TÍNH SỬ CA – NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CA KHÚC CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975

 




TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 - 2017 - 41

TÍNH SỬ CA – NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CA KHÚC CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975

Trần Ngọc Hoàng

Tóm tắt Suốt hai mươi mốt năm (1954-1975) đất nước chia cắt đôi miền, toàn dân miền Bắc luôn kết lại thành một khối quần chúng đồng lòng dồn hết tâm lực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa kháng chiến chống Mỹ và đấu tranh thống nhất đất nước. Mục tiêu chính trị này đã chi phối toàn bộ đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa. Âm nhạc cũng như mọi ngành văn học nghệ thuật khác, luôn gắn liền với đời sống tinh thần người dân, đặc biệt trong giai đoạn chiến tranh, là lúc mà yếu tố tinh thần còn mang ý nghĩa nhân lên gấp bội để khích lệ mỗi công dân góp phần tối đa vào sự sống còn của dân tộc. Trong bài viết này tác giả giới thiệu tính sử ca – nét đặc trưng của ca khúc cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954- 1975. Từ khóa: sử ca, ca khúc cách mạng, 1954-1975 1. Bối cảnh lịch sử thời đại Hồ Chí Minh. Xuyên suốt thế kỷ Năm 1965, đế quốc Mỹ chính thức XX, chưa bao giờ ca khúc lại đẹp về giai thay thế thực dân Pháp nhảy vào xâm lược điệu, hay về ngôn từ như thế như ở thời kỳ Việt Nam. Cả nước bước vào một công này. Có lẽ lịch sử đã tạo cảm hứng, sự rung cuộc kháng chiến trường kỳ mới. Bên cạnh động trong trái tim của người nghệ sĩ. Các công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở ca khúc lúc này đã phản ánh không khí náo miền Bắc, phong trào cách mạng chiến đấu nức và quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giải phóng miền Nam là mục đích chính. giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta. Ca Lịch sử và ca khúc luôn có sự hòa quyện, khúc khởi lên từ cuộc sống lao động và thống nhất với nhau vì vậy mà ca khúc Việt chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, giai điệu chính Nam được sáng tác trong giai đoạn này đã xuyên suốt mấy thập niên liên tục là giai để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử âm điệu hào hùng của cuộc chiến đấu. Trong nhạc Việt Nam nói chung và ca khúc Việt phong trào cách mạng tiến công, ca khúc là Nam nói riêng. Hai mươi mốt năm từ 1954 một phương tiện của nghệ thuật để gắn liền – 1975 đánh dấu sự phát triển với tốc độ các khối người, liên kết các đám đông quần chưa từng thấy của các ca khúc Việt Nam chúng. Mười năm vừa xây dựng chủ nghĩa cho đến bây giờ. Ca khúc ra đời từ cuộc xã hội, vừa chiến đấu chống Mỹ cứu nước sống và trở về phục vụ cho cuộc sống. Ca là mười năm phát triển không ngừng của ca khúc đã góp phần tạo nên những kỳ tích khúc và đã thu được những thành tựu lớn. của dân tộc. Lời ca, tiếng hát đã cổ vũ cho Mười năm hòa bình ở miền Bắc là mười lao động, sản xuất