếp ngạc nhiên: câu hát, giọng nói, phương ngôn, màu
áo… Hồn nhiên tắm mình trong không khí đời sống Chăm dần dần niềm đam mê với
văn hóa Chăm tượng hình trong anh. Inrasara đã dành trọn cuộc đời để nghiên cứu,
xác lập vị thế văn hóa Chăm. Trong tâm thức Sara luôn có một dòng sông Chăm đêm
ngày thao thiết chảy, thao thiết với sự lở bồi của văn hóa Chăm. Và có lẽ văn
hóa Chăm đã chọn Sara từ tiền kiếp.
Khá nhiều nhà nghiên cứu tiên phong viết về
văn hóa Chăm như: Aymonier, Landes, Durand, Moussay, Thiên Sanh Cảnh… để liên tục
trong nhiều thế hệ cho ra đời các công trình giá trị: lịch sử Champa, nghệ thuật
điêu khắc, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật múa, phong tục tập quán, ngôn ngữ
chữ viết Chăm… Nhưng dường như văn hóa Chăm chưa được khai thông đến mạch nguồn,
đang dần bị chìm lấp, có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Ý thức được điều đó,
Inrasara đã lần nhiều lần làm nhiều cuộc đi dài khắp các plây Chăm Ninh Thuận
sưu tầm tất cả những gì thuộc về văn hóa Chăm. Từ rất sớm, Inrasara đã nung nấu
ý định sưu tầm Folkloren Chăm. Cứ mỗi kì nghỉ hè, Sara lại về các làng
Chăm tìm kiếm, ghi chép. Hành trình về nguồn của Sara là một đam mê không tính
toán đến thành tích hay lợi lộc. Làm là chơi. Đó là tâm tính Chăm đặc sệt. Từng
ví mình là công dân Đức, gánh một trách nhiệm nặng nề - như thiên hạ nói,
Inrasara biết hành trình tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc sẽ lắm chông gai, thử
thách bởi “Chăm luôn bắt đầu từ con số không, từ con số âm – có lẽ” [45]:
không mảnh tư liệu ban đầu, không tiền bạc, không nguồn tài trợ… Còn mục tiêu
thì xa hun hút. Khó càng thêm khó! Ngôn ngữ trong các văn bản Chăm là ngôn ngữ
cổ, khó đọc, khó dịch. Lòng nhiệt thành tuổi trẻ, nhẫn nại, yêu nghề sâu sắc,
mong muốn tìm hiểu tâm hồn dân tộc mình cùng sự mê đắm ngôn ngữ Chăm và cái âm
vang của lời giúp nhà nghiên cứu Inrasara lao về phía trước. Với những công
trình nghiên cứu đồ sộ, Inrasara đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của văn
hóa Chăm nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
Inrasara có một tập thơ sáng tác bằng tiếng
Chăm và một bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm từ thời cắp sách. Năm 1975,
Inrasara khởi thảo Từ điển Việt – Chăm. Năm 1984, biên soạn Từ vựng học
tiếng Chăm. Từ năm 1994 đến năm 1995, in xong bộ Văn học Chăm, khái luận
– văn tuyển ba tập. Năm 1999, in Các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm.
Năm 2003, Inrasara cho in cuốn Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại
và gần đây nhất là Trường ca Chăm, Sử thi Chăm, Tagalau 1 – 15,… Càng
ngày các công trình nghiên cứu văn hóa của Inrasara càng dày đặc. Nếu kể hết
các tác phẩm nghiên cứu, sưu tầm hoặc
các sáng tác văn hóa Chăm của Sara đến nay có thể trải dài vài nghìn trang giấy.
Thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu của Inrasara khá lớn, khai tỏa vùng Chăm cổ
kính và hiện đại.
Inrasara sớm có những nhận xét xác thực về
“chuyện chữ”. Anh kể chuyện “chữ hoang” đầy vẻ bí ẩn, kể chuyện huyền thoại
sinh động, hấp dẫn. Những trang viết về “đám tang chữ” của Sara lạ, sống động.
Đọc sáng tác Inrasara, thân phận chữ Chăm hôm nay thoát ra “cơn hấp hối”, khấp
khởi vui mừng, chờ đợi bàn tay hồi sinh từ Sara. Inrasara đã bước đầu chuẩn
hóa, làm phong phú ngôn ngữ Chăm hơn trước. Inrasara đã cùng Bùi Chán Thế,
Lương Đức Thắng… biên soạn bộ Từ điển Chăm – Việt, Từ điển Việt – Chăm, bổ
sung khá nhiều từ vựng mới. Inrasara sáng tác nhiều thơ tiếng Chăm. Việc sáng
tác vừa để lưu giữ tiếng nói của dân tộc vừa làm cho vốn từ Chăm giàu có hơn.
Thêm vào đó, Inrasara từng tổ chức lớp dạy chữ, tiếng Chăm, cứu vãn tiếng Chăm
khỏi cơn thương khó. Cuối cùng, Inrasarra đã cất công sưu tầm, rồi nghiên cứu tỉ
mỉ về văn học Chăm cổ.
Khác với các nhà nghiên cứu chuyên về khảo
cổ, lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật Chăm, Inrasara tập trung vào văn học Chăm.
Đây là lĩnh vực mà chúng ta còn thiếu hiểu biết và là mảng trống to lớn mà ít
nhà nghiên cứu quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Các nhà nghiên cứu đã
quá ấn tượng với một nền văn minh cổ để lại những dấu vết vừa hùng vĩ vừa kì bí
qua những tháp Chàm, bia ký… mà quên đi dậu huệ dân tộc này vẫn còn và đang cố
gắng giữ gìn, bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, văn hóa, lịch
sử mà tổ tiên họ gắng truyền lại qua bao đổi thay, bất trắc của lịch sử, đời
người. Chính vì thế, vai trò của Inrasara rất quan trọng. Inrasara đã dày công
nghiên cứu, sưu tầm và dịch văn học Chăm. Sara chịu khó đi, chịu khó tìm tòi,
sao chép và hệ thống lại trường ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm… Thậm chí,
theo lời anh, những tư liệu cực kì quý hiếm để có được, Sara đã phải đánh đổi cả
tuổi thanh xuân của mình. Với sử thi, Sara đã vận dụng thao tác so sánh, chỉ ra
sự gần gũi, điểm khác biệt giữa sử thi Chăm và sử thi các dân tộc thiểu số
khác. Nghiêm túc truy tìm nguồn gốc sử thi, chính Sara đã có những lí giải hợp
lí về một số thuật ngữ vùng sử thi này. Ở mảng truyện cổ, Sara thắp lửa tin về
tư liệu cho giới chuyên môn. Với thể lục bát Chăm, Sara đã gợi không ít điểm lí
thú cho những nhà nghiên cứu phụ cận. Ngoài công việc sưu tầm, nghiên cứu,
Inrasara còn tuyên truyền, quảng bá văn hóa, văn học Chăm trên mọi phương diện.
Có thể nói, với văn học Chăm, Inrasara đã “gợi mở và gợi hứng sáng tạo”
cho thế hệ Chăm tương lai.
Bên cạnh những thành tựu về nghiên cứu văn
học – văn hóa Chăm, Inrasara đã gặt hái không ít thành công trong lĩnh vực sáng
tác. Anh nổi danh nhất với vai trò nhà thơ:
Không ít bạn trách tôi mất thời giờ cho
thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
dù chỉ còn một người
hay ngay cả chẳng còn ai
(“Ngụ ngôn của Đất”,
Tháp nắng)
Chỉ sau 10 năm xuất hiện trên thi đàn,
Inrasara đã nhận không ít giải thưởng. Anh đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt
Nam (1997) với tập thơ đầu tay Tháp nắng. Khoác vòng nguyệt quế khi chưa
là thành viên Hội Nhà văn Việt Nam, Inrasara nhanh chóng cuốn hút sự chú ý của công
luận, báo hiệu một tài năng thơ đích thực, có sức bật lớn. Toàn bộ chủ đề tập Tháp
nắng toát lên niềm khao khát tìm thấy một bản sắc Chăm giàu sức tái sinh.
Sau Tháp nắng, tập thơ Sinh nhật
cây xương rồng đánh dấu sự định hình và vượt lên chính mình của nhà thơ
Inrasara. Vùng Chăm bí ẩn cuốn người đọc vào tứ thơ và cái lạ nhà thơ gửi gắm.
Năm 1999, tập thơ Hành hương em trình làng lôi kéo sức chú ý giới mộ thơ
bởi chất triết lí và chiêm nghiệm. Năm 2003, lần thứ hai đoạt giải thưởng Hội
Nhà văn, anh lại được hội đồng nghệ thuật nồng nhiệt ca ngợi: “Với Lễ tẩy trần tháng Tư, Inrasara đã đạt tới niềm khoái cảm tự do đầy
bình tĩnh của một thi sĩ. Từ Tháp nắng, bằng 6 năm trầm mình trong lao động thi ca, nhà thơ đã vững đứng trên
một đỉnh cao mới của chính anh. Vừa cô đặc vừa đầy ắp, tràn ngập hình ảnh đời sống quá khứ và hiện tại, cùng
với sự vận động không ngừng về phía trừu tượng, luôn hủy diệt và làm mới theo
cách dạy bảo của thần Shiva, Inrasara đã tạo dựng một hệ thống thi pháp riêng.
Có thể nói dài về những đóng góp của anh vào thơ Việt hiện đại; một thi sĩ Việt
tram phần trăm, nguồn gốc Chăm trăm phần trăm, không xa lạ với những luồng sáng
di chuyển của văn hóa, văn chương, thi ca hôn nay. Hoan nghênh người nghệ sĩ
không chỉ vào tháng Tư mới hành tẩy trần, anh tẩy trần và tẩy trần liên thông
trong đạo – sáng - tạo.”[84].
Inrasara thật sự là biểu tượng thành công
trong hành trình dồn tâm nén sức khai tỏa văn hóa dân tộc. Năm 2005, anh vinh dự
nhận được Giải thưởng văn học ASEAN cho tập thơ The Purification
Festival in April (Lễ tẩy trần tháng Tư). Inrasara cũng nhận được giải thưởng
Work of Month (Tác phẩm của tháng) vào tháng 9 năm 2006 cho chùm thơ
mang tên Chuyện người đời thường trong tập Chuyện 40 năm mới kể &
18 bài thơ tân hình thức thuộc trang web tienve.org. Ngoài ra,
Inrasara còn được vinh danh trong các giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật
các Dân tộc thiểu số Việt Nam dành cho tập thơ Sinh nhật cây
xương rồng (1998) và một số giải thưởng khác.
Sở hữu không ít giải thưởng cao quý, chứng
tỏ những đóng góp thầm lặng của cá nhân nhà thơ đã được độc giả ghi nhận. Phá bỏ
mặc cảm tự ti dân tộc, Inrasara trình làng “một nền văn học dân tộc trong một nền văn minh”;
góp phần đẩy bánh xe thơ Việt về phía hiện đại, cổ vũ mạnh mẽ phong trào thơ
các dân tộc thiểu số dấn thân vào hương lộ sáng tạo. Giải thưởng ASEAN tiếp lửa
cho những nhiệt huyết thi ca Sara, thêm một lần khẳng định tài thơ giúp anh vững
tin đưa thơ Việt hòa chung nhịp đập với thơ ca khu vực và thế giới.
Không dừng ở địa hạt sáng tạo, Inrasara vận
mình vào việc nghiên cứu, lí luận – phê bình. Bằng tư duy khoa học chính xác,
Insarasa nhạy bén chỉ ra những rối bời trong làng thơ Việt với Chưa đủ cô
đơn để sáng tạo (2006), Song thoại với cái mới (2008). Cùng xuất hiện
trong năm 2014, hai cuốn tiểu luận mới nhất của Inrasara là Thơ Việt - hành
trình chuyển hướng say và Nhập cuộc về hướng mở bật ra lối đi mới
cho thơ tân hình thức đồng thời khẳng định lối nghĩ mới thú vị thi nhân Việt
hôm nay cần viết như một công dân thế giới.
Nhận xét về lối phê bình của Inrasara, Lâm
Tiến viết: “Inrasara là người viết lí luận
phê bình nghiêm túc, táo bạo, sắc sảo, đưa ra được những vấn đề mang tính lí luận
và thực tiễn của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Ông quan tâm nhiều tới tiếng
nói và chữ viết và vấn đề bản sắc dân tộc trong văn học… Inrasara không bao giờ
hài lòng với truyền thống của cha ông; ông muốn đập nó ra để lọc lấy tinh chất,
tìm trong đó những chất liệu, phương tiện và kinh nghiệm nghệ thuật cần thiết
cho mục đích sáng tạo nghệ thuật của mình để tái tạo lại trong những tác phẩm mới
hiện đại hơn”[68]. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “Inrasara là một cây bút phê bình lỗi lạc.
Bài anh viết về văn học của thiểu số có thể ngang hàng với bài Một thời đại trong thi ca của Hoài
Thanh.”[104].
Inrasara cho rằng nhà phê bình còn giúp
cho người đọc chuẩn bị tâm thế, tư duy thẩm mĩ hiện đại để thưởng thức văn học
hiện đại trọn vẹn nhất. Anh cũng gióng lên hồi chuông mạnh mẽ về trách nhiệm của
nhà thơ và xã hội đối với tương lai thơ.
Được xướng danh trong vai trò nhà thơ, nhà
nghiên cứu – phê bình văn học song thật khiếm khuyết khi bỏ qua danh xưng
Inrasara – nhà viết tiểu thuyết. Hoạt động chữ nghĩa trên nhiều lĩnh vực khác
nhau, việc chuyển mình hẳn là một thử thách đáng kể. Inrasara quan niệm rằng, tiểu
thuyết là kho lưu giữ sinh hoạt của một dân tộc trong thời đại nhất định, vừa
biệt lập vừa bổ sung cho những thiếu hụt của lịch sử. Với tư cách là một thể loại
nghệ thuật đương đại, tiểu thuyết mang tiềm năng biểu đạt cả về nội dung lẫn
hình thức. Ở đó, cá nhân, cộng đồng mặc sức kể, tả, suy tư, chiêm nghiệm về phận
người, phận đời. Dùng 15 năm suy niệm, Insarasa đổi lại bằng cuốn tiểu thuyết Chân
dung cát xuất bản năm 2006. Cố gắng “nói
những điều đã cũ”[102], Inrasara dồn
nén cả “mệnh”, “phận” dân tộc thành quyển tiểu thuyết Hàng mã kí ức
(2011). Mang theo lối sáng tác hậu hiện đại, Inrasara cắt dán nhiều thể loại
văn chương trong tiểu thuyết của mình, mang lại lối thể nghiệm hoàn toàn mới mẻ,
toát lên cái nhìn độc đáo về gương mặt tinh thần Chăm, chân dung Chăm với tất cả
các góc độ, trải xuyên suốt chiều thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai.
Lãng du trong nhiều miền đất, nhiều nền
văn hóa, Inrasara cởi bỏ mọi vướng bận của đời, dốc mình trong hành trình sáng
tạo. Được xướng danh như một kỳ nhân làng viết, Inrasara say mình trong sáng
tác, nghiên cứu. Nhưng chưa bao giờ tình yêu quê hương, dân tộc, văn hóa Chăm
vơi cạn trong anh, và có lẽ luôn vẫy gọi anh tiến về thánh đường thi ca.
1.2.3.
Inrasara: Người say mê kể chuyện văn hóa Chăm
Với nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu về văn hóa, ngôn ngữ Chăm, nhiều tập thơ - trường ca như Tháp nắng,
Sinh nhật cây xương rồng, Hành hương em, Lễ tẩy trần tháng tư... cùng
một số tiểu thuyết, Inrasara - người con của làng Chăm Ninh Thuận - dường như
đã làm được điều mà anh mong muốn: kể chuyện của dân tộc Chăm cho thế giới bên
ngoài. Ngoài ra, Inrasara còn say mê kể chuyện văn hóa Chăm qua 15 quyển Tagalau
do anh trực tiếp chủ biên.
Từ một thế kỉ nay, người ta gần như lột trần
tất cả những gì có thể làm được để làm cho nền văn minh – văn hóa Chăm được giữ
gìn và nhận biết. Người ta làm rất nhiều, nhưng dường như lại quên đi (hay chưa
để tâm đến mấy) chủ nhân tạo lập nền văn minh ấy: dân tộc Chăm. Dân tộc Chăm với
niềm vui, nỗi buồn của họ, với tâm tư nguyện vọng của họ, với yêu thương giận
ghét của họ, với những tất bật trong ngày hôm nay, ưu tư cho ngày mai của họ. Một
dân tộc không chỉ tồn tại trong quá khứ mà là một dân tộc Chăm của thực tại sống
động với tâm hồn phong phú. Inrasara dành không ít trang viết về thế hệ Chăm
cùng những biến suy trong lòng xã hội Chăm – một vùng mờ đau đáu đổi thay, về
thân phận dân tộc Chăm xưa – nay. Anh chẳng ngại ngần bộc bạch vết “đau” Chăm,
đưa lịch sử Champa trải dài trong thơ, trường ca. Lịch sử hào hùng song lắm bi
thương, những phận người cuồng xoay trong nỗi khó, bao làng Chăm xác xơ mòn gầy
trong cơn lốc đói kém… Tình quê, văn hóa dân tộc như sợi chỉ kết nối bao cộng đồng
Chăm, bao bước chân tha hương. Cuộc đời, xã hội Chăm như được thắp sáng, thấu tận
trong những truyện kể của Inrasara. Nỗ lực của chú
ong bền bỉ Inrasara quả được dư luận đền bù xứng đáng khi được biết đến như là
một thi nhân, một nhà nghiên cứu say mê kể chuyện văn hóa Chăm.
1.2.
Sự tiếp nhận văn hóa Chăm từ truyền thống dân tộc trong thơ Inrasara
Trước khi trở thành một nhà thơ, Inrasara
là người nghiên cứu văn hóa, văn học Chăm. Hồn thơ Sara được nuôi dưỡng từ
chính đời sống tinh thần phong phú và bản sắc văn hóa của dân tộc Chăm.
Inrasara từng giới thiệu về mình:
Tôi
đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng
miền Trung nhỏ hẹp
đứa con của nắng bốn mùa cát trắng hanh
hao
đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét
và của đôi mắt Tháp Chàm mất ngủ xanh xao
( “Đứa con của Đất, Tháp nắng )
Inrasara xuất thân từ gia đình thuần nông
có đến sáu anh chị em làng Chakleng– Mỹ Nghiệp, làng Chăm duy nhất có tên trong
bia cổ Champa đã tồn tại hơn ngàn năm. Anh có người cha cần cù chịu khó và đam
mê sách cổ. Bản thân thi sĩ vốn yêu thích ngôn ngữ Chăm cùng với niềm đam mê từ
người cha truyền cho đã mở ra con đường đến với thơ của anh. Sara đã dành cho
quê hương tình cảm nặng sâu. Và chính nguồn sữa văn hóa dân tộc đã nuôi lớn
tình yêu thi ca nơi anh:
Mẹ nuôi tôi bằng nguồn sữa ca dao buồn
Cha nuôi tôi bằng cánh tay săn Glơng Anak
ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương mù truyền
thuyết
plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn dế, tiếng
mõ trâu
(“Đứa
con của Đất”,Tháp nắng)
Và cũng chính quê hương vực thơ anh dậy:
Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên
rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ
như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống
tan hoang thành phố
tôi tìm lại tôi
tìm thấy nắng của quê hương
(“Đứa
con của Đất”, Tháp nắng)
Inrasara yêu dân tộc mình bằng tình yêu của
đứa con xa quê, luôn hướng về quê khi bước chân phiêu lãng khắp các phương trời.
Quê hương là nơi trở về sau bao tháng ngày tha hương và quê hương vẫn an nhiên
giang rộng tay ôm, tha thiết yêu những người con tha hương lầm lỡ:
Ngày em về quê hương ôm em như chưa từng
có em
Như quê hương có em lại rồi sau tháng ngày
lưu lạc
(Trường
ca “Quê hương”, Tháp nắng)
Quê hương là vậy, đẹp đẽ và bao dung như
tâm hồn con người. Mỗi khi xa quê, Inrasara luôn tìm về con đường thân quen,
nơi đó có biểu tượng của một nền văn hóa dân tộc:
Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng
Biển bên kia, và cát bên này
(“Tháp
nắng”, Tháp nắng)
Với tình yêu quê hương thiêng liêng, nhà
thơ đã “cúi xuống ghì ôm quê hương
như chưa từng có quê hương” để cảm nhận hơi ấm trong từng thớ đất quê hương
và hơn hết là nguồn mạch sức sống, nguồn mạch cảm hứng sáng tạo mà quê hương
mang lại. Quê hương Chăm đã trở thành một tín niệm riêng trong thơ Inrasara:
đau khổ, trầm luân mà đầy yêu thương và tự hào.
Inrasara quan niệm, thơ như là con đường
tìm về cội nguồn, thấu hiểu tâm hồn dân tộc mình. Con đường ấy đồng nhất với
con đường anh tìm về quê hương tâm linh, con đường tìm về với bản thể. Khuôn mặt
thi nhân không ít lần suy niệm trên hành trình trở về ấy. Anh luôn ấp ôm mối u
hoài về thân phận dân tộc, văn hóa Chăm. Có thể nói, trở về quê hương tâm linh/
bản thể luôn luôn là tiếng gọi mãnh liệt nhất/ thiêng liêng nhất, sáng tỏ nhất
của con người. Đó là cội nguồn dân tộc tính của thơ ca Inrasara.
