1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT
- Khái niệm
văn hóa nghệ thuật xuất hiện từ những năm 70 trở lại đây trong giới nghiên cứu
triết học, văn hóa học và mỹ học Xô Viết và Việt Nam (Phạm Duy Đức, Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển VHNT ở
Việt Nam hiện nay, tr.7)
- Nghệ
thuật là một hành động nhận thức của con người bằng phương tiện hình tượng. Các
hình tượng nghệ thuật được sáng tác theo các loại hình loại thể nhất định.
Khái niệm “nghệ thuật” (Art) được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau và được
thay đổi theo thời gian. Nghệ thuật là “từ
dùng để chỉ các loại hình hàm chứa các yếu tố thẩm mĩ như hội hoạ, điêu khắc,
kiến trúc, âm nhạc, múa, văn chương, sân khấu và điện ảnh...”.
(i) Nghĩa đầu tiên (cho đến thế kỷ XVII), nghệ thuật được dùng để chỉ bất kỳ “kỹ năng”, “kỹ xảo”, sự “khéo léo”,
sự “thông thạo” nào đó đạt đến trình độ cao,
được coi là một “nghệ thuật”. Ngày nay “nghệ thuật” với nghĩa này vẫn được
dùng. Ví dụ, người ta vẫn hay nói “nghệ thuật nấu ăn”, “nghệ thuật diễn
thuyết”, “nghệ thuật kể chuyện”, “Nghệ thuật chính trị” vv...
- VHNT là một trong những bộ phận nhạy cảm của văn hóa tinh thần, là
thành tố trọng yếu của văn hóa thẩm mĩ…
- VHNT vừa chịu sự quy định của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, vừa
có tính độc lập tương đối.
- VHNT thực hiện các chức năng của văn hóa như chức năng giáo dục, chức
năng thẩm mĩ, chức năng giải trí, chức năng dự báo v.v..
Từ đó có thể khái niệm: VHNT là sự phát triển những năng lực nghệ thuật
cá nhân và cộng đồng (Nghệ sĩ, công chúng, dân tộc, nhân loại) thể hiện trong
hoạt động sáng tạo, lưu truyền và thụ cảm các giá trị nghệ thuật.
(ii) Văn hóa nghệ thuật, Văn học nghệ thuật.
Nghệ thuật ở đây được sáng tạo theo các quy luật của cái đẹp, có thể thuận theo quy luật và có thể
ngược lại, tuy nhiên nó còn có nghĩa rộng hơn là bao gồm cả sự sáng tạo của
người thợ thủ công, làm vườn, làm trang sức, may vá quần áo, người thợ cắt tóc,
nhà thiết kế hay nghệ sĩ... Nghĩa là ai cũng có thể sáng tạo nên cái đẹp, bất
cứ ở đâu và bất kể lúc nào.
Nghệ thuật, với tư cách là một lĩnh vực trong hoạt động của
con người, bao gồm một số loại hình nghệ thuật khác nhau, và đã được các nhà
khoa học sắp xếp thành 7 loại hình cơ bản. Trong 7 loại hình nghệ thuật thì mọi
người đều thống nhất rằng “Nghệ thuật thứ 7” là điện ảnh
1.1.2. Bản chất của nghệ
thuật
Bắt nguồn từ hoạt động lao động của con người, là sản phẩm sáng tạo của
con người, đặc trưng của nghệ thuật là phản ánh hiện thực, thể hiện sự nhận
thức của con người trước những hiện tượng của tự nhiên và của đời sống xã hội.
Nghệ thuật giúp con người nhận thức những giá trị chân, thiện, mỹ, là phương tiện tác động vào thế giới nội
tâm của con người. Nghệ thuật luôn gắn liền với tâm tư tình cảm của con người.
Bằng những phương tiện biểu hiện đặc thù riêng của mình, nghệ thuật phản ánh
thế giới và góp phần cải tạo thế giới.
-
Bản chất nghệ thuật là:
Cái đẹp + cái có ích + cái nhân đạo
(chân-thiện-mĩ)
Cái đẹp là những cái phù hợp với quan
niệm của con người về sự hoàn thiện, hài hòa, cân xứng. phù hợp với ước
mơ, mong muốn của con người về những cái có tính lí tưởng phù hợp với quan điểm
của con người về cái "chân", cái "thiện".
Cái
nhân đạo : phê phán cái xấu, thương xót số phận,
phát hiện cái tốt để tạo ra hi vọng
Cái
có ích: Tính giá trị, giá
trị xã hội, giá trị đạo đức, nhân văn…nghệ thuật vị nhân sinh và các chủ nghĩa,
trường phái trong nghệ thuật.
Đối tượng
phản ảnh của nghệ thuật là thiên nhiên và đời sống xã hội, lấy con người làm
trung tâm. Tranh cãi Nghệ thuật vị nhân sinh hay nghệ thuật vị nghệ thuật.
1.1.3. Nghệ thuật là sự sáng tạo: Nghệ thuật là sáng tạo, luôn
luôn đi tìm cái mới: Phá cách, biến đổi quy luật, kế thừa nhưng không theo lối
mòn…tuy nhiên, phá cách phải hay hơn, đẹp hơn, khoa học hơn.
Ví dụ:
- Các trào lưu về thơ mới, thơ hậu hiện đại
- Các loại hình âm nhạc mới: Không tiết điệu, phá quy luật
hòa thanh, quy luật tiết tấu…
Nghệ thuật trong nghệ thuật: Sáng tạo cái mới bằng tài
năng, kỹ năng, thủ pháp nghệ thuật: Quy luật tâm sinh lý của người thưởng thức.
Chẳng hạn mô phỏng trong nghệ thuật âm nhạc, trong thơ, trong sân khấu…Phát
triển âm hình chủ đạo…
1.1.4. Những đặc điểm cơ
bản của hình tượng nghệ thuật
-
Quy luật Tìm ra những qui luật chung của hình tượng nghệ
thuật sao cho phù hợp với cả hai loại tạo
hình và biểu hiện.
- Chủ quan và khách quan: Sự
thống nhất sinh động giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan trong hình
tượng.
+ Mặt chủ quan là ấn tượng, thái độ, quan niệm, lẽ
sống của nguời nghệ sĩ. Mặt khách quan là tính chất, sắc thái, hiện trạng của
các hiện tượng ngoài đời sống Tính
lý tưởng bao giờ cũng hòa quyện với tính hiện thực trong hình tượng nghệ thuật.
- Khái quát và cụ thể: Sự
thống nhất sinh động giữa mặt khái quát và mặt cụ thể trong hình tượng.
- Điển hình hóa: Điển
hình hóa nghệ thuật là sự kết hợp giữa phương pháp khái quát hoá và phương pháp
cá thể hóa, nhằm tạo ra cái riêng và cái chung của một hình tượng thành công.
Vậy là, theo ý nghĩa rộng nhất, điển hình hóa là quy luật chung của mọi hoạt
động sáng tạo nghệ thuật đích thực.
Sự thống nhất sinh động giữa lý trí và cảm xúc trong hình
tượng nghệ thuật, thiếu tư
tưởng, hình tượng sẽ trống rỗng và hời hợt. Thiếu cảm xúc, hình tượng sẽ khô
cứng và cằn cỗi.
Tính ước lệ nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng những nguyên tắc của chính mình. Muốn
cảm hiểu đúng đắn tác phẩm, công chúng phải chấp nhận những nguyên tắc đó.
Đối tượng phản ánh của nghệ thuật: là toàn bộ đời sống xã
hội, con người và thiên nhiên theo dòng lịch sử tiến hóa củ xã hội loài người.
Phương thức phản ánh của nghệ thuật: phản ánh chân thực cuộc
sống và mong muốn hiện thực của người nghệ sĩ thông qua hình tượng nghệ thuật,
văn học đã từ đối tượng miêu tả và hình thức chiếm lĩnh đời sống để đem đến cho
người đọc, trao truyền cho họ những xúc động thẩm mĩ mãnh liệt.
MQH nghệ
thuật và cuộc sống luôn gắn bó chặt chẽ:Nam Cao từng nói : “Nghệ
thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”
để khẳng định nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và vì cuộc sống
Tác dụng xã hội của nghệ thuật: Nghệ thuật phát hiện cái
đẹp trong hiện thực cuộc sống khái quát, điển hình hóa và phản ánh
cái đẹp bằng các hình tượng nghệ thuật và truyền đạt cái đẹp tới
tình cảm và lý trí của con người qua đó mà góp phần nâng cao nhận
thức tư tưởng và tình cảm của con người.
Vai trò của nghệ thuật:
Nghệ thuật không chỉ bảo đảm cho sự lành mạnh của
con người, của xã hội loài người mà nó còn bảo đảm tính kế thừa
lâu đời, tính phổ biến ngày càng tăng của văn hóa
Tác dụng của nghệ thuật:
thúc đẩy xã hội tiến hoá
bằng đặc trưng riêng của mình, nghệ thuật làm cuộc sống này, thế giới này bớt
xấu xa đi và đẹp đẽ hơn .
Những lí thuyết khác
nhau về nguồn gốc nghệ thuật trong lịch sử. Ưu điểm và hạn chế của những lí
thuyết trên.
1.1.5. Một số học thuyết nghệ thuật
Thuyết bắt chước
Nghệ thuật
là hành vi bắt chước, vì bản chất con người là bắt chước. Tuy nhiên, người sáng
tạo nghệ thuật không bắt chước rập khuôn mà tái tạo hiện thực theo kỹ năng của
mình.
Thuyết du hí
Bản chất
con người là thích vui chơi, giải trí, du hí, khám phá cảm giác mới.
Thuyết ma thuật
Con người luôn tin vào một cái gì đó siêu hình, nghệ thuật
luôn có chất ma mị, mong có thế lực siêu nhiên che chở con người và con người
cầu mong sự che chở đó. Từ tính ma thuật đó, con người mới sáng tạo ra những
bức tượng tôn giáo, các loại hình nghệ thuật chứa đựng ma thuật như múa thiêng,
nhạc thiêng, nhà thờ, điêu khắc đình, đền, chùa, tháp…
Thuyết biểu hiện
Nghệ thuật
luôn xuất phát từ con người và con người luôn có nhu cầu bộc lộ tài năng, khả
năng chủ quan của mình và trở thành nghệ sĩ.
Tổng lực sinh học và sinh lực thừa
Nghệ thuật ra đời do năng lực thừa, do nhu cầu sáng tạo của
bản thân
1.1.6. Cấu trúc của văn hóa nghệ thuật
- Đội ngũ nghệ sĩ sáng tạo, biểu diễn
- Các tác phẩm nghệ thuật
- Đội ngũ lý luận phê bình
- Các tổ chức, cá nhân, hệ thống thiết chế văn hóa liên quan
đến sản xuất, bảo quản, nhân bản, phổ biến tác phẩm nghệ thuật
- Công nghiệp văn hóa nghệ thuật
- Các cơ quan quản lý, lãnh đạo hoạt động nghệ thuật
- Hệ thống giáo dục thẩm mĩ – nghệ thuật
1.1.7. Hoạt
động văn hóa nghệ thuật
- Hoạt động
sáng tạo, biểu diễn, thể hiện các tác phẩm nghệ thuật.
- Hoạt động
lưu trữ, bảo quản, nhân bản, phổ biến tác phẩm nghệ thuật, ứng dụng công nghiệp
văn hóa
- Hoạt động
hưởng thụ của công chúng, người thưởng thức
- Hoạt động
giao lưu văn hóa nghệ thuật
+ Nghệ
thuật truyền thống – Hiện đại
+ Yếu tố
Nội sinh, ngoại sinh qua quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa nghệ thuật
+ Yếu tố giao lưu, tiếp biến các vùng văn hóa, các dân tộc…
- Hoạt động
quản lý văn hóa nghệ thuật.
1.2. Vài nét về lịch sử
nghệ thuật
1.2.1. Nghệ thuật nguyên
thủy
Những bức tượng, hình vẽ trên hang động, hình vẽ trên đá, và ký hiệu khắc
trên đá của Hậu kỳ Thời đại đá cũ có niên đại khoảng 40.000 năm trước đã được
tìm thấy, nhưng ý nghĩa chính xác của chúng vẫn thường không được xác định
thống nhất vì có quá ít thông tin về những nền văn hóa đã tạo ra chúng. Những
hiện vật nghệ thuật lâu đời nhất thế giới - một loạt các vỏ ốc sên nhỏ, được
đục lỗ có chừng 75.000 năm tuổi - được tìn thấy ở một hang động ở Nam Phi.[16]
Những vật có thể đã được dùng để đựng mực có niên đại chừng 100.000 năm cũng đã
được tìm thấy[1].
Nhiều truyền thống nghệ thuật lớn bắt nguồn từ nghệ thuật của một trong
những nền văn minh lớn của thế giới: Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà, Ba Tư, Ấn Độ,
Trung Quốc, Hy Lạp cổ đại, La Mã, cũng như Inca, Maya, và Olmec. Mỗi một trung
tâm văn minh cổ xưa này đã phát triển một phong cách nghệ thuật đặc thù. Những
nền văn minh này xuất hiện trên một phạm vi rộng và có thời gian tồn tại dài
nên nhiều trong số những tác phẩm nghệ thuật của họ vẫn tồn tại, và ảnh hưởng
củ họ đã lan truyền đến những nền văn hóa khác và đến những thời đại sau.
Nghệ thuật
hang động.
Đặc điểm: khả năng tượng trưng ước lệ pha trộn ma thuật, tín
ngưỡng
Tranh hang động (thường được gọi
là nghệ thuật trên đá ) - những hình ảnh trong hang động do con người thời Đồ đá cũ tạo ra, một trong những loại
hình nghệ thuật nguyên thủy . Hầu hết những vật thể này
được tìm thấy ở Châu Âu, vì ở đó, người cổ đại buộc phải sống trong hang động và
hang động, chạy trốn cái lạnh. Nhưng có những hang động như vậy ở châu Á , chẳng hạn như hang động Niah trên đảo Kalimantan ở Malaysia . Nó ở châu Á, trong các hang động karst ở các huyện Maros và Pankep trên đảo Sulawesi ( Indonesia), bức vẽ lâu đời nhất (tính đến tháng 1
năm 2021) về một con vật đã được phát hiện - hình ảnh một con lợn Celebes , có tuổi đời hơn 45.500 năm.
Nhà cổ sinh vật học người Canada Genevieve von Petzinger từ
Đại học Victoria , cùng với các đồng nghiệp, đã trình bày trong cuốn sách
"Những dấu hiệu đầu tiên" giả thuyết rằng các mô hình hình học trong
hang động là các yếu tố của một hệ thống liên lạc duy nhất mà Homo sapiens sử
dụng để lưu trữ và truyền thông tin: trong thời nguyên thủy bản đồ hoặc như lời
nhắc nhở để ghi nhớ những huyền thoại hoặc nghi lễ quan trọng.
Các nhà khoa học Anh từ Đại học Edinburgh và Kent tin rằng
những hình ảnh thường được coi là cảnh săn bắn thực chất là sơ đồ sắp xếp các
chòm sao sáng trong các sự kiện quan trọng và người cổ đại đã biết về tiền phân
ngay từ thời kỳ đồ đá.
Theo quan niệm này,
những hình ảnh từ hang động Lascaux phản ánh sự rơi của một thiên thạch lớn
xuống Trái đất khoảng 17 nghìn năm trước.
