Sv: Nguyễn Minh Đức, Hochiminh city university of culture
Lời cám ơn: Trước hết xin chân
thành cám ơn Ban Giám hiệu nhà trường, quý thầy cô khoa Quản lý văn hóa, khoa Tại
chức trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã giảng dạy, truyền đạt
những kiến thức quý báu, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt khóa luận.
Tôi xin tỏ lòng
biết ơn sâu sắc với thầy Phan Quốc Anh, tiến sĩ Văn hóa học, hiện đang công tác
tại sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Thuận và thầy Nguyễn Văn Hòa, thạc sĩ Văn
hóa học, hiện đang công tác tại Trung tâm văn hóa tỉnh Bình Thuận đã tận tình
hướng dẫn, cung cấp những thông tin, tư liệu cho tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài tốt nghiệp này.
Và tôi cũng xin
chân thành cám ơn Phòng Văn hóa và Thông tin Thành phố Phan Thiết, Trung tâm
văn hóa Thành phố Phan Thiết, nơi tôi đang công tác đã tạo mọi điều kiện cho
tôi hoàn thành tốt khóa học.
Là một sinh viên,
lần đầu tiên làm công tác nghiện cứu khoa học, nên khả năng, kinh nghiệm nghiên
cứu còn hạn chế. Rất mong sự đóng góp, xây dựng của quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cám
ơn!
MỤC LỤC
Trang
Lời cám ơn ………………………………………….………………………………….………..1
Mục lục …......………………………………………………………..…………….…………..…2
Bảng kê các chữ
viết tắt………………………………………………………………………3
Tiểu kết chương 1............................................................................................15
Tiểu kết chương 2............................................................................................46
Tiểu kết chương 3............................................................................................57
Bảng kê các chữ viết tắt
1
|
Ủy Ban Nhân Dân
|
UBND
|
2
|
Quản lý Nhà nước
|
QLNN
|
3
|
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
|
CNH – HĐH
|
4
|
Công ty trách nhiệm hữu hạn
|
Cty TNHH
|
5
|
Bộ Văn Hóa – Thể Thao và Du Lịch
|
Bộ VHTT & DL
|
6
|
Xã Hội Chủ Nghĩa
|
XHCN
|
7
|
Phó giáo sư – Tiến sĩ
|
PGS.TS
|
8
|
Văn hóa thông tin
|
VHTT
|
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính
cấp thiết của đề tài
Đất
nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và mở cửa quan hệ đa phương hóa, đa dạng
hóa với các nước trên thế giới. Thời kỳ mới đã tạo ra nhiều thuận lợi, cơ hội nhưng cũng không ít
những khó khăn, thách thức và nguy cơ, đặt ra trước mắt chúng ta rất nhiều
những đòi hỏi mới cần phải đáp ứng, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa.
Trong tình hình đất nước đổi mới, nền
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế
- xã hội đã từng bước được xã hội hóa và thu được hiệu quả tốt đẹp, đáp ứng
đúng theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề ra: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”. Trong lĩnh vực văn hóa, vấn đề xã hội hóa đã được
đặt ra như một động lực thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển trong tình
hình mới.
Qua thực tiễn, chục năm trở lại đây đã
xuất hiện nhiều hình thức xã hội hoá. Có hình thức thúc đẩy hoạt động văn hoá
phát triển đúng hướng, song cũng không ít những nhận thức chưa đầy đủ về xã hội
hóa các hoạt động văn hóa ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên. Thậm chí có người
hiểu xã hội hóa các hoạt động văn hóa là giảm chi ngân sách cho văn hóa – Nhưng
quan điểm của Đảng và Nhà nước không hoàn toàn như vậy, ngược lại Nhà nước cần
tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết chế văn hóa, trang thiết bị để tạo điều
kiện cơ sở vật chất để tiến hành xã hội hóa.
Một bộ phận cán bộ đảng viên đã quen
với quản lý theo kiểu bao cấp, muốn yên ổn, Nhà nước cấp bao nhiêu kinh phí thì
làm bấy nhiêu, quen sống dựa vào đồng lương, ngại bung ra những hoạt động có
thu làm cho việc quản lý thêm phức tạp, rắc rối và luôn phải đối mặt với các cơ
quan thanh tra, kiểm tra tài chính.
Đa phần lãnh đạo các đơn vị văn hóa là
văn nghệ sĩ thiếu hiểu biết về những hoạt động liên quan đến kinh tế, tính toán
lỗ lãi trong hoạt động có thu.
Vì vậy, việc tổng kết các kinh nghiệm
thực tiễn nâng lên thành lý luận ở lĩnh vực này là điều cần thiết để tăng cường
công tác quản lý vĩ mô, nhằm giúp địa phương làm tốt công tác xã hội hoá các hoạt
động văn hoá.
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa không
chỉ thu hút trí tuệ, nhân lực, vật lực của toàn xã hội cho lĩnh vực này mà còn
là nhân tố thúc đẩy các hoạt động văn hóa phải biến đổi về chất cả nội dung lẫn
hình thức, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân. Nghiên cứu vấn đề
này chính là đi tìm những biện pháp đổi mới các hình thức hoạt động văn hoá. Vì
vậy, xã hội hoá không chỉ là những vấn đề trước mắt mà còn là một vấn đề lâu dài
trong quá trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên đất
nước ta. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá mang ý nghĩa cấp bách, trước hết bởi
nó góp phần giải quyết ngay những khó khăn chồng chất mà hoạt động văn hoá
trong cơ chế thị trường đang vấp phải, trước hết là về cơ chế tài chính. Trong
cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, hầu hết các hoạt động văn hoá được bao cấp từ
Trung ương đến cơ sở. Nguồn kinh phí do Nhà nước cấp chỉ có hạn, các đơn vị
hoạt động sự nghiệp văn hoá phải lo liệu để tự bươn chải bổ sung kinh phí hoạt
động. Trong khi đó thời kỳ đất nước mở cửa, thời kỳ bùng nổ thông tin, hàng
ngày người dân tiếp xúc với nhiều hình thức hoạt động văn hoá tiên tiến của
nhiều nước trên thế giới, phương tiện nghe nhìn đến tận các gia đình, nhu cầu,
thị hiếu văn hoá ngày càng cao, đòi hỏi các hình thức hoạt động văn hoá phải có
chất lượng cao. Và, chính vì chất lượng hoạt động chưa cao mà số người tham gia
các hoạt động văn hoá giảm dần. Vì vậy, hiện nay xã hội hoá các hoạt động văn
hoá được xem như là một trong những vấn đề nổi bật vừa là mục tiêu và cũng là
phương thức nhằm khắc phục những khó khăn mà hoạt động văn hoá đang gặp phải,
điều tiết nó cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Xã
hội hoá hoạt động văn hoá chính là đánh thức mọi tiềm năng của xã hội, không
chỉ động viên được sức người, sức của mà còn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân.
Ở
tỉnh Bình Thuận, các đơn vị hoạt động sự nghiệp văn hóa đã và đang từng bước
được củng cố tổ chức hoàn thiện, phát triển phong phú đa dạng từ nội dung đến
hình thức các giá trị văn hoá truyền thống để phù hợp với xu thế thời đại theo
sự quản lý định hướng của Nhà nước. Song, vấn đề nghiên cứu lý luận và thực
tiễn để đẩy mạnh việc xã hội hoá các hoạt động văn hoá ở tỉnh Bình Thuận cần
đặt ra là phải có phương pháp khoa học, phù hợp với nhu cầu, yêu cầu, thị hiếu
thẩm mỹ của nhân dân, tạo hiệu quả đích thực trong việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá, nhằm góp phần xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển cùng với
các tỉnh thành trong cả nước, phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
Mục tiêu là vậy,
nhưng để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực phấn đấu. Không
chỉ là sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương, mà còn nhờ đến sự
chung tay góp sức của nhiều đơn vị, tổ chức, cá nhân cùng tham gia hoạt động xã
hội hoá. Và, cũng từ những yêu cầu cấp
bách đó, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “Xã hội hóa hoạt động văn hóa ở
tỉnh Bình Thuận” để nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp.
Nội
dung khóa luận sẽ tìm hiểu xem việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở tỉnh Bình
Thuận đã đáp ứng được tới đâu các nhu cầu văn hóa của nhân dân. Trên cơ sở phân
tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân, khóa luận đưa ra một số giải pháp, góp
phần đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động văn hóa tỉnh nhà.
2.
Đối
tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa
luận là các hình thức xã hội hóa các hoạt động văn hóa trên nhiều lĩnh vực,
trong đó tập trung vào các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập, các tổ
chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa.
Phạm vi nghiên cứu của khóa
luận là quá trình thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở tỉnh Bình Thuận từ
năm 1988 đến nay. Đồng thời tham khảo một số kết quả xã hội hóa ở các địa
phương khác.
3.
Lịch
sử vấn đề
Khi đất nước
đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề xã hội hóa nói chung và xã hội hóa các
hoạt động văn hóa nói riêng là một vấn đế khá mới mẻ. Trong những năm gần đây,
nhất là từ khi đất nước đổi mới thì vấn đề xã hội hóa được xã hội quan tâm. Cụ thể cho vấn đề này là Nghị định số 73/1999/NĐ - CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và Nghị Quyết của Chính phủ số 05/2005/NQ - CP ngày
18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể
dục thể thao.
Năm 1996, PGS.TS
Lê Như Hoa đã có công trình nghiên cứu về xã hội hóa hoạt động văn hóa. Công
trình này do Nhà xuất bản VHTT ấn hành. Có thể nói đây là một trong những công
trình nghiên cứu về xã hội hóa đầu tiên trong lĩnh vực văn hóa.
Năm 2002,
đã có luận án tiến sĩ: “Xã hội hóa hoạt động điện ảnh” của tiến sĩ Vũ Ngọc Thanh (Bộ
VHTT&DL) đã đề cập đến việc mở rộng cho các thành phần kinh tế ngoài công
lập được tham gia vào các hoạt động điện ảnh.
Năm 2006,
Sở VHTT tỉnh Bình Thuận đã xây dựng đề án về phát triển xã hội hóa hoạt động
văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đến năm 2010.
Tóm lại: việc
nghiên cứu xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở tỉnh Bình Thuận đang còn là một
điểm trống trong lịch sử vấn đề nghiên cứu.
4.
Mục
đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là nhằm tìm
hiểu toàn diện thực trạng của quá trình thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa
tại tỉnh Bình Thuận từ năm 1988 đến nay, đánh giá những đóng góp của nó trong
sự phát triển của tỉnh, cũng như những tồn tại và nguyên nhân. Khóa luận cũng hệ thống
lại các văn bản pháp lý của Trung ương và địa phương về vấn đề này, nêu lên các
nhân tố tác động, những cơ hội, thách thức trong thời gian tới; trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp thiết thực đồng bộ trong quản lý Nhà nước, góp phần đề
xuất, đẩy mạnh việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Là một cán bộ hoạt động
văn hóa, thông qua việc làm khóa luận bản thân có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về
công tác xã hội hóa, giúp ích cho mình sau khi tốt nghiệp về triển khai thực
hiện.
5.
Phương
pháp nghiên cứu
Phương pháp
luận: khóa luận được viết trên cơ sở
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những quan điểm, nhiệm vụ và giải
pháp của Nghị Quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V (khóa VIII) về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Phương
pháp cụ thể: phương pháp nghiên cứu chính của tác giả sử dụng trong luận án này
là phương pháp điền dã dân tộc học, thâm nhập thực địa, quan sát. Kết hợp tư
liệu mới thu thập thông qua điền dã với sự kế thừa tư liệu của những người đi
trước, tác giả trình bày theo phương pháp quy nạp. Sau khi miêu thuật các hiện
tượng diễn ra trong quá trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa, tác giả trình
bày những nhận xét của mình sau khi đã lựa chọn từ nhiều cách giải thích của
đối tượng khác nhau, kể cả tư liệu hồi cố.
6.
Đóng
góp của khóa luận
Thông qua miêu tả, tổng hợp,
phân tích, so sánh, tác giả khóa luận mong muốn đóng góp những căn cứ khoa học
vào việc hoạch định những chủ trương, chính sách trong việc đẩy mạnh xã hội hoá
các hoạt động văn hoá theo tinh thần Nghị Quyết của Chính phủ số 05/2005/NQ - CP
ngày 18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và
thể dục thể thao. Tác giả khóa luận đưa ra những đề xuất, kiến nghị, làm căn cứ
giúp ngành chức năng xây dựng kế hoạch, nghiên cứu đẩy mạnh phong trào xã hội
hóa các hoạt động văn hóa của tỉnh nhà, góp phần vào xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
7.
Kết
cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu
(06 trang), phần kết luận (04 trang), tài liệu tham khảo (03 trang), phần phụ
lục (13 trang), phần nội dung khóa luận gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận (06 trang)
Chương II: Xã hội hóa hoạt động văn hóa ở tỉnh
Bình Thuận (24 trang)
Chương III: Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa ở tỉnh
Bình Thuận (12 trang)
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái
niệm văn hóa, xã hội hóa, xã hội hóa hoạt động văn hóa.
1.1.1. Khái
niệm về văn hoá
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú và
đa dạng, có sức lan tỏa và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống
con người, Văn hóa có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau, tùy theo nghĩa
rộng hay nghĩa hẹp, tùy theo từng ngành, từng lĩnh vực hay từng khu vực.
Tổng giám đốc UNESSCO, ngài Federico Mayor Zaragoza nêu
ra một định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá là tổng thể sống động của các
hoạt động sáng tạo trong qúa khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [11 tr. 33].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[9 tr.14].