Ngay từ khi cắp sách đến trường, Inrasara
đã thuộc lòng nhiều thi phẩm cổ điển Chăm. Chàng thiếu niên Inrasarra đi khắp
các làng Chăm, vừa làm thơ vừa sưu tầm các bản chép tay văn học cổ điển và văn
học dân gian, đọc nhiều cuốn sách văn hóa dân tộc. Từ đó, văn hóa, văn học Chăm
ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Inrasara. Nhà thơ mang trong mình dòng máu
Chăm và tự nhận mình phải lòng nét đẹp văn hóa Chăm. Anh hiểu thấu đáo và luôn
tự hào về văn hóa dân tộc mình. Sara khẳng định:
… con là Chăm ngay ban đầu vỡ ra tiếng
khóc
(còn hơn thế: chín tháng mười ngày trước
khi vỡ tiếng khóc)
khi con cắm rễ nơi đây
hay khi con lang bạt tận cùng trời
con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa
cuối đời.
(“Ẩn
ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Say mê văn hóa Chăm, văn hóa Chăm ngấm vào
cốt tủy Inrasara, tràn vào những thi phẩm của anh. Thơ Inrasara mang một chất
men lạ say lòng độc giả mà không cần dụng công câu chữ như khá nhiều nhà thơ
đương đại khác, anh chỉ nói về Chăm. Nhưng chất thơ đã nằm sẵn trong Chăm mất rồi,
Inrasara nói bình thường vẫn thành thơ – thơ hay. Inrasara hiểu rõ nền văn hóa
dân tộc mình, anh khái quát:
Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui
chịu chơi cả trong đau khổ
( “Ẩn ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư )
Ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa, văn học
Chăm, thơ Inrasara có nhiều câu gần với văn học dân gian, lấy chất liệu từ văn
học dân gian. Những miền “cố quận” mà Inrasara hay dùng cùng với ngôn ngữ thơ
được chắt lọc cho thấy chất dân gian dường như đã khảm sâu vào hồn thơ anh:
Ơi miền cố quận xa!
Cố quận kẻ thân yêu ta rơi lại bên bờ
Cố quận bạn bè ta lạc bước bôn ba
Cố quận của đêm cháy nồng mùa hạ
Cố quận ta bỏ đi bươn bả
Đang giục ta trở về
(“Đường
trở về”, Tháp nắng)
Những điệu đua buk, câu ariya
đi vào thơ Sara thật tựa hơi thở:
Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi
tôi lạc mất điệu đua buk, câu ariya, bụi ớt
(“Đứa
con của Đất”, Tháp nắng)
Những vần điệu dân gian đã trở nên quen
thuộc, ghi sâu vào trí nhớ mọi người con Chăm:
Glơng Anak, Pauh Catwai phải vội vã
viết đã rất ngắn
như thể trối trăng
(“Tam
tấu trước ngưỡng thế kỉ XXI”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Đọc thơ Inrasara, dù viết bằng tiếng Việt
hay tiếng mẹ đẻ, độc giả không khỏi bắt gặp cách nói Chăm thân quen trong lời
thơ:
Rồi một ngày em đi
Xa cái Chạng gầy, bỏ bờ cỏ dại
Xa tiếng mõ trâu chiều, bỏ thằng Klu xóm
dưới
(“Nỗi
buồn ứng trước”, Sinh nhật cây xương rồng)
Hơi thở Chăm, cuộc sống Chăm thấm đượm qua
từng trang thơ Inrasara. Nó mộc mạc, tự nhiên, chân thành như chính con người
nơi ấy. Nhạc điệu thơ Inrasara mang đậm dấu ấn văn hóa Chăm. Đó là nhạc điệu
náo nức chờ mong mùa lễ hội. Đó là sự hòa điệu của tiếng trống baranưng,
tiếng kèn saranai và điệu lòng thi nhân:
Em
về
Nắng hanh hao lối mòn – điệu đua buk
triền vai
rung rinh màu thổ cẩm
lời ca dao buồn trong mắt
(“Katê
mới”, Sinh nhật cây xương rồng)
Chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa – văn học
Chăm, thơ Inrasara vừa đậm đà bản sắc văn hóa Chăm từ nội dung trữ tình đến
hình thức biểu đạt, lại vừa sâu lắng nhờ có tri thức. Sự am hiểu nguồn cội của
một nhà nghiên cứu ngụp lặn vào đời sống Chăm, thao thức, trăn trở, một mực hướng
về dân tộc, hướng về quê hương, hướng về truyền thống. Nguồn văn hóa – văn học
dân gian Chăm không chỉ nuôi sống tâm hồn con người mà nó còn thể hiện sự trường
tồn của một dân tộc, khẳng định mình trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Những người con tha thiết với dân tộc đang từng ngày để cho nguồn văn hóa – văn
học quê hương tuôn chảy trong thơ mình, một mực hướng về quê quán nguồn cội,
hơn hết là thỏa mãn nguyện vọng khiến văn hóa – văn học trường tồn mãi với thời
gian.
Chương 2
BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM QUA THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI
2.1.
Hình ảnh thiên nhiên
2.1.1.
Hình ảnh tháp Chàm muôn mặt
Nghệ thuật kiến trúc Champa sớm “thuần
hóa” văn hóa bản địa cùng tinh hoa văn hóa các dân tộc Đông Nam Á. Người Chăm
và văn hóa Chăm mang một thân phận đặc biệt, một bản sắc riêng biệt, độc đáo. Một
trong những giá trị biểu hiện của bản sắc văn hóa Chăm đầu tiên phải kể đến là
biểu tượng Tháp Chàm. Tháp Chàm là công trình kiến trúc đền tháp Champa
thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chăm. Các đền tháp Champa phản
ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hóa Champa từ giai đoạn đầu tiếp thu những
ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi
dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh
các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Tháp Chàm là khối kiến trúc xây dựng bằng
gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ nguồn đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút
hình bông hoa. Mặt tháp đa số là hình vuông, có không gian bên trong chật hẹp,
thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng mặt trời mọc). Trần được cấu tạo
vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc đẽo
gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên bề mặt tường
ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất chắc chắn, bền vững. Tháp
Chăm kết tinh mọi tinh hoa văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc Chăm. Trải
qua bao biến động của cõi vô thường, tháp Chăm trở thành biểu tượng của dân tộc
Chăm. Cất giấu số phận dân tộc
Chăm, vẻ đẹp, sự linh thiêng của thánh địa huyền miên tháp Chàm luôn là nỗi ám ảnh
của thi nhân xưa – nay.
Xưa, Chế Lan Viên tìm mình nơi những ngọn
tháp của nước Đồ Bàn hoang tàn, điêu phế. Cái tôi bản thể mang ẩn ức thời đại
tìm thấy niềm an ủi, một miền tâm linh để trú ngụ cảm thông. Nay, tháp đi vào
thơ Inrasara như một định phận:
Người xưa không trở lại nữa rồi
Tháp miệt mài đứng đợi
Sáng trưa chiều tối, sáng trưa chiều
Tháp lạnh.
Biết trú nơi đâu những chuyến mưa về muộn
Dừng bước lưng chừng đêm
Tháp ướt dầm, ướt dầm, ướt dầm
Tháp lạnh.
Cánh tay gầy run để lạc mất đàn con
chỏng chơ tháp đứng
Mang mang giữa vùng trăng
Nhớ ấm hơi người, nhớ bàn chân
Tháp lạnh.
(“Tháp
lạnh”, Hành hương em)
Ngọn “tháp lạnh” tựa thân phận chênh vênh
trong hiện tại đời. Biểu tượng của cái đẹp từng ngày bị dập vùi, cô đơn, buồn
thương, mất mát. Nhà thơ suy tư, đánh thức con người trước vẻ đẹp bị bỏ rơi đến
tàn phai. Định phận mong manh của những ngọn tháp cũng là định phận mong manh của
dân tộc trong thơ Sara.
Tháp trong thơ Irasara còn là tháp hoang
cô độc. Tháp xa lạ và bí mật, tải chở kí ức sinh phần của dân tộc. Ngọn tháp là
chứng nhân kết nối quá khứ với hiện tại, đánh thức con người đối mặt với quá khứ
và hiện tại, đối mặt với hiện hữu và hư vô:
Tháp hoang
Như thình lình mọc lên từ đất
Đầy lông lá – âm u – dọa nạt…
Tháp hoang
Đột ngột xô tôi về đối mặt
Quá khứ
Lao xao bầy dơi đen
Tháp hoang
Người bỏ rơi – lịch sử bỏ quên
Riêng bước chân thời gian thì nhớ
Tháp hoang
Như quen thân – như xa lạ
Hồn người xưa vỗ dòng máu ứ
Tháp hoang
Khi bất chợt bác tiều phu nhớ
Dân buôn lậu nhớ - nhà viết sử nhớ
Hồn tháp đã bay xa
(“Tháp hoang”, Tháp nắng)
“Hồn tháp đã bay xa” là
lời tiên mệnh xuất phát từ nỗi thấu hiểu và niềm trở trăn đau đáu về thân phận
tháp của người con Chăm.
Trong cảm thức về định phận mong manh,
tháp trong thơ Sara còn hiện lên như một hiện sinh cô độc và kiêu hãnh:
Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng
Biển bên kia và cát bên này
Biết mấy vạn đời rồi tháp nắng
Trên đồi hoang
như
dấu lặng
phơi
bày
Không một bụi cây – không một làn mây
Bao la nắng và mênh mông cát
Âm thanh câm – thời gian vắng mặt
Trắng không gian đậm đặc tứ bề
Không có một bài thơ ngợi ca
Không lấy một lời ca ngợi ca
Tháp vẫn đang miệt mài với nắng
Trong hoang mạc lòng nhân gian lạnh
Chuyến xe Sài Gòn – Phan Rang
Tôi đi lại quá trăm
lần
Tháp có đó – tôi vờ như không có
Thoáng sát na không gian bùng vỡ
Tháp hiện nguyên hình
-
tháp nắng
- thênh thang
(“Tháp nắng”, Tháp nắng)
Bằng cảm thức vũ trụ, Inrasara nhìn thấy ở
tháp với nhiều khuôn mặt. Có lúc tháp bị bỏ rơi (“Tháp lạnh”), có lúc lại cô độc
kiêu hãnh (“Tháp nắng”), có khi tháp lại xa lạ, bí ẩn (“Tháp hoang”), khi lại u
linh, cuốn hút, huyễn tưởng (“Tháp Chàm muôn mặt”):
Đôi lúc
nửa đêm
tôi nghe tháp mọc ngang trời…
Như giấc mộng như lóa mắt
tháp có mặt
như chớp xé như âm vang…
chợt
mắc cạn
ở lưng đồi
thằng bạn tôi nhìn thấy. Bật nhớ…
Ngọn tháp đổ
tiếng kêu dội vào thành đêm
(“Tháp Chàm muôn mặt”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Tháp im lặng thấu thị tất cả, thấu thị
khuôn mặt của mình, thấu thị khuôn mặt của đời. Thấu thị cả những kẻ không thấu
thị. Thấu thị lẽ thường – đời. Thấu thị cả chiều sâu văn hóa Chăm trong những
tiến lùi đau thương của thời gian.
Xuất hiện với mật độ dày trong thơ
Inrasara, tháp thường trụ trong hồn anh, hay chính anh hợp nhất hồn mình vào
tháp. Hình ảnh tháp Chăm thấm vào máu thịt, vào từng suy nghĩ, cảm xúc của
Inrasara. Sara viết về tháp Chăm với giọng nâng niu, thành kính, trân trọng. Những
ngọn tháp khơi nguồn xúc cảm khá nhiều nhà thơ nhưng đến thơ Inrasara, cái nhìn
về tháp mới trở nên đa diện, đa phong cách một “tháp Chàm muôn mặt”, có chiều
sâu hơn cả, bởi lẽ tháp chính là số phận dân tộc anh cũng đồng thời là
nguồn sống, hơi thở của anh. Inrasra đã thổi vào tháp linh hồn con người, vì vậy
nó có sức ám ảnh lạ lùng. Truy tìm, khám phá tận cùng văn hóa, tâm hồn Chăm
trong hồn tháp, ngược dòng quá khứ để thấu nhận khát vọng cha ông gửi gắm vào
những ngọn tháp, Inrasara nghiễm nhiên xác lập “tháp thơ” cho riêng mình. Tháp thơ của một
thi sĩ yêu – đau văn hóa mình, dân tộc mình. Trái tìm, tâm hồn Inrasara đã,
đang và sẽ mãi mãi thuộc về Chăm:
con
là Chăm ngay ban đầu vỡ tiếng khóc
(còn hơn thế: chín tháng mười ngày
vỡ tiếng khóc)
khi con cắm rễ nơi đây
hay khi con lang bạt tận cùng trời
con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa
cuối đời.
(“Ẩn
ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
2.1.2.
Hình ảnh quê hương
Quê hương là nơi neo đậu vững chắc nhất
tâm hồn của con người. Ở bất cứ nơi đâu, trong bất kì chiều đồng hiện thời gian
nào, quê hương vẫn là chốn ấm áp thân thương nhất réo rắt bước chân trở về từ
người con quê. Inrasara dành không ít trang thơ viết về quê hương mình, đặc biệt
ít có nhà thơ nào dùng 37 trang thơ viết hẳn nên khúc trường ca Quê hương (Tháp
nắng) như anh. Trân trọng, chăm chút là thế song khi viết về quê hương, nhà
thơ không tụng ca quê hương như lẽ thường tình người đời:
Ôi! Quê hương! Quê hương
Quê hương gầy, quê hương xanh xao
Quê hương không có rặng dừa thơ mộng của
ca dao
Quê hương không có cánh cò bay xa, không
có
bản tình ca thôn dã
(Trường
ca “Quê hương”, Tháp nắng)
Quê hương hiện sinh qua những vần thơ trĩu
nặng nỗi buồn, anh xót xa về một miền quê đói nghèo, khắc nghiệt:
Quê hương cằn khô, nóng bức nghèo nàn
Quê hương buồn. Quê hương yêu thương
Quê hương em lũ trẻ con chơi bẩn
Những bà mẹ gầy còm, những cụ già râu trắng
Những cô gái gánh gạo vai sờn…
Quê hương có những vú đồi khô khốc
Quê hương không có cụm mây che mát trẻ em
đầu
húi trọc
Không có giọt mưa cho khát lũ trâu gầy
Quê hương ôm nỗi sầu to lớn khôn khuây
(“Trường ca Quê
hương”, Tháp nắng)
Quê hương anh đó với bốn mùa cát trắng
hanh hao, là biển khơi trùng trùng bão thét, là Phan Rang chứ không đâu khác,
không thể khác. Đó là định phận, định mệnh không thể đổi thay… Những gian khổ của
quê hương đã làm cho những vần thơ của Inrasara đẹp màu nắng gió và đậm nét
bươn chải. Inrasara không thi vị hóa quê hương mình. Quê hương nghèo nàn những
Sara vẫn yêu quê. Với Sara, quê hương là nỗi đau, là niềm nhức nhối khôn nguôi.
Quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất cho niềm thơ Inrasara. Mặc dù quê hương chỉ
để lại cho người con quê con
đường bóng tối, gia tài lớn nhất là hai bàn chân để ra đi và trở về
cùng trái tim nóng hổi để yêu thương nuôi dưỡng hồn thơ lớn dậy. Tất cả
đã đi vào miền nhớ không dễ gì phai nhạt để rồi, người con tha hương Inrasara
luôn đau đáu về “vận” và “mệnh” dân tộc mình. Với thi nhân Sara, thơ như là con
đường tìm về quê hương, cội nguồn dân tộc, thấu hiểu tâm hồn dân tộc mình. Con
đường ấy đồng nhất với con đường anh tìm về quê hương tâm linh, con đường tìm về
với bản thể:
Lớn lên
tôi đụng đầu với chiến tranh
tôi cụng đầu với cơm áo, hiện sinh, hiện
tượng
tôi chới với giữa dòng ngữ ngôn hoang đãng
rồi cuộn chìm trong thung lũng tình yêu
em.
Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi
tôi lạc mất điệu đua buk, câu ariya, bụi ớt
trái tim đui
tôi như người bị vứt
rớt giữa cánh rừng hoang trụi lá mùa xanh.
(“Đứa con của đất”, Tháp nắng)
Quê hương tâm linh/ bản thể luôn luôn là
tiếng gọi mãnh liệt nhất/ thiêng liêng nhất, sáng tỏ nhất của con người. Đó là
cội nguồn dân tộc tính của thơ ca. Quê hương Chăm trở thành một tín niệm riêng
trong thơ Inrasara, chẳng những đau khổ, trầm luân mà còn tràn đầy yêu thương,
hi vọng và tự hào:
Ta đi suốt bề dọc, chiều ngang đất nước
Góp tượng nhà mồ, góp sử thi khan
Vào Mĩ Sơn góp trăm ngọn tháp Chàm
Ta góp trống đồng, góp thơ Nguyễn Du, Nguyễn
Trãi
Góp ngàn dòng ca dao, vạn câu tục ngữ
Góp niềm kiêu hãnh chung, góp cả nỗi đau
riêng
(Trường ca “Quê hương”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Hình tượng quê hương không ít lần xuất hiện
trong thơ Inrasara. Thao thiết tình quê, nhà thơ Inrasara tha thiết yêu thương,
ngợi ca, kiêu hãnh về văn hóa dân tộc mình, nhưng Inrasara cũng hiểu hơn ai hết
bản sắc dân tộc không phải là cái gì đó tiên thiên có sẵn trong cội nguồn, phải
luôn được sáng tạo và bồi đắp.“Bản sắc
dân tộc ở trong văn hóa nói chung và văn học nói riêng, không phải là một đại
lượng nhất thành bất biến, cũng không có sẵn từ khởi thủy. Con đường hình thành
của nó không phải là theo lối tự sinh biệt lập. Trái lại bản sắc cũng được hình
thành từ giao lưu tiếp nhận, cộng sinh tạp giao, đồng hóa với các nhân tố văn
hóa, văn học từ bên ngoài từ đó sinh thành, phát triển tạo ra bản sắc”[103].
Đằng sau những dòng thơ sâu sắc, đằng sau hình ảnh quê hương Chăm khó nghèo
nhưng giàu văn hóa là sự minh triết trong chiều sâu tư tưởng nhà thơ Chăm –
Inrasara. Sự minh triết được thức nhận, lớn dậy từ chính nỗi đau định phận mong
manh của dân tộc anh. Inrasara khai mở một vòm trời suy tư trong lòng người đọc,
níu độc giả vào nốt trầm suy niệm để rồi bằng cách tự nhiên nhất, thơ Inrasra
đi vào lòng người, lòng đời.
2.1.3.
Hình ảnh sông Lu
Tên tuổi, sự nghiệp văn chương của thi
nhân thường gắn bó với một địa danh cụ thể. Chẳng hạn, Nguyễn Khắc Hiếu gắn với
núi Tản, sông Đà; Hoàng Cầm về với sông Đuống, Dương Thuấn hát với sông Năng,
tên tuổi Đỗ Trung Lai gắn với Đêm sông Cầu. Ở mảng văn xuôi, Nguyễn Tuân
vin dựa vào sông Đà khẳng định sức mạnh của tùy bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường mượn
sông Hương để ngợi ca vùng đất cố đô Huế đẹp và thơ mộng… Tên tuổi Inrasara phải
gắn với sông Lu. Trong tâm thức của Sara có một dòng sông Chăm đêm ngày thao
thiết chảy, thao thiết với sự lở bồi của văn hóa Chăm truyền thống. Được tắm gội
trên con sông Lu ngàn năm tuổi, Inrasara tâm sự: “Có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm hồn tôi, có biết bao
con sông, mương, đầm khuất đi không còn
lại dấu vết nhưng tên tuổi của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy
tâm thức của tôi”[47]. Con sông quê hương Chăm có mặt trong không ít bài
thơ của Inrasara “Sông Lu thức cùng tôi
đêm nay”, “Sông Lu và tôi”, “Sông Lu”, “Tụng ca của nước”... Sông Lu hiền hòa đêm ngày dưỡng bồi mảnh đất
quê khô hạn:
tự vỡ bờ chở phù sa bồi ruộng
đất quê hương. Cả khi sông Lu bị
con người biến thành thứ mương tháo vô
dụng, sông Lu vẫn cần cù mang phù
sa đổ vào biển. Sông như là mang
phù sa đổ vào biển.