1.2.2. Lịch sử nghệ thuật phương Tây
1.2.2.1. Nghệ
thuật Hy Lạp – La Mã cổ đại
Nghệ thuật
Hi lạp cổ đại
Nổi bật là
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc tượng
Người Hy
Lạp đã phát triển các phương pháp kĩ thuật lên tầm hoàn mĩ, trong đó bao gồm
chạm khắc và đúc tượng, vẽ bích họa và xây dựng nên những công trình nguy nga
tráng lệ. Kỉ nguyên Cổ điển là giai đoạn nghệ thuật nổi bật nhất – khi vùng đất
Hy Lạp và Athens trải qua một thời kì vàng son với nhữngcông trình nghệ thuật
kì vĩ, trong đó điện Parthenon là một công trình tiêu biểu phản ánh tham vọng
và tầm vóc vĩ đại của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trong giai đoạn này.
Các nghệ sĩ Hy Lạp trong giai đoạn Hy Lạp hóa chú trọng nhiều hơn vào sự sống
động, đa dạng, sức mạnh, vẻ đẹp và sự hài hòa, những di sản này được truyền lại
cho các nghệ sĩ hậu thế người La Mã, những người đã phát triển các kĩ thuật và
ý tưởng đa dạng của riêng mình trong suốt thời kì Đế quốc La Mã (27 trước Công
nguyên-395 Công nguyên)
Người ném
đĩa, kho thần thoại: dớt, Hê ra….,Iliat và Oodixe.Kịch: anh hùng ca, bi kịch,
hài kịch. Am nhạc và múa: đàn,sáo…
Đặc điểm:
hài hòa, đăng đối, trong sáng, thuần khiết.
Nghệ thuật
La Mã cổ đại
Đền
Parthenon, Tượng Venus (thần tự do và sắc đẹp): tỉ lệ giống người thật.
Đặc điểm:
Hoành tráng và thế tục.
3 mẫu lí tưởng: người công dân anh hùng, nhà hiền triết có
tài, nhà quán quân thể thao.
Nền mỹ thuật La Mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng.
Có hai nguồn nghệ thuật chính tạo nên dòng văn hoá La Mã cổ đại là Hy Lạp và
nghệ thuật của người Êtơrúcxcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô thị ở Bắc
mỹ và chịu ảnh hưởng của người Hy Lạp, họ có thành tựu về đúc đồng. Điều đó góp
phần tạo nên sự phát triển của La Mã về điêu khắc, nhất là tượng chân dung.
Người La Mã đã học theo người Hy Lạp rất nhiều lĩnh vực về
thần thoại, văn học, sử thi, .… Mặc dù vậy, trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực
khác La Mã có những sáng tạo riêng và góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật
tạo hình. Nhất là nghệ thuật kiến trúc.
Sự phát triển và giàu có của La Mã góp phần thúc đẩy sự ra
đời và đạt đến đỉnh cao của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm đặc trưng
của La Mã. Vì vậy có thể khẳng định rằng, nền văn hoá La Mã là nơi hội tụ của
nhiều tinh hoa văn hoá của nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Song nó vẫn có
những sáng tạo riêng rất về nghệ thuật.
1.2.2.2. Nghệ thuật thời trung cổ (Tky 4-14)
Nghệ thuật thời Trung cổ
ở châu Âu phát triển từ di sản nghệ thuật của Đế chế La Mã và các truyền thống
biểu tượng của nhà thờ Thiên chúa giáo sơ khai. Nghệ thuật này là sự trộn lẫn
và giao thoa với nền văn hóa nghệ thuật “man rợ” mạnh mẽ của Bắc Âu để tạo ra
một di sản nghệ thuật đáng chú ý. Nghệ thuật thời trung cổ được tạo ra trên
nhiều phương tiện truyền thông, và các tác phẩm tồn tại với số lượng lớn trong
điêu khắc, bản thảo được chiếu sáng, kính màu, đồ kim loại và đồ khảm, tất cả
đều có tỷ lệ “sống sót” cao hơn các phương tiện khác như tranh nghệ thuật tường
bích họa, tác phẩm bằng kim loại quý hoặc hàng dệt, bao gồm cả tấm thảm.
Kiến trúc nhà thờ: Bigiăngtanh (kremlanh ở moskva),
Rômăng(nhà thờ Tumpan ở Ô ten), Gotich (nhà thờ Đức Bà Paris)
Đặc điểm: Mỹ học duy tâm chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị, chúa là
nguồn gốc của cái đẹp và là cái đẹp cao quí nhất. Tôn giáo thống trị nghệ
thuật. Hình tượng tiêu biểu: Con người bị đày ải. khám phá thê sgiowis tâm linh
của con người.
Trong nghệ thuật Byzantine và nghệ thuật Trung cổ ở phương Tây thời Trung
cổ, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật tập trung vào đề tài tôn giáo, sử dụng
những phong cách để cho thấy vẻ huy hoàng của một thế giới thiên đường, chẳng
hạn sử dụng vàng trong nền của các bức tranh, hay thủy tinh trong các bức khảm
hay cửa sổ; những phong cách này cũng thể hiện những hình dáng ở dạng phẳng,
theo mô thức, và lý tưởng hóa. Truyền thống hiện thực cổ điển cũng có ở một số
nhỏ các tác phẩm nghệ thuật Byzantine, và chủ nghĩa hiện thực đã phát triển dần
lên trong nghệ thuật châu Âu Công giáo.
1.2.2.3.
Nghệ thuật Phục Hưng (14 – 16)
Nhấn mạnh nhiều vào việc mô tả theo lối hiện thực thế giới vật chất, và
vị thế của con người trong thế giới đó, phản ánh trong tính chất cụ thể của cơ
thể con người, và việc phát triển một phương pháp có hệ thống để thể hiện những
sự lồi lõm của vật thể trong ba chiều không gian.
Ở phương Đông, sự từ bỏ việc sử dụng hình tượng của nghệ thuật Hồi giáo
đã dẫn đến sự nhấn mạnh vào các mô thức hình học, thư pháp, và kiến trúc. Xa
hơn về phía Đông, tôn giáo cũng đóng một vai trò chủ đạo trong các hình thức và
phong cách nghệ thuật. Ở Ấn Độ và Tây Tạng, người ta thấy có sự nhấn mạnh đến
những bức tượng được sơn phết và những điệu múa, trong khi hội họa tôn giáo vay
mượn nhiều ước lệ từ điêu khắc và có xu hướng sử dụng những màu sắc tương phản
để nhấn mạnh đến các đường nét. Phong cách nghệ thuật Trung Quốc thay đổi đáng
kể từ thời đại này sang thời đại khác, và mỗi phong cách thường được đặt tên
theo triều đại trị vì. Chẳng hạn, những bức tranh thời nhà Đường đơn sắc và có
tính chất điểm xuyết, nhấn mạnh những cảnh vật lý tưởng hóa, còn những bức
tranh thời nhà Minh thì dày đặc chi tiết và nhiều màu sắc, và tập trung kể
những câu chuyện thông qua khung cảnh và bố cục. Nhật Bản cũng đặt tên các
phong cách nghệ thuật theo tên của triều đại trị vì, và cũng có thấy có sự
tương tác qua lại giữa những phong cách thư pháp và hội họa. Sau thế kỷ 17 thì
tranh khắc gỗ trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng ở Nhật.
Một số tác phẩm đáng chú ý: tranh “ bữa tiệc ly biệt” leona
de Vanh xi. Đầu tượng David (mikenlangelo). Kịch;người lái buôn thành venice(
shakespeare)
Đặc trưng: Mĩ học duy vật hát triển mạnh, dựa / duy vật cổ
đại, khôi phục nền văn hóa rực rỡ Hy - La cổ. Thay đổi cách nhìn của nhà thờ về
thế giới, về con người (chủ nghĩa nhân văn phục hưng). Quan niệm cái đẹp: hài
hòa trong sáng hướng đến ngày mai “con người khổng lồ - con người công nghiệp”
3 mẫu người
lí tưởng: người có đầu óc khổng lồ, nguời có nội tâm phong phú, nhà thương gia
tài năng.
1.2.2.4.
Nghệ thuật cổ điển (Tk17)
Tác phẩm
tiêu biểu
- Lão hà
tiện (Mô li e)
- Ttruyện
ngụ ngôn (Laphongten)
- Cung điện
Vecxay.
Đặc trưng:
tư tưởng mĩ học: vai trò lí trí trong sáng tạo nghệ thuật (lí trí, khuôn mẫu,
công thức). Tìm chân lí đơn giản để đại đến sự xác minh tối đa. Khai thác xung
đột cơ bản: nghĩa vụ >< dục vọng, nhưng vẫn lấy hài hòa mực thước làm cơ
sở thẩm mĩ, phong cach cầu kì
Không có
hình mẫu lí tưởng.
1.2.2.5. Nghệ thuật KHAI SÁNG (Tk18)
Những thể hiện mang tính nghệ thuật về những niềm tin duy lý về vũ trụ,
cũng như những mơ tưởng về một thế giới hậu quân chủ, như trong cách mô tả của
William Blake về Newton, hay trong những bức tranh tuyên truyền của
Jacques-Louis David. Những cách thể hiện này bị chủ nghĩa lãng mạn từ bỏ sau
đó; trào lưu nghệ thuật mới này chú ý đến những hình ảnh về khía cạnh cảm xúc
và tính cá thể của con người, như có thể thấy trong những tiểu thuyết của
Goethe. Cuối thế kỷ 19, người ta chứng kiến sự ra đời của một loạt những trào
lưu nghệ thuật như nghệ thuật kinh viện, trường phái tượng trưng, trường phái
ấn tượng, và trường phái dã thú, cũng những trường phái khác.
Lịch sử nghệ thuật thế kỷ 20 là câu chuyện về những khả thể vô hạn và về
cuộc tìm kiếm những tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn này mới ra đời thì bị tiêu chuẩn
khác hơn vượt qua. Vì thế mà những quan niệm của trường phái ấn tượng, trường
phái biểu hiện, trường phái dã thú, trường phái lập thể, trường phái dada,
trường phái siêu thực, v.v..., thường không tồn tại lâu sau khi ra đời. Những
tương tác trên phạm vi toàn cầu ngày càng gia tăng trong thời kỳ này khiến
những nền văn hóa khác ảnh hưởng lên nghệ thuật châu Âu. Những tác phẩm tranh
khắc gỗ Nhật Bản (vốn chịu ảnh hưởng bởi kỹ thuật châu Âu thời Phục hưng) đã có
ảnh hưởng đáng kể lên trường phái biểu hiện và những phát triển sau đó. Về sau,
điêu khắc châu Phi ảnh hưởng lên sáng tác của Picasso và, ở một mức độ nào đó,
những sáng tác của Henri Matisse.Phan Tương tự, phương Tây có ảnh hưởng rất lớn
lên nghệ thuật phương Đông thế kỷ 19 và 20; những tư tưởng có nguồn gốc phương
Tây như chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa hậu hiện đại tác động rất mạnh lên
phong cách nghệ thuật.
Trong nửa cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa hiện đại, cuộc tìm kiếm chân lý có
tính chất lý tưởng, nhường chỗ cho nhận thức về tính bất khả của nó. Chủ nghĩa
tương đối (relativism) đã được chấp nhận như một chân lý không thể chối bỏ
được; điều này dẫn đến thời kỳ nghệ thuật đương đại (contemporary art) và phê
bình hậu hiện đại (postmodern criticism), ở đó văn hóa thế giới và lịch sử được
xem là những dạng thức không ngừng biến đổi. Hơn nữa, những khác biệt giữa các
nền văn hóa ngày càng bị xóa mờ; một số người cho rằng ngày nay có lẽ thích hợp
hơn khi nói về một nền văn hóa toàn cầu, thay vì là những nền văn hóa khu vực.
Tác phẩm
đáng chú ý
- Marat bị
ám sát (tranh sơn dầu của louis david),
- Chân dung
voltaire (điêu khắc đá của houdon)
Đặc trưng:
Tư tưởng mĩ học: chống lại khuynh hướng lí tưởng hóa, khuôn mẫu của chủ nghĩa
cổ điển, ủng hộ khai hóa. Nghệ thuật mang tính xã hội rõ rệt gắn với vận động
lịch sử, soi sáng đầu óc con người để con người hành động theo qui luật cách
mạng. Phát hiện kiểu nhân vật quần chúng (phá ngục bastille)
Mẫu người
lí tưởng: con người ưu tú cách mạng.
1.2.2.6.
Nghệ thuật LÃNG MẠN VÀ HIỆN THỰC (Tk19)
Chủ nghĩa
lãng mạn
Tác phẩm
đáng chú ý
- Những
người khốn khổ (Victor hugo),
- Anna
Karenina(Tolxtoy),
- Tấn trò
đời (Balzac),
- Tranh sơn
dầu “thần tự do dẫn dắt nhân dân trên chiến lũy” của delacroix
Đặc trưng:
không chấp nhận thực tại (hoài cổ, hướng về tương lai vô định, tìm đến miền
viễn xứ). Lấy cái tối cá nhân để đạt đến sự tự do tuyệt đối, theo đuổi cái đẹp
tuyệt đối. Muốn dùng nghệ thuật tạo ra thế giới khác theo ý chủ quan người nghệ
sĩ. Buồn, bi quan.
Chủ nghĩa
hiện thực
Tác phẩm “Kính chào ông Courbet!”, tranh của nhóm triển lãm lưu động Nga
Đặc trưng: Tư tưởng mĩ học: Cái đẹp là cuộc sống, đang vận
động ở hiện tại.
Nhìn thẳng vào những mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội, tính
khách quan để phản chiếu thế giới.
1.2.2.7. Nghệ thuật hiện đại (cuối 19 đầu 20)
Tác phẩm
tiêu biểu:
Tranh Hóa
thân (Kafka),tranh “La Rêve” picasso
Đặc trưng:
thẩm mĩ: sự khai sáng của cá nhân tự do. Nhấn mạnh quá trình nhận thức (nhận
thức cái gì), lối viết tự sự ngôi thứ 3: xóa sự tách biệt giữa các cá thể. Chối
bỏ mĩ học khuôn sáo tiến đến ngẫu hứng sáng tạo.
1.2.2.8
Nghệ thuật hiện đại (Cuối 19 Đầu 20)
Tác phẩm:
Picatxo, trường phái hiện thực, trường phái người công dân vĩ đại.
Đặc trưng:
Nghệ thuật ko phiến diện chết cứng mà nghệ thuật là đời sống. khám phá những bí
ẩn bên trong con người, biểu hiện cái chưa nhìn thấy.
1.2.2.8. Nghệ thuật hậu hiện đại (sau 1945 đến thế chiến T2)
Tác phẩm:
Bọc nhà quốc hộ Đức (Críttô)
Đặc trưng:
Phi cấu trúc, phi tâm hóa, chối từ vai trò chủ thể của con người (cái tôi). Xóa
nhòa ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống hàng ngay, phá bỏ những giai tầng
văn hóa quí phái và văn, nhấn mạnh pcach đại chúng. Chối từ tất cả đại tự sự.
1.2.3.1. NGHỆ THUẬT TRUNG HOA CỔ ĐẠI
Tác phẩm đáng chú ý: tượng Phật bà quan âm nghìn mắt, nghìn
tay dát vàng (tỉnh Hà Nam). Đạp ca đồ (tranh lụa Mã Viện)
Đặc trưng: Nền móng triết lí: vũ trụ, phong thủy, nhân sinh.
Hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo. Mỗi công trình đều hài hòa với thiên nhiên tạo
thành 1 quần thể thống nhất.
Quan niệm thẩm mĩ: hình tượng Nghệ thuật có 2 mặt kết hợp:
Thực và hư. Chú ý “khoảng không trắng” những chỗ “trống không”
2 hướng mĩ cảm lớn: trau truốt nghệ thuật đến mức cầu kì,
điêu luyện (đồ gốm Minh Thanh, trang phục Kinh kịch) và biểu hiện nghệ thuật
theo cái đẹp tự nhiên, chân chất, ý vị, sâu sa (thư pháp Vương Hy Chi, đồ sứ
Tống)
1.2.3.2.
Nghệ thuật AI CẬP
Tác phẩm đáng chú ý: Đầu Sphinx-nhân sư, đèn pha ở Alexandria
Đặc trưng: tất cả các kiến trúc điêu khắc phần lớn có ý nghĩa
thờ cúng, là nền nghệ thuật tổng hợp và hoàn chỉnh. Trọng đời sống vĩnh hằng.
có cái nhìn “ bề nghiêng” đẹp về tỉ lệ đặc trưng về mẫu ng, phần vai và ngực
luôn ở tư thế nhìn đối mặt.
1.2.3.3. Nghệ thuật Lưỡng Hà
Tác phẩm đáng chú ý: Vườn treo babylon. Bộ luật Hamurapi
Đặc trưng: bố cục trung tâm – đăng đối. Khuynh hướng hiện
thực, vai trò cá nhân với nghệ thuật được khẳng định. Thời tân đại: Nghệ thuật
nặng về trag trí, hình ảnh muông thú cây cỏ vừa hư vừa thực.
1.3. Quan điểm, trường
phái, phong cách nghệ thuật
Những quan điểm về nghệ thuật khác nhau
- Nghệ thuật vị nghệ thuật
- Nghệ thuật vị nhân sinh
Những trường phái khác nhau của từng lĩnh vực nghệ thuật: Dân gian, dân
tộc, truyền thống, hiện đại, cổ điển…thơ mới, hiện đại, hậu hiện đại…
Những phong cách khác nhau của từng loại hình nghệ thuật: Kiến trúc, Điêu
khắc, Hội họa, Âm nhạc, Múa, Sân khấu, điện ảnh v.v…
Lịch sử phát triển của từng lĩnh vực nghệ thuật (Tùy theo chuyên ngành
nghệ thuật)
2. Các lĩnh vực nghệ thuật
2.1. Một số kiểu phân chia các ngành nghệ thuật
Căn cứ vào các đặc điển
loại hình mà người ta đã phân chia 6 loại hình nghệ thuật theo từng nhóm khác
nhau, hoặc sắp xếp chúng theo các trật tự cũng khác nhau
Phân chia theo kiểu 1:
Tách thành 2 nhóm nghệ thuật tĩnh và nghệ thuật động
+ Nhóm
nghệ thuật tĩnh: kiến trúc, điêu khắc, hội họa
+ Nhóm nghệ thuật động: âm nhạc, múa, sân khấu
Phân chia theo kiểu 2:
Chia loại nghệ thuật thị giác, nghệ thuật không gian, nghệ thuật thời
gian, hay tổng hợp cả không gian và thời gian.
+ Nhóm nghệ thuật không gian: Hội họa, điêu khắc, kiến trúc (nhìn)
+ Nhóm nghệ thuật thời gian: thi ca, âm nhạc (đọc, nghe)
+ Nghệ thuật tổng hợp (thời gian - không gian): sân khấu
+ Nghệ thuật thị giác, bao gồm việc sáng tạo ra những hình ảnh hay vật thể trong
những lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, đồ họa in ấn, nhiếp ảnh, và những phương tiện truyền thông hình ảnh khác.
Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa, Âm nhạc, Múa, Văn học, Sân khấu, Điện ảnh
2.2. Các ngành, lĩnh vực nghệ thuật
2.2.1. Nghệ thuật kiến trúc
Kiến trúc và trang trí là các
loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người luôn có
mối quan hệ gắn bó với nhau bởi tính đặc thù của nó. Kiến trúc và trang trí đều
có ý nghĩa thực dụng rất rõ nét; một mặt nó là lĩnh vực tinh thần – sáng tạo
nghệ thuật và lĩnh vực vật chất – sáng tạo trong sản xuất vật chất.
Thật khó có thề hình dung một công trình kiến trúc từ nhà ở;
đến thánh đường của các nhà thờ Thiên chúa giáo; Hồi giáo; đình chùa Phật giáo
lại thiếu sự luân chuyển nhịp nhàng; uyển chuyển và sự kết hợp các đường nét
hình học cách điệu và các yếu tố tạo hình hợp thành hoa văn – họa tiết. Cũng
chính vì vậy; trang trí như một bộ phận hợp thành toàn bộ công trình kiến trúc;
song mặt khắc bản thân nó cũng có thể được coi là một tác phẩm nghệ thuật hội
họa riêng biệt; độc đáo.
------------
Kiến trúc là một loại hình nghệ thuật mà cho đến ngày nay trong
nghệ thuật vẫn còn diễn ra những cuộc tranh cãi rằng; nó có thuộc nghệ thuật
hay không? Xét về chức năng của nó; thì kiến trúc là thực dụng; nhằm thỏa mãn
những nhu cầu vật chất của xã hội; và trước hết là nhu cầu về nhà ở; công trình
để lao động; nghỉ ngơi và điều hành các chức năng xã hội. Nhưng đồng thời kiến
trúc là một nghệ thuật riêng biệt; trong đó cũng như nghệ thuật ứng dụng; điều
có ý nghĩa quan trọng không chỉ là chức năng thực dụng; công dụng thực tế của
các công trình; mà còn là bản chất thẩm mỹ của chúng; sự tác động giữa tư tưởng
– tình cảm; sự thỏa mãn nhu cầu cái đẹp của con người.
---------------
Đặc trưng của ngôn ngữ của nghệ thuật kiến trúc là ở chỗ; trong
hai tính năng phục vụ lợi ích và thẩm mỹ; thì tính năng phục vụ lợi ích có ý
nghĩa nội dung; mang tích mục đích; tính năng thẩm mỹ mang ý nghĩ hình thức.
Cho nên; các hình tượng của nó trước hết; mang tính chất ích dụng; mặt khác cái
đẹp về hình thức kết hợp cái ích dụng vật chất – tinh thần lại phản ánh những
tư tưởng chung; về sự khẳng định cuộc sống; về tầm vĩ đại; về sự hùng mạnh của
những tư tưởng thẩm mỹ về cái đẹp.
---------------
Là nghệ thuật chiếm lĩnh không gian; bằng phương pháp tạo hình;
nên cái đẹp trong kiến trúc được tạo dựng thông qua hình khối; đường nét; các
tỷ lệ; nhịp điệu và kiểu dáng cao – thấp; rộng – hẹp; cong – thẳng; mau – thưa.
Nhưng do những điều kiện lịch sử; tôn giáo khác nhau mà các phong cách kiến
trúc cũng khác nhau. Do đó; kiến trúc châu Âu khác với kiến trúc châu Á; kiến
trúc Thiên chúa giáo; Hồi giáo; Phật giáo cũng khác nhau. Chẳng hạn như kiến
trúc Byzantine; Roman; Gothic trong thời kỳ Trung cổ.
Trong đặc trưng ngôn ngữ của nghệ thuật kiến trúc tác động; gợi
ý nghĩa bằng đặc tính chất liệu của nó từ đất; đá; gỗ; mây; tre; nứa; lá; kim
loại. Kiến trúc bao gồm nhiều thể loại được phân theo chức năng của công trình
như kiến trúc dân dụng; kiến trúc công cộng; kiến trúc tôn giáo; công viên.
Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa
học về tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Kiến trúc sư với kiến thức chuyên ngành kiến
trúc, ngoài công tác thiết kế công trình có thể tham gia vào rất nhiều các
lĩnh vực thiết kế quản lý khác, như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị, thiết kế cảnh quan, quản lý đô thị, quản lý giám sát dự án, thiết kế nội thất, thiết kế đồ họa hay thiết kế tạo dáng công nghiệp.
------------------
2.2.2. Nghệ thuật Điêu
khắc
Điêu khắc có ngôn ngữ riêng là hình khối.
Điêu khắc là loại hình nghệ thuật không gian; nó phản ánh
hiện thực bằng hình khối không gian ba chiều có thể tích. Đối tượng căn bản gần
như độc nhất của điêu khắc là con người. Do chỗ điêu khắc hầu như không thể
hiện bối cảnh; hoàn cảnh hoạt động của nhân vật; việc thể hiện hình tượng hầu
như hoàn toàn dựa vào cách thể hiên diện mạo bên ngoài của con người; nhưng nó
còn phát hiện bản chất bên trong của đối tượng; thể hiện những phẩm chất tiêu
biểu của đối tượng.
Tượng là không gian hình khối; được chia thành hai loại như
tượng tròn; tượng nửa khối gắn nổi trên mặt phẳng gọi là tượng đắp nổi. Trong
tượng tròn có nhiều nhân vật (đối tượng) là cách gọi theo chức năng và qui mô
của nó như tượng đài; tượng trang trí (do đặt nơi công cộng ngoài trời hay
trong nội thất). Chính vì vậy; sản phẩm của điêu khắc có nhiêu loại nhưtượng
tròn; chạm nổi; khắc chìm với những kích cỡ to; nhỏ khác nhau; tượng trang trí;
chân dung.
Chất liệu có ý nghĩa rất quan trọng với ngôn ngữ điêu khắc
và nó luôn thể hiện ở chất liệu gỗ; đá; thạch cao; kim loại… Câu “Tượng đồng
bia đá” nói lên tính chất vững bền của các chất liệu được dùng trong điêu khắc.
Tính độc đáo của hình tượng của điêu khắc mà đối tượng là con người thường thể
hiện ở việc xây dựng tư thế; động tác điển hình có tính khái quát cao liên quan
tới tính cách đặc trưng của nhân vật.
Tìm hiểu thêm về nghệ thuật điêu khắc tại
Trang trí cũng là loại hình có từ lâu đời gắn bó mật thiết với
nghệ thuật kiến trúc; mà đặc điểm nổi bật của nó cũng bao hàm tính năng phục vụ
lợi ích và thẩm mỹ. Đặc trưng của nghệ thuật trang trí là hình trang trí hoặc
hoa văn. Các yếu tố hợp thành hoa văn là họa tiết và nhịp điệu. Trong đó các
họa tiết kết hợp các đường nét hình học theo một kiểu nào đó thì nhịp điệu lại
nối các họa tiết với nhau thành một khối thống nhất; lặp đi; lặp lại nhiều lần
tạo sự hài hòa; nhịp nhàng và thống nhất giữa các yếu tố trong một tác phẩm
trang trí.
-------------
Nghệ thuật trang trí bao gồm nhiều
thể loại; từ sự trang điểm cho con người; đến trang trí nội thất và tạo dáng;
tạo mẫu mã hàng hoá nói chung; thuộc về mỹ thuật công nghiệp; có tên gọi là
Design. Trong xã hội hiện đại ngày nay; Design càng có vai trò hết sức quan
trọng góp phần làm đẹp thế giới các đồ vật từ những vật dụng sinh hoạt thường
ngày đến hàng hoá; đến môi trường sống; làm việc và hoạt động nói chung của con
người
Hội họa
--------
Hội họa là nghệ thuật không gian mặt phẳng – tìm không gian
ba chiều trên mặt phẳng. Tuy chỉ ghi được một khoảnh của hành động; song nó vẫn
có khả năng thể hiện được ý nghĩa của cử chỉ; động tác của đối tượng và nó cũng
thể hiện được hình khối của đối tượng dưới những hình thức cụ thể khác nhau.
Khi cảm thụ tác phẩm hội họa chúng ta vẫn có cảm giác được chiều sâu; độ gần xa
về khoảng cách của bố cục theo tiêu điểm; diện về mặt đường nét; mầu sắc của
đối tượng phản ánh; thậm chí cả cảm giác được cái sinh động; sống động như thật
của đối tượng.
-----------
Trong hội họa đường nét; màu sắc là ngôn ngữ đặc trưng của
hội họa. Hội họa có ưu thế đặc biệt trong việc phản ánh thế giới với mọi màu
sắc phong phú; tinh tế của nó và hòa sắc của tác phẩm làm cho nó có sức biểu
hiện sâu sắc; tế nhị về tình cảm. Ánh sáng; bóng tối và sự kết hợp uyển chuyển
giữa các đường nét; màu sắc với các thủ pháp xa – gần (khoảng cách phù hợp) của
hội họa tạo ra cảm giác không gian ba chiều. Khả năng tạo hình của hội họa có ý
nghĩa rất lớn; nó nói lên được tư tưởng và tình cảm con người trên mọi cung bậc
và sắc thái khác nhau.
Song hội họa chỉ có thể gợi lên quá trình phát triển của
các biến cố trong phạm vi những khoảnh khắc mà nó thể hiện chứ không miêu tả
được đầy đủ quá trình phát triển sinh động của hiện thực như văn học; điện ảnh;
hoặc sân khấu.
Hội hoạ là loại hình nghệ thuật diễn tả không
gian ba chiều lên mặt phẳng hai chiều bằng các ngôn ngữ đặc trưng như hình
khối, màu sắc, đường nét, bố cục.
Về thể loại hội họa có tranh trên giá; tranh hoành tráng;
tranh chân dung; tranh phong cảnh; tranh “bố cục”; tranh tĩnh vật…
Tham khảo thêm Thường thức Mỹ thuật của Võ Như Diệu
Tham khảo Hội Mỹ Thuật Việt Nam
Tại
Đại hội Mỹ thuật toàn quốc khóa IX diễn ra cuối năm 2019
tại Hà Nội, họa sĩ Trần Khánh Chương đã bàn giao lại vị trí chủ tịch Hội
Mỹ thuật Việt Nam cho ông Lương Xuân Đoàn sau
20 năm ông nằm giữ vị trí đứng đầu Hội Mỹ thuật Việt
Nam. Tháng 4/2020, ông Trần Khánh Chương qua đời. Ông sinh năm 1943 tại Hà
Tĩnh.
2.2.3. Nghệ thuật âm nhạc
Âm nhạc
---
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật thời gian; chiếm lĩnh nhịp
điệu; tiết tấu; âm vực; nghĩa là nó sử dụng âm thanh để thể hiện tâm tư; tình
cảm; tư tưởng và những mong muốn của con người. Hình tượng của nghệ thuật âm
nhạc được xây dựng trên nền tảng của bảy nốt nhạc với các thăng trầm của nó
biến hoá vô tận như là các chữ cái của ngôn ngữ.
------------
Các âm vực trầm bổng với sắc thái cao độ – trường độ (trầm;
bổng – nhanh; chậm) là hai thuộc tính cơ bản của ngôn ngữ âm nhạc tạo nên giai
điệu – sắc thái ngôn ngữ của âm thanh. Người nghệ sỹ xây dựng nên những hình
tượng âm nhạc: giai điệu; nhịp điệu; hoà âm; điệu thức; âm sắc. Trong đó giai
điệu có tính quyết định trong một tác phẩm âm nhạc. Bằng sự vận dụng các yếu tố
và thuộc tính trên; thế giới âm thanh vật lý được “nhân tính hoá” trở thành
những hình tượng mang ý nghĩa thẩm mỹ; diễn tả sâu sắc thế giới tâm hồn con
người.