và chiến đấu. Trong năm hoàng kim của ca khúc. Ca khúc mang phong trào cách mạng, các ca khúc yêu vẻ đẹp mới, tầm vóc mới, khát vọng thống nước đã xuất hiện như con thuyền gặp gió, nhất đất nước. Đây là thời kỳ phát triển tột bay bổng trong không khí hào hùng của bậc của ca khúc. Khi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, hơi thở của ca khúc hừng hực hào khí, dậy lên phong trào “tiếng hát át tiếng bom”. Không biết bao nhiêu bài hát vào trận với tư thế đàng hoàng, tự hào và hừng hực hào khí đã cất lên, những âm kiêu hãnh về đất nước – tư thế của người thanh chiến đấu đã rực đỏ cả không gian chủ đang chiến đấu để giữ lấy đất nước. đất nước. Xét về mặt nghệ thuật, khúc thức, Hình ảnh người lính với tư thế kiêu hãnh tự hòa âm trong ca khúc lúc này đã được nới hào ấy đã thể hiện rất rõ trong ca khúc rộng, đa dạng, phong phú; ca từ đẹp lên rất Đường chúng ta đi (Huy Du, phổ thơ Xuân nhiều. Nếu ta nói văn hóa nghệ thuật là vũ Sách), hai từ Việt Nam được cất lên ở khí sắc bén trong việc thể hiện lịch sử đời giọng trưởng như một tiếng kèn hiệu lệnh, thường thì âm nhạc – nhất là mảng ca khúc hùng tráng, hào khí mà khoan thai. Với Ca – là loại hình nhanh nhạy nhất. Có thể nói ngợi tổ quốc (Hồ Bắc), bức tranh của cả rằng, lịch sử đất nước trong thời kỳ đầy đất nước Việt Nam được vẽ lên rất cao biến động này là dấu ấn được ghi đậm nét rộng, sáng ngời mà vẫn ấm áp, tình tứ, nhẹ nhất trong lịch sử phát triển đất nước cả nhàng, bao la mà vẫn dịu dàng, thân hàng ngàn năm của dân tộc. Đồng hành với thương, mộc mạc, chân thật mà vẫn bay lịch sử này là ca khúc, lịch sử đã chắp thêm bổng ước mơ… Trước mắt ta như hiện lên đôi cánh cho ca khúc trở nên bay bổng hơn hình ảnh từng đàn chim én báo hiệu mùa – thêm một minh chứng nữa để chứng tỏ xuân khi nghe giai điệu của ca khúc Bài ca rằng tính sử ca là nét điển hình của ca khúc hy vọng (Văn Ký). Ta nhớ mãi hình ảnh Việt Nam ở thế kỷ XX! của những đôi chim bay giữa mùa xuân, 2. Nét đặc trưng điển hình các ca khúc dấu hiệu báo mùa của chim én cũng là sự thời kỳ 1954-1975 dự báo cho chân trời tương lai đang rộng Một nhà sử học đã nói, trong 20 thế mở của con người trước cuộc sống. Giai kỷ qua, dân tộc ta chỉ có 300 năm hòa bình, điệu của ca khúc đẹp sang trọng và mạnh còn 17 thế kỷ là đấu tranh. Ở thế kỷ XX mẽ trong cảm xúc, thể hiện chiều sâu của vừa qua, dân tộc ta phải trải qua hai cuộc một hình tượng giàu tính triết lý. Rất đơn kháng chiến chống xâm lược không dưới giản, mộc mạc… nhưng lời ca lại rung cảm 30 năm. Trong các cuộc kháng chiến vệ lòng người. Các ca khúc đã ghi lại những quốc ấy, cả dân tộc đã lên đường trong âm ký ức rực rỡ về những năm tháng lịch sử thanh của những bản hùng ca chiến đấu mà của thế hệ trước và bài ca truyền thống quý tác giả của nó hầu hết là các nghệ sĩ mặc áo giá cho thế hệ sau. lính, mang tâm hồn người lính. Thế hệ Nhưng chất liệu lịch sử này không chiến sỹ trong kháng chiến chống