(“Sông Lu”, Chuyện 40 năm
mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Sông Lu trong thơ Inrasara chất chứa bao kỉ
niệm tuổi thơ, là nơi tẩy rửa thân xác, linh hồn và cả ngôn ngữ. Dòng sông cứ
thao thiết chảy mãi, nó không còn là sông Lu của riêng người Chăm nữa. Sông Lu
với Sara là một biểu trưng, một người tri kỉ chứng kiến hành trình ra đi – trở
về của anh. Và tất cả con sông, dù chúng mang tên khác, hình thành từ suối nguồn
khác hay chảy vào cửa biển khác nhưng Sara vẫn gọi chúng là sông Lu. Con sông
hiện hình cho suối nguồn Chăm, thi sĩ đêm ngày gắng sức làm rạng danh văn hóa
dân tộc:
Sông Lu sinh ra cùng tôi năm đinh
dậu. Hai mươi tháng hạn sông Lu nằm
phơi thân trầm dòng vào lòng đất. Sông
Lu chảy quyết liệt lúc tôi vỡ tiếng
nói đầu đời, sông Lu ẩn mình trong
tôi
khi tôi bỏ làng đi lang bạt,
lần lữa sông Lu lại ra đời với
tôi ngày trở về. Đừng ai hỏi sông
Lu ở đâu, đất Phan Thiết sông Lu
lớn dậy chảy ngang trời Sài Gòn bay
Tokyo, sông Lu tắt Baghdad
hát cùng Euphrates. Sông Lu ngã bệnh
(“Sông
Lu”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Tựa chứng nhân chứng kiến dấu vết thời
gian lướt qua làng quê Chăm thân yêu, dòng sông Lu mãi mãi chảy trong lòng nhà
thơ Chăm Inrasara, là ngọn nguồn, cũng là đích hướng đến cho những nỗ lực đưa
văn hóa Chăm, thơ ca Chăm đến gần công chúng thưởng lãm.
2.1.4.
Hình ảnh ngôi nhà
Hình ảnh ngôi nhà được Inrasara nhắc
đến trong một số bài thơ: “Kẻ canh đêm”, “Truyền thuyết về ngôi nhà”, “Con đường
vỡ”, “Thi sĩ”… Với Sara, ngôi nhà chính là nơi che chở, gìn giữ những giá trị
cuộc đời:
Ngôi Nhà
Ra đi vạn bước chân tràn bờ dự phóng
Vạch chằng chịt lối mòn lên khắp bề mặt
trần gian
Khuôn định những thăng trầm của bóng
và âm vang.
Ngôi Nhà
Ra đi những dòng chảy lòa của sống
Đứa bé ra ràng đi tìm đất đứng
Cô bé dậy thì đi tìm tọa độ yêu
Cụ già hom hem mò mẫm bóng gậy chiều
Gắng gượng đi tìm sinh lực sót.
(“Truyền
thuyết về ngôi nhà”, Sinh nhật cây xương rồng)
Ngôi nhà trong thơ
Inrasara còn là nơi bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, canh giữ chìa khóa văn hóa Champa:
Ngôi Nhà
Ra đi bồng bềnh câu chữ
Lưu lạc bản trường ca bỏ hoang
(“Truyền
thuyết về ngôi nhà”, Sinh nhật cây xương rồng)
2.1.5.
Hình ảnh con đường
Hình ảnh con đường xuất hiện nhiều
lần trong thơ Inrasara. Đó là con đường đời với những lần ra đi và trở lại:
Khi tôi chỉ còn bóng tối làm bạn đồng hành
Và khi con đường năm trong bước chân
Con đường bạt núi đồi, thành phố
Con đường bang tìm những con đường chưa
khai mở ở trần gian
(“Con đường”, Tháp nắng)
Đó là con đường tìm về cội nguồn của dân tộc.
Con đường ấy dẫn thi sĩ tìm về với bản thể:
Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên
rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ
như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống
hoang tàn thành phố
tôi tìm lại tôi
tìm thấy nắng quê hương
(“Đứa con của đất”, Tháp nắng)
Nhà thơ là người mang sứ mệnh tìm kiếm,
sáng tạo cái đẹp. Cái đẹp mới mẻ làm nên những vần thơ có sức sống lâu dài. Con
đường là nơi đưa bước chân thi sĩ tìm đến phương trời mới lạ. Trên hành trình
thơ nhọc nhằn, cái mới luôn vẫy gọi những bước chân phiêu lưu Inrasara:
Sóng lớp bàn tay lao xao vẫy anh về phía
trước
Nhìn đăm đắm anh là những dáng buồm căng
(“Khát vọng biển”, Hành
hương em)
Con đường trong thơ Inrasara còn là con đường
từ plây ra phố vì bao cuộc mưu sinh áo cơm:
Ra đi từ linh hồn ruộng đồng
linh hồn ngọn đồi
nàng đi về hướng phố
(“Chân dung nàng”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Con đường nối làng quê Chăm với đô thị
giúp mọi người tiếp cận với cuộc sống
văn minh, hiện đại hơn. Nhưng đi theo con đường ấy, người ta cũng dễ quên đi bản
sắc văn hóa Chăm, “bập bềnh giữa ngữ ngôn hoang đãng”, để rồi “một
ngày em quên mình là Chăm”.
Dân tộc Chăm đã từng chịu nhiểu đau khổ,
chiến tranh, loạn lạc. Hành trình đi tìm sự sống của họ gắn với con đường. Con
đường đưa bước chân người Chăm thoát khỏi bóng tối đau thương:
Họ là đoàn hành hương cuối cùng
Ra đi từ đêm của thế kỉ cũ
(“Hành hương về bên kia đêm tối”,
Lễ tẩy trần tháng Tư)
Mang theo những nét đẹp truyền thống, họ
đang bước trên con đường đi từ quá khứ đến hiện tại bằng bước chân mạnh mẽ:
Những chàng trai Pablap
chân trần lang bạt
kì hồ ciet gha harơk lên vai
gánh dọc thế kỉ hai mươi
hiên ngang gánh sang hai mốt
không lần ngưng nghỉ
(“Chuyện
7. Kẻ quê hương”, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Con đường thời đại của người Chăm được mở
lối bằng những bước chân “xát mòn vẹt đau cho mầm đắng trồi lên”. Họ
quên đi những mặc cảm của “đứa con hoang lịch sử” để hòa mình vào cuộc sống
lớn của dân tộc:
Chúng ta trút gánh nặng xuống
Lên đường! Con đường băng qua buổi chiều
những triều đại
(“Con đường”, Tháp nắng)
Con đường là không gian chủ đạo gợi mở cho
những không gian khác xuất hiện trong thơ. Con đường cũng là nơi ngoái nhìn quá
khứ và hướng tới tương lai nên con đường luôn gợi mở những lối đi, dẫn dắt cuộc
đời tìm về đúng hướng:
Đưa em về đến đỉnh cao tuyệt diệu
của con đường
đưa em về gần gũi quê hương
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
2.2.
Hình ảnh con người
Văn học là nhân học nên con người là đối
tượng, là trung tâm phản ánh của văn học. Con người là kết tinh những giá trị
chân – thiện – mĩ ngàn đời. Những cá thể người ít nhiều phản ánh nền văn hóa
sinh dưỡng họ. Nền văn hóa Champa rèn đúc những hình hài, phẩm chất người đậm bản
sắc, tựa như từ họ, hơi thở Chăm hồn nhiên toát ra một cách đáng ngưỡng mộ.
2.2.1.
Con người đời thường
Con người trong thơ Inrasara lầm lụi, kiên
trì với những tiếng rao, nhịp khung cửi, lò nung gốm… Họ là những người mẹ, người
anh nơi plei lao động “không lần ngưng nghỉ”, “không có giờ văn chương”.
Họ là những người em gái “bị nhổ khỏi plây, bị văng vào phố”, “những số phận/
đi theo đoàn riêng lẻ/ dáng đi sụp đổ/ biến hút vào trưa”, để rồi lâm vào cảnh
“bập bềnh ngôn ngữ hoang đãng”. Những con người bình dị oằn thương trong
nỗi áo cơm:
Da thịt em nở - áo quần em chật
nhân khẩu tăng phần – khuôn nhà mãi hẹp
thôn xóm cứ mở - ruộng đất cứ teo
Em bị nhổ khỏi plây
bị văng vào phố
Em không có dây chuyền/ không có quần jean
mang linh hồn ngọn đồi
em lạc vào phố lạ.
Em vào giặt giũ trong căn gác lạ
em thợ phụ trong xưởng may lạ
em hoảng hốt trong con hẻm lạ…
Tay em không có nhẫn
em
còn đôi mắt buồn
túi em không có tiền
em còn bàn chân đất
(“Tam tấu ở ngưỡng cửa thế kỉ XXI”, Lễ tẩy
trần tháng Tư)
Hay:
Ông về. Nhà đang hết thời
cánh trẻ đổ hút vào phố
(không thể tránh)
(“Chuyện ông Klơng Man”, Chuyện 40 năm mới
kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Không chỉ vậy, những phận người buồn
thương chẳng ít lần vùi mình dưới đáy xã hội:
con ma nào đưa tôi ngồi quán
tôi rơi vào mắt cô gái Chăm đầu tiên bán
bia ôm
em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con
nít.
(“Bất
ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Những số phận khó nghèo, nỗi đời cơ cực ấy
đi vào thơ Sara cùng nỗi động lòng thương cảm:
Mãi vũng áo cơm
Mãi
đỉnh cô đơn
Khiêm cung giữa bạt ngàn đau khổ
Thắp nắng dăm ba số phận mọn hèn
(“Thi
ca và thi sĩ”, Hành hương em)
Sinh trưởng, trải mình qua bao đói kém nơi
plây nghèo, cuộc đời Sara cũng như bao phận Chăm, nếm chẳng ít gian khó, nhọc
nhằn nhưng họ vẫn thấy tự hào về những người xung quanh mình:
Plây ta nghèo
Gió trưa tràn bãi nắng
Cha trần thân quần quật cuốc nắng
Cuốc mãi hoài hút bóng ban mai
(“Nỗi
buồn ứng trước”, Sinh nhật cây xương rồng)
Với mẹ, với vợ và những đứa con thân yêu,
Inrasara dành không ít tình cảm thương mến. Hình ảnh những con người bình dị
quê hương đi vào thơ anh tự nhiên như hơi thở. Họ không chỉ hiện lên với những
phẩm chất chịu thương, chịu khó, lam lũ, cần cù kiếm sống mà còn hiện lên với hình
ảnh đẹp đẽ, là những con người ngập tràn đam mê và sự thăng hoa trong những dịp
lễ hội:
nhanh hơn nữa. Tôi thấy nắng tràn
không kịp cho giọt sương còn nán ngủ
nắng
vây bọc mái tóc thiếu nữ xuống sông lấy nước, cây cột, tấm tranh, màu áo, tiếng
gọi nhau tràn về đầu làng
dựng lên kajang cuộc lễ
(“Lễ
tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Những người con Chăm khắp muôn phương “đều
bước về plây” mỗi dịp lễ hội. Họ đắm mình trong không khí náo nức, linh thiêng,
tẩy sạch những muộn phiền, tội lỗi và thắp lên niềm vui sống:
Sau Lễ tẩy trần tháng Tư năm nay
cả con sẻ nhỏ yếu, cái kiến mọn hèn nhất
cũng có đất để sống, để chơi
(“Ẩn
ngữ Pauh Catwai”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Sau mỗi dịp lễ hội linh thiêng, những người
con Chăm lại được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục hành trình đời mình. Và trong
hành hình cuộc đời không ít nhọc nhằn, khốn khó đó, hành trang đời sống tinh thần
của họ luôn đậm đà bản sắc dân tộc với những điệu kamơng, đua buk, với điệu kèn
saranai hay ginăng trầm hùng, dáng tháp uy nghiêm bí ẩn, nàng Apsara quyến rũ,
mị hoặc và bao trang sách cổ chứng đựng truyền thuyết Champa hào hùng.
2.2.2.
Con người tha hương
Cảm thức về con người trong thơ Inrasara
mang một dấu ấn riêng đậm nét. Đó là con người tha hương. Tha hương trở thành nỗi
ám ảnh trong thơ Inrasara:
Đường trở về
Khi
kẻ tha hương nán lại trên đỉnh cao
Ôm mang lần cuối bóng dáng quê hương vào
vùng tim tư lự
Còn quay lại nhìn – nhưng nhức, nôn nao
(“Đường trở về”, Tháp
nắng)
Hay:
Vẫn là kẻ tha phương ở mọi chân trời
Nhìn sự vật trần gian bằng đôi mắt
người ngái ngủ
Mãi đóng sập trước chúng ta cánh cửa cuộc
đời…
Vẫn là khách tha phương ở mọi
chân trời
Trườn lướt nặng nề trên phong bì sự vật
Chúng ta còn bần cùng hơn người hành khất
Đang làm kẻ lang thang trước ngưỡng cửa cuộc
đời
(“Kẻ canh đêm”, Sinh nhật cây
xương rồng)
Làm khách tha hương, bước chân lãng du nhọc
nhằn nơi xứ người, đến khi trở lại quê hương sau bao mùa bất trắc sao họ
lại ôm mặt khóc òa? Bởi giữa quê hương mà thấy thiếu quê hương, ấy là cảm
thức Chăm. Có thể nói, tha hương là cảm thức thường trực trong hồn thi sĩ, cũng
là cảm thức về thân phận con người phương Đông vốn có truyền thống gắn bó chặt
chẽ với quê hương chôn nhau cắt rốn. Do đó, việc ra đi và rời xa quê hương luôn
đẩy con người phương Đông vào tâm thế tha hương. Tha hương như một mặc cảm, một
nỗi đau và vì tha hương nên luôn thường trực trạng thái bơ vơ, ngóng đợi quê
nhà. Trạng huống cảm xúc này đậm đặc trong Đường thi như một thi tứ quen thuộc:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(“Hoàng Hạc Lâu”, Thôi Hiệu)
Và nguồn mạch đó vẫn chảy tràn đến thơ Mới:
Làng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
(“Tràng
giang”, Huy Cận)
Đến thơ đương đại, trạng huống này xuất hiện
nhiều trong thơ Inrasara. Hình ảnh con người tha hương trong thơ anh luôn gắn với
con đường, bàn chân, hành hương, hành trình… Khảo sát thơ Inrasara, độc giả dễ
dàng nhìn thấy sự trở đi trở lại nhiều lần những hình ảnh trực tiếp nói về sự
ra đi hay gợi về sự tha hương như: “Đường trở về”, “Con đường lửa thiêng”, “Con
đường vỡ”, “Dấu chân trầm”, “Hành hương em”, “Những dấu chân ơn nghĩa”, “Hành
hương về bên kia đêm tối”… Rõ ràng đây là một tín hiệu nghệ thuật.
Sự ra đi của những con người tha hương được
quê hương ban tặng món quà đặc biệt – nỗi nhớ:
Ôi! Phải chăng chỉ kẻ bỏ xa quê hương quê
hương mới ban cho nỗi nhớ
Nỗi nhớ quê hương
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
Sự ra đi và nỗi nhớ quê hương trong thơ
Inrasara đã khai mở một nguồn cảm xúc mới mẻ, tinh tế và nhân văn. Nhớ
quê hương là niềm hân hưởng cuộc đời, là hạnh phúc được quê hương ban tặng.
2.2.3.
Con người tận hiến – vô danh
Nếu hạt lúa không chết đi
Nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang đầy hoa
trái
(Kinh Phúc âm)
Hai câu Phúc âm ám ảnh Inrasara trong một
buổi chiều cuối thu mưa phùn, giá rét ở Hà Nội: “Những con người bình thường đến tầm thường, những con người cật lực
trong nỗi vô danh của hạt thóc vãi rơi sau vụ gặt thịnh mùa, chịu ở lại với đám
ruộng bỏ giá suốt những tháng hạn, với nắng gió, chim chóc… để bật lên cây lúa
chắc nịch sau những ngày mưa đầu năm; những con người chịu nở trọn lòng mình
trong bóng tối… luôn cuốn hút tâm hồn tôi một cách kì lạ… Chúng ta đến, chúng
ta đi, và chúng ta bị quên lãng. Có thể những tên tuổi này sớm bị quên lãng
trong kí ức mọi người, như họ mong được thế. Như hạt giống chỉ muốn mình bị
lãng quên để có được cây lúa xanh tươi trổ bông trĩu gié cho đời người và cho đời
sau”[47].
Sâu xa hơn, lay động sâu thẳm hơn, khi
tinh thần của câu Phúc âm kia gần gũi/ tồn chứa trong chiều sâu văn hóa Chăm –
con người Chăm: Ấy là tận hiến và vô danh.
Chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng Ấn,
Chăm gần như không có sử. Con người, địa danh, những sự kiện lịch sử hóa thân/
tồn tại theo phương thức huyền thoại trong lòng đồng tộc. Trong văn học Chăm, hầu
như tất cả các tác phẩm đều vô danh hoặc khuyết danh, dù có không ít sáng tác đậm
phong cách cá nhân. Vô danh, được vô danh là tư tưởng rất quan trọng trong nhân
sinh quan Chăm. Con người vô danh trong thơ Inrasara hiện hình trong việc thấu
tận, nghiền ngẫm về lẽ đời, về nỗi vô thường của con người, từ việc thấu hiểu định
phận mong manh của con người, thấu nhận rõ cái đích hiện sinh, ý nghĩa hiện
sinh của cá thể người:
Cái đích cuối cùng của cuộc hiện sinh
không là gì cả
Nhưng lẽ nào chúng ta sống không làm gì cả
Để cho cuộc đời chúng ta không ra gì cả…
Người đời chọn: những cái sướng, niềm vui
Nhưng chính những vết thương, nỗi đau
Đã nâng chúng ta bay cao, khôn lớn.
Là già cỗi
Khi trái tim khép kín
Khi linh hôn thôi tuôn trào
Khi hoài vọng hết bay cao
Khi đôi chân kéo lê trong đầm ký ức
Hãy sống như là một bùng vỡ
Một bùng vỡ không cần đến tiếng động ồn
ào.
(“Đoản
thi thư nhất dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)
Cũng có thể lí giải vô danh bắt nguồn từ
quan niệm vòng đời của Chăm. Chăm vẫn quan niệm, cõi trần là cõi tạm. Cuộc đời
là cõi tạm, nên con người nhẹ nhõm thênh thang trên cõi đời. Con người vô danh
trên mặt đất. Đây chính là vẻ đẹp tâm hồn Chăm, giá trị đích thực của Chăm được
người con Chăm nâng niu, thấu cảm:
Người Champa đến đất này đào mương trồng
lúa
đốt rừng làm rẫy
yêu nhau
sinh con đẻ cái
làm thơ rồi ra đi
gởi Mĩ Sơn ở lại
(“Những dấu chân ơn nghĩa”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Tận hiến, ở góc nhìn nào đó rất gần với tư
tưởng Nho gia. Con người Nho gia sinh ra dấn thân lập danh, lập nghiệp, tận hiến
cứu đời nhưng là để lập thân, để khẳng định Tài – Tâm – Chí, để thân mình không
vô danh trong vũ trụ đất trời, lòng người. Nguyễn Công Trứ - đại biểu của tư tưởng
Nho giáo trong khát vọng lập thân, lập
danh trăn trở: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi
sông”.
Ngược lại, với Chăm, con người trong tuyệt
đỉnh tận hiến là vô danh cùng cỏ cây vũ trụ. Những công trình kiến trúc chùa
tháp Chăm vô danh, cô độc, kiêu hãnh giữa vũ trụ nhân gian. Những nghệ nhân
Chăm tài hoa không tên tuổi, vô danh cùng trời đất. Nhưng là sự vô danh cho
sáng tạo hiện tồn/ trường tồn. Dòng chảy tận hiến mạnh mẽ:
Hãy
hình dung trăm ý tưởng tài hoa chịu làm vô danh cho tháp Chàm có mặt
hãy hình dung thêm vạn bàn tay sần chai vì
nó, đã ẩn mình
thì sá chi thơ anh cõi còm chiều ngày tất
bật
hãy thả cho gió bạt chúng về mấy cõi hư
vinh
(“Ngụ
ngôn viết cho mình”, Hành hương em)
Tự hào, biết ơn truyền thống vô danh của
dân tộc, Inrasara lặng lẽ uống nguồn dưỡng chất cha ông để lớn dậy. Nhưng, kẻ tận
hiến trong Inrasara còn bắt nguồn từ một tình yêu và niềm kiêu hãnh, từ ý thức
mình là đứa con Chăm, dòng máu Chăm chảy trong thân thể mình, thi nhân Chăm –
Inrasara khẳng định một trách nhiệm thẳm sâu:
Để nuôi ta, ta rút tinh chất từ cha ông
Thì phải cất cho đời sau dòng nhựa.
(Trường
ca “Quê hương”, Tháp nắng)
Nhẹ nhàng và sâu lắng, Inrasara gửi đến độc
giả một tư tưởng ứng xử/ nhân sinh quan cao đẹp. Anh lặng lẽ tận hiến cho quê
hương:
Không ít bạn trách tôi mất thời giờ cho
thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
Nhưng tôi lại muốn lãng phí cả đời cho nó
Dù chỉ còn dăm ba người
dù chỉ còn một người
hay ngay cả chẳng có ai!
(“Ngụ ngôn của đất”,
Tháp nắng)
Dường như với Inrasara, tận hiến là hoan
ca giữa lòng cuộc đời. Thi nhân sẵn sàng ẩn mình trong bóng tối để lắng nghe tiếng
nói những đêm thiêng, tiếng nói của cái tôi bản thể cô đơn bị lãng quên ngàn vạn
năm. Anh như cây xương rồng sẵn sàng cháy sáng giữa vú đồi Phan Rang khô khát…
Nếu như văn hóa, văn học Việt chủ yếu ảnh
hưởng tư tưởng Nho giáo là tận hiến lập danh thì tư tưởng tận hiến vô danh
Champa góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc. Với nhiều người đọc, tận hiến vô
danh là một bình diện nhân sinh quan mới mẻ, đáng nghiền ngẫm, suy niệm.