-----------
Điều đáng chú ý là âm nhạc phát hiện các trạng thái nội tại
mà không cần phải miêu tả các hình thái bên ngoài của chúng như các loại hình
nghệ thuật khác; nó chỉ tập trung biểu hiện cảm xúc và rung động trong quá
trình phát triển liên tục và năng động của nó với tất cả các sắc thái và sự
chuyển hoá phong phú. Chính vì vậy người ta coi âm nhạc nói với con người bằng
“ngôn ngữ trực tiếp của tâm hồn”; vì rằng cơ sở nội dung trong hình tượng âm
nhạc trước hết là những cảm xúc; những tình cảm của con người.
------------
Đối với âm nhạc; tình cảm không chỉ là đối tượng phản ánh
gần gũi; sinh động; tinh tế nhất mà còn là phương tiện để trình bày một chân
dung cuộc sống rộng lớn; đa dạng và phong phú hơn nhiều. Âm nhạc là một phương
tiện mạnh mẽ; tinh tế; năng động để giáo dục thẩm mỹ; tình cảm cho con người.
- Màu sắc các hợp âm, tối, sáng, êm dịu, nóng bỏng, gay gắt…
Âm nhạc có ảnh hưởng đến đời sống con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra, âm
nhạc, đặc biệt là nhạc giao hưởng có tác dụng tốt, kích thích sự phát triển trí
não. Do đó người ta khuyên cho trẻ nghe nhạc để phát triển trí tuệ của chúng.
Trong chiến tranh, âm nhạc được biết đến như một sức mạnh tinh thần cho
đồng đội: "tiếng hát át tiếng bom". Chỉ trong giây lát, âm nhạc có
thể làm cho con người chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, ví dụ
như vui, buồn, phấn chấn...
Người ta cũng cho rằng âm nhạc làm dịu tinh thần. Một liệu pháp chữa bệnh
được áp dụng kết hợp cho các bệnh nhân tâm thần là dùng âm nhạc làm giảm các
cơn phấn khích, đưa người bệnh vào trạng thái buồn ngủ.
Trước đây, nhất là trong thời đại La Mã, các chiến binh trước khi ra trận
thường được nghe các khúc nhạc mạnh mẽ mang tích chất cổ vũ, khích lệ để họ lấy
được tinh thần chiến đấu dũng cảm. Khi giao tranh, để cổ vũ cho tinh thần binh
sĩ người ta cũng thường đánh trống, khua chiêng một cách dồn dập để các chiến
binh xông lên.
- Nhạc sĩ
- Nhà soạn nhạc
- Ca sĩ
- Nhạc công
- Nhạc cụ
NHẠC CỤ
Phân loại theo nguồn âm
chia thành 5 bộ:
- bộ dây,
- bộ hơi,
- họ màng rung,
- họ tự thân vang và
- họ điện tử.
Các nhạc cụ của các dân
tộc lại có cách chia
khác nhau
Nhạc cụ các dân tộc Việt Nam có nhiều loại khác nhau.
Những nhạc cụ đó dùng để đệm cho hát, múa, độc tấu, hoà tấu... Các nhạc cụ này
còn dùng trong lễ hội, trong sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc.
54 dân tộc lại có hệ
thống nhạc cụ khác nhau.
Việt Nam là nước có một kho tàng nhạc cụ cổ truyền hết
sức phong phú và đa dạng. Kho tàng ấy được hình thành trong suốt hành trình
cuộc sống và chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Có những nhạc cụ được
sáng tạo tại chỗ có tính đặc trưng bản địa, có những nhạc cụ được du nhập từ
nhiều đường khác nhau nhưng đã được dân tộc hóa, bản địa hóa cho phù hợp với
nhạc ngữ, với thẩm mỹ âm nhạc Việt Nam. Tổng cộng có đến vài trǎm chi loài nhạc
cụ khác nhau. Dưới đây là những nhạc cụ tiêu biểu nhất của người Việt.
Phân loại
theo cách sử dụng
• Nhạc cụ hơi
• Nhạc cụ gõ
• Nhạc cụ dây
và Nhạc cụ dây dùng vĩ
• Nhạc cụ
phím
• Nhạc cụ dây
gảy
Thể loại âm nhạc
Thể loại nhạc theo các tiêu chí
Những tiêu chí được đưa vào để phân loại các thể loại
nhạc là: chức năng, đối tượng, xuất xứ, phân bố địa lý, lịch sử, những đặc
trưng về kĩ thuật, nhạc cụ và sản xuất, và sự pha trộn giữa những thể loại khác
nhau.
Chia ba nhánh
âm nhạc
- Các trường phái âm nhạc cổ điển - hay nhạc
nghệ thuật: nhạc giao hưởng và opera: Phương tây
Các phong cách và giai đoạn chính của âm nhạc cổ điển
gồm có:
Trung cổ
Phục hưng
Baroque
Cổ điển
Lãng mạn
Thế kỷ XX
Âm nhạc đương đại
Thế kỷ XXI
Lịch sử của âm nhạc phương Tây có thể truy
gốc từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Âm nhạc là một phần quan trọng của đời
sống xã hội và văn hóa Hy Lạp cổ đại. Nhạc sĩ và ca sĩ đã đóng một
vai trò nổi bật trong nhạc kịch Hy Lạp. ... Khả năng phổ cập tri
thức âm nhạc này ở Hy Lạp đã tạo ra một sự phát triển âm
nhạc rực rỡ tại đây.
- Các thể
loại âm nhạc dân gian: Trong
dân folklor, Âm nhạc truyền thống hay nhạc dân ca, nhạc folk
- Các thể
loại âm nhạc đại chúng: Dễ
nghe, dễ hát…nhạc phổ thông, nhạc nhẹ
Pop, Rock, Jazz, Blues, R&B/Soul, Hip hop, Nhạc
đồng quê, Folk đương đại, Nhạc điện tử, Nhạc dance
Nhạc các vùng miền trên thế giới: Mỹ Latinh, Caribe,
Brasil, Châu Phi, Châu Á
Thể loại nhạc
theo chức năng
Tình khúc hay tình ca - các ca khúc viết về tình yêu
Nhạc thiếu nhi, đồng dao và hát ru
Âm nhạc tôn giáo: thánh ca, nhạc phúc âm, thánh ca
Gregory, và các bài ca spiritual.
Âm nhạc quân sự: hành khúc, quốc ca, trường ca, nhạc
cách mạng, nhạc lính
Âm nhạc chiến tranh, nhạc phản kháng và nhạc phản
chiến
Nhạc khiêu vũ
Ngâm thơ
Nhạc hài kịch (comedy) và nhạc nhại (parody)
Nhạc cho các sự kiện đặc biệt: nhạc Giáng Sinh, nhạc
đám cưới, nhạc tang lễ, nhạc mừng sinh nhật
Một số cách
phân loại khác
Phân loại theo nhạc cụ chủ đạo
Thanh nhạc và khí nhạc
Nhạc acoustic và nhạc điện tử
Phân loại thị trường âm nhạc
Âm nhạc đại chúng hay Nhạc pop
==============================
Các Thể Loại Nhạc Phổ
Biến Hiện Nay
Nhạc Pop:
Nhạc Country (đồng quê)
Nhạc Rock:
Nhạc R&B
Nhạc Dance
Nhạc Jazz
Nhạc Blues
Flamenco
Các Thể Loại Nhạc Phổ
Biến Hiện Nay
1. Nhạc Pop
Nhạc Pop là một thể loại của nhạc đương đại và rất phổ
biến trong làng nhạc đại chúng. Thuật ngữ này không cho biết một cách chính xác
về thể loại nhạc hay âm thanh riêng lẻ nào mà nghĩa lại rất khác nhau phụ thuộc
vào từng khoảng thời gian trong lịch sử của nó và từng địa điểm khác nhau trên
thế giới.
Pop là thể loại nhạc phổ biến nhất
Trong làng nhạc đại chúng thì nhạc Pop thường được
phân biệt với các thể loại khác nhờ một số đặc điểm về phong cách nghệ thuật
như nhịp nhảy hay nhịp phách, những giai điệu đơn giản dễ nghe, cùng với một số
đoạn trong bài hát được lặp đi lặp lại.
Ca từ trong nhạc Pop thường nói tới tình yêu, xúc cảm
và sự nhảy múa. Là loại nhạc phổ biến (popular) hiện nay ở hầu hết các ca khúc
như của Celine Dion, Madonna, Frank Sinatra, Brandy… Pop chú trọng nhiều hơn
Rock về giai điệu và nhịp điệu, âm thanh cũng mềm hơn.
2. Nhạc Country (đồng
quê)
Trước hết, có thể hiểu ngay “nhạc Country” đó là nhạc
đồng quê. Khi âm thanh và giai điệu nổi lên, người ta có thể hình dung đến
những đồng cỏ bạt ngàn xanh mướt – với những chàng cao bồi miền Tây lãng du.
Nói đúng hơn, nhạc Country gắn liền với một nền văn hoá cao bồi. Nhạc đồng quê
ra đời ở Mỹ dựa trên nhạc thượng du miền Nam, chịu nhiều ảnh hưởng từ những hệ
thống nhạc khác như Blues, Jazz. Loại nhạc này thường có giai điệu trầm buồn.
Cội nguồn của nhạc Country chính là những bài dân ca
mà những người dân nhập cư từ Anh, Scotland, Iraland đã mang đến vùng núi
Appalanchian ở miền Nam Mỹ vào thế kỷ 18 – 19.
Dòng nhạc thanh cảnh, không cần nhiều nhạc cụ, đôi khi
chỉ là một cây guitar; người ta vẫn say sưa hát. Nội dung đơn giản, chủ đề
thường gặp ở nhạc Country là những triết lý nhỏ về cuộc sống, cuộc đời của
những người lao động, sự cô đơn hay những niềm tin và các mối quan hệ trong gia
đình.
Ngày nay, để đáp ứng thị hiếu của người nghe, các nhà
sản xuất thường pha trộn giữa Country với nhạc Pop và Rock đã phần nào làm cho
người nghe, nhất là giới trẻ, khó có thể nhận và phân biệt từng loại nhạc. Tuy
nhiên, cũng phải nhờ họ mà nhạc Country không bị rơi vào sự lãng quên.
3.Nhạc Rock:
Còn gọi là Rock’N’ Roll, do Elvis Presley khai sinh từ
thập kỷ 50.
Tiết tấu nhanh và mạnh là những tính từ khi nói về
rock
Dựa trên tiết tấu của cả ba loại nhạc trước đó (Blues,
Jazz, Country) nhưng Rock lại có tiết tấu mạnh và nhanh, thường sử dụng các
loại nhạc cụ điện tử.
Rock chú ý tới hiệu ứng âm thanh của các nhạc cụ hơn
là giọng hát.
“Folk rock” (rock dân ca) là loại rock nhẹ giống như
“slow-rock”, “soft-rock”…
“Hard rock” là loại Rock nặng với tiết tấu dữ dội và
âm thanh cực lớn, chát chúa. Cùng thể loại này là “heavy rock”, “heavy metal”.
Tất cả những ban nhạc nổi tiếng thập kỷ 60 đều bắt đầu
bằng nhạc Rock and Roll.
4.Nhạc R&B
R&B là viết tắt của Rhythm & Blues. Cũng có
thể nói R&B là một nhánh rẽ lớn của thể loại nhạc Blues đã có từ trước đó
khá lâu. R&B có nguồn gốc từ cộng đồng người châu Phi, phát sinh từ đầu thế
kỉ 20 và trở thành một loại nhạc phổ biến trên nhiều quốc gia vào khoảng thập
niên 40.
Thập niên 60 là thời kỳ vàng son của thể loại nhạc
R&B
Đó cũng là thời gian những người châu Phi bị bắt đưa
sang châu Mỹ sống tập trung tại miền Nam và sau đó họ đã có những cuộc chuyển
cư hàng loạt đến vùng Trung, Bắc, Tây Mỹ. R&B đã cùng họ phát triển rộng ở
khắp châu Mỹ. Những bản ghi âm chính thức đầu tiên được thực hiện vào năm 1938
và cho đến thập kỉ 60
Cũng trong khoảng thời gian đó, R&B phân hoá thành
3 luồng chính: Chicago Soul, Motown Sound và Southern Style phát triển khá mạnh
mẽ. Thập niên 60 cũng có thể gọi là thời kì vàng son của thể loại nhạc này.
5. Nhạc Dance
Nhạc dance – nhạc của những vũ điệu
Nhạc khiêu vũ (hay còn gọi là nhạc dance, nhạc nhảy,
nhạc sàn) là nhạc thường dùng để nhảy, múa là chính nhưng người ta cũng có thể
dùng để nghe, lồng ghép…
6. Nhạc Jazz
Thể loại nhạc jazz chính là một nét văn hóa Mỹ
Jazz là một nét văn hoá bản xứ ban đầu chỉ của riêng
người Mỹ và đã được tạo ra bởi người Mỹ. Âm nhạc phương Tây và châu Phi là nơi
đã gieo hạt nên Jazz, nhưng chính văn hoá Mỹ mới là nơi Jazz nảy mầm và phát
triển.
Jazz không phải là loại nhạc của người da trắng, cũng
chẳng phải là của người da đen, mà nó là cả một câu chuyện về những phong tục,
di sản và cả triết học. Thời gian trôi qua và sự trao đổi âm nhạc này đã tạo ra
Jazz.
7. Nhạc Blues
Cùng với nhạc Jazz, nhạc Blues có nguồn gốc từ những
bài ca lao động, tôn giáo và dân ca của người Mỹ da đen được người Mỹ da đen
khởi xướng vào đầu thế kỷ 20. Nhạc Blues khá buồn, vì thế nên có tên Blues
(buồn). Dòng nhạc này thường được biểu diễn bằng kèn, giai điệu réo rắt.
Nhạc Blues ghi nhận hai phong cách riêng biệt
Khởi nguồn của Blues không đơn giản một cách chắc chắn
như là đã được khắc lên đá. Trong một vài năm, đã có rất nhiều chuẩn mực về
giai điệu, cách hoà âm được thiết lập, và những chuẩn mực này đã và vẫn đang
được biểu diễn rộng rãi. Blues có thể rất buồn, hạnh phúc, chậm, nhanh, không
lời, ca khúc… và thậm chí là bất cứ nét nhạc nào do các nghệ sỹ viết ra.
Lịch sử của các giọng hát nhạc Blues được chia thành
hai nửa. Mỗi nửa thể hiện một giai đoạn khác nhau. Nửa đầu tiên vào khoảng cuối
thế kỷ XIX đến những năm 1930. Nửa này ghi nhận hai phong cách hát Blues riêng
biệt. Phong cách thứ nhất có thể được coi là Country hoặc Rural-Blues trong khi
đó phong cách còn lại được gắn mác City hoặc Urban-Blues
Nhạc Blues đồng quê được hát bởi những người đàn ông
với nhạc cụ và phần nhạc đệm đơn giản. Những ca sỹ hát nhạc Blues thời đó
thường chỉ có cây guitar là nhạc cụ duy nhất để đệm cho mình. Ca từ cũng rất
đơn giản và âm nhạc thật sự rất mộc mạc và không hề được gọt dũa. Nhạc Blues
thành phố bao gồm cả giọng ca của các ca sỹ nam và nữ.