Theo GS.TS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội” [26 tr.10].
Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động
nào của con người dù đó là hoạt động sản xuất vật chất hay sản xuất tinh thần,
hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương
Đảng (khoá VIII) nêu ra quan điểm chỉ đạo cơ bản cũng là một khái niệm: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội” [9 tr.9]. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng
thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố của văn hóa phải gắn
kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị,
kinh tế, xã hội, luật pháp kỷ cương, biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất của phát triển.
Trước đây, chúng ta hiểu văn hoá một cách phiến diện:
coi văn hoá như một lĩnh vực hẹp, thuộc sự quản lý của một bộ, một ngành. Hoạt
động văn hoá thường được hiểu như một hoạt động có tính thời vụ nhằm tuyên
truyền cổ động cho một chủ trương chính sách, một phong trào. Thực ra văn hoá
gắn với tất cả các hoạt động nhằm phát triển và hoàn thiện con người, phát triển
và hoàn thiện xã hội. Như vậy, văn hoá trước hết là những hoạt động nhằm phát
huy những nhu cầu và năng lực tinh thần cơ bản của con người, tạo ra những
chuẩn mục, các giá trị nâng cao khả năng hiểu biết và sáng tạo của con người.
Theo cách hiểu hẹp hơn và được sử dụng thông thường và
khá phổ biến, khi tách giáo dục, khoa học ra thành các lĩnh vực, các ngành có
đặc thù riêng: văn hoá còn được coi chủ yếu là các loại hình hoạt động cụ thể của
ngành Văn hoá Thông tin như: bảo tàng, thư viện, xuất bản, báo chí, đời sống
văn hoá cơ sở, lễ hội, phong thục, tập quán, tín ngưỡng…và các loại hình sáng
tạo văn hoá, văn nghệ. Văn hóa là một lĩnh vực được coi là nhạy cảm nhất, mang
tính sáng tạo, là bước phát triển cao của xã hội loài người.
1.1.2. Khái
niệm về xã hội hoá
Xã hội hoá là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để phát triển kinh tế
- xã hội là một trong những biện pháp để chuyển từ nề kinh tế bao cấp sang kinh
tế thị trường. Đây cũng là vấn đề mới mẻ, bức xúc trong công tác quản lý Nhà
nước, cần được nghiên cứu thể chế hoá, tạo ra cơ chế phối hợp hành động để tập
hợp lực lượng phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng loạt ra quân, thống nhất chỉ đạo.
Xã hội hóa là một
khái niệm của nhân loại học và xã hội học được định nghĩa là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt
đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con người
và học hỏi các mẫu văn hóa của mình, xã hội hóa là một hoạt động hướng cho toàn xã hội tham gia
vào một lĩnh vực nào đó.
1.1.3. Xã
hội hoá hoạt động văn hóa
Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá có nghĩa là biến các hoạt động văn hoá trở thành của toàn xã hội,
được xã hội quan tâm tham gia hoạt động và nuôi dưỡng. Hoạt động văn hoá không
chỉ còn riêng của ngành văn hoá mà được sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp
và mọi tầng lớp nhân dân. Xã hội hoá càng phát tiển thì nhu cầu văn hoá của con
người càng cao. Văn hoá có tác động lớn trong sự phát triển, trong chiến lược
xây dựng con người. Qua thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy trong
phát triển nếu như không cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá
thì sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng trong đời sống tinh thần của xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO đề ra thập kỷ quốc tế về phát triển văn hoá và Việt
Nam
là nước hưởng ứng tích cực. Điều quan trọng là hiện nay chúng ta phải biến
những nhận thức này trở thành hiện thực trong cuộc sống. Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá là một trong những biện pháp tích cực để đưa văn hoá vào mọi lĩnh
vực trong cuộc sống xã hội, thúc đẩy vai trò của nó trong phát triển. Vì vậy,
chúng ta cần phải đi sâu phân tích tác động tích cực của vấn đề xã hội hoá đối
với các hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường, đưa ra những hình thức xã
hội hoá tốt, vừa giúp cho các hoạt động văn hoá thoát khỏi khó khăn, vừa làm
cho nó có chất lượng, thích hợp với điều kiện hoạt động mới.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa các hoạt
động văn hoá
Nghị Quyết của Chính phủ số 05/2005/NQ - CP ngày
18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể
dục thể thao đã nêu ra những quan điểm và định hướng như sau:
Thực hiện xã hội hoá nhằm
hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân
dân, huy động toàn bộ xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể
dục thể thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối
tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá,
thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh việc
hoàn thiện chính sách; tăng nguồn lực đầu tư đồng thời đổi mới mục tiêu, phương
thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư, tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các
chương trình quốc gia phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; hỗ
trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; ưu đãi các đối tượng
chính sách và trợ giúp người nghèo trên cơ sở đổi mới chế độ miễn, giảm phí
theo hướng công khai, hợp lí và cấp trực tiếp tới đối tượng thụ hưởng.
Tăng cường quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa. Tăng
đầu tư cho văn hóa, trong đó ưu tiên các vùng nghèo, miền núi, biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa và bảo tồn, tôn tạo, phát huy các di sản văn hóa và phi
vật thể.
Duy trì và phát triển dưới hình thức công lập đóng vai
trò chủ chốt trong sự nghiệp phát triện văn hóa đối với một số đoàn nghệ thuật
truyền thống và tiêu biểu, các bảo tàng, ban quản lý di tích, thư viện quốc
gia, thư viện tỉnh, thành phố, quận huyện, các đội thông tin, chiếu bóng lưu
động, các trường đào tạo nghệ thuật đỉnh cao, đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật
đầu ngành, cán bộ văn hóa nghệ thuật dân tộc thiểu số…
Có chính sách thu hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế,
các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hóa nhằm cung cấp,
phổ biến và tạo nhiều sản phẩm, tác phẩm, công trình, văn hóa có chất lượng,
dân tộc và hiện đại để không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Khuyến khích khôi phục và phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền
thống, các trò chơi dân gian của các dân tộc Việt Nam .
Có bước đi thích hợp trong việc xã hội hóa một số hoạt
động văn hóa chuyên ngành cho từng loại hình, vùng, miền, đặc biệt là tập trung
phát triển mạnh ở các vùng kinh tế phát triển bao gồm: hoạt động nghệ thuật,
đào tạo văn hóa nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản - in - phát hành, bảo tồn di sản
văn hóa, mỹ thuật - nhiếp ảnh, thư viện, dịch vụ bảo hộ quyền tác giả. Khuyến
khích phát triển các bảo tàng tư nhân.
Từng bước chuyển sang loại hình ngoài công lập các đoàn
nghệ thuật, các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật. Khuyến khích một số khoa
hoặc ngành đào tạo không chuyên sâu, có tính phổ thông, quần chúng của các
trường văn hóa nghệ thuật công lập tách ra để thành lập các cơ sở văn hóa nghệ
thuật ngoài công lập.
Khuyến khích các đơn vị, tổ chức ngoài công lập phối hợp
với các tổ chức công lập xây dựng đời sống văn hóa cơ sở theo định hướng của
Nhà Nước; xây dựng các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở ở xã, phường, thị
trấn, thôn, làng, ấp, bản, cơ quan, đơn vị theo nguyên tắc tự tổ chức, tự quản
lý và chịu sự quản nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
Tiểu kết chương 1
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú và đa
dạng có sức lan tỏa và thấm sâu trong toàn bộ trong đời sống xã hội và đời sống
con người. Văn hóa có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau tùy theo nghĩa
rộng hay nghĩa hẹp, tùy theo ngành, từng lĩnh vực hay khu vực. Với ý nghĩa đó, văn
hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người trong quan hệ giao tiếp ứng
xử xã hội hay từng thái độ ứng xử với thiên nhiên.
Đất
nước ta đang chuyển sang thời kì mới, thời kì phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và mở cửa quan hệ đa phương hóa, đa
dạng hóa với các nước trên thế giới. Thời kì mới đã tạo ra nhiều thuận lợi, cơ
hội nhưng không ít khó khăn thách thức và nguy cơ đặt ra trước mắt chúng ta
những đòi hỏi mới cần phải đáp ứng, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là nhằm biến các hoạt động văn hóa
trở thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm tham gia hoạt động và nuôi
dưỡng. Hoạt động văn hóa không chỉ còn riêng của ngành VHTT & DL mà được
tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp và mọi tầng lớp nhân dân.
Trong những năm gần đây, nhất là khi đất nước đổi mới thì vấn
đề xã hội hóa đã được xã hội quan tâm. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xã
hội hóa thể hiện trong các văn bản pháp quy, đó là các Nghị định 73/1999/NĐ - CP
ngày 19/08/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và Nghị quyết của Chính phủ số 05/2005/NQ - CP
ngày 18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa,
và thể dục thể thao.
Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát
huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn bộ xã hội chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục y tế, văn hóa, thể dục thể thao; thứ hai là tạo điều
kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính, người nghèo được hưởng
thụ thành quả giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
Chương II
XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA
Ở TỈNH BÌNH THUẬN
2.1. Tổng
quan về Bình Thuận
2.1.1. Vị
trí và đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị
trí
Tỉnh Bình Thuận là
một tỉnh duyên hải, có toạ độ địa lý:
Kinh độ: 1070 24’E - 1080 23’E
Vĩ độ: 10033’N - 11033’N
Đông và Đông Nam giáp
biển Đông, Bắc - Tây Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Đông - Đông Bắc giáp tỉnh Ninh
Thuận, Tây - Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Diện tích tự nhiên của
tỉnh khá rộng: 7.992 km2. Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng
bằng ven biển nhỏ hẹp. Địa hình hẹp ngang, kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây
Nam, phân hóa thành 4 dạng địa hình sau:
Đồi cát và cồn cát ven
biển chiếm 18,22% diện tích tự nhiên phân bố dọc ven biển từ Tuy Phong đến Hàm
Tân; rộng lớn nhất là ở Bắc Bình: dài khoảng 52 km, rộng 20 km. Địa hình chủ
yếu là những đồi lượn sóng. Đây là một trong những đặc điểm đặc thù thu hút du
lịch của tỉnh.
Đồng bằng phù sa chiếm
9,43% diện tích tự nhiên gồm: Đồng bằng phù sa ven biển ở các lưu vực từ sông
Lòng Sông đến sông Dinh, nhỏ hẹp, độ cao từ 0 – 12m. Đồng bằng thung lũng sông
La Ngà, độ cao từ 90 – 120m.
Vùng đồi gò chiếm 31,66%
diện tích, độ cao 30 – 50m kéo dài theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ Tuy Phong đến
Đức Linh. Vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích. Đây là những dãy núi của khối
Trường Sơn chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam từ phía bắc huyện Bắc Bình đến
đông bắc huyện Đức Linh. Cũng như các tỉnh ven biển miền Trung, Bình Thuận có
sự phân hóa địa hình theo hướng vuông góc với bờ biển. Đặc trưng nổi bật nhất
là tính phân bậc của địa hình, giảm dần theo hướng biển.
Tỉnh Bình Thuận có 01
thành phố, 01 thị xã và 08 huyện bao gồm Thành phố Phan Thiết, thị xã La Gi và
các huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Tánh
Linh, Đức Linh và huyện đảo Phú Quý. Bình Thuận có nhiều dân tộc sinh sống:
Kinh, Chăm, Hoa, K'Ho, Chơ Ro...
Địa hình chia làm 3
vùng: rừng núi, đồng bằng, ven biển. Có nhiều nhánh núi đâm ra biển, tạo nên
các mũi La Gàn, Mũi Nhỏ, Mũi Rơm, Kê Gà... Các con sông chảy qua Bình Thuận: La
Ngà, sông Quao, sông Công, sông Dinh. Tỉnh có quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam đi
qua, cách thành phố Hồ Chí Minh - một trung tâm văn hóa kinh tế lớn của đất
nước, khoảng 200 km.
2.1.1.2. Khí
hậu
Bình Thuận nằm ở vùng nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam nên khí hậu nóng, khô hạn, có nhiếu nắng và
gió, mùa khô kéo dài 6 tháng. Nhiệt độ trung bình hàng năm 26,50C -
27,50C. Lượng mưa trung bình thuộc dạng thấp nhất cả nước, chỉ có
800 – 1.600 mm / năm. Độ ẩm tương đối trung bình 79 – 85%. Tổng số giờ nắng
2.459giờ /năm.
Khí hậu trong vùng được chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa
và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu thường vào tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
2.1.2. Dân
số, dân cư, địa bàn cư trú
Dân số: dân số của cả ở tỉnh
Bình Thuận (tính đến cuối năm 2007) là: 1.165.599 người,
mật độ trung bình 150 người/km2.
Dân cư: tỉnh Bình Thuận có
27 dân tộc anh em cùng sinh sống, chủ yếu là người Kinh chiếm đại đa số 93,04%,
trong đó có 26 dân tộc thiểu số với trên 76 nghìn người, chiếm hơn 7% dân số
toàn tỉnh, dân tộc Chăm chiếm 2,82%, dân tộc Raglai chiếm 1,12%, dân tộc Hoa
chiếm 1.07% và 1,84% các dân tộc khác sinh sống cùng những phong tục, tập quán,
các ngành nghề truyền thống, lễ hội, các di tích văn hoá, lịch sử… đã tạo cho ở
tỉnh Bình Thuận nền văn hoá đặc trưng và đa dạng.