Và như vậy, Inrasara qua thơ mình đã tải
chở/ làm hiện thể lên chiều sâu văn hóa
Chăm. Hơn thế, anh đã mở rộng chiều kích văn hóa ấy bằng tình yêu tha thiết với
quê hương. Anh đã làm được điều anh nói: “Văn
hóa Chăm không phải là xác thối để diều bâu quạ rỉa…tôi ngụp lặn trong văn hóa
Chăm, lớn dậy và làm giàu có nền văn hóa mình”[100].
2.3. Các lễ hội tiêu biểu
Bản sắc là vấn đề sống còn của một dân tộc.
“Không có bản lĩnh bản sắc thì một dân tộc
không thể tồn tại lâu dài” (Phạm Văn Đồng). Văn học nghệ thuật nói chung,
thơ nói riêng là nơi sáng tạo, lưu giữ, soi thấu bản sắc văn hóa của một dân tộc.
Hẹp hơn, với thơ, bản sắc dân tộc là một yếu tính. Nhà thơ chân chính là một hiện
tồn, một đại diện cho gương mặt, tâm hồn dân tộc mình. Nhà thơ lớn lên từ những
dưỡng chất văn hóa dân tộc mình, bản thân nhà thơ, tựa thỏi nam châm hút về hết
thảy những vỉa tầng kim loại – văn hóa dân tộc. Thế nên, đóng góp đầu tiên của
các nhà thơ dân tộc vào nền thơ ca nước nhà là bản sắc dân tộc độc đáo hiện tồn
qua/ trong thơ họ. Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác như Lò Ngân Sủn, Bàn
Tài Đoàn, Y Phương, Dương Thuấn…, Inrasara đang đóng góp bản sắc dân tộc Chăm
riêng biệt, độc đáo vào gương mặt văn học đương đại.
Một trong những biểu hiện tiêu biểu/ thường
trực về bản sắc dân tộc trong thơ các nhà thơ dân tộc thiểu số chính là việc họ
đã tái hiện thành công những sinh hoạt văn hóa lễ hội của dân tộc mình. Lễ Tết
Tày hồn hậu đi vào thơ Dương Thuấn:
Chiều ba mươi Tết
Cắt từng chùm giấy đào
Em dán lên trước cửa
Hồng phúc khách đến sớm mai
Em dán lên từng cây quả
Cầu mùa sau quả sai
(“Năm
mới” – Dương Thuấn)
Cùng với lễ Tết, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng)
– lễ hội sinh hoạt độc đáo của dân tộc Tày cũng đi vào thơ Dương Thuấn:
Mùa xuân đến anh đi thăm Ba Bể
Đi hội Lồng Tồng nghe bao tiếng ca
Có tung còn đấu bò, thi hát
Có cô gái Tày đang đợi khách xa
(“Mời
anh vào Ba Bể” – Dương Thuấn)
Tiếng hát Sli, lượn, cây đàn tính, đêm hát
Then… những thanh âm tâm hồn Tày ngân nga, tỏa sáng trong lòng độc giả:
Đêm hát then đầu năm giải hạn
Làm nảy lên giàn búp trên cành
Xua tan đi những buồn đau trắc ẩn
Của đời người từng gặp nỗi gian truân
Lời then như muôn hạt mưa xuân
Rơi vào đất nhú lên thành lộc biếc
Rơi vào tóc cho tình yêu thêm rạo rực
Rơi vào mây hóa những chiếc cồng vồng
(“Đêm
then” – Dương Thuấn)
Việc tái hiện lễ hội dân tộc dường như là
điều khả nhiên với bất cứ nhà thơ dân tộc nào. Họ tái hiện và gửi gắm vào đó
không ít sự nâng niu, trân trọng, tự hào. Và như vậy, nếu lễ hội mang bản sắc
dân tộc có trước/ hiện tồn như một đề tài/ chất liệu thì chính những xúc cảm
riêng tư/ cá thể của nhà thơ đã làm thăng hoa bản sắc ấy, lưu giữ, đem lại những
bình diện mới cho thi liệu bản sắc truyền thống. Các nhà thơ ít nhiều làm phong
phú bản sắc dân tộc mình, được nhìn từ lẽ đó.
Là một dân tộc có nhiều lớp văn hóa tích tụ,
đắp bồi trong quá trình lịch sử lâu dài, văn hóa Chăm tích chứa những di sản
phong phú, đồ sộ, hiếm có trong kho tàng văn hóa 54 dân tộc Việt Nam. Từ vị trí
địa lí đặc biệt của mình, văn hóa Chăm thâu nhận nhiều tôn giáo khác nhau:
Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo, Hồi giáo, Bà lamôn giáo… các tôn giáo này
được tiếp biến, trộn hòa với tín ngưỡng văn hóa bản địa. Sự hỗn dung văn hóa đa
tầng độc đáo này giúp Chăm sở hữu lượng văn hóa lễ hội cực lớn – 80 lễ hội văn
hóa khác nhau. Theo tiến sĩ Phan Quốc Anh, văn hóa lễ hội là nơi dung chứa mọi
yều tố của bản sắc văn hòa: “Từ không
gian (chiều rộng) đến thời gian (chiều dài) của văn hóa, từ văn hóa cá nhân đến
văn hóa cộng đồng”[3].
Các lễ hội Chăm thường gắn với đền tháp,
thánh đường Hồi giáo huyền miên…gắn với 72 điệu trống Ginăng, 72 cung điệu – trạng
huống cảm xúc tâm hồn Chăm… gắn với tiếng kèn Saranai náo nức, day diết… gắn với
điệu múa Apsara tinh tế, đam mê, huyễn dụ… tất cả…. Bản thân tâm thức lễ hội - văn hóa Chăm đã tiềm ẩn những giá trị độc
đáo vô song, một hấp lực văn hóa hiếm có trong đại gia đình các dân tộc anh em.
2.3.1.
Lễ hội Katê
Trong 80 lễ hội Chăm, theo Sayaka – Văn
Món, Katê là lễ hội dân gian đặc sắc nhất, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của
cộng đồng, nơi hội tụ những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Lễ hội không những gắn
với đền tháp cổ kính – nơi ngưng tụ những nghệ thuật chế tác tuyệt mĩ. Lễ hội
còn xuất trình công chúng nghệ thuật một nền nghệ thuật ca – múa – nhạc dân
gian mang phong cách riêng biệt, độc đáo. Katê thực sự cuốn hút tất cả thành
viên trong cộng đồng - ở tất cả các cấp độ, gắn kết mọi người trong một môi trường
tín ngưỡng đặc sắc. Người đọc đắm mình trong lễ hội làng Chăm đầy huyền thoại.
Dẫu xuôi Nam ngược Bắc, đi đâu về đâu, Katê vẫn là nơi những người con Chăm
luôn hướng về quê nhà mỗi mùa lễ hội. Katê, với Sara là mùa của khát khao luyến
ái, khát khao sum vầy:
Mỗi tháng, mỗi mùa đợi em về chẳng được
Đành mong em về chỉ mỗi Katê sang
(“Tứ tuyệt buồn”, Hành
hương em)
Katê đi vào thơ Inrasara với nhiều chiều cảm
thức: gió Katê, mùi mưa Katê hay chuyến mưa nồng nã Katê. Đặc biệt, Katê đi vào
tâm hồn Inrasara quyện hòa cùng tiếng trống
Ginăng, Baranưng, với dòng ariya, điệu mamăng, đua buk… Sự quyện hòa âm thanh,
vũ điệu, lời ca làm nên một mùa “Katê riêng” sinh động. Và tình yêu, trong nỗi
khao khát song trùng với Katê trở nên xôn xao, da diết:
Em về
nắng hanh hao – điệu đua buk
triền vai
rung rinh màu thổ cẩm
lời ca dao diệu vợi buồn trong mắt
Em về
dáng gầy cổ tháp
bãi cát vàng – lá dừa hát
nỗi dưa
trán dãi sương cho lòng đỏ ngọt
Em về
nôn nao dòng anh sám hối
trận đi – dù vô tội
cũng làm đau nửa lối cuộc về.
Em về
mang mang mùi đất
hoa bằng lăng, hoa xương rồng
khát
trống ginăng rạo rực
gió Katê
Em về…
(“Katê
mới”, Sinh nhật cây xương rồng)
Katê là nơi hạnh ngộ tình yêu. Tình yêu lứa
đôi đan lồng trong tình yêu sắt son với quê hương xứ sở. Tình yêu của những người
con Chăm xa quê tìm về nhau trong mùa Katê. Bài thơ được pha hòa, kết dệt bằng
những màu sắc Chăm: điệu đua buk, màu thổ cẩm, cổ tháp, sắc bằng lăng, xương rồng,
điệu ginăng… Một vùng miền tâm chức Chăm quyến dụ, rưng rưng trong hạnh phúc
luyến ái của thi sĩ.
Dân tộc Chăm là dân tộc của lễ hội. Với họ,
Katê là dịp lễ hội văn hóa đặc sắc, bởi đó là nơi phản chiếu sinh hoạt cộng đồng
và hội tụ những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc. Tài năng của Inrasara khi
viết về lễ hội Katê: Anh không chỉ tái
hiện không khí bề ngoài mà còn giúp độc giả cảm nhận được tâm thức Chăm, đắm
mình vào niềm tin của lễ hội, lặn sâu vào
miền bí ẩn thiêng liêng để thức dậy nét đẹp văn hóa Champa. Nói cách
khác, Inrasara đã khắc chạm vào bề sâu văn hóa dân tộc mình.
2.3.2.
Lễ tẩy trần tháng Tư
Lễ tẩy trần tháng Tư thực
sự đưa người đọc cảm nhập vào một thế giới lễ hội – tâm linh riêng Chăm. Lễ tẩy trần
là lễ linh thánh của người Chăm, được tổ chức vào đầu năm Chăm lịch nhằm tống
tiễn cái xấu, tẩy rửa cái cũ ra khỏi palei, đón chào cái mới về với thôn làng.
Văn hóa tâm linh chứng nghiệm: “Trong một
trường hợp đặc biệt về sự thúc bách tắm rửa, người ta khám phá ra rằng lễ tục tắm
rửa là một cố gắng xua đuổi một cảm thức tội lỗi mãnh liệt. Nó là lễ tẩy rửa nội
tâm, là biểu hiện tượng trưng khát vọng con người đối với sự trong sạch nội
tâm”[3]. Từ gốc nghĩa sâu xa ấy, Inrasara đã chọn nắng – ánh sáng làm “môi
giới”, “khởi động của khởi động” lễ hội thiêng liêng:
Nắng đã khởi động trên đồi tháng Tư
khởi động sớm hơn nhiều thế kỉ trước
khi biển còn chưa thức giấc
sớm hơn cả ký ức thầy chủ lễ già
Sớm hơn. Nắng đã khởi động
nắng cưỡi trên chiếc roi mây vũ sư Kaing
đánh thức trống baranưng còn nằm phủ bụi
trên sà nhà
lay dậy tiếng gáy cặp gà trống đêm cuối
cùng chờ hiến tế.
Nhanh hơn. Tôi thấy nắng vỡ
trên bước chân viên pháp sư bước gấp xuống
đồi
nhanh hơn nữa. Tôi thấy nắng tràn
không kịp cho giọt sương còn nán ngủ
nắng
vây bọc mái tóc đám thiếu nữ xuống sông
lấy nước, cây cột, tấm tranh, màu áo
tiếng gọi nhau tràn về đầu làng để dựng
lên
kajang cuộc lễ
nắng vồ chụp cả khan mưtham bà vũ nữ
bay qua 365 ngày tẩy nhiễm nỗi trần gian
(“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Cảm thức riêng Chăm bắt nguồn từ cảm thức
văn hóa Ấn – đồng nhất giữa con người – vũ trụ - thần linh mới có thể tạo nên một
hình tương lạ bất ngờ - nắng huyền miên, sinh động và lạ kì. Nắng như sinh thể
thiên nhiên vũ trụ đánh thức sinh thể người, đánh thức cõi huyền bí thiêng
liêng, đưa vạn vật đi qua lễ tẩy trần, tìm thấy linh thể của mình. Để rồi, phía
bên kia bờ sông, lễ tẩy trần đang vẫy gọi:
bên kia, về phía bên kia nơi bờ sông quê
hương tháng Tư đang Lễ tẩy trần.
Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ
sông đêm nay?
trong đau hoan lạc
hát vang bài tụng ca của nước
chảy đi
chảy đi
chảy trôi đi
chảy trôi tất cả đi …
giở một vòm trời khác.
(“Lời đề từ”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Nhà thơ dõi theo diễn tiến buổi lễ bằng cả
tâm thức Champa:
Lễ tẩy trần tháng Tư đang khởi động
Tiếng thầy chủ lễ lầm rầm khấn tiếng
baranưng vỗ
vẫn còn chưa đủ - bài kinh lễ nguyện cầu
chưa đủ cho niềm vui Ông.
Kho chúng ta đầy ứ từ - những từ mòn chán
đầy ứ từ/ vẫn không thấy manh mún từ ngợi
ca
niềm vui
một từ vươn ngang tầm ngọn lửa
ngang tầm lễ tẩy trần.
Không còn từ để gọi. Ông thét lên. Các từ
xếp cánh và
lủi mất
chỉ có tiếng thét Ông tràn vào khoảng trống
trần gian
A…U…M
Ông thét lên
(“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Không phải ngẫu nhiên mà hiện thể đầu tiên
trong nghi thức hành lễ tẩy trần lại là ngôn ngữ. Từ định phận nhà thơ là người
“canh giữ” ngôi nhà ngôn ngữ của dân tộc, Inrasara hơn ai hết, ý thức được giá
trị hiện tồn của ngôn ngữ dân tộc mình. Anh muốn khẳng định, ngôn ngữ chính lả
sự khởi đầu cho mọi sáng tạo, là phương tiện giao nối, thức dậy vạn vật:
A…U..M
Ông thét lên
tiếng thét dội đến bầy trâu gặm cỏ đồi xa
dỏng
tai nghe
oan hồn bị lãng quên ngàn năm đội tro ngồi
dậy
cánh chim giật mình bay ra vội vã quay lại
như sợ bị tranh mất nguồn vui tẩy trầ n.
AUM…AUM…AUM
Ông đã thấy
cửa trời mở như vòng tay người vợ kiếp xưa
ông mở
đám mây mùa tràn về như chỏm tóc đứa con
trai
kiếp sau ông bay về
Ông dang tay
Ông bước tới, đạp tới bằng bàn chân ngay
qua còn
Đẫm bùn
sá gì ngọn lửa lẹt đẹt với tiếng vỗ tay
ahei lẹt đẹt
sá gì tiếng trống ginăng đánh giục truy đuổi
sợ hãi
Ông biến vào lửa Ông nhảy vào lửa Ông là
ngọn lửa
sạch lần cuối cùng/ sạch muôn ngàn lần nữa
cho thế giới một lần được sạch. Như thế.
Nhanh. Nhanh hơn
Khói bốc lên thành mây, khuôn mặt người cụm
mây
mái tóc vạn sợi mây, cả khoảng không
gian
tảng mây mưa khổng lồ.
chúng đang lở, đang vỡ và sắp ném tới trận
mưa.
Đã vỡ lễ tẩy trần tháng Tư. Ông thấy
vỡ đất, trời, âm thanh bài tụng ca
vỡ niềm vui chờ đợi giấu kín.
(“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Trong “Lễ tẩy trần tháng Tư” không chỉ
thân xác, linh hồn con người, vạn vật được tắm gội trên dòng sông, Inrasara còn
khao khát tẩy trần cả những con chữ:
Buổi sáng – rất sảng khoái, tôi ra sông Lu
gánh theo đầu bên kia 41 inư akhar Cham K
C T, đầu này
nhúm chữ cái Latinh A B C
nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng
đứa một
và tôi vui vẻ tắm với chúng.
(“Lễ
tẩy trần tháng Tư”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Thằng Klu (con trai Chăm) năm nào hồn
nhiên tắm gội và lặng lẽ vẽ mặt mình vào sông thì nay trầm mình tắm gội cùng những
con chữ dân tộc trên dòng sông linh thánh. Thi sĩ trên dòng sông thi ca tắm gội,
giao đãi mình, cất cao tiếng hát, lời ca, khước từ mọi cái bóng cũ kĩ, đón nhận
phần tinh khiết nhất của cuộc đời, khởi động mọi sáng tạo hiện tồn mới về con
người, vạn vật.
Có thể nói, văn hóa lễ hội là đời sống tâm
thức, tiềm thức, vô thức của mỗi dân tộc. Mỗi nhà thơ dân tộc được xem là đậm
đà bản sắc dân tộc không thể không tái hiện lễ hội, mà cao hơn, nhà thơ phải chạm
được vào đời sống tinh thần bề sâu/ bề xa ấy của dân tộc mình, đồng thời nhân
đôi niềm đam mê vô cùng với nét đẹp văn hóa truyền thống đến với công chúng thưởng
lãm. Điều này, số ít nhà thơ có nội lực văn hóa mới làm được. Inrasara đứng vào
số ít ấy.
2.4.
Các sắc thái tình cảm nổi bật
2.4.1.
Tình yêu quê hương
Thơ Inrasara là tiếng lòng vẫy gọi bước
chân những người con tha hương, là niềm trăn trở về định phận mong manh về quê
hương, dân tộc, văn hóa Chăm. Hành trình tìm về quê hương, đôi chân thi nhân lặng
bước qua miền “cố quận”, miền tha thiết tình quê:
Đường trở về
Bước chân người lưỡng lự
Tiếng gọi xa như tiếng gọi gần
Tiếng gọi vọng lại từ cố quận quen thân
Hay tiếng gọi dội từ thành tim tư lự.
Ơi miền cố quận xa!
Cố quận kẻ thân yêu ta rơi lại lên bờ
Cố quận thân yêu ta rơi lại bên bờ
Cố quận bạn bè ta lạc bước bôn ba
Cố quận ta bỏ đi bươn bả
Đang giục ta trở về
(“Đường trở về”, Tháp nắng)
Những người con quê lớn dậy từ “bầu sữa ca
dao buồn”, bằng “sương mù truyền thuyết”, da diết gắn hồn mình cùng những âm
vang bóng ảnh cánh diều, hồn dế, tiếng mõ trâu, với “ánh nhìn của cha”, “nửa nụ
cười của mẹ”, “bàn tay diệu vợi của em”. Tình yêu quê hương trở thành “định phận”
day dứt, mãnh liệt, sôi trào trong mạch sống người con miền nắng. Tình yêu quê
khiến họ linh hiển hóa quê hương mình:
Giữa mênh mông màu nắng quê hương
Hỏi tôi còn tìm thiên đường nơi đâu
(“Ngụ ngôn của đất”, Tháp
nắng)
Tình yêu quê hương là thứ tình cảm nhân
văn nhất thuộc sở hữu con người. Mỗi cá nhân yêu quê với mức độ đậm nhạt, cách
biểu hiện khác nhau, nhưng thật khó tìm một người như Inrasara – tựa loài ong chăm
chỉ, dùng một đời góp nhặt, tích hương đượm sắc cho văn hóa dân tộc.
2.4.2.
Tình yêu đôi lứa
Tình yêu đôi lứa – thứ tình cảm không thể
vắng bóng trong cuộc đời, càng không thể thiếu trong hồn những con người vốn đa
tình đa cảm Champa. Không ồn ào, cuống quýt, tình yêu của những đôi trai thanh
gái tú thường được điểm khắc mỗi mùa Katê. Đó là thứ tình lặng lẽ, sâu lắng, đằm
thắm của chàng trai mong đợi người mình thầm yêu mỗi độ Katê sang (“Tứ tuyệt buồn”).
Thứ tình quyến luyến, đong đầy: Nhìn mặt đây lòng chưa thôi nhớ/ không uống
– li đầy vẫn muốn nâng/ đất cằn mà tình người cứ nở rộ (“Khúc 2. Ba khúc ca
quê”, Lễ tẩy trần tháng Tư).
Dễ dàng nhận thấy, thơ tình Inrasara có sự
gắn bó cảm xúc hai chiều chặt chẽ giữa em đi – em về. Những người “em tha
hương” vì mưu sinh để lại khoảng trống xúc cảm lớn trong lòng người ở lại:
Em đi thơ rũ dòng buồn
tháp gầy bên chiều vẫy gọi
cát đồi vào đêm không nói
biển réo ngu ngơ
Em xa
ngút mắt bờ xương rồng dõi
tha phương tháng ngày dật dờ.
Không có vui ra đi
chỉ còn đau ở lại
(“Khúc 1. Ba khúc ca quê”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Hay:
Không em
tìm quê hồn sầu xứ lạ
chán mộng du lạc miền phố sá
chiều mông mênh.
Mong cầm tay về xứ gian nan
màu mặt thôi đẫm buồn dĩ vãng
thơ khát khao gieo tiếng vui đầy.