Âm
nhạc ở đây tao nhã và tinh tế hơn nhạc Blues đồng quê. Thay bởi phần nhạc nền
đơn giản, những ca sỹ nhạc đồng quê thành phố còn có thể sử dụng một nhóm khiêu
vũ nhỏ phụ hoạ. Bessie Smith, Ma Rainey, và Chippie Hill là những ca sỹ nổi
tiếng nhất ở phong cách này. Blues được sử dụng nhiều trong tất cả các loại
nhạc phổ thông.
8. Flamenco
Flamenco là một loại hình nghệ thuật mang đậm phong
cách đặc trưng của nền văn hoá Tây Ban Nha, tổng hợp từ ba thể loại: Cante, bài
hát; Baile, vũ điệu, và Guitarra, nhạc công chơi guitar. Khi mới nghe Flamenco,
ta dễ lầm tưởng đó chỉ là những giai điệu đơn giản được hoà trong tiếng gõ nhịp
cùng những vũ nữ với bộ váy xoè nhiều lớp, nhưng thật sự đây là loại hình nghệ
thuật độc đáo và tràn đầy rung cảm nghệ thuật.
Thể loại nhạc flamenco đầy rung cảm
Những người Gyspi ở miền Nam Tây Ban Nha được coi là
người sáng tạo ra, tuy nhiên những bài hát và điệu nhảy dân gian Tây Ban Nha,
cùng sự giao thoa của các nền văn hoá trong nhiều thế kỷ đã góp phần trực tiếp
và gián tiếp cho sự hình thành của Flamenco. Flamenco sơ kỳ mới chỉ là những âm
thanh cùng tiếng vỗ tay theo giai điệu, sau này mới có thêm biểu diễn guitar.
Khác với vũ đạo Châu Âu, Flamenco mang hơi hướng phương Đông.
Vũ công qua động tác và thần thái phải truyền tải được
những ý tưởng, tình cảm và nội dung của ca khúc. Những nhịp điệu được kết hợp
cùng tiếng gõ chân kỹ thuật, vì vậy giày nhảy của vũ công thường là loại đặc
biệt với nhiều đinh tán ở đế giày. Y phục của người vũ nữ là những bộ váy xoè
nhiều lớp, ôm sát người để tôn lên dáng điệu yêu kiều, uyển chuyển.
------------
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật của thính giác, tuy
nhiên, khi nghe ca sĩ, nghệ sĩ hát cùng với sự trình diễn, nó sẽ lột tả hết cái
thần của nghệ thuật. Bởi vì khi một nghệ sĩ biểu diễn sẽ thể hiện sự chuyển
động của dường nét, hình mảng, ánh sáng và màu sắc, như vậy sẽ tôn thêm giá trị
của hình thức và nội dung.
Chủ tịch Hội Đỗ Hồng Quân
Chủ tịch Hội: nhạc sĩ
Đỗ Hồng Quân. Phó Chủ tịch Hội thường trực: Đức Trịnh. Phó Chủ tịch Hội: Trần
Vương Thạch, Phạm Ngọc Khôi, Nguyễn Thị Minh Châu.
--------
Về thể loại; âm nhạc có: thanh nhạc (ca khúc; tổ khúc;
opéra); khí nhạc (étude; sonata; conserto; symphonie).
2.2.4. Nghệ thuật Văn
chương – Văn học
Văn chương là khái niệm dùng để
chỉ một ngành nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất
liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Khái niệm văn
chương và văn học thường bị dùng lẫn lộn.
Văn học là khoa học nghiên cứu
về văn chương. Nó lấy các hiện tượng văn chương nghệ thuật làm đối tượng cho
mình. Quan hệ giữa văn chương và văn học là quan hệ giữa đối tượng và chủ thể,
giữa nghệ thuật và khoa học; văn chương (nghệ thuật) là đối tượng của văn học
(khoa học).
Văn học giữ một vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các
loại hình nghệ thuật. Bởi ngôn ngữ của văn học làm cơ sở biểu hiện cho nhiều
loại hình nghệ thuật (làm kịch bản cho sân khấu; điện ảnh; phần lời cho âm
nhạc; vũ điệu; lời bình cho cho việc đánh giá các tác phẩm nghệ thuật khác).
không phải ngẫu nhiên mà người ta thuờng chia đôi văn học và nghệ thuật.
Ngôn ngữ văn học là ngôn từ; hay nói chính xác là ngôn ngữ của con người làm phương tiện xây
dựng hình tượng để phản ánh cuộc sống. Với lợi thế của ngôn từ; văn học có thể
đề cập tới mọi phương diện của đời sống hiện thực; có khả năng phản ánh linh
hoạt; nhanh nhạy và đầy đủ; chính xác đến mọi góc cạnh tính cách của nhân vật
hoặc của cuộc sống xã hội.
Văn chương là loại hình nghệ thuật có khả năng tạo hình và
có khả năng biểu hiện đa dạng; nó không những có thể mô tả con người với những
hành động cụ thể trong khoảnh khắc và cả quá trình; mà còn có thể nói rõ và đầy
đủ những tư tưởng; tình cảm của con người một cách tinh vi và sâu sắc.
Đối với loại hình nghệ thuật khác thì hình tượng nghệ thuật tồn
tại ngay trong bản thân tác phẩm; ở ngoài chủ thể cảm thụ; nhưng đối với văn
học thì hình tượng chỉ hiện lên trong trí tưởng tượng của người đọc; ở chủ thể
cảm thụ. Đặc điểm này làm cho văn học sống trong tư tưởng; trong sự tích cực
chủ động tưởng tượng; liên tưởng; sáng tạo của người thưởng thức. Vì ngôn ngữ
văn học là tiếng nói; thể hiện trực tiếp tư duy con người – công cụ; phương
tiện vật chất hoá tư duy và công cụ; phương tiện thông tin phổ biến nhất của
con người.
Văn học có khả năng phản ánh cả hiện thực thế giới bên
ngoài và nội tâm bên trong con người một cách đầy đủ và chính xác. Do đó; nghệ
thuật văn học thường kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác để có thể tăng
thêm sức mạnh tiềm ẩn của nó; sự tác động của nó. Ví như thơ được đọc; ngâm
trên nền nhạc đệm; tiểu thuyết có tranh minh họa.
Về thể loại; văn học có: truyện ngắn; truyện vừa; tiểu thuyết,
thơ; tùy bút, bút ký, hồi ký…
Văn học dân gian
Ca dao, tục ngữ, câu
đố, thành ngữ
Trường ca, sử thi
Chủ tịch
nhiệm kỳ 2020 – 2025 Nguyễn Quang Thiều
===========================================
2.2.5. Nghệ thuật múa
Múa là một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp khách quan
đặc thù - Phương tiện thể hiện chính là cơ thể con người. - Ngôn ngữ được thể
hiện bằng các động tác, dáng dấp, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt cùng với sự chuyển
động có trình tự logic. - Khi con người có những xúc cảm không thể diễn đạt
bằng lời thì người ta thể hiện qua động tác múa.
Múa được ra đời từ rất sớm của loài người. Múa phản ánh các hiện tượng của cuộc sống
con người.
Những đặc điểm cơ bản
của nghệ thuật múa
1.
Đặc trưng cách điệu
2. Đặc trưng khái quát
3.Tạo ra
cái đẹp
3. Đặc trưng tượng trưng
4. Đặc trưng tạo hình
Quan hệ giữa múa và âm nhạc
Âm nhạc là linh hồn của múa
Âm nhạc là một bộ phận cấu thành của
nghệ thuật múa.
Các tư thế động tác múa phải tuân theo
qui luật của âm nhạc.
Múa là âm nhạc nhìn thấy bằng mắt
+
Phân loại múa
Múa biểu
diễn tập thể không có tình tiết, không có kịch tính.
Múa có nhân
vật cụ thể, tình tiết và kịch tính.
Múa sinh
hoạt không chuyên ở cộng đồng, trong lễ hội
Múa dân
gian, múa bale, múa thiêng…
Các kỹ năng múa
1. Kỹ năng mô phỏng
2. Kỹ năng khống chế
3. Kỹ năng mềm dẻo
4. Kỹ năng mở
5. Kỹ năng nhảy
6. Kỹ năng quay, xoay
2.2.6. Nghệ thuật Sân khấu
Sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp có lịch sử lâu
đời. Bằng sự kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật khác như văn học; hội họa; kiến
trúc; âm nhạc; múa và hiện nay còn bao gồm cả điện ảnh. Sân khấu tạo nên các
hình tượng nghê thuật sống động đối với công chúng nghệ thuật. Ngôn ngữ đặc
trưng là hành động (hành động hình thể; hành động tâm lý; hành động ngôn ngữ);
thông qua diễn xuất của diễn viên. Hành động sân khấu là hành động kịch; hành
động mang tính xung đột; nhằm biểu hiện tư tưởng của kịch mang tính nhất quán
chứ không phải bất kỳ hành động có tính chất ngẫu nhiên nào.
Kịch bản văn học là cơ sở của chủ đề tư tưởng; là cái cốt
của tác phẩm sân khấu. Diễn viên là người biểu hiện ý đồ của vở diễn; nhưng họ
có vai trò đặc biệt quan trọng đến sự thành công hoặc thất bại của vở diễn.
Ngoài nhân tố cơ bản là hành động kịch; nghệ thuật sân khấu còn có những phương
tiện như âm nhạc; múa; trang trí; đạo cụ hỗ trợ cho diễn xuất. Ở đây; vai trò
của diễn viên là vô cùng quan trọng.
Sân khấu là một loại hình nghệ thuật kết hợp cả không gian và thời gian,
thuộc loại có tính động, là nghệ thuật có tính tổng hợp cao và kết hợp trong nó
nhiều loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, múa... Sau khi
điện ảnh ra đời, sân khấu đã biết kết hợp cả điện ảnh để làm cho các vở diễn
sân khấu trở nên hấp dẫn hơn, tác động tới các giác quan và cảm xúc của người
xem mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Sân khấu là hình thức nghệ thuật có tính tổ chức
và tính nghệ thuật cao nhất trong nghệ thuật biểu diễn.
Về thể loại; sân khấu có: kịch nói; kịch hát; kịch rối;
kịch truyền hình; truyền thanh; kịch câm…
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (thành lập năm 1957), viết
tắt là VSAA, là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp phi lợi nhuận quy
tụ các nghệ sĩ, nhà hoạt động sân khấu tự nguyện có đóng góp tích cực cho sự
phát triển của nền sân khấu Việt Nam. Hội nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam, hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội có tên giao dịch tiếng Anh là Vietnam Stage Artists
Association (VSAA).
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên
hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam.
Trụ sở tại Tầng 4 tòa nhà Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam,
51 Trần Hưng Đạo - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Hiện nay, Chủ tịch Hội nhiệm kỳ IX là Nghệ sĩ Nhân dân Thúy
Mùi.
Bắt đầu từ Sắc lệnh số 102/SL ngày 20/05/1957 về việc thành
lập hội, Đại hội I tổ chức năm 1957 với chủ tịch đầu tiên là Nghệ sĩ Nhân dân
Thế Lữ, đến nay hội có hơn 2000 hội viên hoạt động trên tất cả các lĩnh vực sân
khấu và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nghệ thuật sân
khấu Việt Nam.
=================================================
2.2.7. Nghệ thuật thứ 7: Điện
ảnh
Điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ; nó xuất hiện vào cuối
thế kỷ XIX. Tuy nhiên; sau khi ra đời nó đã trở thành loại hình quan trọng bậc
nhất xét về tính quần chúng rộng lớn của nó; đáp ứng cao nhu cầu thẩm mỹ của
thời đại.
Sự ra đời của điện ảnh gắn liền với tiến bộ của khoa học – kỹ
thuật và công nghệ; nó kết hợp các thành tựu của khoa học và công nghệ với các
phuơng tiện của nhiều loại hình nghệ thuật khác tạo cho điện ảnh có tính tổng
hợp cao nhất.
Phương tiện ngôn ngữ của điện ảnh cũng là hành động nhưng nó
khác với sân khấu. Ở đây hành động nhân vật vẫn là yếu tố hạt nhân; nhưng đồng
thời nghệ thuật quay phim; dựng phim; cũng có một ý nghĩa quyết định. Bởi hình
ảnh phim là hình ảnh không gian đa chiều hết sức đa dạng và phong phú được đạo
diễn và nghệ sỹ quay phim biến đổi liên tục theo những góc độ; tầm cỡ; cự ly
khác nhau để biểu đạt tư tưởng; tính cách; nhân vật.
Cấu trúc của tác phẩm
nghệ thuật điện ảnh lệ thuộc vào nghệ thuật dựng phim khi xét nó từ quá trình
kịch bản văn học sang kịch bản phim; kịch bản phân cảnh đến dựng phim đó là cả
một quá trình sáng tạo thể hiện ý đồ của đạo diễn trong việc tạo ra tác phẩm
điện ảnh. Ngoài ra còn có vô số các yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật khác có vai
trò hỗ trợ quan trọng dưới nhiều hình thức khác nhau: âm nhạc và âm thanh nói
chung (tiếng động); ánh sáng; hội họa; trang trí – thiết kế nhân vật và bối
cảnh. Với kỹ thuật điện toán (kỹ thuật số); ngày nay điện ảnh đã tiến những
bước dài về kỹ thuật (kỹ xảo) về kỹ thuật hỗ trợ cho điện ảnh.
Trong 7 loại hình nghệ thuật, điện ảnh được ra đời muộn hơn cả, và nó là
nghệ thuật có tính tổng hợp cao nhất, tổng hợp tất cả các tính chất của 6 loại
hình nghệ thuật khác trước nó.
Về thể loại; điện ảnh có: phim nghệ thuật trong điện ảnh và
phim truyền hình; phim họa hình; phim tài liệu; phim thời sự.
2.4. Mối liên hệ giữa các
ngành nghệ thuật
Các ngành nghệ thuật có một mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, nó
ẩn chứa trong nhau, hỗ trợ và phát huy những giá trị liên quan nhau. Trong văn
học, thi ca có thể mô tả một bức tranh sinh động đầy màu sắc không khác gì một
tác phẩm hội hoạ. Nguyễn Du từng “vẽ”: “Cỏ
non xanh rợn chân trời, cành lê trắng điểm một vài bông hoa”... Bấy nhiều
ngôn từ thôi cũng đã đủ để lột tả được một bức tranh đầy hình tượng và màu sắc.
Nghệ thuật sân khấu với hội họa: trang phục cho diễn viên, phông màn cho những vở diễn cũng có sự tham
gia của màu sắc và đường nét trong hội hoạ.
Điện ảnh là một loại hình nghệ thuật
tổng hợp các yếu tố của màu, của hình, của âm
thanh... Nghĩa là tính hoành tráng trong nó hội tụ các loại hình khác như hội
hoạ, điêu khắc, kiến trúc, sân khấu và cả văn chương. Ngày nay còn có các loại
hình như body art, pop art, performance art, environment art, video art... Tất
cả đều sử dụng ngôn ngữ tạo hình như đường nét, hình vẽ, màu sắc, hoạ tiết, bố
cục, âm thanh, ánh sáng và sự chuyển độngsắc màu của khói lửa, của âm thanh,
của hình ảnh chuyển động đều tuân thủ theo những nguyên lí của nghệ thuật,
nghĩa là nó ẩn chứa trong đó đường nét, hình tượng, màu sắc.