Địa bàn cư trú: người dân ở
tỉnh Bình Thuận sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau được phân bố theo địa bàn
dân cư khá tập trung, nguồn năng lực chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, một
phần sống bằng nghề đánh bắt và chế biến hải sản, số còn lại sống bằng nghề
khác nhau như: thương mại, thợ thủ công, công nhân viên chức…Nhân dân Bình
Thuận theo nhiều tôn giáo khác nhau như nhưng chủ yếu là đạo Phật và Công Giáo.
Về đơn vị hành chính tỉnh Bình
Thuận ( xem phụ lục số …), Bình Thuận hiện có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện:
Thành phố Phan Thiết, Thị xã La Gi, huyện gồm: huyện Tuy Phong, huyện Bắc Bình,
huyện Hàm Thuận Bắc, huyện Hàm Thuận Nam, huyện Tánh Linh, huyện Đức Linh,
huyện Hàm Tân, huyện Phú Quý. Thành phố Phan Thiết có 14 phường, 4 xã. Thị xã
La Gi có 5 phường, 4 xã. Huyện Tuy Phong có 2 thị trấn, 10 xã. Huyện Bắc Bình
có 2 thị trấn, 16 xã. Huyện Hàm Thuận Bắc có 2 thị trấn, 15 xã. Huyện Hàm Thuận
Nam
có 1 thị trấn, 12 xã. Huyện Tánh Linh có 1 thị trấn, 13 xã. Huyện Đức Linh có 2
thị trấn, 11 xã. Huyện Hàm Tân có 2 thị trấn, 8 xã. Huyện Phú Quý có 3 xã.
2.1.3. Đặc
điểm kinh tế xã hội
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, liền kề
với vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Diện tích tự nhiên 7.992 km2,
dân số khoảng 1.165.599 triệu người. Phía Bắc và Đông Bắc giáp Ninh Thuận, phía Tây
Bắc giáp Lâm Đồng, phía Tây giáp Đồng Nai và phía Tây Nam giáp Bà Rịa - Vũng
Tàu, phía Đông giáp biển Đông, bờ biển dài 192km. Tỉnh có 10 đơn vị hành chính
bao gồm: 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện. Thành phố Phan Thiết là trung
tâm văn hoá - chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Thuận.
Bình Thuận có vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế,
cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km, cách Bà Rịa Vũng Tàu 120 km, có Quốc lộ 1A,
Quốc lộ 55, Quốc lộ 28, đường sắt Bắc - Nam đi qua.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho tỉnh Bình Thuận nguồn tài
nguyên tương đối phong phú và đa dạng để phát triển ngành kinh tế biển, nông
lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, khai thác và đặc biệt là dịch vụ du lịch.
Tiềm năng du lịch: Là một tỉnh ven biển khí hậu quanh năm nắng ấm, nhiều bãi biển sạch đẹp, cảnh quan tự nhiên thơ mộng, giao thông thuận lợi. Nhiều khu vực ven biển có nhiều điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư, xây dựng phát triển du lịch ở các lĩnh vực như du lịch thể thao, nghỉ dưỡng biển, du thuyền, câu cá, sân golf, chữa bệnh… và các hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn khác. Bên cạnh đó Bình Thuận còn có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh nổi tiếng khác như Trường Dục Thanh, Mũi Điện - Khe Gà, Núi Tà Cú, khu du lịch hồ Hàm Thuận - Đa Mi, Tháp Chăm Pô Sah Inư, dinh Thầy Thím, chùa Hang vv...
Tiềm năng du lịch: Là một tỉnh ven biển khí hậu quanh năm nắng ấm, nhiều bãi biển sạch đẹp, cảnh quan tự nhiên thơ mộng, giao thông thuận lợi. Nhiều khu vực ven biển có nhiều điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư, xây dựng phát triển du lịch ở các lĩnh vực như du lịch thể thao, nghỉ dưỡng biển, du thuyền, câu cá, sân golf, chữa bệnh… và các hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn khác. Bên cạnh đó Bình Thuận còn có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh nổi tiếng khác như Trường Dục Thanh, Mũi Điện - Khe Gà, Núi Tà Cú, khu du lịch hồ Hàm Thuận - Đa Mi, Tháp Chăm Pô Sah Inư, dinh Thầy Thím, chùa Hang vv...
Năm 2008, tỉnh Bình Thuận đón trên 1,80 triệu lượt khách
(trong đó 10% khách quốc tế). Doanh thu du lịch đạt 1060 tỷ đồng, đạt 106,06%
kế hoạch năm, tăng 31.99% so với năm 2006.
Tiềm năng thuỷ sản: Bình Thuận có ngư trường rộng
52.000 km2, biển Bình Thuận là một trong những ngư trường lớn của cả nước, trữ
lượng hải sản từ 220 đến 240 ngàn tấn, phong phú về chủng loại với nhiều loại
hải sản đặc sản quý hiếm có giá trị kinh tế cao như tôm, điệp, sò lông, dòm,
bàn mai vv... Diện tích ven sông ven biển có khả năng phát triển nuôi tôm bán
thâm canh khoảng 1.000 ha. Các vùng ven biển và đảo có thể phát triển nuôi cá
lồng bè các loại hải đặc sản như cá mú, tôm hùm. Trên biển Đông, huyện đảo Phú
Quý rất gần đường hàng hải quốc tế, là điểm giao lưu Bắc Nam và ngư trường
Trường Sa, thuận lợi để phát triển ngành chế biến hải sản, phát triển dịch vụ
hàng hải, du lịch.
Nông - lâm nghiệp tỉnh Bình Thuận phát triển đa dạng,
toàn tỉnh có hơn 200 ngàn ha đất nông nghiệp, với các loại cây trồng chính là
lương thực, điều, cao su, thanh long... trong đó thanh long là sản phẩm nổi
tiếng, sản lượng hàng năm khoảng 140 ngàn tấn.
Công nghiệp tỉnh Bình Thuận phát triển khá ổn định, tăng
trưởng bình quân hàng năm khoảng 16 - 17%; công nghiệp chế biến xuất khẩu sử
dụng nguyên liệu lợi thế của địa phương có xu hướng phát triển nhanh. Một số
sản phẩm tăng khá như thuỷ sản chế biến, may mặc, vật liệu xây dựng, nước
khoáng, hàng thủ công mỹ nghệ. Nhiều sản phẩm truyền thống của địa phương tăng
nhanh về sản lượng và số lượng xuất khẩu như: hàng hải sản, nông sản chế biến,
hàng may mặc, sa khoáng.
Nguồn khoáng sản tương đối đa dạng với trữ lượng lớn.
Các loại khoáng sản chính như cát thuỷ tinh, đá Granit, sét Bentonit, nước suối
khoáng, sét làm gạch ngói, sa khoáng nặng, muối công nghiệp. Dầu khí là nguồn
tài nguyên gần bờ biển, có tiềm năng khai thác với các mỏ trữ lượng lớn như Sư
Tử Đen, Sư Tử Trắng, Sư Tử Nâu, Sư Tử Vàng, Rubi...
Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đã được cải thiện
đáng kể, cụ thể: hệ thống giao thông đã được cải tạo đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế. Các tuyến giao thông chính như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 55, Quốc lộ 28; ga
hành khách - du lịch Mương Mán đang xây dựng lại; cảng Phan Thiết, La Gi, Phan
Rí Cửa, Phú Quý; cảng tổng hợp Mũi Điện (Khe Gà) đang đầu tư xây dựng. Hiện nay
các địa bàn trong tỉnh đều có điện; nguồn cung cấp điện được bảo đảm từ lưới
điện quốc gia. Trung ương đã quy hoạch Bình Thuận có 2 trung tâm điện than Vĩnh
Tân và Sơn Mỹ, trong năm 2008 sẽ bắt đầu triển khai xây dựng khu tổ hợp điện
than tại Vĩnh Tân với công suất 4.400 MW. Hệ thống cấp nước đã được cải tạo, mở
rộng cung cấp đủ nước cho đô thị, khu du lịch, khu công nghiệp. Hệ thống thông tin
liên lạc thường xuyên được nâng cấp, mở rộng và hiện đại hoá.
Những năm gần đây tỉnh Bình Thuận cũng đã thu hút nhiều
nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư kinh doanh, đạt hiệu quả cao, góp
phần làm cho nền kinh tế của tỉnh ngày càng sôi động. Để không ngừng phát
triển, tỉnh Bình Thuận luôn xác định phải xây dựng một môi trường đầu tư - kinh
doanh thực sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh, đồng thời cần phải chuẩn bị tốt và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhanh chóng cải thiện hệ thống kết cấu hạ
tầng, thực hiện tốt chính sách thu hút đầu tư, thông thoáng, minh bạch và bảo
đảm tính nhất quán. Với chủ trương hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác, thân
thiện, cởi mở, tỉnh Bình Thuận hy vọng sẽ thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư
trong, ngoài nước quan tâm và đầu tư tại đây.
Văn
hóa thông tin - thể dục thể thao: mở rộng đa dạng hóa các hình thức thông tin,
tuyên truyền phổ biến rộng các chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước đến
với mọi tầng lớp dân. Mở rộng phủ sóng phát thanh và truyền hình; củng cố mạng
lưới truyền thanh cơ sở; đẩy mạnh phong trào văn hóa - văn nghệ quần chúng, đưa
văn hóa nghệ thuật về cơ sở, các vùng sâu, vùng xa.
Đầu
tư xây dựng các thiết chế văn hóa như Nhà Bảo tàng tổng hợp của tỉnh, khu vui
chơi giải trí thiếu nhi và một số bảo tàng đặc trưng khác. Tu sửa, nâng cấp một
số di tích lịch sử. Đến năm 2010 tất cả các thị trấn huyện lỵ có trung tâm văn
hóa thể thao, thư viện, và cụm văn hóa xã hoặc liên xã; giữ gìn và phát triển
các bộ môn nghệ thuật truyền thống, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và dân
gian.
Đẩy
mạnh và đưa cuộc vận động toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa đi vào
chiều sâu; phấn đấu đến 2005 có 85% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, 50%
số thôn, khu phố đạt tiêu chuẩn làng văn hóa, 100% cơ quan đơn vị đạt danh hiệu
nếp sống văn minh. Năm 2010 nâng lên trên 95% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn
hóa, trên 80% số thôn, khu phố đạt tiêu chuẩn làng văn hóa.
Vận động phong trào toàn dân tham gia tập luyện thể
dục thể thao, rèn luyện sức khỏe, thực hiện giáo dục thể chất bắt buộc trong
các trường học và lực lượng vũ trang để đảm bảo 15-20% dân số luyện tập thể dục
thể thao thường xuyên. Tiếp tục hoàn thiện Trung tâm thể dục thể thao của Tỉnh,
đầu tư xây dựng sân bóng đá mới của Tỉnh, nâng cấp các cơ sở vật chất phục vụ
hoạt động thể dục thể thao các huyện, thành phố. Chú trọng đào tạo tài năng thể
thao thành tích cao và xây dựng các đội tuyển của tỉnh để tham gia các giải khu
vực và toàn quốc.
2.1.4. Vài
nét về văn hóa truyền thống
Tỉnh Bình Thuận là địa phương
có một nền văn hóa đa dạng, mang đậm bản sắc văn hóa cộng đồng của nhiều dân
tộc đã chung sống lâu đời ở đây. Toàn tỉnh có 27 dân tộc anh em sinh sống đoàn
kết, gắn bó bên nhau, trong đó đông nhất là người Kinh chiếm hơn 90% dân số, kế
đó là người Chăm, Raglai, Hoa, K’Ho, Tày, Nùng...
Nền văn hóa dân gian thể hiện
qua nghệ thuật kiến trúc, lễ hội, trang phục, điệu múa, lời ca của các dân tộc
đến nay vẫn còn được lưu truyền và phát triển, trở thành di sản văn hóa quý giá
của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bình Thuận.
Trong đó, người Kinh có các lễ
hội Đua thuyền, lễ hội Dinh Thầy Thím, lễ hội Cầu Ngư với chèo Bả Trạo và hát
Bội; người Hoa có lễ hội Nghinh Ông; người Chăm có lễ hội Katê, Ramưwan vv... được
tổ chức hàng năm để thể hiện tín ngưỡng và sự biết ơn các vị thần, tổ tiên, ông bà đã phù
trợ cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống người
dân được ấm no hạnh phúc.
Ngoài ra, gần đây ở các địa
phương còn tổ chức thêm các Hội thi leo núi Tà Cú, chạy vượt đồi cát vào các
dịp Tết Âm lịch hàng năm, đêm hội rước đèn Trung Thu… tạo nên những hoạt động
văn hóa phong phú đa dạng, đậm đà bản sắc địa phương.
Nhìn chung văn hóa lễ hội ở tỉnh
Bình Thuận khá phong phú với nhiều loại hình khác nhau. Các lễ hội dân gian
như: Lễ hội KaTê (người Chăm), lễ hội Nghinh Ông (người Hoa), lễ hội Nghinh Ông
Nam Hải, Lễ cúng giỗ tổ chùa Cổ Thạch, lễ cúng tổ sư Trần Hữu Đức, lễ dinh Thầy
Thím; ngoài ra còn có các ngày lễ của các ngành nghề và lễ hội tôn giáo.