(“Khúc 3. Ba khúc ca quê”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Tình yêu xa cách không tránh được giây
phút nhớ nhung, sầu muộn. Để rồi một ngày “em về”, nhân gian như được thắp sáng
bởi những sắc màu lung linh của tình yêu:
Có em
tháng bảy bằng lăng đồi trở ấm
cây quê hương giũ bụi cát lầm
đường cày vỡ sáng trán nông dân
(“Khúc 3. Ba khúc ca quê”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Và:
Em về bồn chồn đường plây nhỏ
nắng bay vòm tóc diệu kỳ
lòng tôi nở tràn gió.
Tháng mười mưa mưa mưa mưa
em về sáng đồi sương cũ.
(“Khúc 1. Ba khúc ca quê”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Con người Chăm với tình yêu hồn hậu tha
thiết đã đánh thức phần nguyên khiết, ấm áp nhất trong phần con người tình nhân
của Inrasara. Tình yêu Chăm mang sắc màu thánh thiện, lấp lánh, huyền ảo, vi diệu
đến lạ kì, song cũng đượm chẳng ít nét buồn thương trong nhớ nhung, xa cách. Một
thứ tình mong manh tựa như khối pha lê trong suốt chực òa vỡ bởi những đẩy xô,
bon chen, “định mệnh” khó tránh từ cuộc sống. Tình yêu, tình nhân trong thơ anh
cũng không nằm ngoài định phận mong manh. Bởi vì bản thể tình yêu vốn đau khổ
và cô đơn. Thơ tình của anh không nằm ngoài qui luật ấy, thậm chí, nó còn đậm
hơn bởi cảm thức hiện sinh và những ẩn ức từ nỗi đau thân phận dân tộc. Nhưng,
một điều lạ, những câu thơ tình Inrasara gắn liền trong tình yêu Chăm, trong sự
gắn kết không tách lìa với quê hương, gắn liền với ý thức tận hiến cho quê
hương, lại mang một giọng điệu thiết tha, ấm áp.
Chương 3
BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM
QUA NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU VÀ THỂ LOẠI
3.1. Thể thơ
“Nghệ
thuật bắt đầu từ nơi mà hình thức bắt đầu” [60]. Tìm hiểu đặc
điểm nghệ thuật một nhà thơ không thể không nói đến hình thức dung chứa ý tưởng.
Việc lựa chọn thể loại phù hợp giúp người nghệ sĩ thể hiện thành công ý tưởng.
Inrasara trải nghiệm qua nhiều thể loại thơ khác nhau, từ các thể thơ truyền thống
như lục bát, ngũ ngôn, tứ tuyệt… đến các thể thơ hiện đại như thơ tự do, thơ
văn xuôi rồi những bài thơ tân hình thức, hậu hiện đại… Thể trường ca cũng được Inrasara thể nghiệm
thành công. Một điều đặc biệt là càng phiêu lưu, trải nghiệm cảm xúc qua nhiều
thể thơ, nhà thơ Chăm Inrasara càng lặn sâu vào bản thể, khai phá, bừng nở những
giá trị văn hóa Chăm đẹp đẽ, huyền hoặc, mê ảo.
3.1.1.
Các thể thơ truyền thống
Mặc dù số lượng không nhiều nhưng các bài
thơ làm theo thể thơ truyền thống của Inrasara cũng khá thành công.
Inrasara thường sử dụng thể thơ ngũ ngôn để thể hiện những tình cảm dồn nén. Mỗi bài thơ ngũ ngôn (“Inrahani”,
“Diệp Mi Lan”, “Thu”, “Hoài cảm 1”) lại mang đến cho người đọc cảm xúc mới lạ
riêng biệt. Nhà thơ thường ngắt bốn câu thành một khổ và mỗi khổ mang một ý trọn
vẹn:
Đôi khi giữa phố vui
Tôi thương về Plây cũ
Đôi khi sau cuộc chơi
Tôi chết trong hoài nhớ
(“Hoài cảm 1”, Sinh nhật
cây xương rồng)
Nhịp điệu trong mỗi khổ thơ thường hài
hòa, nhịp nhàng, hô ứng:
Như đỉnh đầu ngọn lá
Mang chứa gió đại dương
Em đến từ tha phương
Mang tình yêu xứ sở
Tôi đến từ rách nát
Của vạn nỗi lạc lầm
Niềm đau dài phiêu bạt
Chiều cố quận dừng chân…
Là dòng sông quê hương
Tôi về nhìn tư lự
Em về soi nỗi nhớ
Ngày tháng làm tha phương.
(“Inrahani”, Tháp
nắng)
Thơ
tứ tuyệt của Inrasara súc tích và gợi mở:
Glang Anak tuổi thơ tôi đã thuộc
Rồi qua mấy mùa hoang, tôi đọc lại trăm lần
Vẫn thấy mình cứ quẩn quanh đời chật
Tập thơ mỏng gầy lại mở tới mênh mông.
(“Tứ tuyệt Inrasara. Glang
Anak”, Hành hương em)
Thơ tứ tuyệt của Inrasara chặt chẽ và có
xu hướng hoài cổ. Glang Anak thể hiện sự trường tồn, bất tử của áng thi
cổ. Dòng hồi ức lịch sử Champa hào hùng, tươi đẹp òa vỡ, vinh danh một dân tộc
trong một nền văn minh linh hiển:
Những đêm Chàm nặng màu gạch
Trôi kí ức và mù sương dĩ vãng
Dĩ vãng vỡ òa và bật sáng
Sáng ngọn lửa cháy màu gạch nung
(“Tứ tuyệt Inrasara. Gạch
nung”, Hành hương em)
Nét chung nổi bật thơ tứ tuyệt Inrasara là
sự hài hòa về thanh điệu tạo nên âm hưởng mượt mà. Sứ mệnh của thơ được Sara
nói đến trong tiếng thơ nhẹ nhàng, trong sáng:
Em lại trách anh mãi triết lí xa trong khi
mắt mẹ
buồn gần
Gót chân gái quê lấm lem mà tứ thơ anh cứ
là
sang trọng
Thì em trách!
Anh chỉ mong đưa thơ chắn che từ vòng xa,
vòng rộng
Mai bão có thốc về cũng nguôi bớt rét
vòng trong.
(“Thơ
tứ tuyệt Inrasara. Xa và gần”, Hành hương em”)
Độc giả được trải nghiệm cảm giác mới lạ
khi thưởng thức thơ tứ tuyệt Inrasara ở chỗ nhà thơ không bò bó trong bảy, tám
chữ mà mở rộng biên độ câu tới mười ba, mười bốn âm tiết. Nhưng bạn đọc vẫn
không dứt ra được sự phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn đậm đà, sâu sắc của thơ tứ
tuyệt Inrasara, trên hết là bị quyến dụ bởi sắc thái Chăm e ấp dưới bút lực
Sara.
Lục bát là thể thơ cổ truyền đặc trưng của
Việt Nam. Thể thơ truyền thống này cũng góp mặt trong một số bài thơ của
Inrasara: “Chế Thảo Lan”, “Em”, “Anh”… Thơ lục bát Inrasara đậm tính truyền thống
trong việc sử dụng ngôn từ, sự hài hòa về nhịp điệu gợi mở bao khung cảnh Chăm
say đắm:
Chênh vênh chuyến lữ còn dài
Bước chân ảo vọng đã chai gót trần
Xa vời một cõi hư danh
Mang em vào giữa đất trần – nằm say
(“Chế Thảo Lan”, Tháp nắng)
Thử sức với thể thơ này, Inrasara điêu luyện
gieo vần, ngắt nhịp:
Về đây rừng núi bao dong
Tháp trong nét cổ, em trong dáng hiền
Nắng chiều đổ bóng em nghiêng
Quàng tay với bóng anh lên đỉnh đồi.
(“Em”, Tháp nắng)
Trải mình qua các thể thơ truyền thống Việt
Nam song thi liệu vẫn là bản sắc văn hóa, khung cảnh, dân tộc, con người Chăm.
Chăm là nơi khởi đầu nội lực thơ Inrasara, cũng là nơi dung chứa bao huyền bí
cuốn hút bước chân khai phá nơi độc giả. Gịọng thơ mượt mà, phóng khoáng nhưng
sâu sắc, đậm đà không thôi vẫy gọi bạn đọc tìm đến thơ Sara.
3.1.2.
Các thể thơ hiện đại
Cái vốn truyền thống của thơ Việt và thơ
Chăm đều được Inrasara tiếp nhận và sáng tạo. Hành trình “chỉ có cái mới luôn vẫy
gọi” thôi thúc anh, các giá trị sáng tạo của anh có thể đang còn ở phía
trước. Có thể khẳng định, trong năm tập thơ, thơ tự do vẫn là thể thơ Inrasara
gặt hái được nhiều thành công nhất.
Nhu cầu nội tại của đời sống, khi ý thức
cá nhân phát triển cao độ, thơ không chỉ là tiếng nói “đồng ý, đồng tình, đồng
chí”, mà còn là phương tiện đi vào thế giới tâm linh của con người với những
vùng khuất, vùng mờ của vô thức, tiềm thức hoặc chuyên chở những bộn bề, gai
góc, phức tạp của hiện thực. Thơ tự do
mang đủ những phẩm chất thỏa mãn yêu cầu biểu đạt mới. Hình thức thơ tự do nhất,
phóng khoáng nhất để con người có thể trình bày cảm nhận của mình về thế giới một
cách khác nhau, đưa đến cái mới trong hình trình sáng tạo. Inrasara cũng không
năm ngoài xu thế thơ thời đại. Thơ tự do với những yếu tính của nó, gần với
quan niệm thơ Inrasara “chỉ có cái khác lạ đang vẫy gọi”. Ở một phương diện
khác, có thể nói con người luôn suy tư về dân tộc, văn hóa Chăm của Inrasara chỉ
có thể tìm đến thể thơ tự do mới mong tải chở hết những suy niệm của mình:
con ma nào đưa tôi ngồi quán
tôi rơi vào mắt cô gái Chăm đầu tiên bán
bia ôm
em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con
nít
ồ, tôi có thể dòm gì, làm gì em cũng được
nhưng tôi muốn dòm gì/ làm gì?
đôi mắt em chuyển màu suy nghĩ tôi
có gì liên quan giữa bắp chân tròn thô đậm
rơm rạ em với cặp giò thon thả
vũ nữ Apsara xưa?
… Con ma lôi tôi khỏi quán
Tổ tiên góp sức gì vào xuống cấp hôm nay?
tâm hồn đám hậu duệ khô gạch nung
âm tắc vòm họng dân Quảng 500 năm không chịu
mất vết
vẫn đậm mắt buồn tháp hoang
vẫn môi dày, mày rậm, tóc gợn, da ngăm, bắp
tay săn chắc
(“Bất
ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Bài thơ là niềm suy niệm của nhà thơ về
cái bấp bênh của thân phận một con người và rộng hơn là một thế hệ người. Tính
chất không gò bó số lượng chữ trong câu của thể thơ tự do cho phép Inrasara đi
sâu khám phá, giãi bày những suy nghĩ, những liên tưởng chợt hiện trong tâm
trí. Hình ảnh thơ, ý thơ vì thế mới mẻ, bất ngờ. Những câu hỏi liên tục đặt ra
cuốn người đọc vào dòng chảy suy tưởng của nhà thơ. Từ những suy tưởng ngắn ngủi,
chợt hiện, Inrasara mở rộng biên độ suy niệm, nhà thơ luôn thường trực đau đáu
về vận Chăm, mệnh Chăm trước cơn lốc biến suy của thời đại. Độc giả ít nhiều cuốn
theo những day dứt âm trầm của chính tác giả.
“Bất ngờ nhiều cái nghĩ, tối nay” vẫn là niềm khoái hoạt của triết nhân cô
đơn thấu thị.
Thể thơ tự do mở đường cho cuộc hành hương
tư tưởng của Inrasara. Cuộc hành hương ấy được nhắc đến trong các bài thơ: “Tháp Chàm muôn mặt”, “Hành hương về bên kia
đêm tối”, “Cư sĩ và đám mây, Sầu ca trên đỉnh tháp”, “Tiếng trống Ginăng”,
‘”Con đường”… Dựa vào khả tính của thơ tự do, Inrasara đã đánh thức hiện
hữu và hư vô, tự nhiên và con người, cuốn trào người đọc vào không – thời gian
Chăm. Với thơ tự do, hình ảnh siêu thực được Inrasara lựa chọn để biểu đạt
trong thơ phát huy tối đa giá trị:
Trong khởi động khó nhọc này
chỉ có vẫy gọi khác lạ
hơn cả vẫy gọi của loài hổ mang biển
hoặc loài ma trơi nhiệt đới
hoặc oan hồn nhà tu khổ hạnh bị chối từ
mới mong một lần đánh thức linh hồn hoang
hóa chúng ta
Cái vẫy gọi của chênh vênh cánh tay gẫy tượng
Shiva khoét rỗng
phần nửa nụ cười bị sứt mẻ Apsara
dáng sắp nghiêng đổ tháp Yang Paksan
khúc gẫy gập sông Lu thình lình cạn nước
(“Khởi động của khởi động”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Sự phóng khoáng của hình thức câu thơ đã
cho phép dung chứa liên tục những hình ảnh thơ siêu thực: vẫy gọi của loài hổ
mang biển, loài ma trơi nhiệt đới, oan hồn nhà thơ khổ hạnh bị chối từ.
Inrasara đã “đánh thức” tâm hồn/ tư duy độc giả bằng những hình ảnh mới
lạ. Không gian Chăm hư ảo, bộn bề hư – thực, tất cả đều hiện thể. Một cuộc hành
trình kiếm tìm/ truy tìm ý nghĩa hiện tồn của con người hay một kiểu mong manh/
vô thường của con người hiện đại.
Đào sâu vào phía khuất lấp của bản thể, lộn
trái cái túi cuộc sống vốn chằng chịt vết vá, thơ tự do của Inrasara mang lại
nhịp điệu suy tưởng mạnh mẽ, đặc biệt để lại dấu ấn riêng bằng những hình ảnh,
những cuộc hành hương tinh thần Chăm riêng biệt, độc đáo.
Thơ
văn xuôi của Inrasara không nhiều, có các bài như “Tặng phẩm của
dòng sông”, “Trà Ma Hani”, “Chấm phá Trà Vigia”, “Thượng đế lạc hậu”… Thơ văn
xuôi Inrasara chinh phục độc giả bằng hình ảnh dồi dào, ngôn ngữ phong phú,
linh hoạt, đặc biệt là chất giọng khỏe khoắn:
Như
bà mẹ vắt cạn bầu sữa dòng sông trầm mình nuôi lớn hai bờ cây. Cho mùa khô gió
reo vào đường lá còn nghe vọng tiếng nói dòng sông
Hay
khi ánh trăng soi cành xanh còn thấy động hình ảnh dòng sông gợn chảy. Hay khi
trưa cháy nắng ngã mình dưới tàn cây anh nông dân còn được nhìn bóng dáng dòng
sông
(“Tặng phẩm dòng sông”, Chuyện 40 năm mới kể
& 18 bài thơ tân hình thức)
Ở những bài thơ giàu chất văn xuôi tự sự,
thơ Inrasara gắn chặt với đời thường. Những câu thơ dài như một đoạn văn nhưng
vẫn giàu tính nhạc và nhịp điệu. Đặc biệt, việc Inrasara sử dụng những câu thơ
dài triền miên, bất tận, đọc không đoạn ngắt, không chấm, không phẩy tạo hơi thở
miên man, cuốn mãi không ngừng:
Những kẻ không lời ra đi cỏn ngoái lại
trông
gió thổi vào khoảng không họ bỏ lại
trôi những cánh đồng, rửa những mái núi
cho lộ thiên đồi tháp ủ niềm bí mật câm
thắc thỏm qua bước bạo động của thời gian
(“Cái nhìn ngoái lại”, Hành
hương em)
Những câu thơ như tiếng lòng không bến dừng
của thi nhân. Những câu thơ dài cuốn độc giả vào nhịp suy tưởng đến giật mình,
khi biết mình hoàn toàn bị chinh phục bởi Chăm. Đó là sức sống nội tàng của thơ
văn xuôi Inrasara, gợi mở một hồn thơ giàu cảm xúc và suy tưởng.
Thể hiện tinh thần độc sáng, hầu hết các
nhà thơ hiện đại thường tìm đến thơ vắt dòng.
Inrasara là một trong vài nhà thơ ở Sài Gòn đã tiếp nhận đầy sáng tạo lối thơ
này. 18 bài thơ tân hình thức trong tập thơ Chuyện 40 năm mới kể
& 18 bài thơ tân hình thức là thành quả của sự phiêu lưu đó.
Từ thơ truyền thống đến thơ tự do và thơ
Tân hình thức, thơ anh luôn đổi thay cho phù hợp nhịp đập mỗi thời đại. Thơ Tân
hình thức của Inrasara gần gũi, dung dị với đời sống Chăm:
Tôi có thằng bạn mắc bệnh ăn
chữ. Không thứ gì khác hắn ăn
sáng trưa chiều tối hắn nhai ngấu nghiến.
vợ hắn khóc hai năm nay rồi
(“Chuyện 2. Ăn chữ”, Chuyện 40 năm mới kể
& 18 bài thơ tân hình thức)
Những câu thơ của Inrasara có sự phân tách
nhưng điểm dừng không cụ thể tạo điều kiện cho mạch thơ chảy triền miên. Với việc
vận dụng lối thơ vắt dòng, Inrasara đã tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật về sự
chuyển tải cảm xúc và cách kể chuyện đời thường đầy sáng tạo. Đôi khi, hiện tượng
vắt dòng trong thơ Inrasara còn đem đến cho người đọc những bất ngờ thú vị và tạo
tính đa nghĩa cho thơ:
Năm 1257 tôi sinh tại Mĩ
Sơn ngày 20 tháng 9 đúng
bảy thế kỉ sau tôi ra đời
trong làng vô danh tận Brasil
(“Chuyện 11. Chuyện tôi”, Chuyện 40 năm mới
kể & 18 bài thơ tân hình thức)
3.1.3.
Trường ca
Trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn,
thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca xuất hiện vào thời cổ đại
dưới dạng sử thi. Để biểu đạt nội dung trữ tình, Inrasara đã thêm trường ca vào
danh sách thể loại, với hai tác phẩm được xếp vào hàng đỉnh cao của thể trường
ca Việt Nam. Đó là trường ca “Quê hương” và trường ca “Tháp nắng”.
Với dung lượng lớn (gần 400 câu), trường
ca “Quê hương” được Trúc Thông đánh giá “là
một trong số trường ca hay nhất của thơ Việt hiện đại”[83]. Nhân vật trữ tình trải lòng qua bao chiều kích quá
khứ - hiện tại. Những vần thơ của Inrasara đã nói hộ tâm linh dân tộc, cả niềm
kiêu hãnh và những đau thương. Bản trường ca với 9 đoản ca cho thấy dấu ấn Chăm
đậm đà trong tâm trí nhà thơ. Inrasara nhắc lại nhiều lần hai chữ “quê hương”: “Quê
hương gầy, quê hương xanh xao”, quê hương như có sức kéo cho mỗi phận
đời thay đổi:
Quê hương xa xôi nhưng quê hương rất gần
Ngày
em về quê hương ôm em như chưa từng có em
Như quê hương có em sau tháng ngày lưu lạc
Quê hương mãi dõi theo em đến tận cùng
trái đất
Quê em cho em sức mạnh bàn chân
Sức mạnh của con tim trong, cánh tay trần
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
Tư tưởng thơ khỏe khoắn nhưng sao giọng
thơ không giấu nổi nét ngậm ngùi:
Đêm xa quê hương đầu tiên đêm lạnh trắng
phận người
Hơn cả đêm xa xưa em rời lòng mẹ
Đêm xám hoang tương lai, đục mờ quá khứ
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
Trường ca “Quê hương” bộc lộ nguồn cảm hứng
lặn rất sâu vào dân tộc Chăm yêu dấu của anh, trải qua những đợt sóng thơ gập
ghềnh lịch sử tối òa tan vào biển lớn đại gia đình dân tộc Việt Nam, báo hiệu một
sức sáng tạo dồi dào ở chặng đường tiếp theo.
Khẳng định tài năng ở thể loại trường ca
và năng lực sáng tạo của thi nhân, năm 2002, Inrasara trình làng bản trường ca
“Lễ tẩy trần tháng Tư”. Tập thơ mang lại cho anh giải thưởng ASEAN danh giá, xác
lập vị trí kì nhân làng viết đương đại Inrasara.
Trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” dài 43
trang (từ trang 47 đến trang 90), được xây dựng thành 10 đoản khúc. Lấy chất liệu
từ cuộc hành lễ theo nghi thức tôn giáo Bàlamôn của cộng đồng Bà Chăm, vượt qua
sự kể, tả, thuật, Inrasara dõi theo buổi lễ với từng mốc xúc cảm. Khởi đầu trường
ca là tụng ca sông – nước. Dòng sông và nguồn nước sẽ tắm gội cho mọi người được
trong sạch lại. Kết thúc của nó lại là lửa. Con người sạch nhờ nước và lửa:
Ông biến vào lửa Ông nhảy cùng lửa Ông là
lửa
sạch lần cuối cùng, sạch muôn ngàn lần nữa
cho thế giới một lần được sạch. Như thế
(“Lễ tẩy trần tháng Tư”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Lễ tẩy trần giúp con người và cả thế giới
sống lại, mỗi năm một lần, tiếp sức chịu đựng cuộc sống với tính nhị nguyên âm/
dương của nó: niềm vui/ nỗi đau, sáng/ tối. Nếu linga, lingam, liwa. Lingal (dương
vật, cái cày) là những âm vang bất tận ngợi ca phồn thực (hành dục và lao động
để sản sinh, no đủ) thì AUM là âm vang tẩy trần linh thánh. Trường ca
ngân vang tiếng AUM, vỡ òa trong cảm xúc thiêng liêng được thánh hóa
trong sạch đến vô ngần. Hành trình tư tưởng của Inrasara trở về với di sản văn
hóa – tín ngưỡng dân tộc, nhưng ở một tầm cao mới, một cách tân mới.