Pháp là thể có được nếu thiếu một yếu tố quan những người từ cuộc đời nô lệ - chủ yếu là trọng bậc nhất: sự lãnh đạo của Đảng. nông dân – đứng lên giành lại đất nước. Trong sâu thẳm của tâm hồn, Đảng được Thế hệ chiến sỹ trong kháng chiến chống bật ra trong ca khúc hết sức tự nhiên: Dưới Mỹ và sau này lại là những con người đã cờ Đảng vẻ vang (Lưu Hữu Phước), Đâu làm chủ đất nước (miền Bắc được giải Đảng cần chúng ta có (Văn An). Nhờ có phóng và xây dựng Chủ nghĩa xã hội), lớn Đảng mà chúng ta được “sáng mắt, sáng lên và trưởng thành với chế độ mới. Họ trẻ lòng” và “bao năm khổ đau đất nước ta tuổi đời, được học hành và có tri thức, được không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao giáo dục và nâng cao trình độ giác ngộ về tù bao hờn căm” nhưng nhờ có “vầng chủ nghĩa yêu nước và CNXH… do đó họ dương hé sáng” mà chúng ta có một mùa xuân đầy khát vọng, mùa xuân với ánh sáng Các ca khúc viết về Bác hướng về tràn khắp nơi nơi, trong tiếng hát ca “ngân cái dung dị, bình dị. Một đôi dép, một hàng vang lòng yêu đời” như trong Đảng cho ta cây, một dòng suối… tất cả đều như nhắc mùa xuân (Phạm Tuyên). Đó còn là Vững nhở đến công lao của Người… Ta bắt gặp bước dưới cờ Đảng (Phạm Đình Sáu), một dòng cảm xúc nhớ thương trong thanh Dâng Đảng quang vinh (La Thăng), thản, thanh thản khi thương nhớ Người vì Đường ta đi có nắng mặt trời (Hồng tự thấy mình đã làm được ít nhiều lời Đăng), Vinh quang Đảng Lao động Việt Người căn dặn. Một niềm thương nhớ đầy Nam (Nguyễn Đức Toàn), Tiến bước dưới tự tin. Bước chuyển đổi trong nhận thức cờ Đảng (Văn Ký), Người dân biết ơn thẩm mỹ hiện ra rõ ràng hơn, đặc biệt là đảng (Phan Thanh Nam), Quê ta dưới cờ qua ngôn ngữ âm nhạc nhạc, nhất là tiết Đảng (Lê Lôi – Huyền Tâm), Ba lá cờ tấu. Trong cách cảm nhận đã mang tính Đảng (Văn Trung), Tuổi xuân dâng Đảng thời đại và hiện đại. Không còn sùng kính, (Nguyễn Mạnh Thường), hay Người Mèo cung kính mà đây là hát về Người trong ơn Đảng (Thanh Phúc) Dâng lên Đảng niềm hân hoan, tự hào. Cái tôi đầy tự tin, tự niềm tin (Trọng Loan), Tiếng hát dâng hào, và cao hơn nữa là kiêu hãnh: đất nước Đảng (Lưu Hữu Phước). Bài Lúa mới ta, dân tộc ta có một lãnh tụ-đó là Hồ Chí (Nguyễn Đức Toàn) diễn tả được tấm lòng Minh. Và Mùa xuân trên thành phố Hồ của người nông dân Việt Nam đối với Đảng Chí Minh (Xuân Hồng, 1975), đã đưa một cộng sản Việt Nam. Ca khúc đã phản ánh nhân chứng vĩ đại của lịch sử trở nên gần đúng tình cảm nông dân dưới ách áp bức gũi và thân thiết hơn bao giờ hết. Hồ Chí bóc lột phong kiến và sự “đổi đời” sau khi Minh - một con người bình dị có tâm hồn có ruộng. Viết về Đảng, bài nào hầu như cao cả, ý chí sắt đá, lòng nhân ái bao la, trí cũng nhắc đến một hình ảnh, một nguồn thông minh, tài thao lược tuyệt vời, là một sáng: Mặt trời, ánh sao, ánh đèn, ánh nắng, đề tài vĩnh cữu trong ca khúc, trong âm ánh dương… Điều đó chứng tỏ Đảng là nhạc và trong tất cả các lĩnh vực nghệ thuật