2.1.5. Các di tích văn hóa lịch sử
Tỉnh
Bình Thuận còn là nơi có nhiều di tích, danh lam, thắng cảnh như: Tháp PôshaInư
ở Thành phố Phan Thiết, Cổ Thạch Tự ở Tuy Phong, khu bảo tồn thiên nhiên Tà Cú
ở Hàm Thuận Nam, Dinh Thầy Thím ở La Gi, núi Ông biển Bạc ở Tánh Linh…Đặc biệt ở
Thành phố Phan Thiết có khu di tích Dục Thanh lịch sử. Nơi đây, Bác Hồ của
chúng ta đã dừng chân dạy học tại trường Dục Thanh vào năm 1910 trước khi Người
ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Bình Thuận cũng là nơi có truyền
thống văn hoá, văn nghệ dân gian lâu đời như.
2.2. Quá
trình thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở Bình Thuận
Bình Thuận là một
tỉnh đang trên đà phát triển mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng của thể chế
chính sách đối với việc phát triển nguồn lực.
Chính quyền tỉnh đã ban hành khá nhiều chủ trương chính sách, nhằm tạo
cơ chế thông thoáng, rõ ràng, minh bạch trong việc quản lý Nhà nước đối với các
hoạt động văn hoá. Tạo sự ưu đãi cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động xã hội hoá.
Đã gần 10 năm kể từ khi chủ
trương xã hội hoá ra đời, thế nhưng câu chuyện về đổi mới ở một số loại hình
vẫn còn gian nan và chưa làm yên lòng những người làm công tác quản lý văn hoá.
“Lấy thu bù chi” vẫn là câu nói cửa miệng của bất cứ lãnh đạo nào khi được hỏi
về quá trình xã hội hoá nghệ thuật. Lấy ngân sách Nhà nước để diễn vở cũ, xây
dựng vở mới và để “nuôi” đội ngũ nghệ sĩ, đó vẫn là cách làm có tính “truyền
thống” ở ta hiện nay. Việc kêu gọi tài trợ từ các nguồn lực xã hội là vấn đề
còn quá khó khăn. Một thực tế hiện nay cho thấy, quá trình xã hội hoá nghệ
thuật ở ta vẫn đang phát triển với các hình thức tự phát, nhỏ lẻ. Cơ chế “xin -
cho” kiểu hành chính nhà nước ảnh hưởng từ thời bao cấp đã ăn sâu trong tiềm
thức của một số nhà quản lý của không ít cán bộ, đảng viên, công chức viên chức.
Có lẽ, đây cũng là một trong những lý do khiến cho các chương trình nghệ thuật
huy động nguồn lực xã hội hoá gián đoạn. Sự bất cập trong việc hợp tác giữa một
số đơn vị quản lý văn hoá cấp địa phương với các đơn vị tổ chức sự kiện đã
khiến cho các “mạnh thường quân” chán nản khi bắt tay vào hợp tác. Trong lĩnh
vực nghệ thuật chuyên nghiệp, một trong những khó khăn nữa khiến cho quá trình
xã hội hóa diễn ra một cách chậm chạp trong thời gian qua là sự khan hiếm đội
ngũ diễn viên giỏi. Vẫn biết rằng, xã hội hoá là cơ hội để các nghệ sĩ tự tìm
lối đi cho mình, là dịp để các đơn vị nghệ thuật khẳng định thương hiệu. Do
vậy, làm thế nào giải quyết được một khối lượng lớn nghệ sĩ đã thuộc biên chế
của nhà nước tại các đơn vị nghệ thuật hiện nay vẫn là bài toán đau đầu của các
nhà quản lý.
Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch Trần
Chiến Thắng cho rằng: “Khó khăn nhất của quá
trình xã hội hoá nghệ thuật ở ta hiện nay đó chính là nhận thức. Nhiều người đã
nhầm hiểu rằng: xã hội hoá có nghĩa là tư nhân hoá các đơn vị nghệ thuật, cứ
xin được tiền tài trợ bên ngoài là xã hội hoá. Phải hiểu xã hội hoá nghệ thuật
chính là quá trình huy động các nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước nhằm bảo tồn
và phát triển các loại hình nghệ thuật. Thực hiện xã hội hoá sẽ góp phần giảm
bớt sự phụ thuộc của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn vào kinh phí bao cấp của
Nhà nước, tăng hiệu quả và trách nhiệm của nhà quản lý và các diễn viên”
[ 24 ]. Thứ
trưởng cũng cho biết: Trong thời gian tới Bộ sẽ tiếp tục đầu tư kinh phí nhằm
bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống như Chèo, Tuồng, Cải lương. Cần
phải phân chia rõ ràng lĩnh vực nghệ thuật để Bộ tập trung đầu tư, phải đảm bảo
song song việc giữ gìn, bảo tồn văn hoá truyền thống với quá trình tiếp thu có
chọn lọc các loại hình nghệ thuật hiện đại. Tuy nhiên vấn đề mấu chốt cũng là
mục tiêu đặt lên hàng đầu của Bộ trong thời gian tới đó là việc đào tạo đội ngũ
diễn viên và các nhà quản lý văn hoá. Phối hợp với các đoàn nghệ thuật tư nhân
có uy tín để đào tạo đội ngũ diễn viên giỏi đó là chủ trương của Bộ trong thời
gian tới, cũng chính là quá trình thực hiện xã hội hoá nghệ thuật một cách có
hiệu quả hơn.
2.2.1. Thuận lợi
Công tác
xã hội hóa hoạt động văn hóa luôn được sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ và UBND
tỉnh trong việc thực hiện Nghị Quyết số 05/2005/NQ - CP về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục,
y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
Các đơn vị, tổ chức, cá nhân
tham gia các hoạt động xã hội hoá lĩnh vực văn hoá được hưởng chính sách theo
quy định tại Nghị Định số 53/2006/NĐ - CP ngày 25/05/2006 của Chính phủ về
chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập và
các quy định khác có liên quan.
Đi cùng với việc thực hiện
Nghị Quyết số 05/2005/NQ - CP về đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao còn
có Nghị Định của Chính Phủ số 43/2006/NĐ - CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế về tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là những luận cứ pháp lý quan
trọng để các nhà quản lý chỉ đạo và tổ chức thực hiện xã hội hóa các hoạt động
văn hóa.
Ngoài ra, UBND tỉnh Bình Thuận
còn có Quyết định số 77/2006/QĐ - UBND về việc ban hành Đề án phát triển xã hội
hội hoá hoạt động văn hoá trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đến năm 2010.
2.2.2. Khó
khăn
Nhận thức về chủ trương xã hội
hoá của các cấp, các ngành và trong một
bộ phận cán bộ đảng viên, các nhà quản lý và trong các tầng
lớp nhân dân còn hạn chế, không đồng đều. Cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hoá
còn thiếu thốn, lạc hậu chưa đáp ứng kịp với nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân
dân trong thời kỳ mới.
2.3. Thực
trạng
và dự báo
2.3.1. Thực
trạng xã hội hóa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là
một trong những giải pháp lớn để thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII)
với mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về
thực chất phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong
những biện pháp hữu hiệu để thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa. Phong trào
này lan tỏa sâu rộng vào mọi tầng lớp xã hội. Về nông thôn với phong trào xây
dựng thôn, buôn, bàn làng văn hóa. Về thành thị với phong trào khu phố, phường
văn hóa. Hệ thống chính trị với phong trào xây dựng cơ quan đơn vị, lực lượng
vũ trang, nhà trường, bệnh viện văn hóa... Phong trào này đòi hỏi mọi giai tầng
xã hội từ cán bộ công chức viên chức đến nông dân, từ thầy giáo đến học sinh,
người giàu đến người nghèo đều phải tham gia. Vì vậy, hiệu quả xã hội hóa hoạt
động văn hóa trong phong trào phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa là rất lớn, chứa đựng những giá trị xã hội vô hình không cân đong đo
đếm được.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã
phát triển rộng khắp ở tất cả các địa phương trong cả nước và thu được những
kết quả cụ thể.
Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, nhà
truyền thống, thư viện, công viên, khu vui chơi giải trí, sân thể thao... thời
gian qua được địa phương chú trọng xây dựng theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tuy nhiên, để hệ thống này phát
huy hiệu quả thì phải có nhiều hoạt động văn hóa phong phú, đa dạng lôi cuốn
đông người tham gia. Nhà văn hóa làng xã thật sự trở thành nơi sinh hoạt văn
hóa văn nghệ thường xuyên của nhân dân. Ở các địa bàn vùng núi, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số các nhà văn hóa thường xuyên là nơi giao lưu gặp gỡ của đồng
bào các dân tộc, là nơi biểu diễn những tiết mục nghệ thuật độc đáo đậm đà bản
sắc. Một số nơi đã phối hợp các hoạt động du lịch làm cho hệ thống thiết chế
văn hóa trở nên hấp dẫn hơn.
Khi nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân ngày càng cao
cũng rất cần nâng cấp cơ sở vật chất của hệ thống thiết chế văn hóa. Những
thiết chế văn hóa này cần được xây dựng khang trang, cần được đầu tư trang thiết
bị hiện đại để trở thành nơi tổ chức thường xuyên các hoạt động văn
hóa bổ ích cho từng khu dân cư. Như vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ văn hóa cơ
sở không ngừng đi sâu đi sát đời sống nhân dân, nâng cao trình độ nghiệp
vụ chuyên môn và năng lực sáng tạo.
Bản thân phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa đã mang tính xã hội hóa bởi lẽ yêu cầu của nó đòi hỏi tất cả các
cơ quan, đơn vị, trường học, khu dân cư, khu phố, thôn, bản... và tất cả
mọi người cùng tham gia. Ðẩy mạnh xã hội hóa không chỉ giải quyết
vấn đề tài chính, xây dựng cơ sở vật chất mà còn tạo ra ý thức tự nguyện tham
gia phong trào của mỗi người, của tất cả thành phần trong xã hội.
Muốn đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết các hình thức hoạt
động văn hóa phải gắn với nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân. Tổ chức lễ hội truyền
thống đáp ứng nhu cầu của sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân cho nên
việc xã hội hóa thu được kết quả rõ rệt. Nhân dân sẵn sàng đóng góp công sức,
tiền của để tôn tạo đình chùa miếu mạo, nhiều di tích lịch sử văn hóa được nhân
dân bảo vệ và đóng góp hàng tỷ đồng để nâng cấp. Tổ chức tốt các hình thức,
phương pháp hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, lễ hội truyền thống
và vui chơi giải trí phù hợp các đối tượng, tầng lớp nhân dân ở cơ sở, phát huy
vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân trong sinh hoạt văn hóa chính là cơ sở
để thúc đẩy phong trào xã hội hóa.
Một hướng xã hội hóa nữa cũng rất quan trọng là vận động
các cơ quan, doanh nghiệp, doanh nhân, những người hảo tâm trên địa bàn tham
gia đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng, xây dựng thiết chế văn hóa, thể
dục thể thao ở cộng đồng, xây dựng các quỹ hỗ trợ người nghèo, những người có
hoàn cảnh khó khăn, những gia đình chính sách có công với cách mạng. Tích cực
vận động có hiệu quả phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nâng cao phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa để văn hóa thật sự là của nhân dân, của toàn xã
hội đóng góp tích cực vào việc nâng cao dân trí, xây dựng con người mới, tạo
dựng nền tảng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực
hiện công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa, tỉnh Bình Thuận đã huy động trong
nhân dân hàng trăm tỷ đồng, góp phần thiết thực tổ chức nhiều loại hình hoạt
động văn hóa - văn nghệ lành mạnh dưới nhiều hình thức, quy mô và cấp độ khác
nhau, từng bước đáp ứng nhu cầu chính đáng, đa dạng của nhân dân địa phương.
Tuy chưa thật sự trở thành một phong trào rầm rộ, nhưng việc xã hội hóa các
hoạt động văn hóa đã góp phần kích thích sự phát triển lành mạnh, đúng hướng
của nhiều loại hình hoạt động văn hóa nghệ thuật ở tỉnh Bình Thuận trong thời
gian qua, đem lại hiệu quả xã hội khá tốt, tạo được sự đồng tình và nhất trí
cao giữa Nhà nước và nhân dân.
2.3.2. Trên lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng
Hiện
nay, toàn tỉnh có khoảng 300 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 24 di tích đã
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận Di tích lịch sử - văn
hóa quốc gia và 03 di tích được UBND Tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh. Thực hiện
chủ trương xã hội hóa, trong những năm qua nhiều đơn vị, tổ chức và cá nhân
trong tỉnh đã hiến tặng và trao đổi với bảo tàng tỉnh hàng ngàn hiện vật có giá
trị về nhiều mặt, bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Đối với việc trùng tu,
tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, chỉ tính riêng di tích Dinh Thầy Thím (xã
Tân Tiến - Thị xã La Gi), hàng năm Ban quản lý Dinh đã thu được từ 500 đến 800
triệu đồng. Ban quản lý Dinh đã đầu tư trên 2,5 tỷ đồng để làm đường nhựa vào
Dinh và sửa chữa chánh điện, nhà Tiền hiền, Hậu hiền và nhà Võ Ca, tạo bộ mặt
khang trang cho di tích để phục vụ tốt nhu cầu tham quan, thăm viếng của du
khách.
Nhân
dân các khu phố Xuân An, Xuân Hội, thôn Bình Lễ (Thị trấn Chợ Lầu, xã Phan Rí
Thành, huyện Bắc Bình), Phú Hội (xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc), xã Bình
Thạnh (huyện Tuy Phong) đã đóng góp hàng trăm triệu đồng để cùng Nhà nước chống
xuống cấp các di tích Đình Xuân An, Xuân Hội, Đông An, Phú Hội, Bình An. Một số
xã khác trong tỉnh cũng đã đóng góp kinh phí và ngày công lao động cùng Nhà
nước làm bia nghi danh anh hùng liệt sĩ ở địa phương, thiết thực giáo dục
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.