Về mặt hình thức, trong trường ca “Lễ tẩy
trần tháng Tư”, Inrasara tiếp nhận ngôn ngữ điện ảnh một cách sáng tạo. Yếu tố
điện ảnh và nhịp điệu khẩn trương, căng thẳng ở những trường đoạn miêu tả/ biểu
đạt nghi thức và tâm thế hành lễ thật nhuần nhị, sinh động, thiêng liêng.
Văn chương luôn đòi hỏi sự sáng tạo và thể
nghiệm. Ý thức tìm tòi, đổi mới sáng tác của Inrasara rất hiếm có trong văn giới.
Hai bản trường ca “Quê hương” và “Lễ tẩy trần tháng Tư” là thành quả ghi nhận sự
nỗ lực không ngừng của Inrasara.
3.2. Ngôn ngữ
3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ văn học là “ngôn ngữ mang tính
nghệ thuật được dùng trong văn học”[79]. Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản,
là đối tượng miêu tả của văn học. Vì vậy mà văn học được gọi là loại hình nghệ
thuật ngôn từ. Nói như M.Gorki, “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”.
Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ được các nhà văn, nhà thơ chọn lọc, rèn giũa trong
quá trình lao động nghệ thuật. Ngôn ngữ văn học bao gồm các thuộc tính: tính
chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm, tính thẩm
mĩ… trong đó tính hình tượng và tính thẩm mĩ là những thuộc tính bản chất nhất,
xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác, qui định những thuộc tính ấy. Trong tác phẩm
văn học, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính
sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà thơ, nhà văn.
“Vấn đề
ngôn ngữ trong thơ ca của từng tác giả rõ ràng lại phụ thuộc vào phong cách
sáng tạo và bút pháp độc đáo riêng của từng nhà thơ”[19,372]. Nó biểu hiện
đầy đủ những mặt mạnh, mặt hạn chế tương ứng với từng phong cách.
3.2.2.
Sự kết hợp các loại ngôn ngữ
Lịch sử thi ca Việt Nam từ xưa đến nay đã
ghi nhận nhiều tên tuồi có cách sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, độc đáo và tinh tế.
Thế kỉ XX đánh dấu việc chuyển mình mạnh mẽ của ngôn ngữ thơ. Insarasa được
vinh danh như là một đại diện tiêu biểu của giới sáng tác Chăm thời kì mới. Trả
lời cho cách mở đầu bài thơ, Inrasara phát biểu: “Thường thì tôi bắt đầu một
bài thơ qua gợi hứng từ ngữ. Tôi thấy một chữ hay, nắm lấy nó, tìm tứ và hình ảnh
rồi khi bắt nhịp được thì bài thơ trào ra”[104]. Như vậy, ngôn ngữ đóng
vai trò khơi nguồn và dẫn dắt cấu tứ, hình ảnh trong thơ Inrasara.
Ngôn ngữ là tiếng nói dân tộc, mang bản sắc
văn hóa dân tộc. Sử dụng ngôn ngữ dân tộc
mình để làm nổi bật văn hóa dân tộc là điều không phải bất cứ ai cũng làm tốt.
Nhưng với Inrasara, con người đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm ấy đã tạo
nên sức hút kì diệu của ngôn từ. Với tiếng Việt, anh yêu tha thiết, với tiếng
Chăm như là máu mủ của anh. Và có thể nói, Inrasara là nhà thơ dân tộc thiểu số
Chăm biết dung hợp cả hai yếu tố Chăm – Việt. Thơ Inrasara dung chứa sự phong
phú, đa dạng, sinh động của ngôn ngữ.
Sử dụng tiếng Việt (tiếng Kinh) để sáng
tác thơ như bao nhà thơ dân tộc thiểu số khác nhưng đó không phải là rào cản
ngăn bước chân sáng tác của Inrasara. Ngược lại, anh sử dụng tiếng Việt điêu
luyện thậm chí điêu luyện hơn cả tiếng Chăm. Đó là thứ tiếng Việt vừa phong
phú, uyển chuyển, vừa mang đậm sắc thái Chăm. Inrasara chỉ mượn tiếng Việt để
truyền tải thế giới Chăm, tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ Chăm. Đó cũng là một
trong những lí do khiến thơ Inrasara giàu bản sắc mà không bị Việt hóa.
Inrasara đã từng nói: “Thơ có thay đổi hình dạng bao nhiêu lần hay lang thang lạc bước đến
phương trời nào đi nữa, nó cũng phải trở về, trở về nơi xuất phát của nó: con
người, trong ngôi nhà của nó – ngôn ngữ”[50]. Vì thế, Inrasara rất dụng
công khi lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt.
Ngôn
ngữ thơ Inrasara vừa sang trọng, truyền thống lại vừa đời thường, hiện đại.
Nhà thơ thường sử dụng ngôn ngữ bác học, sang trọng (linh hồn, ban mai, định
mệnh, hoang mạc, giai điệu, binh đao…) kết hợp với ngôn ngữ bình dân, đời
thường khi đề cập đến những vấn đề mang tầm vóc nhân loại hay mang tính linh
thánh. Những biểu hiện trái ngược này đậm nét trong Trường ca “Tháp nắng” và tập
thơ Lễ tẩy trần tháng Tư. Cách kết hợp ngôn ngữ vừa giúp mạch thơ trôi
chảy trong chiều quá khứ - hiện tại, vừa làm cho thơ Inrasara trở nên gần gũi,
cao sang, vừa sâu sắc tính minh triết:
Khi nỗi đau đi vào nỗi đau khai hoang ánh
sáng
soi khoảng hồn đã quá xanh xao
chúng ta nhìn vào mắt nhau không mộng mị
kí ức chở số phận chúng ta rời bỏ ga buồn.
Trong kiêu hãnh đắng cay
khi ốc đảo biết gọi mời ốc đảo
ngón tay đan ngón tay hơi ấm không hề gầy
rắn rỏi hơn đức tin vào Chúa.
Con sông, cánh rừng ngày xưa chết yểu
tên chợt bật trên môi chúng
em tin chúng có thể nâng linh hồn từng tủi
thân
được/
mất
gượng dậy tìm về?
Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang
ánh nắng
tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa
gieo cánh đồng làng
em nhân giống dân ca vào giai điệu mới
bờ cỏ vang vang ngôn ngữ được mùa
(“Hạt mùa mới”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Với chuyện thường nhật, ngôn ngữ thơ
Inrasara gần với ngôn ngữ đời
thường, dân dã, mộc mạc, lối nói dung dị (mày, tao, xà lỏn, teo vòm vú, nhăn
răng…) kết hợp với thể Tân hình thức:
Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nào trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
không một lời bà quay lưng đi dáng
lom khom muốn đổ. Bốn mươi năm bà
quên, tôi thì cứ nhớ. Tôi đã chơi
bóp cổ chú chó con hàng xóm
(“Chuyện 13. Trẻ dại”, Chuyện 40 năm mới
kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Đó là cách thay đổi giọng điệu cho phù hợp
với đề tài một cách linh hoạt, hiệu quả. Nói cách khác, đó là sự thay đổi hình
thức thể hiện khát vọng tự do trong tư duy của con người thời đại mới.
Tự nhận mình là kẻ cư trú giữa đường biên
văn hóa Chăm – Việt, nhà thơ đã kết hợp cả hai ngôn ngữ Chăm và Việt tạo nên “cách
kể một câu chuyện mang đậm dấu ấn cá nhân”[23]. Inrasara chú ý kết hợp những
điều mới lạ của thơ Việt với bản sắc trong thơ Chăm để tạo nên loại ngôn ngữ đậm
chất Inrasara – vừa truyền thống vừa hiện đại:
đã tắm gội/ đã làm lễ Tẩy trần
linga lingal lingam liwa langgal
vẫn cứ trì hoãn
như là thèm được chết trở lại.
Anh nông dân bỏ dở nửa đường cày
đứng chờ những từ nhập cuộc
chúng ta hay chúng đang già đi?
Nghiêm trang trước mặt trời thách thức,
viên pháp sư
tập đánh vần
ông đọc to từng tiếng một
LINGA… LINGAL… LINGAM… LIWA…LINGAL
Cuộc đánh vần lặp đi lặp lại gần hết đời đến
mòn nhẵn
chữ chúng ta sạch
miệng chúng ta sạch
đất chúng ta sạch,
tâm linh chúng ta sạch
Heleh!
(“Khởi động của khởi động”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Truyền thống dân tộc được Inrasara tẩm ướp
trong thơ với vẻ đẹp tự nhiên, vốn có. Không lạm dụng ngôn ngữ địa phương,
Inrasara vẫn khiến độc giả cảm nhận được sinh khí của một dân tộc có bề dày văn
hóa và sức sống mãnh liệt. Sử dụng nhiều biệt ngữ địa phương một cách hiệu quả
giúp nhà thơ giãi bày được những nỗi niềm khó nói trong thẳm sâu tâm hồn:
chúng tôi lớn lên từ Mĩ Sơn, Dương Long
chúng tôi lớn lên từ nhà Yơ, nhà Halam/
chúng
tôi lớn lên từ chòi lợp tôn Mĩ
lớn lên từ Panwơc Pađit, Pauh Catwai/
cũng lớn lên từ Truyện Kiều, thơ Nguyễn
Trãi
(“Bất ngờ cái nghĩ, tối nay”, Lễ tẩy
trần tháng Tư)
Inrasara hạn chế tối đa việc sử dụng dấu
chấm câu hay những liên từ (và, hay 0 bằng việc sử dụng dấu ngăn cách (/
; -) tạo những nhịp đứt gãy, ngắt quãng đầy chủ ý trong thơ. Có khi anh sử
dụng những câu đơn đặc biệt (Đừng khóc, Bao giờ, Hãy đón lấy, Chảy đi…)
nhằm thức dậy những cảm xúc một cách mạnh mẽ.
Mạch thơ Inrasara trôi chảy, tự nhiên
không phụ thuộc vào vần. Trong tập Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân
hình thức, Ở nơi ấy/ thơ thời cuộc, vần hầu như rất ít xuất hiện, nhà thơ
ngắt nhịp câu tùy hứng nhưng vẫn đảm bảo sự hài hòa về âm điệu. Lời thơ vì thế
giống như lời tâm sự:
Phăng mầy ạ
thiên tài thì mầy ăn đứt rồi
khi tụi tao còn viết sai chính tả tiếng Việt
thơ mầy đã rao bán khắp xóm cùng thôn
Đẹp trai thì mầy đẹp rồi
mầy trắng như Kinh ấy
Giờ
mầy lang bạt xó xỉnh nào của đời hả Phăng
(“Thư cho & của Phăng”, Chuyện 40
năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)
Trong thơ Inrasara, vẻ đẹp của ngôn ngữ và
chiều sâu tư tưởng luôn tỉ lệ thuận với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện để nhà
thơ truyền tải tư tưởng, trí tuệ và tri thức. Vì vậy, một khi nhà thơ làm chủ
được ngôn ngữ thì làm chủ được trí tuệ và tri thức. Inrasara đã làm được điều
đó. Ngôn ngữ bình thường dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ Inrasara đã trở
nên đẹp đẽ, trau truốt, bóng bẩy và đầy giá trị triết lí.
3.2.3. Ngôn ngữ giàu tính
tạo hình và biểu cảm
Bên cạnh việc kết hợp ngôn ngữ, thơ Inrasara còn giàu tính tạo hình và biểu cảm. Thơ Inrasara đặc sắc, giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc. “Sự mạnh khỏe về hình ảnh thơ đã thành đốm lửa ấm
khiến người đọc có thể đạt tới khoái cảm hoan lạc về trí tuệ. Chính điều này đã
làm nên sự hấp dẫn, một phẩm chất thi sĩ riêng của Inrasara, cho dù thơ
Inrasara mang giọng buồn. Không vui nhưng không hề ảm đạm. Thơ Inrasara mang vẻ
đơn côi bi hùng như tháp Chàm, vẫn cứ sừng sững độc trọi giữa đất trời bao la”[80].
Nghệ thuật so sánh
được Inrasara vận dụng thường xuyên rất linh hoạt, đa dạng. Những hình ảnh so
sánh mới lạ: em như con ma hỏng chân – chập chờn, nhẹ bỗng (Trường ca
“Quê hương”, Tháp nắng). Các hình thức so sánh trong thơ Inrasara hết sức
phong phú: so sánh ngang bằng, so sánh kép, so sánh A như B, A như B1,, B2,…
chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Các quan hệ từ so sánh được Inrasara sử dụng theo cấu
trúc năng động tạo trường liên tưởng khá lớn:
Bóng của tháp như dòng sông ma
trườn qua đêm tối những thời đại
(“Tháp
Chàm muôn mặt”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Hay:
Lổm ngổm bò dậy làm người
[như] một phép lạ
(“Tam tấu trước ngưỡng thế kỉ
XXI”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Đặc biệt, Inrasara kế thừa nghệ thuật so
sánh kép trong văn chương Chăm, mà một thời là nghệ thuật đắc dụng trong
thơ Chế Lan Viên:
Tháp Xah Inư sống đời độc thân
có lứa có bạn là Tháp Đôi
lũng Mĩ Sơn tháp ở đại gia đình
làm tam nhân hành thì Ba Tháp
đủ đầy cả thôi mà cứ muốn thất truyền
Như giấc mộng như lóa mắt
tháp có mặt
như chớp xé như âm vang
(“Tháp Chàm muôn mặt”, Lễ
tẩy trần tháng Tư)
Có thể nói việc sử dụng nhiều hình thức so
sánh phản tư duy duy lí được Inrasara sử dụng nhiều. Anh luôn nhìn sự vật, hiện
tượng trong thế so sánh, đối lập, liên hệ, đối chiếu, liên tưởng. Thơ Inrasara
rất ít những phương trình so sánh đơn, nhiều phương trình so sánh đa tầng, nối
tiếp nhau, cung cấp cho mệnh đề so sánh nhiều sắc thái ý nghĩa và giá trị biểu
cảm. Lối so sánh này đòi hỏi người viết có khả năng ngôn ngữ phong phú, có nhiều
liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo, táo bạo, đột xuất với những kiểu loại đa dạng. Thơ
tự do với việc mở rộng tối đa hình thức của nó đã giúp Inrasara tạo ra những vế
so sánh với cấu trúc toàn vẹn, nhiều tầng bậc, hình ảnh, gợi ra cái đa dạng, bề
bộn, sinh động vốn có của cuộc đời, khơi dậy cả trầm tích văn hóa Chăm. Vì thế
mà thơ Inrasara thỏa mãn chiều sâu của nhận thức và trí tuệ, có nghĩa hàm ngôn
phong phú, sâu sắc, có giá trị nhận thức cao.
Bổ sung vào mảnh đất tạo hình và biểu cảm
thơ Inrasara là nghệ thuật đối lập, tương phản. Nhà thơ tạo ra những cặp
đối lập trong một câu thơ, có khi ở một cặp câu:
Yêu nhau ở Phan Rang 6 lần, đau khổ cũng
ngần ấy lần
giàn lửa không thiêu hết tóc em trưa ấy
đêm nay nung sôi lồng ngực anh.
gục ngã ở Phan Rang 7 lần, gượng đứng dậy
hơn 7 lần…
Dứt áo rồi quay lại Phan Rang cả trăm lần
Sinh ra và chết ôi Phan Rang chỉ một lần
(“Những ngày trống. Ngày 8. Sinh chỉ một lần”,
Lễ tẩy trần tháng Tư)
Nghệ thuật đối lập xuất hiện khá dày đặc
trong nhiều bài thơ: “Chấm phá Trà Vigia”, “Trà Ma Hani”, “Anh Đạm”, “Ngụ ngôn
loài xương rồng”… Ngay cả tựa đề một số bài thơ cũng dung chứa phép đối lập,
tương phản: “Hữu thể và hư vô”, “Cuộc sống nhưng không”, “Vay – Trả”….
Biện pháp đắc dụng và thành công hơn cả
trong thơ Inrasara là ẩn dụ. Ẩn
dụ là phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể
hiện cái này qua cái kia, mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín
đáo. Ẩn dụ được sử dụng nhiều trong thơ ca, thể hiện phong cách cá nhân, mang
phong cách dân tộc và thời đại. Ẩn dụ đặc biệt mang lại những biểu niệm
mới về hình ảnh và cảm xúc cho thơ Inrasara. Trong thơ Inrasara, sự liên tưởng
được khởi phát ngay ở nhiều nhan đề bài thơ: “Tháp nắng”, “Cư sĩ và đám mây kí ức”,
“Những ngày rỗng”. Thơ Inrasara gây ấn tượng cho độc giả mạnh mẽ bởi những hình
ảnh ẩn dụ nổi bật được lặp đi lặp lại: ngôi nhà, mặt đất, con đường, bàn
chân, những ngày rỗng… Trong đó, hình tượng tháp Chàm được gửi gắm
toàn bộ thế giới tâm hồn, tâm linh, là những chiêm nghiệm xưa và nay của thi
nhân. Ngôi nhà là nơi che chở, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa Chăm. Con
đường không chỉ là lối đi giữa nhân gian mà còn là lối đi được khai mở bằng
ý tưởng và nối dài thêm bằng sức sáng tạo. Còn những ngày rỗng lại là lời
nhắc nhở về nguồn cội, là sự tỉnh ngộ trước ơn lốc thời gian, là tiếng lòng đồng
cảm hay là sự quyết tâm dứt bỏ những vướng bận để bước đi trên hành trình sáng
tạo. Những ngày rỗng là những ngày
tâm hồn thảnh thơi đón nhận luồng gió mới khơi nguồn cảm hứng. Những hình ảnh ẩn
dụ này tựa trục xoay trong mốc hành trình thơ Inrasara giúp nhà thơ kiến tạo những
vần thơ đa nghĩa và giàu cảm xúc. Đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Inrasara phần nào
là nhờ sự đa tầng nghĩa của phương thức tu từ ẩn dụ trên tạo nên.
Ẩn dụ, so sánh, đối lập đều là những biện
pháp nghệ thuật có đất dụng trong thơ Inrasara góp phần làm giàu tính gợi hình,
biểu cảm cho ngôn ngữ thơ anh. Song, ngôn từ thơ Inrasara thật sự lột xác và gợi
cảm, gợi tình khi anh “trầm mình” trong nghệ thuật trùng điệp.
Nghệ thuật trùng điệp tạo nên hệ thống
hình ảnh trùng điệp với những lớp cảm xúc gối lên nhau hết lớp này đến lớp
khác. Những bài thơ dài như: “Quê
hương”, “Lễ tẩy trần tháng Tư”, “Những ngày rỗng”, “Ngụ ngôn của đất”, “Con đường”…
mang hơi thở sử thi phần nhiều là nhờ nghệ thuật trùng điệp. Nghệ thuật trùng
điệp làm cho câu thơ Inrasara khắc khoải, trầm buồn phút hành hương:
… vũ điệu của buổi tiệc cuối cùng
Giây phút cuối cùng của ngày cuối cùng
Của tháng cuối cùng của thế kỉ cuối cùng.
Tiếng mấp máy môi cuối cùng
Nghoảnh lại cuối cùng. Buồn cuối cùng
Phụt tắt cuối cùng
Tro bụi cuối cùng.
Gió gượng thổi ngọn gió cuối cùng
(“Hành
hương về bên kia đêm tối”, Lễ tẩy trần tháng Tư)
Phép điệp câu, điệp cấu trúc được Inrasara
sử dụng một cách hiệu quả tạo nên những vần thơ âm vang:
Con lừa đi tìm gánh nặng
Nhà văn đi
tìm tiếng tăm
Thầy tu đi tìm thượng đế
Riêng con đến gặp cuộc đời
(“Đoản thi thứ hai dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)
Sử dụng nghệ thuật điệp, Inrasara có thể
nhấn mạnh về giọng điệu, thuyết phục về giọng điệu, thuyết phục về tư tưởng và
thể hiện cảm xúc một cách sâu sắc, khéo léo xô đẩy bạn đọc vào vai người đối
thoại với chính nhà thơ:
Làm sao gọi em ngược về thế kỉ Huyền Trân?
làm sao chuyển dịch tôi sang ngữ ngôn huyền
sử?
… Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ
sông đêm nay?