chân lý, Đảng không ngưng đọng bất biến nói chung. mà cũng luôn vận động và phát triển. Tất cả Bên cạnh sự tôn kính thiêng liêng các ca khúc đều gặp nhau ở chất ngợi ca của Đảng, của Bác còn hình ảnh của người một cách tôn nghiêm, thành kính . lính, người mẹ, người chị, người em… Qua lời ca, tiếng nhạc, quang cảnh trong cuộc kháng chiến trường kỳ của cả âm u mà hùng vĩ của vùng núi chiến khu dân tộc. Bài Hành quân đêm của Xuân cách mạng hiện lên thật thân thương và Hồng là bước chân của những đoàn quân hoành tráng. Bài Hồ Chí Minh đẹp nhất dù đang trong khó khăn, gian khổ, ác liệt tên Người (Trần Kiết Tường, 1962) là một vẫn tin tưởng vào ngày mai thắng lợi. Cùng trong những ca khúc hay nhất viết về Bác với Hành quân đêm, các bài hát như: Cô Hồ. Bằng chất liệu của dân ca Nam bộ, bài gái vót chông (Hoàng Hiệp), Xuân chiến hát thể hiện tình cảm kính yêu lãnh tụ hòa khu (Xuân Hồng), Tiếng chày trên sóc hợp sâu sắc với tình yêu quê hương đất Bom Bo (Xuân Hồng), Bài ca Trường Sơn nước gợi cho người nghe liên tưởng đến (Trần Chung – phổ thơ Gia Dũng) là những câu thơ của Bảo Định Giang: tiếng hát lạc quan, tươi tắn giữa đạn bom ác “Tháp Mười đẹp nhất bông sen liệt, biểu hiện một niềm tin tất thắng vào Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” cuộc chiến đấu. Với chất liệu âm thanh, ca khúc đã thể hiện tâm hồn phơi phới của sâu sắc trong hàng chục triệu đồng bào cả tuổi trẻ đi vào chiến trường mà không kẻ nước, cho đến những người anh hùng vô thù nào ngăn nổi, như bài Qua sông (Phạm danh trong Dáng đứng Việt Nam (Nguyễn Minh Tuấn), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Lư Hữu Trí, phổ thơ Lê Anh Xuân)… đã thể Nhất Vũ)…Âm hình tiết tấu và điệu thức hiện rõ ràng sự gắn bó hữu cơ giữa ca khúc của ca khúc đã làm rạo rực con tim, thôi với lịch sử. Bước chân trên dải Trường thúc lòng người thưởng thức. Đây chính là Sơn (Vũ Trọng Hối) đã đan dệt chuỗi ca sự thành công của ca khúc khi bắt nguồn từ khúc dọc đường giao liên “dài theo đất lịch sử. Những bàn chân không nghỉ, Hát nước” đầy hào hùng theo bước tiến của mừng quê ta giải phóng, Người mẹ miền những người chiến sĩ “đi theo ánh lửa trái Nam tay không đánh giặc (Thuận Yến) tim mình” như những nhịp đi trầm hùng mà như tượng đài bằng âm thanh dựng lên hình mạnh mẽ trước kẻ thù để giải phóng tổ tượng anh hùng của công cuộc trường kì quốc. Mặc dù “núi vút thành vách đứng, chống Mỹ. Chào em cô gái Lam Hồng nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối”, (Ánh Dương) là một bài hát độc đáo khi sử nhưng đoàn quân vẫn cất bước đi hào hùng dụng chất dân ca Nghệ Tĩnh. Nhịp cầu nối rầm rập “đá mòn mà đôi gót không mòn” những bờ vui (Vĩnh An) là một giai điệu “theo ánh lửa từ trái tim mình” vì “miền trữ tình có sức lan tỏa rộng. Chẳng kẻ thù Nam đó đang dang tay gọi”. Lịch sử đi vào nào ngăn nổi bước ta đi (Thanh Phúc), ca khúc và ca khúc đã nâng cao tầm nhìn về Tiến bước dưới quân kỳ (Doãn