2.3.3. Trên lĩnh vực xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã trở thành một cuộc vân
động cách mạng được đông đảo cán bộ, nhân dân đồng tình và hưởng ứng mạnh mẽ.
Tính đến cuối năm 2007, toàn tỉnh đã có 543/649 điểm đang trong quá trình xây
dựng Thôn - Khu phố văn hóa với quy mô khá đa dạng, góp phần thiết thực tạo ra
chuyển biến rõ nét trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nông thôn
cũng như ở thành thị, ở miền núi, vùng cao, hải đảo cũng như ở đồng bằng.
Tuy
mức độ đóng góp dưới hình thức xã hội hóa của các Thôn - Khu phố trong tỉnh
không giống nhau nhưng nét nổi bật là hầu hết nhân dân trong các Thôn - Khu phố
văn hóa đều tự nguyện đóng góp sức người, sức của tham gia xây dựng cộng đồng
nơi mình cư trú, tạo sự chuyển biến khá toàn diện về mọi mặt. Tính từ khi phát
động đến nay, phong trào đã huy động sự đóng góp của nhân lên đến hàng chục tỷ
đồng .
Mặt khác, hoạt động xã hội hóa
đã tác động tích cực đến việc hình thành các “sân chơi văn hóa” một cách tự
giác, hơn 30 tụ điểm ca nhạc, “Hát với nhau” khắp nơi trong tỉnh với số vốn đầu
tư bình quân cho mỗi tụ điểm là hàng chục triệu đồng trở lên. Trong đó Thị xã
La Gi có hơn 10 tụ điểm; đặc biệt có 1 hộ tư nhân đầu tư gần 1 tỷ đồng để xây
dựng điểm cà phê ca nhạc với cơ sở khang trang, trang thiết bị âm thanh, ánh
sáng khá hiện đại phục vụ tốt nhu cầu ca hát lành mạnh của thanh niên địa
phương. Ở thôn văn hóa Bình Lễ (xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình) một hộ tư
nhân đầu tư 600 triệu đồng để xây dựng tụ điểm câu lạc bộ hát với nhau, thu hút
đông đảo thanh niên của 02 huyện Bắc Bình và Tuy Phong đến tham gia sinh hoạt.
Hoạt
động “hát với nhau” do Trung tâm Văn hóa tỉnh Bình Thuận tổ chức hàng tuần đã
nhanh chóng đáp ứng nhu cầu yêu thích ca hát của giới trẻ. Sân chơi ấy đã trở
thành điểm hẹn văn hoá quen thuộc, không thể thiếu được của đối tượng thanh
niên. Tại huyện đảo Phú Quý, dù cách xa đất liền gần 120 km và còn khó khăn,
thiếu thốn nhiều mặt nhưng nhờ áp dụng phương châm xã hội hoá nên hiện nay
huyện đã xây dựng được 7 tụ điểm ca nhạc hát với nhau. Có chương trình hoạt
động định kỳ hàng tuần với số vốn đầu tư bình quân từ 20 đến 50 triệu đồng cho
mỗi tụ điểm.
Sôi
nổi nhất là hoạt động liên hoan, hội thi, hội diễn được tổ chức ở các cấp, các
ngành trên cơ sở phối hợp giữa ngành văn hoá và các tổ chức đoàn thể xã hội như
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, Hội Cựu Chiến Binh,
Liên Đoàn Lao Động, Đài Phát Thanh Truyền Hình và các sở ngành như Giáo dục - Đào
tạo, Y tế, Bưu điện. Bộ chỉ huy quân sự, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Thuỷ sản, Xây dựng, Giao thông vận tải. Bình quân mỗi cuộc liên hoan, hội thi,
hội diễn các cấp, các ngành từ 70 đến 100 triệu đồng, trong đó phần đóng góp
của các đơn vị cơ sở để xây dựng chương trình về tham gia ở cấp tỉnh, cấp ngành
từ 20 đến 30 triệu đồng cho mỗi chương trình. Đó là chưa kể đến các hoạt động
văn hoá nghệ thuật diễn ra hàng háng, hàng quý dưới hình thức cây nhà lá vườn ở
các thôn khu phố văn hoá trên địa bàn toàn tỉnh, hàng năm đã huy động các cổ
động viên, các nhà mạnh thường quân đóng góp hàng chục triệu đồng ở mỗi địa bàn
cơ sở.
2.3.4. Trên lĩnh vực hội chợ - triển lãm và tổ chức các lễ hội văn
hoá
Thời
gian qua, nhiều đơn vị, công ty trong tỉnh, ngoài tỉnh phối hợp với ngành văn
hoá và các sở, ngành hữu quan tổ chức các hội chợ - triển lãm, các lễ hội văn
hoá nhằm quảng bá, giới thiệu về tiềm năng phát triển kinh tế - văn hoá của tỉnh
Bình Thuận, bước đầu thu hút được sự chú ý của các tỉnh bạn trong khu vực Miền
Đông Nam Bộ và cả nước đến với tỉnh Bình Thuận. Trong số này, các lễ hội Bình
Thuận - Hội Tụ Xanh, lễ hội Nghinh Ông của người Hoa Phan Thiết đã bước đầu tạo
được ấn tượng tốt đẹp đối với đông đảo khách tham quan du lịch đấn với tỉnh Bình
Thuận.
2.3.5. Trên lĩnh vực dịch vụ băng đĩa
nhạc, băng đĩa hình
Vận
dụng hình thức xã hội hoá trên lĩnh vực kinh doanh băng đĩa hình, Trung tâm
phát hành phim và chiếu bóng tỉnh đã tổ chức liên kết và ký hợp đồng với hơn 20
cửa hàng, đại lý đã huy động vốn đầu tư của tư nhân hơn 500 triệu đồng. Đối với
hoạt động phổ biến phim, ngoài mạng lưới đội - rạp do Trung tâm phát hành phim
và chiếu bóng quản lý kinh doanh, hiện nay toàn tỉnh có gần 200 điểm cà phê video
do tư nhân bỏ vốn đầu tư với mức kinh phí mỗi điểm bình quân là 10 triêụ đồng,
đã thu hút một lượng người xem đáng kể tại các địa bàn dân cư.
2.3.6.
Trên lĩnh vực kinh doanh sách - văn hoá phẩm, quảng cáo, in lụa
Sau
khi thực hiện chương trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận không còn cơ quan
phát hành xuất bản phẩm của Nhà nước. Hoạt động phát hành xuất bản phẩm chủ yếu
tập trung vào Công ty cổ phần sách - Dịch vụ văn hoá Bình Thuận, công ty Cổ
phần sách - Thiết bị trường học, Nhà sách Phương Nam - trực thuộc công ty Cổ
phần sản xuất kinh doanh vật phẩm Văn Hoá Phương Nam - thành phố Hồ Chí Minh.
Thời gian qua, các đơn vị nêu trên đã thiết thực góp phần phục vụ nhu cầu đọc
sách của cán bộ và nhân dân trong tỉnh, được đông đảo cán bộ, nhân dân đồng
tình.
Ngoài
hoạt động của các đơn vị nói trên, toàn tỉnh còn có gần 70 điểm kinh doanh sách
- văn hoá phẩm của tư nhân với số vốn đầu tư từ 25 đến 30 triệu đồng/cơ sở (quy
mô nhỏ) đến 100 đến 150 triệu đồng/cơ sở (quy mô vừa). Nhờ vậy, đã góp phần
chuyển tải đến đông đảo bạn đọc một khối lượng sách, báo, văn hoá phẩm đáng kể.
Trong
3 cơ sở tráng rọi ảnh màu do tư nhân đầu tư, có 2 cơ sở vốn đầu tư lên đến hàng
tỷ đồng. Thời gian qua, các cơ sở ảnh tư nhân nói trên đã phục vụ tốt nhu cầu
về ảnh của nhân dân, đặc biệt là trong những dịp lễ, tết cổ truyền của dân tộc.
Toàn
tỉnh có hơn 200 cửa hàng và hàng trăm thợ chụp ảnh với số vốn đầu tư bình quân
mỗi cửa hàng là 15 triệu đồng trở lên. Bên cạnh bộ phận hoạt động quảng cáo
trực thuộc công ty cổ phần sách.
Về dịch vụ văn hoá, ở Bình Thuận còn có một số
cơ sở quảng cáo quy mô vừa như công ty TNHH Thanh Mai, công ty TNHH quảng cáo
dịch vụ tổng hợp Thái Bình Dương với mức vốn đầu tư lên đến 300 triệu đồng/cơ
sở. Đó là chưa kể hàng chục điểm kẻ vẽ biển, bảng hiệu, in lụa...do các hộ tư
nhân đăng ký hoạt động trên phạm vi toàn tỉnh.
2.3.7.
Trên lĩnh vực hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp
Trong vài năm trở lại đây,
cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động của các đoàn nghệ
thuật chuyên nghiệp nhà nước ngày càng gặp nhiều khó khăn. Nhiều đoàn nghệ
thuật đã phải chuyển đổi, hoặc giải thể, hoặc sát nhập. Trước kia, các đoàn đều
có bộ phận tổ chức biểu diễn, tự bán vé, tự cân đối thu chi. Ngày nay, đoàn
nghệ thuật nào cũng phải đi tìm hình thức xã hội hóa cho mình. Đoàn ca múa nhạc
Biển Xanh tỉnh Bình Thuận cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Thời gian gần
đây, đoàn ít tự tổ chức đi biểu diễn bán vé mà phải phối hợp với các ngôi sao
ca nhạc. Nếu không có ngôi sao ca nhạc, đoàn dù có đi rao loa quảng cáo cũng không
hiệu quả. Vì vậy, việc xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp là một
việc làm cần thiết.
2.3.8.
Dự báo
Trong thời kỳ phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế, một mặt vẫn phải đảm bảo tính định hướng văn
hóa của Đảng, mặt khác vẫn phải theo xu thế xã hội hóa. Nhu cầu sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực
cho phát triển văn hóa.
Một số lĩnh vực họat động kinh
doanh, hoạt động văn hóa sẽ chuyển dần từ công lập sang ngoài công lập những
loại hình có lợi nhuận như: các dịch vụ vui chơi giải trí, các hình thức hoạt
động văn hóa trong các Khu du lịch, di tích, danh lam thắng cảnh, kinh doanh
sách báo, văn hóa phẩm, vật lưu niệm, các loại hình internet, cà phê, quán bar,
phòng trà ca nhạc v.v…
Nhân dân sẽ hưởng ứng phong
trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, cùng nhau đóng góp xây dựng và tổ chức
hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở từ nông thôn đến thành thị, trong các
cơ quan Nhà nước.
Riêng việc xã hội hóa các hoạt
động văn hóa phi lợi nhuận như thư viện, bảo tàng, điện ảnh, nhà văn hóa, xây
dựng đời sống văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở, nghệ thuật biểu
diễn v.v…của các tổ chức, cá nhân ngoài công lập sẽ không phát triển mạnh.
2.4. Kết quả đạt được
Qua một thời gian thực
hiện, xã hội hoá hoạt động văn hóa bước đầu đã thu được kết quả đáng khích lệ.
Ngành Văn Hóa - Thể Thao và Du Lịch đã phối hợp với các ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội, nhất là với các Hội sáng tạo văn học nghệ thuật và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp huy động được nhiều lực lượng xã hội tham gia, tạo được
nhiều nguồn lực đáng kể cho phát triển văn hóa. Nhờ đó, nhiều sản phẩm văn hóa,
nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng phát triển về cả số lượng và chất
lượng. Sự phát triển xã hội hoá văn hóa trong những năm qua về cơ bản là đúng
định hướng. Điều đó chứng tỏ chủ trương xã hội hoá văn hóa của Đảng và Nhà nước
là đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển, hội nhập.
Tình
hình triển khai thực hiện công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá thời gian qua đã thu được những kết quả đáng
khích lệ, thể hiện rõ trên các mặt sau đây: nhận thức về chủ trương xã hội hoá
của các cấp, các ngành và trong các tầng lớp nhân dân đã được nâng lên một bước,
tạo chuyển biến tích cực ban đầu.
Xã
hội hóa hoạt động văn hóa đã len lõi vào mọi tầng lớp xã hội. Đã xuất hiện
nhiều tấm gương tập thể cá nhân năng động và sáng tạo. Xã hội hóa phần nào đã
làm giảm chi ngân sách nhà nước, tạo nguồn thu, làm cho mọi người, mọi tầng lớp
tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Một
số địa phương, đơn vị và cá nhân có tâm huyết, năng động, sáng tạo trong quá
trình vận dụng và thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hoá ở cơ sở.
Phong
trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở nhìn chung có nhiều chuyển biến rõ nét.
Thông qua việc khai thác và huy động tiềm năng của xã hội trên lĩnh vực văn hoá,
bước đầu đã góp phần giảm bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước trên lĩnh vực
đầu tư cho hoạt động văn hoá ở cơ sở, mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho những
năm tới.
2.5. Những mặt hạn chế, thiếu sót
Nhìn chung, hoạt động xã hội
hoá trên lĩnh vực văn hoá ở tỉnh Bình Thuận thời gian qua còn mang nhiều yếu tố
tự phát, chưa có sự chỉ đạo thống nhất, chưa có định hướng chiến lược, do đó
chưa có nhiều tổ chức, cá nhân mạnh dạn bỏ vốn đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hoá phục vụ nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của đông đảo nhân dân trong Tỉnh.
Việc sắp xếp, đổi mới, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp của Nhà nước thuộc ngành theo hướng xã hội hóa triển khai chậm.