(“Tụng ca của nước”, Hành
hương em)
Ngôn ngữ tạo hình thơ Inrasara vươn lên tầm
cao mới bằng việc sử dụng liên tục những
câu thơ ngắn:
Chợt trang nghiêm nắng viện bảo tàng
Chợt kiêu sa choáng cao ốc Sài Gòn
Nhảy múa
Nhảy múa
Nhảy múa
(“Tụng ca của nước”, Hành hương em)
Trầm mình trong văn hóa Champa ngưỡng vọng,
Inrasara – người đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm đã chinh phục độc giả
bằng thứ ngôn ngữ giàu sức tạo hình, biểu cảm. Với Inrasara, sáng tạo ngôn ngữ
riêng của mình trong ngôn ngữ cộng đồng, phiêu lưu đi tìm dưỡng chất mới cho
mùa màng văn học dân tộc bội thu là sứ mệnh đời anh. Nguyễn Thị Minh Thái từng
có nhận định xác đáng về ngôn ngữ thơ anh: “Thơ Inrasara thật khỏe, không bi
lụy mà như cây đại ngàn qua bão táp vẫn vươn lên đón nắng trời. Tiếng Việt của
anh đạt đến mức điêu luyện. Đấy là thứ tiếng Việt phong phú, giàu biểu cảm, được
sử dụng uyển chuyển đến mức tài hoa, điều mà không nhiều lắm tác giả người Kinh
có được” [80].
3.3. Giọng điệu
3.3.1.
Khái niệm giọng điệu
Theo Khrapchenko, giọng điệu không chỉ là
yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện giá trị của
tác phẩm văn học mà còn “là một yếu tố cấu thành của tác phẩm nghệ thuật, của
sáng tác của nhà văn nói chung, phong cách là một hệ thống. Trong hệ thống đó
trước hết cần phải chú ý tới sự tổng hợp của những phương tiện giọng điệu. Đề
tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất
định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng
tác, đối với những mặt khác nhau của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của
hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở “giọng điệu chủ yếu” vốn
là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh”[80].
Bên cạnh giọng điệu chủ yếu còn có những sắc điệu khác nhau làm phong phú những
phối cảnh cảm xúc trong việc lí giải những hiện tượng, những khía cạnh khác
nhau và giống nhau của đối tượng sáng tác.
Giọng điệu của mỗi nhà văn phản ánh thái độ,
lập trường, tư tưởng, đạo đức, thị hiếu thẩm mĩ của họ đối với hiện tượng được
miêu tả “thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc
điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca
hay châm biếm” [79]. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học.
Mỗi nhà văn, nhà thơ khi sáng tác bắt buộc phải tạo cho mình một giọng điệu
riêng nếu như muốn thành nghệ sĩ lớn. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn,
nhà thơ chưa thể có tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống
nhân vật.
Khác với văn xuôi tự sự, thơ trữ tình
chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng bởi vậy giọng điệu
trong thơ trữ tình chủ yếu là giọng đơn. Giọng điệu trữ tình được thể hiện ở
nhiều cấp độ: giọng điệu của từng tác phẩm, giọng điệu chung của tác giả, giọng
của thời đại văn học… Giọng điệu trữ tình chịu sự qui định của tư thế trữ tình,
cảm hứng chủ đạo và góc độ giao tiếp.
Giọng điệu trữ tình mang tính cá thể hóa của
nhà thơ. Tính cá thể hóa ấy thể hiện trong giọng điệu ở một số phương diện:
vùng văn hóa quen thuộc với nhà thơ, vốn từ vựng hay dùng, một số môtip hình ảnh
quen thuộc, môtip đề tài và chủ đề lặp lại, sở thích và cá tính.
Giọng điệu của những tài năng lớn bao giờ
cũng vừa mang tính cá thể vừa mang tính siêu cá thể. Đây là một phương diện để
tạo thành phong cách nhà thơ. Ở những phong cách nghệ thuật lớn, giọng điệu cá
nhân không bao giờ tách riêng giọng điệu siêu cá thể của cả thời đại nhưng vẫn
tìm được chỗ đứng cho riêng mình. Nó như giọng lĩnh xướng trong một dàn đồng
ca, hòa nhập mà không tan.
3.3.2.
Giọng trầm của suy niệm
Trong sáng tạo nghệ thuật, ngay từ khi xuất
hiện, Inrasara đã khẳng định mình ở một giọng điệu riêng. Giọng điệu của
Inrasara bắt nguồn từ quan niệm nhân sinh cũng là quan niệm nghệ thuật chi phối
hơi thơ, hồn thơ anh. Đó là nỗi trầm tư trước định phận mong manh của thân phận
người, thân phận của một nền văn hóa, thân phận của một dân tộc. Theo Inrasara,
sự hiện hữu của con người thể hiện ở việc con người trầm tư về chính sự hiện hữu.
Không trầm tư/ suy tư, chúng ta không hiện hữu. Quan niệm nhân sinh của
Inrasara bắt nguồn từ ẩn ức dân tộc – nỗi buồn thân phận Chăm. Nền văn minh
Chăm rực rỡ xưa kia chỉ còn trong kí ức, chỉ còn lại vết tích qua những ngôi
tháp hoang buồn. Sinh ra, lớn lên giữa những ngôi tháp hoang cô độc – biểu tượng
của nền văn hóa Chăm rực rỡ, giữa bạt ngàn gió, nắng cháy, sa mạc cát Phan
Rang… thân phận tháp đã khởi lên trong lòng anh câu hỏi vì sao? Vì sao? Nỗi trầm
tư sớm đưa anh tìm đến triết học và được anh tải chở/ hiện thể qua thơ với một
giọng trầm, điệu trầm của suy niệm.
Âm nhạc Chăm, những giai điệu nuôi dưỡng
tâm hồn Inrasara cũng là những giai điệu trầm buồn. Theo tiến sĩ Phan Quốc Anh
thì không chỉ những khúc nhạc trong tang ca ai oán nỉ non mà hầu hết các bài
dân ca Chăm đều nặng chất trữ tình hơn là duyên dáng, vui tươi, bởi âm nhạc và
múa chỉ dành cho các nghi lễ cầu thần thánh nên nền âm nhạc Chăm ít có khúc ca
oai hùng, mạnh mẽ. Thêm vào đó, những tác phẩm văn học dân gian Chăm, các câu
Ariya mà từ bé Inrasara đã thuộc nằm lòng như Ariya Xah Pakei, Ariya Cam –
Bini cũng mang âm hưởng trầm buồn.
Ariya Cam – Bini
Trường ca Chăm – Bàni kể lại chuyện tình của chàng trai Bàni và cô gái Bàlamôn
không được sự đồng tình của cộng đồng, các trận hành hạ của cha mẹ cô gái, sự
chịu đựng đau khổ của họ. Cuối cùng cả hai đi đến cái chết bi thảm:
… Yêu chàng thân thể mòn hao/ Vết lằn roi
lại thêm đau nổi mình/ Ví có đói chẳng buồn ăn uống/ Có xới cơm, chén chẳng dám
đầy…/ … Em mất rồi/ Thôi thì đã hết/ Niềm yêu đương ta viết thành thơ/ Lửa lên
ta vỡ khóc òa/ Lao vào giàn lửa, ném thơ gởi đời/ Lửa bùng cháy hết cả đôi/
Gương tình chung thùy cho người soi chung.
Có lẽ, tất cả các nhân tố trên đã hun đúc
nên giọng trầm, điệu trầm suy niệm của Inrasara.
Trong đời thực, Inrasara là đứa con tha phương
luôn đau đáu về quê hương với những phận đời Chăm quê anh, với thân phận tháp
hoang, với thân phận những cây xương rồng cô độc trên nắng gió bão bùng sa mạc…
Có thể nói, tha hương, với Inrasara vừa là nỗi lưu đày, vừa là trách nhiệm. Có
lẽ, chính khối hỗn dung tình yêu – thân phận – trách nhiệm ấy đã mở rộng chiều
kích suy niệm trong thơ anh.
Trường ca Quê hương là một dòng suy niệm
chảy dài về quê hương yêu thương đói nghèo, về thân phận những đứa con Chăm tha
hương. Giọng suy niệm buồn da diết âm vang trong không ít câu thơ:
Là quê hương em/ Dù sáu đỉnh Chà Bang nắng
hè khô khốc/ Dù vụ lúa năm này ruộng nẻ chân chim/ Nhưng làm sao quên/ Những
ánh nhìn thân quen, những khuôn mặt mới quen/ Những tiếng nói đơn sơ, những nụ
cười đơn giản/ Kho kí ức tuổi thơ – những năm, những tháng/ Những trận đòn sau
những buổi tắm sông/ Những ngày mưa dài hay những đêm trăng/ Cả những buổi đầu
đến trường bỡ ngỡ/ Làm sao cho khỏi nhớ/ Quê hương?/…/ Ôi! Quê hương/ Hôm nay về
với nước mắt chảy dài/ Em nhìn quê hương quê hương nhìn em, thầm lặng/ Trên vừng
trán nỗi chờ đợi đã hằn sâu. Im lặng/ (Ngôn ngữ thành dư thừa nơi xứ cô đơn)
Lẽ thường, con người trong những niệm tưởng
về quê hương, quê hương thường hiện lên như cái nôi của bình yên tâm hồn. Nếu
có giọng buồn thì ắt hẳn đó là nỗi buồn
xa cách, nhớ thương. Đó là kết quả của một tâm thế trữ tình nhớ thương, mong đợi,
khao khát trở về quê hương. Inrasara khác, cái tâm thế trữ tình của anh về quê
hương lả tâm thế của người đau đáu và suy tư. Dĩ nhiên, nhớ thương, mong đợi, khao
khát trở về hay đau đáu, suy tư về quê hương đều khởi nguồn từ tình yêu quê
hương nhưng, hai tâm thế trữ tình ấy sinh ra hai giọng điệu khác, hai thế giới
hình ảnh khác. Thế giới hình ảnh trong suy tư Inrasara là hình ảnh trần trụi,
đói nghèo về quê hương, là bằng chứng của tình yêu quê hương.
Về dấu hiệu văn bản, những trăn trở, suy
tư, tình yêu đau của Inrasara về thân phận những người Chăm quê anh bộc lộ qua
rất nhiều dấu hỏi trong thơ: 38/ 81 bài thơ mang dấu hỏi. Trong Trường ca Quê
hương có những đoạn thơ dày đặc dấu hỏi: “…Ai đang đi kia?/ Băng cánh đồng
khô chân hối hả/ Đội giành gốm to đi giữa trưa nắng hạ/ Có kịp bữa cơm, đám con
đói lao xao?/ Ai đang bước kia/ Quẩy bó lúa ướt nhèm đang vượt lội/ Bờ vùng thì
trơn mà sân hợp tác xã thì xa/ (Đường nội đồng vỡ hoang trong cơn lũ đêm qua)/
Ôi đôi vai tuổi đôi mươi đã sớm sần chai lằn đòn gánh/ Tóc em nước mưa chưa khô
mà lưng em mồ hôi đã đẫm/ Có kịp không, cho mơ ước lớn khôn?/ Ai đang đi kia
/…/ Và ai đang đi kia?... Điệp khúc Ai đang đi kia? Ai đang đi kia?”
chừng như là điệp khúc cùng lúc của nhịp vỡ âu lo và suy tưởng. Và nếu
những câu hỏi biểu thị nỗi ám ảnh/ suy tư của Inrasara về thân phận những người
dân Chăm, thì chính cái giọng suy niệm buồn day diết đã chuyển tải nỗi ám ảnh của
anh đến với bạn đọc. Giọng suy tư của Inrasara da diết buồn khi viết về thân phận
tháp:
Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng
Biển bên kia và cát bên này
Biết mấy vạn đời rồi tháp nắng
Trên đồi hoang như dấu lặng phơi bày…
Không có một bài thơ ngợi ca
tháp vẫn đứng miệt mài với nắng
trong hoang mạc lòng nhân gian lạnh
(“Tháp
nắng”, Tháp nắng)
Một điệu buồn của niềm kiêu hãnh! Dường
như Inrasara luôn tìm kiếm câu trả lời vì sao cho mọi hiện tồn quanh anh. Nhà
văn Nguyễn Minh Thái cho rằng thơ Inrasara mang giọng buồn, không vui nhưng
không hề ảm đạm. Tác giả Nguyễn Vĩnh Tiến cũng khẳng định thơ Inrasara đầy suy
tư và chính vì vậy anh hay triết lí về con người, cuộc sống. Trước mỗi sự kiện,
anh không miêu tả, giãi bày mà đi vào chiều sâu suy tư, mở rộng chiều kích suy
tư. Suy niệm giúp anh lặn sâu vào bản thể:
Giã từ câu thơ trong xanh tôi hối hả đi
ngược hoàng hôn
Tôi hối hả sống hối hả yêu hối hả ôm mang
hối hả
Đi
Và đi
Và đi…
Khi hố thẳm tối đen ở chân trời hoắc mở
Tôi gặp tôi đứng trần truồng trước định mệnh
vô âm
Chợt thấy bóng xương rồng nở chật trái tim
mù sương
Tôi vội vã quay về quỳ dưới chân đồi và
khóc
(“Sinh
nhật cây xương rồng”, Sinh nhật cây xương rồng)
Cái sắc điệu buồn day diết của suy niệm
Inrasara khi anh cất lời về quê hương, về thân phận những người Chăm tha hương,
về tháp Chàm chính là khúc niệm tình tha thiết của anh về quê hương Chăm
Panduranga thân yêu.
Với Inrasara, lặn sâu/ chiêm nghiệm để trả
lời câu hỏi vì sao trước mỗi hiện tượng là mạch ngầm kết nối thơ anh. Điều này
thống nhất vời hình tượng một Inrasara triết nhân – cô đơn, tự tại, thống nhất
trong nguồn cảm hứng viết về những ngày Rỗng – những ngày suy niệm của anh.
Giản dị mà sâu sắc. Không dấu vết của kĩ
thuật thơ. Không chỉ bất ngờ về dòng tư tưởng Inrasara gửi gắm trong thơ, mà
còn bất ngờ, khâm phục bởi những dòng cảm nghiệm được anh viết ra. Một trong những
đặc tính của thơ triết lí là những thức nhận bất ngờ về cuộc sống, con người.
Nhưng, cũng vì để đạt đến tính triết lí, nhiều khi, nhà thơ đánh mất thi điệu/
thi ảnh. Chỉ khi, những suy niệm kia xuất phát từ những rung cảm chân thành của
nhà thơ trước cuộc đời mới mong chinh phục hồn độc giả. Những nốt trầm suy niệm
quả là âm giai của tâm hồn.
Ở giọng suy niệm buồn day diết, Inrasara
đã tạo ra được những hình tượng thơ ám ảnh, đó là tháp Chàm, là quê hương Chăm
yêu thương, đói nghèo, là hình ảnh người em trong kiếp phận tha hương. Giọng
suy niệm buồn day diết của Inrasara gắn với phương diện cái tôi trữ tình của
anh: Đứa con của tâm thức Chăm. Một đứa con của tình yêu Chăm sâu đậm, đứa con ấy
lặn sâu vào thân phận dân tộc mình, bản thể mình để chắt ra những nghiệm sinh đẹp.
3.3.3.
Giọng đối thoại rắn rỏi
Trong sáng tác của những nhà thơ cách mạng,
nổi bật là Tố Hữu, Chế Lan Viên… giọng điệu đối thoại được sử dụng phổ biến. Họ
đối thoại để tuyên truyền tư tưởng, chính sách, đường lối cách mạng. Các nhà
thơ kháng chiến thường dùng những hô ngữ (ôi, ơi), cách xưng hô gần gũi (mẹ,
mế, cha, anh, em. Con và gọi tên mẹ Tơm, Nhiều…), dấu câu (? – hỏi, ! – chấm than). Cùng
mục đích tuyên truyền, cổ vũ cách mạng, nhưng giọng thơ Tố Hữu thiên về tâm
tình, giọng thơ Chế Lan Viên nghiêng về lí trí:
Con tàu lên Tây Bắ,c anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vẫn trăng
(“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên)
Giọng điệu đối thoại phá vỡ mọi sự ngăn
cách giữa tác giả và độc giả. Anh thường nêu ra những vấn đề để người đọc cùng
chia sẻ và suy ngẫm. Inrasara đối thoại để bày tỏ nỗi niềm Chăm của mình. Dân tộc
Chăm bước qua bao biến suy, oằn mình trong cơn lốc khó nghèo. Dân tộc Chăm thời
hiện đại vẫn còn nhiều khiếm khuyết trong cả sinh hoạt lẫn nếp nghĩ. Bao giờ
dân tộc Chăm mới đi lên, mới hội nhập được vào không khí chung của đất nước là
vấn đề nhà thơ luôn trăn trở.
Đối tượng Inrasara đối thoại tương đối rộng.
Trước hết là đối thoại với thời gian.
Thời gian ám ảnh thi sĩ sâu đậm và lâu dài hơn cả. Thi sĩ là kẻ luôn ý thức về
thời gian và đối thoại thường trực với nó. Đối thoại với thời gian nhằm mục
đích tìm lối đi cho mình, cho người Chăm. Đối thoại với thời gian cũng là tìm về,
khẳng định những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa Champa rực rỡ, đáng ngưỡng vọng.
Trở về quá khứ để tìm về mạch nguồn sống của
dân tộc. Thi sĩ luôn tìm thấy sự kết nối xưa và nay:
Bây giờ về plây nhỏ
Huyền lại mắt em xưa?
Bao giờ bồng lối cỏ
Bềnh nữa tóc xanh mưa?
Khóc – tôi bời mộng cũ.
(“Hoài cảm 1”, Sinh nhật
cây xương rồng)
Đối diện với hiện tại, tâm trạng nhà thơ
thường bất an:
Vào một đêm rất khuya
Người từ miền sâu bóng tối
Thức giấc
Trong cô đơn
Có chăng cuộc sống đã chồng chất gánh nặng?
(“Thực tại”, Tháp nắng)
Inrasara chủ yếu đối thoại với tương lai.
Thi sĩ luôn mong chờ tương lai với tinh thần lạc quan, những vẫn chưa hết băn
khoăn, lo lắng:
… Tôi đã neo hi vọng cuối cùng
Vào lộ trình đêm tịch mịch
Mai rồi trôi về đâu – không biết.
Có bật ít mầm xanh?
(“Hành trình”, Lễ tẩy trần
tháng Tư)
Nhà thơ không ít lần đối thoại với quê
hương, bày tỏ tình yêu tha thiết của cái tôi ăm ắp tình cảm. Chẳng hạn,
Inrasara đối thoại với sông Lu:
Có ai nghe tiếng hát
sáng mai?
khi sông Lu gặp tôi nơi suối nguồn
róc rách về ngôn ngữ sạch trong
Khi sông Lu ẩn cư miền sa mạc
còn ai nâng chông chênh tiếng hát
sớm mai?
(“Sông Lu thức cùng tôi đêm
nay”, Hành hương em)
Đối thoại với con người quê hương:
Có đất nào như đất ấy không?
Sao em vẫn yêu đất quê hương suốt ngoằn
ngoèo khúc ruột
Có đất nào như đất ấy không?
Trí thức là nửa mùa: mảnh bằng cử nhân thì
đã đủ
Vốn kiến thức nửa mùa may lắm mới mang nổi
cái thân
Chẳng ai nhìn cao hơn, không người nhìn xa
hơn
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
Nhiều lúc, nhà thơ tự đối thoại với bản
thân mình:
Glang Anak tuổi thơ tôi đã thuộc
Rồi qua mấy mùa hoang, tôi đọc lại trăm lần
Vẫn thấy mình quẩn quanh đời chật
Tập thơ mỏng gầy mở tới mênh mông
(“Glang Anak – Tứ tuyệt
Inrasara”, Hành hương em)
Thi sĩ đối thoại để đúc kết những khám phá
của anh trên bình diện tư tưởng:
Cái đích cuối cùng của cuộc hiện sinh
không
là gì cả
Nhưng lẽ nào chúng ta sống không làm gì cả
Để cuộc đời chúng ta không ra gì cả.
Hắn nghĩ sẽ bay cao rất cao
Khi chế độ mở toang cửa rộng
- Hắn sẽ chẳng bao giờ lết tới đâu
Bởi không tự vũ trang đôi cánh.
Tất cả đều bị khất lại
Ngay cả sống người ta cũng nhiều lần khất
lại
Dù thời gian không đợi ai khất lại bao giờ.
Hãy để trái tim rộng mở
Cho cuộc sống bước vào và đi ra
Đừng để thế giới lướt qua
Với trái tim luôn đóng cửa.
(“Đoản thi thứ nhất dành cho
con”, Sinh nhật cây xương rồng)
Hay:
Sự thất bại không là gì cả
Khi con muốn khai phá con đường riêng của
riêng con
Mặc những thành công dễ dãi của
kẻ đang bước theo lối mòn của thiên hạ.