Nho), là lịch sử lên một mức độ cao hơn và sâu sắc những bản hành khúc có sức âm vang lớn, hơn. với những rung cảm đi vào chiều sâu bằng Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ chất liệu âm nhạc hết sức chọn lọc. Nhân cứu nước, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ đã vật từ lịch sử đi vào ca khúc như trong bài ngời sáng trong nhiều bài hát như thoát ra hát ngợi ca Nguyễn Văn Trỗi - Lời anh từ huyền thoại của nhân vật Thạch Sanh, vọng mãi ngàn năm (Vũ Thanh), Nguyễn đấu tranh cho lý tưởng giải phóng con Viết Xuân cả nước yêu thương (Nguyễn người, giải phóng dân tộc. Họ đã chấp nhận Đức Toàn). Với Biết ơn Võ Thị Sáu biết bao gian khổ, hi sinh, bước vào cuộc (Nguyễn Đức Toàn) là một bài hát tràn đầy chiến tranh gìn giữ độc lập dân tộc với ý sự âu yếm dịu dàng về người con gái anh chí sắt son, kiên quyết nhưng lại với cả một hùng “Người thiếu nữ ấy như mùa xuân, tấm lòng nhân hậu, một bản chất ngàn đời chị đã dâng cả cuộc đời để chiến đấu với của dân tộc Việt Nam. Các ca khúc vẽ lên bao niềm tin, dù chết vẫn không lùi bước. hình ảnh những chiến sĩ giải phóng quân Chị Sáu đã hi sinh rồi. Giọng hát vẫn còn trước và trong cách mạng Tháng Tám, rồi vang dội vào trái tim những người đang những anh vệ quốc đoàn, anh bộ đội cụ Hồ sống. Giục đi lên không bao giờ lùi…” Biết làm nên bao chiến tích khiến kẻ thù phải ơn Võ Thị Sáu vượt lên với một ấn tượng khiếp sợ nhưng rất đỗi thân thương với kỳ lạ trong hàng chục triệu quân và dân ta. đồng bào. Hình ảnh người chiến sĩ Việt Những câu hát yêu thương ngợi ca hình ảnh Nam tựu trung nhất ở các ca khúc, là hình bất tử về chị Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức ảnh những con người mang một trái tim Toàn hay hình tượng người anh hùng bất tử cháy bỏng yêu thương hòa cùng tầm cao lấy thân mình làm giá súng gây chấn động của trí tuệ - đó là Qua sông (Phạm MinhTuấn, 1963), Tiếng chày trên sóc Bom Bo thổi vào tâm hồn lồng lộng, tạo nên sự (Xuân Hồng), Tiến về Sài gòn (Lưu Hữu hứng khởi vô song, tiếp thêm nguồn sinh Phước), Mỗi bước ta đi (Thuận Yến), Bước lực dồi dào, tăng thêm sức mạnh mãnh liệt chân trên dải Trường Sơn (Vũ Trọng cho người chiến sĩ ra trận. Những năm Hối), Bác vẫn cùng chúng cháu hành tháng oanh liệt của lịch sử được thể hiện quân (Huy Thục), Chẳng kẻ thù nào ngăn trong ca khúc và ca khúc là nhân chứng nổi bước ta đi (Thanh Hải, Hải Hồ), Anh trung tâm cho những nhân chứng oai hùng vẫn hành quân (Huy Du, phỏng thơ Trần của lịch sử thời chống Mỹ. Đây cũng là nét Hữu Thung)… Hình ảnh anh chiến sĩ giải chấm phá quá rõ cho sự gắn bó hữu cơ giữa phóng quân với chiếc mũ tai bèo “sáng lịch sử và ca khúc. Điệu nhạc dồn dập như trên đầu như một mảnh trời xanh”, đôi dép những bước chân rạo rực, điệu nhạc thôi lốp vượt chông gai, tấm khăn dù quàng vai thúc như thế tiến công trong Bão nổi lên cùng cây súng đã trở thành hình tượng đẹp rồi (Trọng Bằng), Tiến về Sài Gòn (Lưu đẽ nhất