Công tác xã hội
hoá văn hóa phát triển không đồng đều giữa các vùng và giữa các lĩnh vực. Các
hoạt động văn hóa ngoài công lập thường hình thành và phát triển chủ yếu ở các
lĩnh vực dễ tìm kiếm lợi nhuận như các dịch vụ in, kinh doanh văn hóa phẩm,
internet, karaoke, bán và cho thuê băng đĩa, cà phê, bar ca nhạc, vũ trường
v.v…Việc chạy theo lợi nhuận đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực làm ảnh
hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
2.5.1.
Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức: tư duy,
thói quen bao cấp vẫn còn khá phổ biến trong lãnh đạo các cấp, các ngành và
trong các tầng lớp nhân dân. Tư tưởng một bộ phận cán bộ quản lý các cấp còn có
“dị ứng” với các thành phần kinh tế ngoài công lập khi họ tham gia vào tổ chức
kinh doanh dịch vụ văn hóa. Thậm chí còn coi họ như là đối tượng để kiểm tra,
xử lý hơn là bạn đồng hành cùng tổ chức hoạt động văn hóa.
Với tư tưởng xã hội hóa các hoạt động
văn hóa là Nhà nước giảm chi ngân sách cho văn hóa. Một bộ phận cán bộ đảng
viên đã quen với quản lý theo kiểu bao cấp muốn yên ổn, Nhà nước cấp bao nhiêu
làm bấy nhiêu, quen sống dựa vào đồng lương, ngại bung ra những hoạt động có
thu.
Đa phần lãnh đạo các đơn vị văn hóa là
văn nghệ sĩ thiếu hiểu biết về những hoạt động liên quan đến kinh tế, tính toán
lỗ lãi trong hoạt động có thu.
Ở
một số lĩnh vực kinh doanh chuyên ngành do tư nhân bỏ vốn đầu tư cũng chỉ dừng
lại ở mức vừa và nhỏ, đồng thời cũng chỉ mới chú trọng đến hiệu quả kinh tế,
chưa tính đến và chưa quan tâm một cách thực sự đến hiệu quả xã hội.
Tâm
lý trông chờ, ỷ lại, thụ động vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, đơn vị cũng
là nhân tố góp phần hạn chế tính năng động, sáng tạo trong quá trình thực hiện
xã hội hoá hoạt động văn hoá ở cơ sở.
Công tác quản lý,
chỉ đạo còn bị động, chậm đổi mới, lúng túng, có mặt bất cập, thiếu cơ chế,
chính sách trong việc triển khai xã hội hóa.
2.5.2.
Nguyên nhân khách quan
Văn hóa là lĩnh
vực nhạy cảm, mang tính định hướng tư tưởng nên việc quản lý chỉ đạo gặp khó
khăn, chưa lường hết được những mặt trái nảy sinh trong quá trình thực hiện xã
hội hoá hoạt động và những phức tạp của cơ chế thị trường.
Sự chỉ đạo, định
hướng chiến lược còn mang tính khái quát, thiếu quy hoạch, kế hoạch, còn mang
tính tự phát, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Một số lĩnh vực có
liên quan đến hoạt động văn hóa do tổ chức, cá nhân ngoài công lập bỏ vốn đầu
tư chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ và chủ yếu là những lĩnh vực mà ngành văn hóa đã
bãi bỏ việc cấp giấy phép, tư nhân dễ lách luật pháp.
Điều
kiện kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, nguồn lực, nguồn vốn của nhân dân
khi tham gia vào xã hội hoá hoạt động văn hoá còn hạn chế.
2.6. Những bài học kinh nghiệm bước đầu
Từ
những kết quả đã đạt được trên một số lĩnh vực chuyên ngành cũng như tồn tại và
hạn chế, thiếu sót cần phải ra sức khắc phục trong hoạt động xã hội hoá ở địa
phương, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm bước đầu như sau:
Phải
thường xuyên tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền dưới nhiều hình thức
phong phú và đa dạng để làm cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh nhận thức một
cách đầy đủ và toàn diện về ý nghĩa, tầm quan trọng và lợi ích thiết thực của
Chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hoá.
Phải
có chính sách ưu đãi một cách rõ ràng, cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân có
tâm huyết, có khả năng tham gia hoạt động xã hội hoá thông qua các chương trình
kế hoạch có tính khả thi, được phổ biến một cách công khai, minh bạch trên các
phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức tuyên truyền khác.
Nhà
nước cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hóa hiện
đại để tạo điều kiện cho các nhà quản lý văn hóa có điều kiện tổ chức thực hiện xã hội hóa các loại hình
hoạt động văn hóa.
Tăng
cường kiến thức quản lý kinh tế cho các nhà quản lý ngành văn hóa.
Nhà
nước phải đẩy mạnh cải cách hành chính đối với việc xem xét các hồ sơ thủ tục
liên quan đến hoạt động xã hội hoá một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn hoá
công cộng trên địa bàn toàn tỉnh.
Tiểu kết chương 2
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, liền kề với vùng kinh tế
trọng điểm phía nam. Bình Thuận có nhiều thuận lợi địa kinh tế, địa văn hóa, có
nền văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Raglai.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho tỉnh Bình Thuận nguồn tài nguyên tương đối phong
phú và đa dạng để phát triển ngành kinh tế biển, nông lâm nghiệp, công nghiệp
chế biến, khai thác và đặc biệt là dịch vụ du lịch.
Bình Thuận có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh nổi
tiếng khác như Trường Dục Thanh, Mũi Điện - Khe Gà, Núi Tà Cú, khu du lịch
hồ Hàm Thuận - Đa Mi, Tháp Chăm Pô Sah Inư, dinh Thầy Thím, chùa Hang. Đó là
những điều kiện thuận lợi để Bình Thuận thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn
hóa.
Trong những năm qua, tỉnh Bình Thuận
đã huy động trong nhân dân hàng trăm tỷ đồng, góp phần thiết thực tổ chức nhiều
loại hình hoạt động văn hóa - văn nghệ lành mạnh dưới nhiều hình thức, quy mô
và cấp độ khác nhau, từng bước đáp ứng nhu cầu chính đáng, đa dạng của nhân dân
địa phương. Tuy chưa thật sự trở thành một phong trào rầm rộ, nhưng việc xã hội
hóa các hoạt động văn hóa đã góp phần kích thích sự phát triển lành mạnh, đúng
hướng của nhiều loại hình hoạt động văn hóa nghệ thuật ở tỉnh Bình Thuận trong
thời gian qua, đem lại hiệu quả xã hội khá tốt, tạo được sự đồng tình và nhất trí
cao giữa Nhà nước và nhân dân.
Qua một thời gian thực hiện, công tác xã hội hoá
hoạt động văn hóa bước đầu đã thu được kết quả đáng khích lệ. Ngành VHTT&DL
đã phối hợp với các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, nhất là với các Hội sáng
tạo văn học nghệ thuật và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp huy động được nhiều
lực lượng xã hội tham gia, tạo được nhiều nguồn lực đáng kể cho phát triển văn
hóa. Nhờ đó, nhiều sản phẩm văn hóa, nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa cộng
đồng phát triển về cả số lượng và chất lượng. Sự phát triển xã hội hoá văn hóa
trong những năm qua về cơ bản là đúng định hướng. Điều đó chứng tỏ chủ trương
xã hội hoá văn hóa của Đảng và Nhà nước là đúng đắn, phù hợp với xu thế phát
triển, hội nhập.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng kể, phong
trào xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở Bình Thuận vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế trên nhiều lĩnh vực. Những hạn chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân khách quan và cả những nguyên nhân chủ quan. Cần có những
nghiên cứu sâu để rút ra những bài học kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để tìm
ra những giải pháp đẩy mạnh phong trào xã hội hóa hoạt động văn hóa ở Bình
Thuận trong những năm tiếp theo.
Chương
III
ĐẨY
MẠNH PHONG TRÀO XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG
VĂN HÓA Ở BÌNH THUẬN
3.1. Định hướng thúc đẩy phong trào xã hội hoá các hoạt động
văn hoá.
Thực hiện xã hội
hóa các hoạt động văn hóa
nhằm huy động mọi tiềm năng trí tuệ và vật chất của toàn xã hội đầu tư vào các
hoạt động văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo ngày càng cao của nhân
dân, đồng hành cùng sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập của đất nước. Xã hội hóa các hoạt động
văn hóa nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu, định hướng của Đảng về văn hóa.
Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế và tăng
cường quản lý văn hóa bằng cách hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng nguồn lực
đầu tư, tăng cường lực đầu tư cho các mục tiêu ưu tiên, chương trình quốc gia
về phát triển văn hóa, ưu tiên vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số có nhiều khó khăn.
Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp (công lập)
thuộc ngành VHTT & DL sang cơ chế cung ứng dịch vụ công ích có đầy đủ quyền
tự chủ về tổ chức, quản lý và hoạch toán chi phí, cân đối thu chi theo Nghị
định 43/NĐ - CP/2006.
Xã hội hóa các hoạt động văn
hóa cần có bước đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng, miền; Trước mắt chú
trọng phát triển mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa tại đô thị Phan Thiết và
các thị xã, thị trấn trong tỉnh.
Thực hiện xã hội hóa văn hóa là nhằm huy động mọi tiềm năng trí tuệ và vật
chất của toàn xã hội chăm lo đến hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú
của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng
chính sách được hưởng thụ văn hóa ở mức độ ngày càng cao trong thời kỳ CNH -
HĐH và hội nhập quốc tế.
Có chính sách khuyến khích phát
triển mạnh các cơ sở ngoài công lập: cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội,
đoàn thể được đầu tư tham gia vào hầu hết các hoạt động văn hoá (trừ việc thành
lập nhà xuất bản, cơ quan báo chí và đội thông tin lưu động). Nhà nước khuyến
khích và có chính sách ưu đãi khi đầu tư vào các hoạt động văn hoá then chốt
góp phần định hướng chính trị - tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ và giá trị xã hội;
vào lĩnh vực bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá, các loại hình nghệ thuật
truyền thống, dân gian phù hợp với phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục của
dân tộc.
Phát triển xã hội hóa các
hoạt động văn hóa phải đi đôi với việc tăng cường quản lý Nhà nước, đẩy mạnh
việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa để đảm bảo cho phát triển văn
hóa - thông tin đúng định hướng của Đảng.
Quá trình quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa cần có bước đi
thích hợp cho từng loại hình, từng vùng, miền; trước mắt chú trọng phát triển
mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở các thành phố, thị xã, thị trấn.
3.2. Giải pháp
Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức xã hội hóa. Có các hình thức tuyên truyền đổi mới nhận thức từ
trong đội ngũ đảng viên, cán bộ, viên chức trong ngành văn hóa thông tin đến
các cá nhân, tổ chức trong và ngoài công lập hiểu rõ chủ trương, mục tiêu, nội
dung và các chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa nhằm động viên mọi
nguồn lực xã hội tham gia vào các nội dung xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
3.2.1. Giải pháp về cơ chế, chính sách
Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch ngành VHTT
& DL. Hướng dẫn xây dựng, hoàn thiện các mô hình, cơ chế, quy chế hoạt
động, chế độ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công trong ngành VHTT & DL.
Xây dựng các văn bản pháp quy để phân định
rõ quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức ngoài công lập tham
gia xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
Tham mưu xây dựng chính sách ưu đãi,
khuyến khích đầu tư, hỗ trợ ban đầu có thời hạn về cơ sở vật chất, chế độ đãi
ngộ người lao động ở tổ chức công lập khi chuyển đổi sang tổ chức ngoài công
lập. Tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách sau:
3.2.1.1. Chính sách đào tạo
Nhà nước tiếp tục các chính sách đào tạo
cán bộ văn hóa thông tin các cấp, nhất là đối với cán bộ văn hóa thông tin cơ
sở. Có chính sách phát hiện, đào tạo, nuôi dưỡng tài năng trẻ trong các hoạt
động văn hóa nghệ thuật.
3.2.1.2. Chính sách huy động nguồn lực
Huy động và đa dạng hóa các hình thức đóng
góp trong và ngoài nước. Các đối tượng chính sách, khó khăn được miễn hoặc giảm
đóng góp.
Tài trợ chi phí cho các tổ chức, cá nhân
và miễn trừ công lao động nghĩa vụ cho những người đi phục vụ nhiệm vụ chính
trị ở vùng sâu, vùng xa.
3.2.1.3. Chính sách tài chính, ưu đãi về chính sách thuế
Những cá nhân, tổ chức tham gia các họat
động văn hóa, dịch vụ văn hóa tùy theo từng lĩnh vực được ưu đãi về chính sách
vay vốn, chính sách thuế. Nghiên cứu đề xuất giảm thuế kinh doanh hoạt động văn
hóa ở các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Riêng các doanh nghiệp xuất
bản, in, phát hành sách nhà nước được giữ lại 100% thuế thu nhập doanh nghiệp
để bổ sung vốn lưu động. Nhà nước tiếp tục đầu tư kinh phí cho các hoạt động
thông tin lưu động, chiếu bóng, chính sách trợ cước vận chuyển sách, văn hóa
phẩm và các hình thức tuyên truyền khác ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi,
vùng đồng bào dân tộc.
3.2.1.4. Chính sách sử dụng đất đai
Mở rộng đối tượng ưu đãi được miễn thuế
đất và tiền sử dụng đất; mở rộng thêm đối tượng sử dụng đất cho mục đích hoạt
động văn hóa không phải trả tiền sử dụng đất và được miễn thuế đất.