Các mối quan hệ như thơ và nhạc (văn chương và âm nhạc) múa và nhạc (ngôn
ngữ âm thanh và ngôn ngữ động tác, hình thể) v.v… tất cả các ngành nghệ thuật
đều có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
Chương 2. Nghệ thuật biểu
diễn
Nghệ thuật biểu diễn
2.1. Cơ sở lý luận về nghệ
thuật biểu diễn
Khái niệm nghệ thuật biểu diễn
Khi nói đến nghệ thuật biểu diễn không thể không kể tới ba loại hình nghệ
thuật, đó là: âm nhạc, múa
và sân khấu.
Nghệ thuật biểu diễn là sử dụng cơ thể, khuôn mặt của con
người làm phương tiện biểu diễn.
Trong nghệ thuật biểu diễn có hai bộ phận: nghệ thuật biểu diễn dân gian
và nghệ thuật biểu diễn bác học mang tính chuyên nghiệp.
Khái niệm “văn hóa dân gian” và “nghệ thuật biểu diễn dân gian”
Nghệ thuật biểu diễn dân gian là một bộ phận của văn hóa dân gian. Vì
vậy, muốn hiểu nghệ thuật biểu diễn dân gian từ di sản văn hóa dân gian “folklore”.
Ngữ văn dân gian bao gồm: Tự sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, sử thi, trường ca, truyện thơ... Trữ tình dân
gian (ca dao, dân ca); Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian
2.1.1. Nghệ thuật diễn xướng
dân gian
Nghệ thuật dân gian bao gồm: Văn học dân gian; Nghệ thuật tạo hình dân
gian (kiến trúc, điêu khắc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian...);
nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân
gian, trò diễn...) và các nghề truyền thống liên quan đến nghệ thuật.
Tri thức dân gian bao gồm: Tri thức về môi
trường tự nhiên (địa lý, thời tiết, khí hậu...); tri thức về con người (bản
thân): y học dân gian và dưỡng sinh dân gian; tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá
nhân và ứng xử cộng đồng); tri thức sản xuất (kỹ thuật và công cụ sản xuất).
Loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian
Nghệ thuật biểu diễn dân gian bao gồm các loại hình: âm nhạc dân gian,
múa dân gian, sân khấu dân gian và trò diễn;
Nghệ thuật biểu diễn dân gian Việt Nam là khởi nguồn, đã sản sinh, nuôi
dưỡng một số hình thức nghệ thuật biểu diễn bác học, chuyên nghiệp sau này, để
trở thành những bộ môn nghệ thuật sân khấu truyền thống đặc sắc của sân khấu
Việt Nam.
2.1.2. Nghệ thuật biểu diễn
chuyên nghiệp
Các đoàn nghệ thuật
chuyên nghiệp TW và địa phương
Nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp là
những ngành nghệ thuật mà các nghệ sĩ được đào tạo trường lớp, bài bản. Nghệ sĩ
chuyên nghiệp phải tập luyện kỹ năng nghề nghiệp
hàng ngày và cả cuộc đời gắn với một chuyên ngành nghệ thuật có tính học thuật,
có tính nghệ thuật cao siêu, tới giới hạn tối đa về tính nghệ thuật.
Hệ thống các nhà hát, đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp.
Giữa hai bộ phận Dân gian và Bác học có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau, tương hỗ lẫn nhau, thậm chí cái này là cội gốc của cái kia.
Lưu ý có nhiều đoàn nghệ thuật dân gian nhưng có tính chuyên nghiệp.
Những đoàn đó phát triển chất liệu dân gian trong biểu diễn chuyên nghiệp
2.2. Nghệ thuật biểu diễn
dân gian, dân tộc
2.2.1. Các loại hình nghệ
thuật biểu diễn dân gian, dân tộc
Lưu ý tên gọi: Nghệ thuật diễn xướng dân gian, nguồn gốc nghệ thuật dân gian. Thời gian của nghệ
thuật dân gian như thế nào?
Đất nước Việt Nam có một nền nghệ thuật hết sức phong phú, đa dạng của
hơn 54 dân tộc anh em cùng chung sống, ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có
nhiều loại hình nghệ thuật dân gian cùng tồn tại và phát triển.
Nghệ thuật biểu diễn dân gian gồm có các loại hình: âm nhạc dân gian, múa
dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn.
Nghệ thuật dân gian
Các loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian có cả ba miền là Hát ru, Đồng
dao, Hò, Và, Lý, múa Lân, múa Rồng. Tất nhiên cũng những loại hình ấy nhưng ở
mỗi địa phương có thể có những nét khác biệt phản ánh nét văn hóa riêng của
từng địa phương. Ví dụ: hò sông Mã khác với hò Huế; hò Trị Thiên khác với hò
Quảng; lý Huế khác với lý Nam Bộ; hát ru miền Bắc khác với hát ru Nam Bộ, vv...
NTBD Dân gian ở miền Bắc
+ Âm nhạc dân gian: Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Bắc Giang; Múa và hát Chèo; Xẩm; Ca Trù; Chầu
Văn... Hát Then, hát Shi, Lượn của người Tày, người Nùng; Hát Quan Lang v.v...
Hệ thống nhạc cụ rất phong phú: Các loại khèn, kèn lá, kèn môi, cồng chiêng,
sáo, tiêu,
+ Múa dân gian: Hát múa Ải Lao; Múa Bồng Triều Khúc, múa đèn, múa chèo, múa cuộn tay
đồng bằng Bắc Bộ
+ Múa các dân tộc Tây Bắc, Đông Bắc: Múa xòe Thái, Múa Khèn Mông…
NTBD Dân gian
ở miền Bắc
+ Sân khấu dân gian: Chèo (đồng bằng Bắc
Bộ), Rối nước, Rối
cạn; Tuồng (Bắc Ninh, Đông Anh, Thanh Hóa)...hát đối đáp Dân ca quan họ
+ Trò diễn: Rước thần An Dương
Vương (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội); Rước thánh Chèm (Từ Liêm, Hà Nội); Diễn trận
Thánh Gióng diệt giặc Ân (làng Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội)...
+ Trò diễn trong các lễ
hội nông nghiệp, lễ hội đình làng…
NTBD Dân gian
ở miền Trung
+ Âm nhạc dân gian: Nhã nhạc cung đình
Huế; Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh; Ca Huế; Ca Quảng; Hô Bài Chòi (tiêu biểu ở Bình
Định, Quảng Nam, Khánh Hòa...); Nhạc võ Tây Sơn - Bình Định; Âm nhạc Chăm…Hệ thống nhạc cụ rất phong phú
(học viên liệt kê)
+ Múa dân gian: Múa cung đình Huế, Hát
múa Bả Trạo (các tỉnh miền duyên hải); Hát múa Sắc bùa (Hà Tĩnh, miền Nam Trung
Bộ); Múa trống mõ, múa đèn (Thanh Hóa); Múa Chăm, múa Xoan…
+ Sân khấu dân gian: Tuồng - Hát Bội (Huế,
Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa)...
NTBD Dân gian
ở miền Trung.
+ Trò diễn: Trò Bình Ngô phá trận
(trong lễ hội Lam Kinh tại Thọ Xuân, Thanh Hóa); Trò Văn Vương (Thanh Hóa); Trò
bủa lưới (trong lễ hội cầu ngư của làng Thái Dương Hạ, thị trấn Thuận An, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế); Hô Bài Chòi; Diễn xướng tích Thầy (trong lễ
hội Dinh Thầy - Thím, xã Tân Tiến, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận)...
Trò diễn các dân tộc
Tây Nguyên, Người Chăm
NTBD Dân gian
Nam Bộ
+ Âm nhạc dân gian: Đờn ca tài tử; Vọng cổ
(ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ); Hát Sắc bùa ở đồng bằng sông Cửu Long...các điệu
lý
+ Múa dân gian: Múa Khơme Nam Bộ; Múa
Rèm Vông, múa Lăm Lêu, múa Xaravan của người Khơme...
+ Sân khấu dân gian: Hát Bội; Cải lương;
Kịch hát Dì Kê, Dù Kê, Rô Bắm của người Khơme Nam Bộ...
2.3. Nghệ thuật biểu diễn
chuyên nghiệp
2.3.1. NTBD ở các đơn vị công lập
1. Biểu diễn nghệ thuật
là trình diễn chương trình, tiết mục, vở diễn trực tiếp trước công chúng của
người biểu diễn.
2. Loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm: “Tuồng, chèo, cải
lương, xiếc, múa rối, bài chòi, kịch nói, kịch dân ca, kịch câm, nhạc kịch,
giao hưởng, ca, múa, nhạc, ngâm thơ, tấu hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ
thuật biểu diễn khác”. (NĐ 79/2012/NĐ CP
quy định về biểu diễn nghệ thuật).
3. Khiêu vũ
nghệ thuật, trình diễn trong nghệ thuật sắp đặt, trình diễn đường phố.
Phân chia NTBD Chuyên
nghiệp
Nghệ thuật biểu diễn chuyên
nghiệp có hai bộ phận cơ bản:
Loại thứ nhất: Bao gồm
các loại hình nghệ thuật dân tộc, truyền thống, vốn bắt nguồn từ nghệ thuật
biểu diễn dân gian:
+ Ca, múa, nhạc dân
tộc.
+ Sân khấu kịch hát dân
tộc: Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch dân ca (Ca kịch Bài chòi, Dân ca kịch Ví,
Giặm Nghệ Tĩnh);
+ Múa Rối: Rối nước và
Rối cạn;
+ Xiếc, tạp kỹ, tấu
hài;
Phân chia NTBD Chuyên
nghiệp
Loại thứ hai gồm các
loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại, được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam
và đã được bản địa hóa như:
+ Ca, múa, nhạc hiện
đại
+ Nhạc kịch
+ Nhạc vũ kịch
+ Giao hưởng
+ Sân khấu: Kịch nói,
kịch câm
+ Các loại hình nghệ
thuật biểu diễn khác: Khiêu vũ nghệ thuật; Trình diễn trong nghệ thuật sắp đặt;
Nghệ thuật trình diễn đường phố.
2.2.2.2. Một
số loại hình nghệ thuật sân khấu có nguồn gốc từ nghệ thuật biểu diễn dân gian
Nghệ thuật Chèo
Chèo vốn là một hình thức sân khấu lưu hành trong dân gian vào những dịp
hội hè, đình đám. Nghệ nhân của sân khấu Chèo là người nông dân gắn liền với
sản xuất nông nghiệp. Nơi diễn là tấm chiếu rải ở sân đình, người xem ngồi
quanh ba mặt, chiếc hòm đồ của phường hát đặt sau chiếu cũng trở thành đạo cụ
sân khấu, tùy theo quy ước của từng cảnh diễn mà diễn viên cũng như người xem
hiểu nó tượng trưng cho vật gì trong cảnh đó.
Nghệ thuật Tuồng
“Tuồng” là theo cách gọi của miền Bắc, còn ở miền Trung và miền Nam người
dân gọi nghệ thuật Tuồng là hát Bội, có nơi còn gọi là hát Bộ.
Về nghệ thuật Tuồng, trong giới nghiên cứu cũng chưa có sự thống nhất về
nguồn gốc của Tuồng. Có một số ý kiến cho rằng Tuồng có xuất xứ từ Trung Hoa,
căn cứ vào sự kiện Lý Nguyên Cát - một kép hát ta bắt được trong cuộc chiến
đánh quân Nguyên, được đưa vào cung để dạy các cung nữ diễn Tuồng. Ngược lại,
có một số ý kiến cho rằng vào thời Lý - Trần ở ta đã có hình thức sân khấu thô
sơ, có tích Tuồng, có hát, múa, kẻ mặt và có nhạc đệm theo, nếu sự kiện Lý
Nguyên Cát là có thật thì cũng chỉ là như “chất xúc tác” giúp cho nghệ thuật
Tuồng bây giờ trở nên phong phú hơn chăng?
Nghệ thuật Cải lương
So với nghệ thuật Chèo và Tuồng thì nghệ thuật sân khấu Cải lương ra đời
muộn hơn nhiều. Có lẽ vì thế có một số ý kiến cho rằng nghệ thuật sân khấu Cải
lương không thể xếp vào hàng sân khấu cổ truyền dân tộc như Tuồng, Chèo, mà chỉ
xếp nó vào dòng sân khấu kịch hát dân tộc gồm Tuồng, Chèo, Cải lương (sau này
có thêm thể loại kịch dân ca – một số đoàn dân ca kịch).
Nghệ thuật sân khấu Cải lương đã trải qua các bước cơ bản sau đây:
- Nhạc lễ, nhạc đồng bóng, nhạc nhà chùa, nhạc Tuồng
- Đờn ca tài tử
- Ca ra bộ
- Dần dần xuất hiện các yếu tố mang tính sân khấu: hóa trang, phục trang,
hát đối đáp, thoại kịch, từ đó hình thành nên loại hình sân khấu độc lập là Cải
lương vào năm 1918 ở Nam Bộ.
Một số nghiên cứu cho rằng đờn ca tài tử Nam Bộ có sự ảnh hưởng từ nhạc
dân gian Chăm
Nghệ thuật sân khấu dân gian
Hiện nay, về lực lượng chuyên nghiệp, chúng ta có Nhà hát Tuồng Việt Nam
và Nhà hát Chèo Việt Nam là đơn vị cấp quốc gia; Ngoài ra có một số đơn vị nghệ
thuật Tuồng, Chèo trực thuộc các Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh như:
Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh ở Đà Nẵng, Nhà hát Tuồng Đào Tấn ở Bình Định:
Nhà hát Chèo Hà Nội, Đoàn Tuồng, Đoàn Chèo Thanh Hóa, Nhà hát Chèo Thái Bình,
Nhà hát truyền thống hát Bội thành phố Hồ Chí Minh...
Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp
Nghệ thuật Rối nước, rối cạn cũng là từ nghệ thuật biểu diễn dân gian
tiến lên thành sân khấu chuyên nghiệp.
Về sau Sân khấu Kịch hát chuyên nghiệp Việt Nam có thêm loại hình các
đoàn nghệ thuật Ca kịch Bài Chòi, Dân ca kịch Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, cũng là những
hình thức sân khấu được phát triển lên từ âm nhạc dân gian.
Bên cạnh các đơn vị chuyên nghiệp, hiện nay ở các địa phương trên cả ba
miền Bắc, Trung, Nam vẫn có hàng trăm câu lạc bộ Tuồng, Chèo, Cải lương, Rối
nước của lực lượng không chuyên đang hoạt động phục vụ đời sống văn hóa của
quần chúng nhân dân. Nhiều câu lạc bộ có quy mô và trình độ nghệ thuật khá cao,
hoạt động theo phương thức bán chuyên nghiệp.
2.4. Hệ thống các đơn vị nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp công lập
Khối đơn vị nghệ thuật các tỉnh, thành phố (địa phương)
Gồm 108 nhà hát, đoàn nghệ thuật, được cấp ngân sách hàng năm từ nguồn
kinh phí sự nghiệp của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố,
Khối đơn vị nghệ thuật lực lượng vũ trang, gồm 16 đoàn nghệ thuật, được
cấp ngân sách hàng năm từ nguồn kinh phí từ các tổng cục, quân khu, binh chủng.
Hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Nhà nước, nhiều địa phương đã nhập các
Đoàn Nghệ thuật, Nhà hát vào Trung tâm văn hóa tỉnh. Đây là một bước lùi về
nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp.
2.5. Đặc trưng nghệ thuật
biểu diễn ở Việt Nam
2.5.1. Bối cảnh
- Lịch sử phát triển NTBD ở Việt Nam qua các thời kỳ
- Bối cảnh hiện nay
- Bối cảnh chính trị, kinh tế và các cuộc cách mạng Khoa học
công nghệ
- Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống
các nước XHCN Đông Âu
- Xu thế Toàn cầu hóa
- Việt Nam đổi mới chính sách đối ngoại. Đổi mới tư duy kinh
tế
- Khoa học công nghệ phát triển
- Giao lưu nghệ thuật phát triển
Trong bối cảnh đó, ngành nghệ thuật biểu diễn nước ta càng có nhiều cơ
hội để vươn ra thế giới, giới thiệu, quảng bá các loại hình nghệ thuật đặc sắc
của Việt Nam tới nhân dân các nước, đồng thời tiếp thu, học tập được nhiều
thành quả nghệ thuật của các dân tộc khác, làm phong phú thêm đời sống tinh
thần cho nhân dân ta.
2.5.2. Việt Nam có nền văn hóa nghệ thuật lâu
đời, phong phú, đặc sắc
Việt Nam với hơn 54 dân tộc anh em cùng chung sống vốn có một nền văn hóa
nghệ thuật phong phú, đặc sắc. Ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, trên mọi vùng miền
của đất nước, từ miền xuôi cho tới miền núi, từ đồng bằng cho tới miền biển,
mỗi dân tộc đều có các loại hình nghệ thuật mang bản sắc Tiếng rất đặc sắc.
Các loại hình nghệ thuật biểu diễn Việt Nam, gồm nghệ thuật dân gian và
chuyên nghiệp, cả truyền thống và hiện đại, đều thể hiện bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam, tâm hồn con người Việt Nam, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với thế giới.
2.5.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước
Mâu thuẫn thời đại
Xóa quan liêu bao cấp trong nghệ thuật, từng bước chuyển sang cơ chế thị
trường, vai trò của nghệ thuật trong các thời kỳ lịch sử
Văn hoá, văn nghệ trong quá trình chiến tranh cách mạng và trong thời bao
cấp được xem là vũ khí tinh thần mạnh mẽ, là thứ vô giá, không thể bán, không
thể mua, nếu biến chúng thành hàng hóa thì đó là sự "hạ thấp" nghệ
thuật, là "thương mại hóa" nghệ thuật, làm mất các chức năng cao quý
của nghệ thuật.
Mô hình quản lý nghệ thuật ở các nước cũng là cái để ta nghiên cứu, học
hỏi trong phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
2.5.4. Giao lưu, hợp tác quốc
tế về văn hóa nghệ thuật
Trong xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia đều chủ trương mở cửa, tăng cường
giao lưu với bên ngoài, tranh thủ tiếp nhận những thành tựu mới nhất của nhân
loại đạt được trên thế giới. Các dân tộc nhận thức được rằng giao lưu văn hóa
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong thời đại toàn cầu hóa, nó giúp cho các dân
tộc tìm được tiếng nói chung để xích lại gần nhau và cùng nhau giải quyết nhiều
vấn đề của thời đại.
Thay đổi nhận thức trong tiến trình toàn cầu hóa phải thực hiện chính
sách Đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Về văn hóa, ta chủ
trương giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, đồng thời mở rộng cửa
đón nhận, tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên
thế giới để làm giàu thêm nền văn hóa của dân tộc ta.
2.6. Thực trạng Quản lý nghệ
thuật biểu diễn
Thay đổi cơ chế tài chính, luật Ngân sách mới > quá trình chuyển đổi,
thanh quyết toán, các nguồn thu chi theo cơ chế mới. NĐ 10 về đơn vị sự nghiệp
có thu, NĐ về tự chủ tài chính.
Gần đây, việc tách nhập, giải thể các đơn vị nghệ thuật
Khó khăn trong quản lý nguồn nhân lực: Tuổi nghỉ hưu, vấn đề thanh sắc,
phong tặng danh hiệu ưu tú, nhân dân… giải thưởng nhà nước, giải thường Hồ Chí
Minh…
Những khó khăn đối với nguồn nhân lực lãnh đạo các đơn vị nghệ thuật: đào
tạo, bằng cấp, nghề nghiệp…
2.6.1 Vấn đề Nguồn nhân lực VHNT
Thiếu các nhà quản lý các loại hình văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp.
Quản lý là một nghề, chuyên ngành nghệ thuật là một nghề: Phải có cả 2. Trách
nhiệm của các trường Nghệ thuật và các trường có đào tạo về Quản lý văn hóa
nghệ thuật (ĐHVH, Viện VHNT, các trường chuyên ngành nghệ thuật
Đào tạo đội ngũ văn
nghệ sĩ: hoạt động sáng tạo: cơ chế thay đổi.
Nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, dân tộc đi xuống
Tính chất thương mại trong nghệ thuật, mì ăn liền
Công tác đào tạo công chúng biết thưởng thức…sư phạm nhạc họa…
2.6.2. Chính sách và cơ chế
Cho đến trước năm 1986, toàn bộ bộ máy quản lý nhà nước được vận hành
theo cơ chế tập trung bao cấp. Việc quản lý các đơn vị nghệ thuật cũng không
nằm ngoài cơ chế đó.
Chế độ bao cấp đối với một đơn vị nghệ thuật biểu diễn được hiểu là hàng
năm nhà nước cấp ngân sách đảm bảo cho mọi hoạt động của đơn vị nghệ thuật ấy,
cụ thể là đảm bảo:
Trả lương cơ bản cho
cán bộ, nghệ sĩ của đơn vị; Có chế độ bồi dưỡng thanh sắc, bồi dưỡng khi đi
phục vụ...
Mô hình cơ cấu tổ chức
của một đơn vị nghệ thuật
Cơ cấu tổ chức của một đơn vị nghệ thuật biểu diễn cấp trung ương nhiều
năm qua hầu như theo một mô hình:
Ban Giám đốc (1 giám đốc và 2 phó giám đốc)
- Phòng Nghệ thuật
- Hội đồng Nghệ thuật
- Phòng Hành chính - Tổ
chức
- Các Đoàn biểu diễn
- Tổ chức Đảng, đoàn
thể (công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên)
Nội dung hoạt động
Về chức năng, nhiệm vụ
của các đơn vị nghệ thuật được thể hiện qua các hoạt động như:
- Dàn dựng chương trình nghệ thuật; vở diễn.
- Biểu diễn (phục vụ nhiệm vụ chính trị; doanh thu).
- Tham gia hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật chuyên nghiệp.
- Tham gia đào tạo diễn viên tại chỗ.
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế.
Chế độ đãi ngộ văn nghệ sĩ trong cơ chế thị trường: Chế độ phụ cấp, thanh
sắc (Quyết định số 14/2015/QĐ-TTg về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và chế
độ bồi dưỡng đối với người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn).
Bất cập phong tặng danh hiệu nghệ sĩ và giải thưởng, hội thi, hội diễn
(NĐ ngày 15/11/2014 quy định về xét tặng danh hiệu NSND và NSUT) còn bất cập
liên quan đến huy chương vàng bạc…
Vấn đề cấp thẻ hành nghề cho nghệ sĩ biểu diễn tranh cãi
Vấn đề bảo hộ quyền tác giả
2.6.3.
Văn bản pháp quy về NTBD
-----------------------------------------------------------------------
2.7. Hoạt động hợp tác quốc tế
Có nhiều thành tựu: Những ngày văn hóa Việt Nam tại nhiều nước và ngược
lại với Nga, Pháp, Nhật, Hàn và các nước trong khối ASEAN. Yếu tố tích cực
trong giao lưu, tiếp biến văn hóa. Nhưng vẫn nặng về ngoại giao chính trị.
Nhiều nghệ sĩ Việt Nam ra nước ngoài biểu diễn và ngược lại
Liên hoan các loại hình nghệ thuật quốc tế.
Một số đơn vị nghệ thuật yếu về năng lực biểu diễn nghệ thuật ngang tầm
quốc tế, quan hệ quốc tế bị động. Phụ thuộc chủ yếu vào Bộ Ngoại giao.
1.2. Những thách thức
Sự tác động tiêu cực của làn sóng toàn cầu hóa: nguy cơ “đồng hóa”, “
phương Tây hóa” về lối sống, mà đối tượng dễ bị tác động nhất là giới trẻ.
Hòa nhập hay hòa tan?
Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa Âu - Mỹ cuốn hút giới trẻ; nhiều chuẩn mực đạo đức, văn hóa
truyền thống bị coi là hủ tục, lỗi thời...
Đảng ta ra các NQ về văn hóa, đáng lưu ý là NQ TW5. Khóa VIII, NQ 33,
Khóa XII.
Vài nét về nghệ thuật Việt
Nam dưới góc nhìn của Nguyễn Văn Huyên trong công trình Văn minh Việt Nam (hyperlink)
Chương 3. Quản lý nhà
nước về hoạt động nghệ thuật
Chương 3. Quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật
3.1. Cơ sở lý luận
3.1.1. Khái niệm quản
lý
Theo quan điểm của Fayol: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia
đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm năm yếu tố tạo thành là: kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kểm soát ấy”[2].
Theo quan điểm của V.L.Lênin: Chúng ta phải hiểu rằng muốn quản lý tốt mà
chỉ thuyết phục không thôi thì chưa đủ, còn cần phải biết tổ chức về mặt thực
tiễn nữa[3]
Quản lý “là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
lên khách thể nhằm đạt được mục tiêu định trước”[4]
3.1.2. Khái niệm Quản lý
văn hóa – nghệ thuật
Trong lĩnh vực văn hóa, khái niệm quản lý hoạt động văn hóa có thể được
hiểu là quản lý Nhà nước về văn hóa. Nghị quyết Trung ương V chỉ ra: “củng cố,
hoàn thiện các thể chế văn hóa, đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực lượng
những người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt văn hóa phong
phú, đa dạng theo định hướng XHCN”. Hoàng Sơn Cường, (1998) Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin.
Nghệ thuật là một nghĩa hẹp của văn hóa. Quản lý hoạt động nghệ thuật là
sử dụng các công cụ nhà nước để tạo điều kiện phát triển các hoạt động nghệ
thuật đi đúng định hướng giá trị, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật có giá trị
văn, thể, mỹ, có tính nghệ thuật vừa có yếu tố dân gian, vừa có yếu tố bác học,
có tính nhân văn phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân.
Nghệ thuật biểu diễn bao
gồm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau vì vậy đến nay chưa có một khái niệm
đầy đủ, chính xác. Mỗi khái niệm đưa ra chỉ bao hàm được một khía cạnh nào đó.
Tác giả Đình Quang quan niệm rằng nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật tổng hợp,
là một công trình tập thể. Tổng hợp vì nó bao gồm cả giá trị văn học, hội họa,
âm nhạc, vũ đạo; thể hiện ra trong câu ca, nhạc nền, điệu bộ, dáng múa, phục
trang, ánh sáng... Tập thể vì đây là công sức góp lại của nhiều người, từ đạo
diễn, tác giả, diễn viên đến nhạc sĩ...
Tác giả Trần Trí Trắc thì
cho rằng nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo của nghệ sỹ trước khán
giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm đến với tình cảm và trở
thành một bảo tàng sống của dân tộc. Trong hệ thống văn bản luật của nhà nước
cũng nêu rõ biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là hoạt
động đưa chương trình, tiết mục, vở diễn đến với công chúng qua sự trình diễn
của diễn viên chuyên nghiệp, thể hiện hình tượng nghệ thuật, phản ánh cuộc sống
thông qua tác phẩm sân khấu, ca, múa, nhạc...
Xây dựng một xã hội có
đời sống vật chất đầy đủ, đời sống văn hóa tinh thần phong phú, lành mạnh là
mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và toàn dân đang theo đuổi. Trong đó các hoạt động
văn hóa nói chung và hoạt động biểu diễn nghệ thuật nói riêng càng cần được định
hướng và quản lí nhằm phục vụ hiệu quả cho mục tiêu đó. Quản lý trong xã hội
nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục
tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan. “Quản lý là sự
chỉ đạo, điều khiển một hệ thống, một quá trình căn cứ vào các quy luật, định
luật, nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống, quá trình vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”[5]
Quản lý nhà nước, theo
nghĩa rộng được hiểu là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước,
bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các phương diện lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá
trình tổ chức, điều hành hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật, nhằm đạt được
những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước theo nghĩa
hẹp còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
Như vậy, quản lý nhà nước
đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật cũng không nằm ngoài các khái niệm nêu
trên. Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật là “một quá trình đi từ chỗ nắm
được, nắm đúng cái hiện có; thấy được, thấy đúng cái cần có và biết tìm mọi
biện pháp khả thi, tối ưu để đưa từ cái hiện có lên cái cần có”[6]
Quản lý nhà nước đối với
hoạt động biểu diễn nghệ thuật là tổng lực của nhà nước trong các phạm vi, nhằm
tác động phù hợp với quy luật phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn trong những
nhiệm vụ, mục đích cụ thể.
3.2. Quan điểm quản lý
hoạt động nghệ thuật
Đảng và Nhà nước ta luôn
coi văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực, mục tiêu của CNXH. Việc quản lý
nhằm bảo tồn, kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa dân tộc là quốc sách
hàng đầu được ghi nhận trong các bản hiến pháp. Một trong những lĩnh vực hoạt
động phổ biến trong đời sống văn hóa xã hội ở nước ta, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới
tư tưởng, tình cảm, nhận thức của nhiều người đó là hoạt động nghệ thuật biểu
diễn.
Sự tác động của khoa học
kỹ thuật, công nghệ cao, của quá trình giao lưu văn hóa và hội nhập kinh tế đã
đưa nghệ thuật biểu diễn không chỉ trở thành sản phẩm tinh thần đáp ứng nhu cầu
của quần chúng mà còn trở thành một bộ phận của kinh tế thị trường phát triển
năng động, sáng tạo. Phát triển nghệ thuật biểu diễn đi đúng hướng dân tộc,
khoa học, đại chúng chắc chắn không thể thiếu vai trò then chốt của quản lý nhà
nước.
3.3. Vai
trò của quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Hơn một thập niên trở lại
đây, với chủ trương đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước đã tạo nên một sự
biến đổi và phát triển mạnh mẽ cho toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có văn hóa
nghệ thuật.
Lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ngày càng đáp ứng kịp thời, linh hoạt thị hiếu, nhu cầu khác nhau của công
chúng. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn trở nên sinh động, phong phú với
những hình thức, thể loại đa dạng, nội dung hấp dẫn... tạo sinh khí và sắc thái
mới cho đời sống tinh thần xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực, ngành nghệ thuật biểu diễn hiện nay vẫn còn những tồn tại, bất
cập. Một số quốc gia lớn đang tạo áp lực đến đời sống văn hóa, nghệ thuật của
nước ta, tác động không nhỏ vào quá trình nhận thức và thị hiếu về nghệ thuật,
thẩm mỹ, dẫn đến hiện tượng một bộ phận giới trẻ đã bị lệch chuẩn về văn hóa.