Mỗi sáng thức giấc
Hãy để mặt trời cất đi của con mảnh sợ hãi
đọng lại
Và con trang trọng bước vào ngày mới
(“Đoản
thi thứ hai dành cho con”, Sinh nhật cây xương rồng)
Hơn thế, giọng đối thoại rắn rỏi làm hiện
thể một Inrasara minh triết, rõ ràng quyết liệt trong tư tưởng và hành trình lựa
chọn cách sống, cách hiện tồn có ý nghĩa. Giọng đối thoại rắn rỏi ấy đậm nét
trong Ngụ ngôn anh viết cho mình. Đó là những thức nhận/ thú nhận chân thành với
chính cuộc đời anh. Thơ anh sâu sắc bởi được ướp tẩm vốn văn hóa, tri thức đầy
đặn nơi anh. Mọi đối thoại, truy vấn, liên hệ của anh đều đi đến mong muốn chạm
vào tính qui luật. Đối thoại, truy vấn chính mình, anh đi đến một xác quyết đầy
tinh thần trách nhiệm, một “bùng vỡ” trong chiều sâu tư tưởng:
Để
nuôi ta, ta rút từ cha ông
Thì phải cất cho đời sau dòng nhựa
(Trường ca “Quê hương”, Tháp
nắng)
Có thể nói giọng đối thoại rắn rỏi đã nâng
tầm những cảm nghiệm của anh lên tầm tư tưởng khái quát. Nhưng trên hết, qua giọng
đối thoại rắn rỏi, độc giả bắt gặp Inrasara trong hình ảnh đẹp của một người
không chỉ luôn âu lo cho Chăm mà còn đẹp hơn trong hình ản thi nhân luôn trăn
trở truy tìm giá trị sống/ ý nghĩa hiện tồn đích thực cho mỗi phận người, mà
trước hết cho chính anh.
3.3.4.
Giọng trữ tình tha thiết
Bên cạnh những triết luận, những đối thoại
sắc sảo, giọng thơ Inrasara còn thấm đẫm chất trữ tình. Thơ Inrasara chuyên về
trữ tình đời tư và thế sự. Khơi nguồn cho giọng trữ tình thơ Inrasara là sự tiếc
nuối, hoài niệm, nhớ mong, thành kính.
Với giọng thơ bùi ngùi, buồn thương, nhà
thơ nuối tiếc cho những giá trị truyền thống dân tộc đang từng ngày mai một. Đó
là hình ảnh của “Tháp hoang”, “Điệu cuồng vũ buồn”, “Chuyện chữ”… Nhà thơ run rẩy
lòng, kêu cứu cho tiếng vọng con chữ:
Nét chữ cong queo âm tiết run rẩy
kêu vào khoảng trống
cứu chúng tôi
DAUNG KLAUNG HAI
116 câu ariya lầm lụi đi về
bì
bõm biển sóng
len khe hẹp bóng tối
dắt díu đi
xin cứu chúng tôi
đường cong chữ bám nhau chặt hơn
âm tiết run rẩy hơn
(“Chuyện chữ”, Chuyện 40
năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức)
“Nỗi thân” của con chữ thật đáng xót xa, vẫy
vùng trong một khoảng trời đơn côi, tuyệt vọng, mong chờ ánh sáng cứu vớt. Bằng
việc tạo khoảng trống giữa những con chữ, câu thơ như những tiếng nấc nghẹn. Giọng
thơ như dâng lên rồi nghẹn lại tạo cảm giác bất lực, tiếc nuối.
Sự tiếc nuối của thi sĩ còn thể hiện trong
cái nhìn của quá khứ với những lỗi lầm không thể chuộc lại (“Chuyện 13.Trẻ dại”),
về những giấc mơ bị giam cầm từ rất sớm/ dẫu bé con, về sự trì hoãn trước
tiếng gọi của con đường và cả việc bỏ quên niềm đam mê sáng tạo của người bạn
thơ:
Chuyến đi hôm xưa
những tưởng chuyến cuối cùng
Sao anh vội xế trưa, đang khi mặt trời
đứng bóng!
Thiên kỉ mới mở mênh
Anh thì xếp cánh
Hồn vô ưu rơi mất lối chim gầy
Bến bờ hun hút xa, bàn chân bước hẫng
(“Khát vọng biển”, Hành
hương em)
Viết về tình cảm với người thân, giọng thơ
Inrasara càng tha thiết trữ tình, thành kính:
Còn ngọn lửa đám thiêu cha ở góc tối cửa rừng
lay kí ức tuổi thơ con
động cựa.
bóng cha xưa đi lẩn bóng đồi
đồi ôm mang dọa nạt.
mẹ gầy khô dáng bước
rừng hôm nay đâu cũng lối mòn.
chỉ còn nỗi trắng thoang thoảng thốt
chất đầy tiếng chim khuya
thổi bạt ngàn đám lửa thiêu cha
nén kí ức tuổi thơ cha, nín lặng
(“Kí ức rừng”, Hành hương
em)
Ở mảng thơ tình, Inrasara cất vang giọng
thơ đằm thắm, ngọt ngào, tha
thiết:
Và tôi yêu em
tôi nhìn em thẳm sâu đôi mắt tháp đêm
tôi hôn em đắm say triền môi biển sóng
tôi ghì em đê mê vòng tay cát nóng
(“Ngụ ngôn mùa Đông”, Lễ tẩy
trần tháng Tư)
Thơ Inrasara mang giọng buồn, không vui
nhưng không hề ảm đạm. Đọc thơ Inrasara, độc giả thấy rõ điều đó. Bên cạnh giọng
thơ buồn thương, tiếc nuối, hoài niệm về một dân tộc Chăm trong quá khứ, thơ
Inrasara còn có cả niềm vui, niềm hi vọng:
Sóng lớp bàn tay lao xao vẫy anh về phía
trước
Nhìn đăm đắm anh là những dáng buồm căng
Chắc đậm dòng sông anh chảy tràn biển khác
Chuyến hôm nay
chắc chi là chuyến cuối cùng
(“Khát vọng biển”, Hành
hương em)
Tình yêu quê hương là động lực giúp
Inrasara vươt qua “đời thách thức”. Sau những tháng ngày tha hương, nhà thơ lại
trở về với tình yêu nguyên vẹn và một niềm tin mãnh liệt về sự hồi sinh:
Lại xanh trong tôi – dù rừng đã cháy
Lại chảy trong tôi – dù sông đã chết
(“Đường trở về”, Tháp
nắng)
Chính tình yêu tha thiết với quê hương, với
văn hóa Champa đã chắp bút cho những sáng tạo của Inrasara. Giọng trữ tình tha
thiết quyến dụ bởi những xúc cảm đa diện, khi tha thiết, hi vọng, khi lại buồn
bã, tiếc nuối. Hơi thơ có lúc gấp gáp, hối hả, lúc mượt mà, đằm thắm. Tất cả tạo
ra một chất giọng trữ tình riêng biệt mang dấu ấn Inrasara. Giọng thơ trữ tình
Inrasara ngân vang những giai điệu trữ tình ngọt ngào, thiết tha, say đắm.
KẾT LUẬN
1. Inrasara là nhà thơ đương đại xuất sắc. Tiếp
nhận những ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa Chăm – văn học Chăm, Inrasara bộc
lộ một tài năng đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo. Bút lực thi nhân hướng đến
cả việc nghiên cứu, phê bình, sáng tác tiểu thuyết… nhưng có lẽ điều cuối cùng
nhà thơ hướng tới là bản sắc văn hóa Chăm.
2. Trên phương diện nội dung trữ tình, cái
tôi trữ tình Inrasara mang tâm thế cô đơn. Cái tôi cô đơn lặn sâu vào bản thể,
vào văn hóa dân tộc, tải chở hồn vía, bản sắc Chăm vào thơ. Tự nhận mình là người
con đứng giữa đường biên văn hóa Việt – Chăm, Inrasara yêu nền văn hóa dân tộc
mình. Mọi nỗ lực sáng tạo của anh chỉ nhằm làm thức dậy một nền văn hóa đã bị
chìm lấp dưới tro bụi thời gian và lòng người.
Về khả năng chiếm lĩnh hiện thực, Inrasara
đưa độc giả về với quê hương, con người Champa, dựng lên cả một không khí lễ hội
đặc sắc khi vui tươi, lúc mê trầm, linh hiển, dụ hoặc. Thơ Inrasara cuốn hút độc
giả bởi thứ tình cảm mang tính bản thể nhất của con người – tình yêu quê hương,
quyến dụ bởi thứ tình yêu kín đáo, âm trầm, đắm say. Để lộ thiên hoàn toàn một
nền văn hóa Chăm, Inrasara dựng nên những hình ảnh mang tính biểu tượng về quê
hương Chăm, tháp Chàm, sông Lu, con đường…
và những lễ hội văn hóa Chăm như Lễ tẩy trần, lễ hội Katê trong những vần
thơ khắc khoải nhưng đầy tự hào. Những con người Chăm đớn đau trong kiếp hạnh
tha hương, hân hoan trong niềm tận hiến – vô danh đã chạm khắc nên những chân
dung riêng Chăm. Và hiện thực quê hương Chăm khó nghèo, oằn mình trong bao
giông gió của lịch sử được Inrasara thể hiện khá trọn vẹn. Tất cả tạo nên một bản
sắc văn hóa Chăm đẫm đầy trong thơ Inrasara.
3. Trên phương diện nghệ thuật biểu hiện,
Inrasara đã tạo cho mình giọng điệu riêng. Đó là giọng trầm của suy niệm, giọng
đối thoại sắc sảo và sự mượt mà, đằm thắm của giọng trữ tình tha thiết. Có thể
nói, Inrasara là nhà thơ cách tân nhất hiện nay. Inrasara luôn có ý thức đổi mới
thơ. Điều đó thể hiện qua ngôn ngữ thơ và thể thơ. Ngôn ngữ thơ Inrasara vừa đẹp,
sang trọng, truyền thống lại vừa đời thường, thông tục. Biểu hiện trái ngược
này thường xuất hiện đồng thời trong cùng một bài thơ nhất là những trường ca,
như trường ca Quê hương. Cách sử dụng ngôn ngữ như vậy dễ tạo nên mạch
thơ nói về sự trôi chảy từ quá khứ đến hiện đại. Mặt khác, ngôn ngữ thơ
Inrasara giàu tính tạo hình và biểu cảm. Sự cách tân về nghệ thuật còn thể hiện
qua việc Inrasarra sáng tác bằng rất nhiều thể thơ như thơ tự do, thơ văn xuôi,
thơ tân hình thức. Ngoài ra, Inrasarra còn sử dụng rải rác các thể thơ cổ điển
như ngũ ngôn, thơ tứ tuyệt và thơ lục bát. Inrasara đặc biệt thành công với những
thể nghiệm về trường ca. Thi liệu biểu hiện vẫn là bản sắc văn hóa Chăm. Những
cách tân trên cơ sở truyền thống của Inrasara không nằm ngoài việc đưa bản sắc
văn hóa Chăm đến gần giới thưởng lãm.
4. Có mạch nguồn từ văn hóa Chăm cùng những đặc
sắc trong nội dung trữ tình và nghệ thuật biểu hiện, nhà thơ dân tộc thiểu số
thực sự đưa thơ mình hòa vào dòng chảy thơ ca dân tộc đương đại, mở tung cánh cửa
văn hóa Chăm – một nền văn hóa hào hùng tưởng như đã rơi vào quên lãng. Bản
sắc văn hóa Chăm trong thơ Inrasara là chìa khóa nghiên cứu, tìm về cội nguồn
dân tộc tính trong thơ anh, làm linh hiển một dân tộc trong một nền văn hóa
Champa. Con đường thơ Inrasara còn dài ở phía trước, nhưng chúng tôi tin rằng,
chỉ khi anh tiếp tục lặn sâu vào văn hóa dân tộc anh, lặn sâu vào tâm thức/ tâm
cảm/ tâm linh Chăm, anh mới có thể xây thêm những tháp thơ của riêng mình. Cầm
giữ cái “gien” Chăm, cầm giữ và thức dậy, làm lớn mạnh mạch hồn/ mạch
nguồn Chăm trong đời sống thi ca dân tộc, Inrasara quả là một hiện sinh độc đáo
trong thơ và qua thơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thi
An (2004), “Bàn về giọng điệu trong thơ trữ tình”, http://baobinhdinh.com.vn.
2. Hoàng
Văn An (2008), “Nắng còn ngời trên tháp và mở ra một Inrasara – nhà thơ”, http://Inrasara.com.
3. Phan
Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người
Chăm Bàlamôn Ninh Thuận, Luận án tiến sĩ, Viện Văn hóa thông tin.
4. Đào
Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (sưu tầm và biên soạn, 2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề
lí thuyết, NXB Hội Nhà văn,
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà
Nội.
5. Thu
Ba – Trà Chân (2007), “Inrasara – tháp Chàm bốn mặt”, Diễn đàn văn
nghệ Việt Nam, (147).
6. Phan
Xuân Biên (chủ biên, 1989), Người Chăm ở
Thuận Hải, Sở Văn hóa –
Thông tin Thuận Hải.
7. Phan
Xuân Biên (1990), “Tính đa dạng của văn hóa Chăm”, Tạp chí Khoa học xã hội, (4).
8. Phan
Xuân Biên (1993), “Văn hóa Chăm, những yếu tố bản địa và bản địa hóa”, Tạp chí Dân tộc học, (1), (7 – 12).
9. Phạm
Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 – 2000, NXN Hội Nhà văn, Hà Nội.
10. Trần Can (2008), “Giải mã hiện tượng
Inrasara”, http://Inrasara.com.
11. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
12. Nông Quốc Chấn (chủ biên, 2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn học các dân tộc thiểu số, tập 2, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13. Nông Quốc Chấn – Hoàng Tuấn Cư – Vi Hồng Nhân
(1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
14. Trần Kim Cúc (16-4-2000), “Inrasara, cái nhìn
ngoái lại”, Báo Thanh niên cuối tuần.
15. Nguyễn Đăng Cương (30 – 04 – 1984), “Người đi
tìm kho báu văn học Chăm”, Báo Phụ nữ thành
phố Hồ Chí Minh.
16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Khắc Dũng (2007), “Inrasara, đi là để trở về”, Đặc san Đà Lạt trẻ, (4).
18. Dohamide (1974), Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn.
19. Hữu Đạt (1998), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
23. Lý Đợi ( 2003 ), “Đọc Lễ tẩy trần tháng Tư của
Inrasara”, http://kesach.org.
24. Văn Giá (2008), Viết cùng bạn viết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
25. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, NXB Thuận Hóa – Huế.
26. Lê Thị Việt Hà (2009), Hành trình cách tân thơ Inrasara, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Ngành Lí luận văn học, Trường Đại
học sư phạm Vinh.
27. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
29. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển Văn học Việt Nam (Bộ mới), NXB
Thế giới, Hà Nội.
30. Nguyễn Hòa (2007), “Xu hướng Tân hình thức, hậu
hiện đại trong thơ: Chiếc áo rộng cho một cơ thể còm”, http://cand.com.vn.
31. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
32. Văn Công Hùng (2007), “Hoa xương rồng trên cát”, Báo Tiền phong cuối tuần,
(30).
33. Thu Huyền (2007), “Inrasara: Sẽ không có cuộc
cách mạng thơ trong tương lai gần” (phỏng
vấn), Báo Văn nghệ trẻ, (32).
34. Khế Iêm (2000), “Chú giải về thơ tân hình thức”,
Tạp chí Thơ, (18).
35. Inrasara (1996), Tháp nắng – thơ và trường ca, NXB Thanh niên, Hà Nội.
36. Inrasara (1997), Sinh nhật cây xương rồng – thơ song ngữ Việt – Chăm, NXB Văn hóa –
Dân tộc, Hà Nội.
37. Inrasara (1999), Hành hương em – thơ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
38. Inrasara (2002), Lễ tẩy trần tháng Tư – thơ và trường ca, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
39.
Inrasara
(2006), Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài
thơ tân hình thức, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
40. Inrasara (2008), Ở nơi ấy [Thơ thời cuộc], Tienve.org.
41. Inrasara (2008), Song thoại với cái mới, tiểu luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
42. Inrasara (2006), “Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”, Tạp chí Tia sáng, Hà Nội.
43. Inrasara (2011), Tagalau 12, NXB Văn học, Hà Nội.
44. Inrasara (2013), Thả diều ở xứ nắng, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
45. Inrasara (2006), “Thơ dân tộc thiểu số, từ một hướng nhìn động”, http://
inrasara.com.
46. Inrasara
(2008), “Tân hình thức, một hướng đi
mới”, http:// inrasara.com.
47. Inrasara (2008), Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại, tiểu luận, NXB Văn
học, Hà Nội.
48. Inrasara (1994), Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
49. Inrasara (2006), Chưa đủ cô đơn để sáng tạo, NXB Văn nghệ, Hà Nội.
50. Inrasara (2009), “Thơ Việt từ hiện đại đến hậu
hiện đại”, http://tienve.org.
51. Đỗ Trọng Khơi (2007), Thơ hay trong một cách nhìn, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
52. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
53. Lê Thị Tuyết Lan – Nguyễn Thị Thu Hương (2008),
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, Nghiên cứu
văn học, Đại học KHXH & NV TP Hồ Chí Minh.
54. Ngô Sĩ Liên và các tác giả (1972), Đại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch của Cao
Huy Du, Đào Duy Anh hiệu đính) tập I,II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Trần Xuân Linh (1995), “Văn học Chăm, công
trình của cả một thời thanh xuân”, Tạp chí Thời
văn, (7).
56.
Thạch
Linh (2004), “Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003: Một mùa đúng vụ”, http:// www.tuoitre.com.
57. Vi Thùy Linh, “Tôi sống cật lực như thể ngày
mai sẽ chết”, http://vietnam.net.
58. Lê Bảo Âu Long (2006), “Inrasara, đứa con của
tháp Chàm”, Tạp chí VTV, (4), Đài truyền hình Việt Nam.
59. Chu Nguyên Long (2006), “Tâm hồn Chăm qua Lễ tẩy
trần tháng Tư”, Báo Quốc tế, số Xuân.
60. Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
61.
Hoàng Thiên Nga (2003), “Inrasara khai hoang
trên từng trang viết”, http://Inrasasa.com.
62.
Nguyễn Vĩnh Nguyên (2000), “Có một người hành
hương”, http://Inrasara.com.
63. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2003), “Inrasara cãi nhau
với bóng mình”, Tạp chí Kiến thức ngày
nay, (443).
64. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2004), “Inrasara, nhà thơ
trầm tưởng” (phỏng vấn), Tạp chí Văn hóa
dân tộc, (8).
65. Trần Hoàng Nhân (2005), “Nhà thơ Inrasara –
gương mặt văn hóa Chăm”, Tạp chí Tài hoa
trẻ, (384).
66. Phan Đăng Nhật – Lâm Tiến – Dương Thuấn
(1997), Văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
67. Vũ Nho (2004), “Thơ Inrasara, Những khúc ca đỉnh
tháp”, Báo Thơ, (16).
68. Lê Thiếu Nhơn (2008), “Inrasara và góc nhìn
thơ đương đại Việt Nam”, http://lethieunhon.com.
69. Dương Tấn Phát (1950), Bộ luật hôn nhân Chàm, NXB Sài Gòn.
70. Cao Xuân Phổ (1988), Người Chăm và điêu khắc Chăm, NXB Sài Gòn.
71. Lê Minh Sơn dịch (1978) (M.B.Khravchenco), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
72. Lò Ngân Sủng (1997), “Đọc thơ Inrasara”, Tạp
chí Văn, (70).
73. Đặng Đức Siêu (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
74. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
75. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
77. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
78. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.
79. Trần Đình Sử (chủ biên, 2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Lời bình “Con đường
lửa thiêng” – Tuyển tập Văn học Dân tộc
và Miền núi, (3).
81. Vũ Thanh (2003), “Giọng điệu thơ trữ tình – Một
cuốn sách có giá trị”, Tạp chí Văn học, (3).
82. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
83. Phan Trung Thành (2006), “Đi giữa truyền thống và hiện đại”, Đài truyền hình Việt Nam VTV1.
84. Trúc Thông (1998), “Đọc Tháp nắng của Inrasara”, Báo Văn nghệ, (27).
85. Đỗ Lai Thúy
(2004), Phân tâm học và văn hóa tâm
linh, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
86. Hà Văn Thùy (2000), “Inrasara, bay lên từ tháp
cổ”, Tạp chí Văn hóa – nghệ thuật Công an, (11).
87. Trần Nhã Thụy (2003), “Inrasara, người tìm kiếm
& kiến tạo vẻ đẹp Chăm”, Tạp chí Tài
hoa trẻ , (253).
88. Võ Thị Hạnh Thủy (2008), Thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Ngành
Văn học Việt Nam, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
89. Đặng Tiến (2008), “Thơ là gì ?”,
http://tienve.org.
90. Lâm Tiến, Tham luận tại hội nghị VHNT và DTTS,
Hà Nội, 4 – 2006 (101).
91. Phan Lạc Tuyên (1997), “Nông nghiệp cổ truyền
của người Chăm ở Thuận Hải”, Tạp chí Dân tộc học, (1).
92. Nguyễn Đình Tư (1971), Non nước Ninh Thuận, Sống mới xuất bản, Sài Gòn.
93. Phạm Quang Trung (1998), “Thơ Inrasara đến từ quan niệm”,Tạp chí Văn, (85).
94. Hoàng Quảng Uyên (2000), “Yêu Inrasara”, Một mình trong cõi thơ, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
95. Trần Quốc Vượng (Chủ biên, 1996), Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Trần Quốc Vượng (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
97. Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
BÁO ĐIỆN TỬ
98. Ở nơi ấy
[thơ thời cuộc], http://Inrasara.com
99. Website Inrasara.com.
100.
Website Vietbao.com.
101.
Website Wikipedia.com.
102.
Website tapchsonghuong.com.
103.
Website baomoi.com.
104.
Website giadinh.net.vn.