của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ Hữu Phước) đã làm thức dậy cả một giai cứu nước và “tên anh đã thành tên đất đoạn lịch sử “Tiếng về Sài Gòn ta quét nước”. Có lẽ ít có một dân tộc nào trên trái sạch giặc thù” để đạt mục tiêu cuối cùng là đất này đã phải lấy xương máu của mình để “giải phóng thành đô”. Cái riêng nằm đắp bồi cho mảnh đất của Tổ quốc ngay từ trong cái chung “trên đường quê nghe tiếng buổi đầu của lịch sử như dân tộc Việt Nam mẹ ta khắc khoải mong chờ”. Tiến về Sài ta. Hình ảnh người chiến sĩ của chúng ta Gòn như một người lính xung trận trong bước vào từng trận đánh với tâm hồn phơi mặt trận ca khúc được hun đúc từ ngọn lửa phới, tràn đầy niềm tin và mang hồn thơ – và bầu nhiệt huyết kỳ lạ từ lịch sử đời nhạc. Những bài hát nêu trên nêu lên sự thường đã truyền tải rất sâu sắc trong hàng phát triển của lịch sử dân tộc, qua các thời chục triệu chiến sĩ và người dân yêu nước, đại, trong đó anh chiến sĩ được trưởng họ sẵn sàng hy sinh vì cách mạng đúng như thành, từ những người chiến sĩ thuở “gậy lời bài hát. Giải phóng miền Nam (Huỳnh tầm vông vót nhọn”, súng trường, lựu đạn Minh Siêng) thể hiện những chủ trương, đến người chiến sĩ lái máy bay, xe tăng, quyết tâm lớn của chúng ta cũng như những điều khiển súng phòng không, tên lửa, dám tình cảm thiết tha của nhân dân trong sự nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Dù được nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất trang bị khác nhau, nhưng các chiến sĩ của đất nước. Âm nhạc của bài hát thật rộn các thời kỳ ấy đều cùng chung một ý ràng, thúc giục, sẽ còn đọng lại mãi trong nguyện giải phóng dân tộc, cùng một niềm mỗi con người Việt Nam. tin tất thắng. Từ những chuỗi âm thanh, sự kiện Sống trong lòng cuộc chiến, ước năm tháng sẽ sống động, tiếp thêm nguồn mơ của người lính cũng là mơ ước của mọi sinh lực cho hiện tại. Lời ca có thể biến người – đó là ý chí chiến thắng kẻ thù. thành sức mạnh khi nó đã vượt qua bến bờ Chưa lúc nào ca khúc lại đầy hào khí, của lý trí, biến thành tình cảm. Ca khúc đã hoành tráng, đủ về chất và đầy về lượng có sức cảm hóa, thu hút diệu kỳ và đã làm như lúc này. Các ca khúc không chỉ nâng được công việc phi thường ấy. Nhạc điệu bổng bước chân thần tốc của đoàn quân và lời ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ vượt thác, băng ghềnh, đạp bằng mọi trở cứu nước sẽ nâng cánh cho các sự kiện lịch ngại gian nguy, mà còn là ngọn gió mát sử oai hùng của dân tộc. Những giai điệu của nhịp hành khúc là những giai điệu nhịp người nữ tự vệ Sài Gòn (Phạm Minh Tuấn, nhàng xuyên suốt chiều dài đất nước. lời Lê Anh Xuân) hay Hành khúc ngày và Người chiến sĩ cầm súng chiến đấu, ngoài đêm (Phan Huỳnh Điểu, phổ thơ Bùi Công việc nhận lấy những gian khổ, hy sinh, đau Minh) đều mang một nét gì trầm trầm, oai thương của chiến tranh, họ còn nhận được nghiêm, bi tráng mà hào hùng rất phù hợp những tình cảm yêu thương tràn đầy của với tính