Trước sức ép về nhu cầu hưởng thụ cuộc sống, một số nghệ sỹ, người mẫu bất chấp
quy định của pháp luật, coi thường chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp dẫn đến những
hành vi vi phạm về thuần phong mỹ tục, đi ngược lại truyền thống văn hóa của
dân tộc. Những hành vi sai phạm này đã tác động xấu đến nhận thức của giới trẻ,
làm suy giảm các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của văn học nghệ thuật
đối với đời sống xã hội.
Trên toàn quốc có khoảng
gần 2.000 doanh nghiệp có chức năng tổ chức biểu diễn nghệ thuật, có khoảng gần
10.000 nghệ sĩ, người mẫu, trong đó có khoảng 1/3 ngoài công lập. Con số nghệ
sĩ đông đảo, sự bùng nổ tự phát của nhiều thành phần tham gia hoạt động biểu
diễn nghệ thuật dẫn đến tình trạng cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn toàn
quốc không nắm được số lượng, nhân thân của các cá nhân tham gia hoạt động biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang trên địa bàn được giao quản lý.
Trong bối cảnh đó, việc
tăng cường hiệu quả quản lý của các cơ quan Nhà nước có chức năng đã và đang
trở thành một tất yếu khách quan vì quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật tạo
môi trường thuận lợi cho ngành nghệ thuật biểu diễn phát triển, góp phần tạo
nên sự ổn định về chính trị, đem lại hiệu quả kinh tế, tạo nên sự ổn định và
công bằng xã hội. Hơn nữa, quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật còn nhằm bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
3.4. Thực trạng quản lý hoạt động nghệ thuật
3.5. Chủ thể quản lý hoạt
động nghệ thuật
Định hướng sáng tạo nghệ thuật: Ban Tuyên giáo TW, BTG các cấp, ban hành các Nghị quyết về văn hóa nghệ
thuật.
Quản lý nhà nước: Bộ VHTTDL, UBND, ngành Văn hóa các cấp.
Bộ Văn hóa Thể thao
và Du lịch
3.5.Đối tượng
quản lý
3.6.Công cụ quản
lý
4.
Giải pháp
Từ những hạn chế trong
hoạt động nghệ thuật biểu diễn hiện nay ngoài sự tác động khách quan của nền
kinh tế thị trường còn phải nói đến vai trò chủ quan của công tác quản lý.
Nguyên nhân sâu xa là sự thiếu nghiêm minh, khoa học ở ba khâu: quản lí hoạt
động cấp phép, quản lý đơn vị tổ chức và quản lý đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên.
Vấn đề đặt ra cho các chủ thể quản lý là phải căn cứ tình trạng thực tế, dựa
trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đề ra
các biện pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động biểu
diễn nghệ thuật.
Quy hoạch lại mạng lưới
các đoàn nghệ thuật biểu diễn
Tùy theo điều kiện của
từng địa phương và thực tế của các đơn vị nghệ thuật để sắp xếp, quy hoạch theo
hướng giảm dần các đoàn nghệ thuật công lập, tránh chồng chéo về loại hình hoạt
động. Ở cấp trung ương cần giữ nguyên các đơn vị nghệ thuật truyền thống song
song với việc đầu tư phát triển một số đơn vị nghệ thuật hiện đại, thực hiện
tốt cơ chế tự hạch toán theo phương thức khoán chi hành chính và từng bước thực
hiện chính sách xã hội hóa. Ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM cần giữ
nguyên và tiếp tục đầu tư cho các đơn vị hoạt động hiệu quả, đúng phương hướng;
chuyển dần các đơn vị hoạt động kém hiệu quả sang hình thức bán công hoặc dân
lập. Đối với các tỉnh, thành phố khác thì cần tập trung xây dựng một đơn vị
nghệ thuật truyền thống tiêu biểu của địa phương hoăc xây dựng đơn vị nghệ
thuật tổng hợp đối với vùng đông dân cư
Đầu tư cho sáng tác và
dàn dựng tiết mục
Muốn có những tác phẩm
đạt chất lượng cao, xứng đáng với tầm vóc của đất nước, phù hợp với xu thế thời
đại, đáp ứng nhu cầu của công chúng, cần tập trung mở các cuộc vận động sáng
tác, các cuộc thi có mục đích và nội dung cụ thể. Trên cơ sở kết quả của các
cuộc vận động này, đầu tư kinh phí cho những tác phẩm xuất sắc, giao cho một số
đơn vị nghệ thuật và nghệ sỹ có uy tín để dàn dựng.
Bên cạnh đó, phải đầu tư
cho tác giả, đạo diễn đi thực tế để tác phẩm của họ mang hơi thở cuộc sống, đáp
ứng được mong mỏi của công chúng. Tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, tổ
chức hội thảo và tọa đàm nhằm đánh giá, rút kinh nghiệm, tạo hướng mới cho sáng
tác. Mở các lớp tập huấn sáng tác, kỹ thuật dàn dựng... để nâng cao tri thức
cho đội ngũ đạo diễn và kỹ thuật viên...
Đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật
Cả nước hiện có khoảng
130 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, hơn 200 đoàn nghệ thuật xã hội hóa, hơn
42.000 đội văn nghệ cấp xã, phường, hàng trăm đội thông tin tuyên truyền và gần
200 câu lạc bộ nghệ thuật tư nhân. Tuy nhiên, hầu như hệ thống cơ sở vật chất
của các đơn vị không đáp ứng được những yêu cầu về công năng biểu diễn chuyên
nghiệp và nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của công chúng.
Xuất phát từ thực tế đó,
các cơ quan quản lý nhà nước cần xem xét, định hướng xây dựng, cải tạo các rạp,
điểm biểu diễn nghệ thuật. Đối với các đơn vị nghệ thuật truyền thống dân tộc,
đảm bảo đầu tư 100% trang thiết bị phục vụ biểu diễn và đầu tư tối thiểu 70%
cho các loại hình nghệ thuật hiện đại.
Cải thiện chế độ, chính
sách đối với nghệ sĩ, diễn viên
Những bất cập về chế độ,
chính sách, đào tạo nguồn nhân lực đối với nghệ sĩ đang ảnh hưởng tới sức sáng
tạo và sự phát triển của ngành nghệ thuật biểu diễn. Đặc biệt, đối với đội ngũ
nghệ sĩ, diễn viên, thang lương hiện nay gồm 3 hạng, 26 bậc không phù hợp với
đặc thù của hoạt động nghệ thuật. Bên cạnh đó, mức phụ cấp nghề nghiệp thấp
cũng chưa bù đắp được công sức luyện tập nặng nhọc, phải thường xuyên di chuyển
và hoạt động của người nghệ sĩ. Cần có chính sách ưu tiên cụ thể cho họ như
điều chỉnh lại mức lương, rút ngắn số thang bậc để nghệ sĩ có quỹ thời gian
phấn đấu trong quá trình công tác; điều chỉnh chế độ phụ cấp, chế độ ưu đãi với
các nghệ sĩ, diễn viên có nhiều cống hiến và đạt danh hiệu cao.
Nâng cao hiệu quả quản lý
Tăng cường phối hợp quản
lý giữa Cục nghệ thuật biểu diễn và các cấp, ngành trong việc sản xuất và
chuyển tải các sản phẩm đến với công chúng. Xác lập một hệ thống cơ quan quản
lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp
chủ động xây dựng văn bản phục vụ công tác quản lý.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị nghệ thuật biểu
diễn và năng lực đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ
Thực tế cho thấy hoạt
động biểu diễn nghệ thuật còn xảy ra nhiều tiêu cực. Ngoài lý do công tác quản
lý thiếu hiệu quả thì một phần không nhỏ là do năng lực của đội ngũ cán bộ quản
lý còn yếu kém về chuyên môn, đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên thiếu sáng tạo, chưa
nhanh nhạy nắm bắt thực tế...
Để khắc phục tình trạng
này, bên cạnh sự cố gắng của các cơ quan quản lý nhà nước thì bản thân các đơn
vị hoạt động biểu diễn nghệ thuật phải có biện pháp, hướng đi riêng. Chủ động
trong việc quản lý, đào tạo nghệ sĩ, diễn viên thuộc đơn vị mình, nắm rõ năng
lực từng người để bố trí công việc đúng vị trí, khả năng. Chủ động tạo nguồn
kinh phí cho hoạt động nghệ thuật từ các nguồn đầu tư, viện trợ. Đặc biệt, các
đơn vị hoạt động biểu diễn nghệ thuật nên chú trọng mở rộng việc tuyển chọn các
tài năng nghệ thuật trẻ có năng lực, từng bước trẻ hóa đội ngũ nghệ sĩ, diễn
viên, tạo sức sống cho ngành nghệ thuật biểu diễn Việt Nam.
Biểu diễn nghệ thuật
không chỉ giữ vai trò đặc biệt trong đời sống xã hội mà còn là một bộ phận của
nền kinh tế thị trường, phát triển trong năng động, sáng tạo. Nhưng những mặt
trái của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa đang đẩy nghệ thuật biểu diễn
vào tình trạng lộn xộn, gây tác hại về văn hóa, chính trị, tư tưởng... Trước
tình hình đó, hơn bất kỳ biện pháp nào, quản lý nhà nước chính là cách thức
hiệu quả nhất. Sự quản lý kết hợp giữa mềm dẻo, năng động với kỷ cương, kỷ
luật; giữa thuyết phục và cưỡng chế; giữa tập trung và dân chủ sẽ tạo ra sự ổn
định và phát triển cho nghệ thuật biểu diễn Việt Nam.
Phát triển công nghiệp văn hóa trong nghệ thuật
Trong thời đại công nghiệp 4.0. Công nghiệp văn hóa phát triển
nhanh, mạnh nhưng việc đào tạo, ứng dụng công nghiệp văn hóa ở nước ta mới chỉ
bắt đầu.
5.
Nguyễn Thị Kim Oanh,
Trường VHNT Tp HCM. 0984231661
Di sản văn hóa phi vật
thể của người Ê Đê gắn với du lịch Đắc Lắc
6.
Nguyễn Trần Vĩnh Linh
0975280469. 53
Bảo tồn và phát huy di
sản văn bia Hán Nôm ở Đông Nam Bộ.
7.
Nguyễn Quang Vinh.
Quản lý
hoạt động biểu diễn âm nhạc thiếu nhi ở Thành phố Hồ Chí Minh
Sách cần đi thư viện
1.
A. A. Radugin (2002), Từ
điển bách khoa văn hóa học (Vũ Đình Phòng dịch), Viện Nghiên cứu Văn hóa
nghệ thuật, Hà Nội.
2.
Phan Xuân Biên (2013), Sài
Gòn thành phố Hồ Chí Minh văn hóa phát triển,
Nxb.Tổng hợp Tp.HCM, Tp.HCM.
3.
Bộ Chính trị (2008), Nghị
quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,
nghệ thuật trong thời kỳ mới, Hà Nội.
4.
Bộ VH, TT & DL và Cục NTBD (2006), Thực trạng và giải pháp để phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
5.
Bộ VH, TT & DL và Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (2009), Công nghiệp văn hóa Việt Nam, thực trạng và
giải pháp, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
6.
Bộ VH, TT & DL (2011), Đề
án Bảo tồn và phát huy nghệ thuật biểu diễn truyền thống đến năm 2020, Hà
Nội.
7.
Bộ VH, TT & DL và Trường Đại học Văn hóa Tp.HCM (2013), Kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Tp.HCM.
8.
C. Barker (2011), Nghiên cứu
văn hóa: Lý thuyết và thực hành (Đăng Tuyết Anh dịch), Nxb. Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
9.
Đoàn
Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
10. Trần Trọng Đăng Đàn
(2005), Văn hóa văn nghệ hướng thiện,
hướng về tuyệt mỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
11. Đảng bộ Tp.HCM (2020), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XI nhiệm
kỳ 2020 - 2025, Nxb. Tổng hợp Tp.HCM, Tp.HCM.
12. Trần Độ và cộng sự
(1987), Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng
cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
13. Phạm Duy Đức và cộng sự (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước
mã số KX04-13/06-10.
14.
Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 xu hướng và giải
pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Trần Văn Giàu và Trần
Bạch Đằng (2018), Địa chí Văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh, Tập III: Nghệ thuật, Nxb. Tổng hợp Tp.HCM, Tp.HCM.
16. Trần Văn Giàu và Trần
Bạch Đằng (2018), Địa chí Văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh, Tập IV: Tư tưởng và tín ngưỡng, Nxb. Tổng hợp Tp.HCM,
Tp.HCM.
17. Nguyễn Thị Bích Hằng
(2015), Lối sống tiêu cực của một bộ phận
giới trẻ Việt Nam hiện nay dưới lăng kính học thuyết hành vi người của FREUD,
Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Thị Hậu (2014), Xây dựng môi trường văn hóa thành phố Hồ Chí
Minh văn minh hiện đại, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, Tp.HCM.
19. Nguyễn Đức Hiệp (2018),
“Vài nét về đời sống xã hội và văn hóa Sài Gòn đầu thế kỷ 20 đến năm 1945”. In
trong Nhiều tác giả: Sài Gòn Phong Lưu,
tr.127-147, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, Tp.HCM.
20. Phạm Ngọc Hiền (2020), Đạo diễn chương trình ca múa nhạc, Nxb.
Đại học Quốc gia Tp.HCM, Tp.HCM.
21. Phan Thị Thu Hiền, Nguyễn
Thị Hiền (2014), “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật sân khấu dân gian gắn với du lịch
(Từ kịch múa mặt nạ Hahoe Hàn Quốc đến
những gợi ý cho Dù Kê của miền Tây
Nam Bộ Việt Nam). In trong Tạp chí Khoa
học, số 13 (2014), chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ - Di sản
văn hóa dân tộc”, tr.39 – 47.
22. Lê Như Hoa (Chủ biên)
(1996), Xã hội hóa hoạt động văn hóa,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
23. Lê Như Hoa (Chủ biên)
(1998), Văn hóa tiêu dùng, Nxb. Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Tri Nguyên (2004),
Những bài giảng về quản lý văn hóa trong
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Văn hóa Thông tin,
Tp.HCM.
25. Nhiều tác giả (2006), Sức mạnh của thiết kế điều tra, Nxb.
Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
26. Nhiều tác giả (2006), Giải pháp phát triển nghệ thuật biểu diễn,
Nxb. Sân khấu, Hà Nội.
27. Nhiều tác giả (2009), Giáo trình chính sách văn hóa, Nxb, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nhiều tác giả (2015), 40 năm văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb.
Văn hóa – Văn nghệ, Tp.HCM.
1. [1]^ “African
Cave Yields Evidence of a Prehistoric Paint Factory”. The
New York Times. ngày 13 tháng 10 năm 2011.
[2] Phan Hồng Giang – Bùi Hoài Sơn (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình
đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia. Tr.21.
[3] Hoàng Sơn Cường, (1998) Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin.
[4] Học viện hành chính (2009), Giáo
trình quản lý học đại cương, Nxb KH&KT, Hà Nội .
[5] Trường
ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, Hà
Nội, 2004, tr.8.
[6] Nguyễn
Văn Hy, Phan Văn Tú, Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
1998, tr.5.