Các cơ sở văn hóa như nhà hát, rạp chiếu
phim, trung tâm văn hóa, bảo tàng, thư viện… được nhà nước ưu tiên bố trí xây
dựng trụ sở ở những vị trí thuận lợi.
3.2.1.5. Chính sách xã hội, đãi ngộ
Thực hiện công bằng trong hoạt động sự
nghiệp, sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị công lập và ngoài công lập; sự bình
đẳng về hưởng thụ văn hóa giữa các dân tộc, vùng miền trên phạm vi cả nước;
chính sách đối với văn nghệ sĩ, tài năng trẻ, chính sách ưu đãi hưởng thụ văn
hóa cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, vùng nghèo.
3.2.1.6. Chính sách khen thưởng
Thực hiện tốt các chính sách khen thưởng
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài công lập trong quá trinh tham gia thúc đẩy
thực hiện có hiệu quả đề án xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, nhân sự
Thường xuyên nghiên cứu, đổi mới, sắp xếp
lại tổ chức, nhân sự các đơn vị trong ngành theo hướng xã hội hóa: tinh gọn, đủ
năng lực, năng động và hiệu quả.
3.2.3. Giải pháp tăng cường đầu tư kinh phí cho văn hóa
Tăng cường đầu tư
ngân sách trung ương và địa phương để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của
dân tộc.
Tăng cường đầu tư để nâng cao vai trò chủ
đạo, nòng cốt của các cơ quan, đơn vị văn hóa công lập trong quá trình xã hội
hóa các hoạt động văn hóa.
Ưu tiên đầu tư kinh phí cho những cơ sở
đào tạo văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn di sản văn hóa.
Nhà nước dành một tỷ lệ ngân sách thích
hợp hỗ trợ các bộ phận trong các đơn vị sự nghiệp công chuyển thành bộ phận
ngoài công lập đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị, công nghệ…
Tăng cường đầu tư và tổ chức thực hiện có
hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa.
Tăng cường tổ
chức các hoạt động có thu trong các đơn vị sự nghiệp công lập, từng bước tự
trang trải kinh phí, giảm nguồn chi của Nhà nước đối với một số lĩnh vực hoạt
động văn hóa.
Triển khai thực hiện
có hiệu quả Nghị định 43/NĐ - CP 2006 về “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập”.
Các đơn vị: Bảo
tàng, Thư viện, Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm đảm bảo thu đúng, thu đủ các
loại phí, lệ phí theo quy định của nhà nước.
Các Đoàn Nghệ
thuật, Trung tâm Văn hóa thông tin tăng cường các hoạt động dịch vụ văn hóa có
thu trên nguyên tắc số thu năm sau tăng hơn năm trước.
Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra văn hóa.
Trong quá trình tổ chức thực hiện xã hội
hóa các hoạt động văn hóa, ngành VHTT & DL phải đồng thời tăng cường kiểm
tra, chấn chỉnh, bảo đảm cho các hoạt động văn hóa đi đúng định hướng, tránh xu
hướng thương mại hóa văn hóa.
Cần
kiến nghị UBND Tỉnh cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước
và ngoài nước, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở
hoạt động văn hóa theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi
mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội dung lành
mạnh, bổ ích. Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu
tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa. Chính sách xã hội hóa
hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người, sức của các tầng lớp nhân dân, các
tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến
thành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ
quan chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng
dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.
Khuyến
khích các tổ chức xã hội và các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động văn
hóa, các doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực văn hóa bằng chính sách cho phép các
tổ chức và cá nhân này lập quỹ học bổng, quỹ trợ giúp các trẻ em khuyết tật,
quỹ hỗ trợ và phát triển văn hóa, quỹ bảo tổn các di sản - tài sản văn hóa. Khi
các quỹ này đăng ký tư cách pháp nhân, các tổ chức và doanh nghiệp được hưởng
một số quyền miễn trừ: giảm thuế, giảm các đóng góp khác cho Nhà nước.
Trích
từ thuế quảng cáo một phần để hỗ trợ các hoạt động văn hóa. Khuyến khích các
doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động văn hóa, coi đây như một phần của chiến
dịch quảng cáo uy tín và chất lượng sản phẩm của hãng, công ty. Các tổ chức nhà
nước văn hóa phải giành lấy quyền chủ động của mình chứ không hẳn là “xin” họ
hỗ trợ bằng bất cứ giá nào.
Nhà nước ban hành các hình
thức ghi danh công trạng cho những tổ chức, cá nhân đóng góp nhiều cho các hoạt
động văn hóa: Bảng vàng danh dự, bia ghi công, phổ biến trên các phương thông
tin truyền thống, trao huy chương.
Trên
lĩnh vực hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp: tiếp tục giữ vững định hướng xây
dựng và phát triển Đoàn Ca múa nhạc Bình Thuận theo phương châm tiếp thu, chọn lọc,
cải biên, nâng cao vốn nghệ thuật truyền thống của các dân tộc trong tỉnh, nhất
là nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Chăm, Raglai, K'Ho... Đồng thời có kế hoạch
đào tạo một cách bài bản đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên kế cận để không ngừng trẻ
hóa lực lượng diễn viên ca và múa của đoàn. Tạo điều kiện để đội văn nghệ dân
tộc Chăm từng bước đi vào hoạt động phục vụ tốt các nghiệm vụ chính trị của địa
phương. Cho phép thành lập các Đoàn nghệ thuật Ca múa nhạc, cải lương, dân ca
kịch.
Ở
cấp tỉnh: cho phép thành lập từ 01 đến 02 đoàn nghệ thuật ca nhạc, cải lương,
dân ca kịch tư nhân; 03 đến 05 cơ sở tư nhân đào tạo đào tạo nghiệp vụ về
chuyên ngành thanh nhạc, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật.
Ở
cấp huyện, thị xã, thành phố: ở mỗi trung tâm hình thành từ 02 đến 03 cơ sở tư
nhân đào tạo nghiệp vụ về chuyên ngành: thanh nhạc, nhiếp ảnh sân khấu, mỹ
thuật; thành lập từ 01 đến 02 đoàn nghệ thuật tư nhân hoặc các câu lạc bộ Nghệ
thuật hoạt động theo quy chế được chính quyền địa phương phê duyệt.
Trên
lĩnh vực hoạt động nghệ thuật quần chúng: tiếp tục duy trì, đổi mới nội dung,
phương thức đi đôi với định hướng hoạt động, nâng cao chất lượng các liên hoan,
hội thi, hội diễn nghệ thuật ở các cấp và khu vực.
Đối
với hoạt động bảo tàng: tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, sữa chữa nâng cấp,
đổi mới đai trưng bày, nội dung hoạt động, mở rộng và chỉnh trang khuôn viên
cây xanh trong quần thể khu di tích Dục Thanh. Tiếp tục sưu tầm, bổ sung các
hiện vật, tư liệu, hình ảnh có liên quan đến Bác Hồ. Khẩn trương khởi công xây
dựng Bảo tàng Tỉnh theo quy mô và thiết kế đã duyệt. Đồng thời tiến hành sưu
tầm, trao đổi với các tổ chức cá nhân trong và ngoài tỉnh các chủng loại hiện
vật có giá trị để góp phần làm phong phú thêm hiện vật của Bảo tàng Bình Thuận.
Đối
với hoạt động thư viện: Nhà nước đầu tư kinh phí để chống xuống cấp và mở rộng
cơ sở thư viện tỉnh, đồng thời đảm bảo số lượng, chất lượng sách, báo, tư liệu
bổ sung hàng năm theo quy định hiện hành. Từng bước hiện đại hóa việc lưu trữ,
khai thác vốn tư liệu hiện có của thư viện để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu
của đông đảo bạn đọc. Chú trọng đúng mức đối với hoạt động thư viện điện tử,
hiện đại, đa dạng và tiện ích. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi đề hình
thành các điểm đọc sách công cộng, các thư viện gia đình ở cấp tỉnh và cấp
huyện, thị xã, thành phố; khuyến khích phát triển thư viện trong các khu du
lịch.
Đối với hội chợ - triễn lãm: khuyến khích, kêu gọi
các đơn vị trong và ngoài tỉnh phối hợp tổ chức hội chợ theo định kỳ ở cấp tỉnh
và cấp huyện, thị xã, thành phố.
Đối
với các lễ hội văn hóa dân gian truyền thống: trước mắt là đưa vào khai thác
tốt 06 lễ hội đã được UBND tỉnh chính thức đưa vào quảng bá du lịch, bao gồm: Lễ
hội Trung Thu - thành phố Phan Thiết; Lễ hội Nghinh Ông của người Hoa thành phố
Phan Thiết; Lễ hội Cầu Ngư của bà con ngư dân thành phố Phan Thiết; Lễ hội KaTê
của đồng bào Chăm huyện Hàm Thuận Bắc; và Bắc Bình Lễ hội Ramưwan của đồng bào
Chăm huyện Bắc Bình; Lễ hội Dinh Thầy Thím của thị xã La Gi.
Đối
với hoạt động điện ảnh: khuyến khích các tổ chức, cá nhân liên kết hoặc bỏ vốn
đầu tư xây dựng các rạp chiếu phim phục vụ nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của cán
bộ và nhân dân trong tỉnh.
3.2.4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Lập đề án về chiến lược đào tạo, tuyển
dụng đội ngũ cán bộ công chức của ngành đủ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ phù
hợp với xu thế hội nhập và Đề án xã hội hóa hoạt động văn hóa, trong đó chú
trọng việc quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận.
3.3. Những đề xuất, kiến nghị
3.3.1. Đối với trung ương
Sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là lãnh đạo các địa phương đối với văn
hoá là yếu tố quyết định để các hoạt động văn hoá phát triển. Nhà nước sớm có
chính sách và cơ chế quàn lý thích hợp để việc xã hội hóa hoạt động văn hoá
phát triển có điều kiện phát triển tốt, các hoạt động văn hoá muốn nâng cao
được chất lượng, đáp ứng nhu cầu của xã hội không thể thiếu sự đầu tư của Nhà
nước. Càng xã hội hoá mạnh càng cần sự đầu tư của Nhà nước. Nhưng đầu tư đó dựa
trên cơ sở phân loại xác đáng thích hợp.
Nhà
nước cần có chích sách ưu đãi cho tất cả các ngành, các địa phương và toàn xã
hội nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa trong phát triển, phát triển
kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa.
Huy
động các nguồn tại trợ của Nhà nước bằng chính sách giảm thuế, ghi công danh dự
cho những cá nhân và tổ chức xã hội trong việc xã hội hóa; khuyến khích các cơ
sở làm tốt việc xã hội hoá các hoạt động văn hóa và phổ biến rộng rãi những
hình thức xã hội hóa tốt để nhiều nơi cùng làm.
3.3.2. Đối với địa phương
Tăng
cường công tác tuyên truyền chiều rộng lẫn chiều sâu về việc xã hội hoá hoạt
động văn hoá trong các tầng lớp nhân dân, các nhà tài trợ, các doanh nghiệp. Thông
qua đó kêu gọi những cá nhân, doanh nghiệp có tâm huyết với các hoạt động văn
hoá để đẩy mạnh việc xã hội hoá các hoạt động văn hoá.
Đổi
mới tổ chức quản lý, đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ văn hóa giỏi thích hợp với hoạt động văn hóa
trong cơ chế thị trường. Nhà nước cần có chính sách, chế độ ưu đãi, động viên,
khuyến khích những người làm công tác văn hóa và trang bị cho nông thôn thêm
điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện tốt việc “chiêu hiền đãi sĩ” về phục vụ
công tác văn hóa ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Sớm
thành lập các “quỹ văn hóa” cấp địa phương nhằm đầu tư và phát triển các hoạt
động văn hóa. Quỹ này xem như “quỹ xóa đói giảm nghèo” trong văn hóa.
Nhà
nước cần tạo hành lang pháp lý thoáng để kích thích các tổ chức, cá nhân, tham
gia vào hoạt động văn hoá.
3.3.3. Đối với ngành chức
năng
Bản
thân ngành VHTT & DL phải nâng cao chất lượng hoạt động của mình tạo ra
nhiều sản phẩm có giá trị cao đáp ứng đời sống tinh thần xã hội.
Tiếp
tục đầu tư kinh phí xây dựng khu vui chơi giải trí dành cho thanh thiếu niên,
Trung tâm văn hóa và quảng trường Nguyễn Tất Thành. Ở huyện, thị xã và thành
phố 10/10 có Nhà văn hóa (hoặc Trung tâm văn hóa). Ở cơ sở xã, phường, thị trấn
cần tăng cường đầu tư xây dựng nhà văn hóa, khu vui chơi giải trí.
Ngành VHTT & DL phải vâng
cao chất lượng hoạt động của mình tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao đáp ứng
đời sống tinh thần của xã hội.
Đổi
mới tổ chức quản lý, đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ quản lý văn hoá
giỏi, thích hợp với hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường và trong xu thế
hội nhập hiện nay. Cần phải có chính sách, chế độ ưu đãi, động viên, khuyến
khích những người làm công tác văn hoá và trang bị thêm điều kiện cơ sở vật
chất để thực hiện tốt việc “chiêu hiền đãi sĩ” về phục vụ công tác cho tỉnh
nhà.
Cho
phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân, trong nước và ngoài nước, thực hiện
một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt động văn hoá theo
quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ và tham
gia tổ chức một số hoạt động văn hoá có nội dung lành mạnh, bổ ích. Thực hiện
chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của các
doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hoá. Chính sách xã hội hoá hoạt động văn hoá
nhằm động viên sức người, sức của của tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để
xây dựng và phát triển văn hoá. Chính sách này được tiến hành đồng thời với
việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về văn
hoá của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với
các hoạt động xã hội hoá văn hoá.
Khuyến
khích các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động văn hoá, coi đây như một phần
của chiến dịch quảng cáo uy tín và chất lượng sản phẩm của công ty. Các tổ chức
văn hoá phải giành lấy quyền chủ động chứ không hẳn là “xin” hỗ trợ bằng bất cứ
giá nào.
Tiểu kết chương 3
Xã
hội hoá hoạt động văn hoá là một việc làm cần thiết nằm trong quy luật phát
triển của thời kỳ quá độ của đất nước và chỉ có xã hội hoá mới phát huy được
trí tuệ và sức mạnh của quần chúng. Tuy vậy, “càng xã hội hoá” cao thì càng
phải tăng cường công tác quản lý bằng luật lệ, bằng kiểm tra đôn đốc và kể cả
bằng chỉ đạo hướng nghiệp vụ. Phát động toàn dân sáng tạo văn hoá chứ không nên
nghĩ một chiều là mang văn hoá đến cho dân.
Bên
cạnh đó ngành văn hoá nên phân loại rạch ròi, có quy chế, có định mức, tiêu
chuẩn hoá các loại hình. Từ đó loại hình gì đầu tư nên đầu tư cho xứng với tầm
quốc gia, còn lại nên tăng cường hơn nữa đội ngũ hướng dẫn, chỉ đạo các hoại
động văn hóa quần chúng, và để quần chúng tự sáng tạo, Nhà nước chỉ kích thích
và góp phần định hướng bằng các giải thưởng nghệ thuật thật lớn hàng năm từ cấp
Trung ương đến địa phương.
Xã
hội hoá các hoạt động văn hóa là một quá trình lâu dài, phức tạp. muốn thành
công phải huy động các nguồn lực xã hội khác nhau, kết hợp giữa các phương thức
truyền thống và hiện đại và có sự định hướng đúng đắn ở tầm vĩ mô của Nhà nước,
nhằm làm cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ được phát triển lành mạnh, phong
phú, đa dạng, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của nhân
dân.
KẾT LUẬN
1. Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, vô
cùng phong phú và đa dạng có sức lan toả và thấm sâu trong toàn bộ trong đời
sống xã hội và đời sống con người. Văn hóa có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu
khác nhau tùy theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, tùy theo ngành, từng lĩnh vực hay
khu vực. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội hay từng thái độ ứng xử với thiên
nhiên.
Đất nước ta đang chuyển sang thời kì
mới, thời kì phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của
Nhà nước và mở cửa quan hệ đa phương hóa, đa dạng hóa với các nước trên thế giới.
Thời kì mới đã tạo ra nhiều thuận lợi, cơ hội nhưng không ít khó khăn thách
thức và nguy cơ đặt ra trước mắt chúng ta những đòi hỏi mới cần phải đáp ứng,
đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là nhằm biến các hoạt động văn hóa trở
thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm tham gia hoạt động và nuôi dưỡng.
Hoạt động văn hóa không chỉ còn riêng của ngành VHTT & DL mà được tham gia
của nhiều ngành, nhiều cấp và mọi tầng lớp nhân dân.
Trong những năm gần đây, nhất là khi đất
nước đổi mới thì vấn đề xã hội hóa đã được xã hội quan tâm. Xã hội hóa các hoạt
động văn hóa cũng chính là một biện pháp để từng bước xóa cơ chế bao cấp,
chuyển từng bộ phận, từng lĩnh vực sang cơ chế thị trường XHCN. Cụ thể cho vấn
đề này là Nghị định 73/1999/NĐ - CP ngày 19/08/1999 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và Nghị quyết
của Chính phủ số 05/2005/NQ - CP ngày 18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, và thể dục thể thao.
Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu
lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy
động toàn bộ xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục y tế, văn hóa, thể dục thể
thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính,
người nghèo được hưởng thụ thành quả giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao
ở mức độ ngày càng cao.
2. Bình Thuận là một tỉnh
duyên hải Nam Trung bộ, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Bình
Thuận có nhiều thuận lợi địa kinh tế, địa văn hóa, có nền văn hóa truyền thống
đặc sắc của các dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Raglai.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho tỉnh
Bình Thuận nguồn tài nguyên tương đối phong phú và đa dạng để phát triển ngành
kinh tế biển, nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, khai thác và đặc biệt là
dịch vụ du lịch.
Bình Thuận có nhiều di tích
lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh nổi tiếng khác như Trường Dục
Thanh, Mũi Điện - Khe Gà, Núi Tà Cú, khu du lịch hồ Hàm Thuận - Đa Mi, Tháp
Chăm Pô Sah Inư, dinh Thầy Thím, chùa Hang. Đó là những điều kiện thuận lợi để
Bình Thuận thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
Trong
những năm qua, tỉnh Bình Thuận đã huy động trong nhân dân hàng trăm tỷ đồng,
góp phần thiết thực tổ chức nhiều loại hình hoạt động văn hóa - văn nghệ lành
mạnh dưới nhiều hình thức, quy mô và cấp độ khác nhau, từng bước đáp ứng nhu
cầu chính đáng, đa dạng của nhân dân địa phương. Tuy chưa thật sự trở thành một
phong trào rầm rộ, nhưng việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa đã góp phần kích
thích sự phát triển lành mạnh, đúng hướng của nhiều loại hình hoạt động văn hóa
nghệ thuật ở tỉnh Bình Thuận trong thời gian qua, đem lại hiệu quả xã hội khá
tốt, tạo được sự đồng tình và nhất trí cao giữa Nhà nước và nhân dân.
Qua một thời gian thực
hiện, công tác xã hội hoá hoạt động văn hóa bước đầu đã thu được kết quả đáng
khích lệ. Ngành VHTT&DL đã phối hợp với các ngành, đoàn thể, tổ chức xã
hội, nhất là với các Hội sáng tạo văn học nghệ thuật và Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp huy động được nhiều lực lượng xã hội tham gia, tạo được nhiều nguồn
lực đáng kể cho phát triển văn hóa. Nhờ đó, nhiều sản phẩm văn hóa, nhiều hình
thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng phát triển về cả số lượng và chất lượng. Sự
phát triển xã hội hoá văn hóa trong những năm qua về cơ bản là đúng định hướng.
Điều đó chứng tỏ chủ trương xã hội hoá văn hóa của Đảng và Nhà nước là đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển, hội nhập.
Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tích đáng kể, phong trào xã hội hóa các hoạt động văn hóa ở
Bình Thuận vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trên nhiều lĩnh vực. Những hạn chế đó
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và cả những
nguyên nhân chủ quan. Cần có những nghiên cứu sâu để rút ra những bài học kinh
nghiệm, tổng kết thực tiễn để tìm ra những giải pháp đẩy mạnh phong trào xã hội
hóa hoạt động văn hóa ở Bình Thuận trong những năm tiếp theo.
3. Xã
hội hoá hoạt động văn hoá là một việc làm cần thiết nằm trong quy luật phát
triển của thời kỳ quá độ của đất nước và chỉ có xã hội hoá mới phát huy được
trí tuệ và sức mạnh của quần chúng. Tuy vậy, “càng xã hội hoá” cao thì càng
phải tăng cường công tác quản lý bằng luật lệ, bằng kiểm tra đôn đốc và kể cả
bằng chỉ đạo hướng nghiệp vụ. Phát động toàn dân sáng tạo văn hoá chứ không nên
nghĩ một chiều là mang văn hoá đến cho dân.
Bên
cạnh đó ngành văn hoá nên phân loại rạch ròi, có quy chế, có định mức, tiêu
chuẩn hoá các loại hình. Từ đó loại hình gì đầu tư nên đầu tư cho xứng với tầm
quốc gia, còn lại nên tăng cường hơn nữa đội ngũ hướng dẫn, chỉ đạo các hoại
động văn hóa quần chúng, và để quần chúng tự sáng tạo, Nhà nước chỉ kích thích
và góp phần định hướng bằng các giải thưởng nghệ thuật thật lớn hàng năm từ cấp
Trung ương đến địa phương.
Xã
hội hoá các hoạt động văn hóa là một quá trình lâu dài, phức tạp. muốn thành
công phải huy động các nguồn lực xã hội khác nhau, kết hợp giữa các phương thức
truyền thống và hiện đại và có sự định hướng đúng đắn ở tầm vĩ mô của Nhà nước,
nhằm làm cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ được phát triển lành mạnh, phong
phú, đa dạng, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của nhân
dân. Góp phần vào xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ Văn Hóa Thông Tin – Cục Văn
hóa cơ sở (1997), Sổ tay - Công tác văn
hoá thông tin, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
2.
Chính phủ, Nghị Định số 73/1999/NĐ - CP ngày 19/08/1999 về chính sách khuyến khích
xã hội đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
3.
Chính phủ, Nghị Quyết số
05/2005/NQ - CP ngày 18/04/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục,
y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
4. Chính Phủ, Nghị Định số 43/2006/NĐ
- CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công
lập.
5. Chính phủ, Nghị Định số 53/2006/NĐ - CP ngày 25/05/2008 về
chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công
lập.
6. Chính phủ, Nghị Định số 69/2008/NĐ
- CP ngày 31/05/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao, môi trường.
7.
Cục thống kê tỉnh Bình Thuận, Niên
giám thống kê năm 2007, Nxb Thống kê, Hà Nội.
8.
Đảng Cộng Sản Việt Nam
(1991), Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9.
Giáo trình trung cấp lý luận
chính trị, (2004) Văn hóa xã hội, Nxb
Lý luận chính trị quốc gia, Hà Nội.
10.
Hỏi đáp về văn hoá Việt Nam
(1998), Nxb Văn hóa dân tộc tạp chí văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
11.
Hoàng Vinh (1999) Lý luận văn hoá, Trường Cao Đẳng Văn Hóa
phố Hồ Chí Minh.
12.
Lê Như Hoa (Chủ biên) (1996) Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nxb VHTT,
Hà Nội.
13.
Nhiều tác giả (1996), Một vài vấn đề về xã hội học và nhân học
(một số bài dịch của Phan Ngọc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14.
Ngô Đức Thịnh (chủ biên)
(1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa
Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
15.
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên)
(2001) Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16.
Nguyễn Tri Nguyên (2008) “Chính
sách văn hoá của Nhà nước Việt Nam ”,
tập bài giảng
17.
Nguyễn Văn Hy (chủ biên) (1998)
Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn
hóa thông tin.
18.
Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb VHTT,
Hà Nội.
19.
Phan Quốc Anh (2001) “Quản lý
Nhà nước về văn hóa”, Tập bài giảng
20.
Sở VHTT&DL tỉnh Bình Thuận “Đề án Phát triển xã hội hóa hoạt động văn
hóa trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đến năm 2010”.
21.
Sở VHTT&DL tỉnh Ninh Thuận “Đề án Phát triển xã hội hóa các hoạt động
văn hóa tỉnh Ninh Thuận đến năm 2010”.
22.
Trường Cao Đẳng Văn Hóa phố Hồ
Chí Minh.(2000), “Thông tin khoa học – chuyên đề Văn Hóa Quần Chúng”
23.
Sở văn hóa Thông tin Bình Thuận
(2002) Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa. Sở VHTT tỉnh Bình Thuận xuấy bản.
24.
Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ VHTT&DL “Bài phát biểu của Thứ trưởng
Bộ VHTT&DL tại Hội nghị sơ kết đánh giá phong trào xã hội hóa các hoạt động
văn hóa năm 2007”.
25.
Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam , Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
26.
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam , Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
27.
Trần Văn Ánh (2001), các bài
viết khoa học, đăng trên “Thông tin khoa học”, Trường Cao Đẳng Văn Hóa phố Hồ
Chí Minh.
28.
UBND tỉnh Bình Thuận, Quyết Định của số 77/2006/QĐ - UBND ngày 26/09/2006
về ban hành Đề án phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận đến năm 2010.
29.
Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
30. website: www.binhthuan.gov.vn
32.
webside:www.xuctienbinhthuan.vn
PHẦN PHỤ LỤC
Số
thứ tự
|
Phụ lục số
|
Tên phụ lục
|
1
|
Phụ lục số 1
|
Bản đồ ranh giới hành
chính tỉnh Bình Thuận
|
2
|
Phụ lục số 2
|
Lễ hội cầu ngư – Phan
Thiết
|
3
|
Phụ lục số 3
|
Lễ hội Dinh Thầy Thím
|
4
|
Phụ lục số 4
|
Lễ hội Nghinh Ông
|
5
|
Phụ lục số 5
|
Hội diễn Nghệ thuật không
chuyên CNVC – LĐ
|
6
|
Phụ lục số 6
|
Lễ hội KaTê
|
7
|
Phụ lục số 7
|
Bình Thuận tham gia “ngày
hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 2009”
|
8
|
Phụ lục số 8
|
Ngày hội văn hóa các dân
tộc thiểu số miền núi
|
9
|
Phụ lục số 9
|
Bình Thuận tham gia “Ngày
hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 2009”
|
10
|
Phụ lục số 10
|
Ngày hội văn hóa các dân
tộc thiểu số miền núi – Hàm Thuận Bắc
|
11
|
Phụ lục số 11
|
Số lượng đơn vị hành chính,
diện tích và dân số
|
12
|
Phụ lục số 12
|
Số lượng di tích lịch sử
trên địa bàn đã được xếp hạng
|
13
|
Phụ lục số 13
|
Danh mục đơn vị hành chính
tỉnh Bình Thuận
|