cách dân tộc. Dù là hành khúc mà những người mẹ, người chị, người em ở vẫn đậm đà, sâu lắng của một ca khúc viết hậu phương. Họ lo cho người chiến sĩ từ về tình yêu. “Cái chết cúi gục đầu” trước miếng cơm ăn đến chiếc áo mặc. Họ động tình yêu khi trên đồi cao pháo anh đang viên nhau làm hết sức mình để phục vụ tiền “nã vào đầu giặc Mỹ” và trên bục giảng tuyến. Giai điệu vui tươi, tiết tấu nhanh, dưới hầm trú ẩn “em cũng là chiến sĩ”. Họ gấp gáp trong Bài ca may áo (Xuân Hồng) vẫn sát cánh bên nhau trong chiến đấu dù đã thể hiện không khí khẩn trương của công thời gian ngăn trở còn “rất dài và rất xa” việc hậu phương. Họ cùng nhau may nhanh hay không gian chia cách họ “hai đứa ở hai những tấm áo để người lính được ấm lòng đầu xa thẳm” của rừng già Trường Sơn. nơi tiền tuyến. Tấm lòng của những người Yêu nhau tha thiết nhưng họ đã lấy công me, người chị, người em nơi quê nhà biểu việc để “gạt nỗi riêng tư” và “xua đi nỗi hiện qua những tấm áo không chỉ mang nhớ”, nhưng mãi mãi trong họ Đông tình cảm hậu phương mà còn tiếp thêm sức Trường Sơn vẫn nối Tây Trường Sơn như mạnh cho người chiến sĩ những khi mỏi trong bài Trường Sơn đông – Trường Sơn mệt trên đường chiến đấu gian nan, là chỗ tây (Hoàng Hiệp, phổ thơ Pham Tiến Duật). dựa tinh thần cho người chiến sĩ thể hiện Những ca khúc ở thời kì kháng trong bài Tấm áo mẹ vá năm xưa (Nguyễn chiến chống Mỹ cứu nước, dù viết ở đề tài Văn Tý). Ca khúc cứ thế mà trào dâng, nào cũng rực lửa cách mạng, mãi trường cuồn cuộn như dòng suối chảy ào ạt. Anh tồn cùng đất nước. Các ca khúc ở thời kì vẫn hành quân (Huy Du phổ thơ Trần Hữu này thể hiện bản chất tuyệt vời của con Thung), Tiếng đàn Talư (Huy Thục), người Việt Nam: kiên cường, sắt đá trước Chiếc gậy Trường Sơn (Phạm Tuyên) viết kẻ thù; yêu thương, nhân hậu với đồng bào, về phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên đồng chí; cứng rắn như sắt thép mà cũng miền Bắc trong những năm tiến hành chiến mềm mại như tơ lụa. tranh chống Mỹ cứu nước. Bác vẫn cùng Bên cạnh các bài hát có tiết tấu chúng cháu hành quân (Huy Thục), Sài mạnh mẽ, hùng tráng như thúc giục là Gòn quật khởi (Hồ Bắc), Hành quân đêm những âm thanh hiền hòa như thể hiện tình (Xuân Hồng), Trên đỉnh Trường Sơn ta yêu thương, giàu lòng nhân ái của người hát (Huy Du).... đó là hình ảnh về những Việt Nam. Khi Hoàng Hiệp viết Câu hò người chiến sĩ giải phóng từ đời thường của bên bờ Hiền Lương (1956) là lúc ông đã lịch sử đã đi vào ca khúc. đồng cảm tận cùng với tâm trạng của người Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào, dân cách nhau ở hai đầu cầu giới tuyến. Sự dù là viết về đề tài tình yêu, mảng ca khúc trông ngóng giữa bờ Bắc và bờ Nam trong trong thời kì chống Mỹ vẫn toát lên một nét đời thực đã được đưa vào ca khúc. Bằng đẹp của chân – thiện – mỹ. Cái nhìn lạc giai điệu của âm thanh, sự khắc khoải trông quan trong đạn bom, khói lửa như Bài ca đợi, yêu thương đã được nêu bật. Cả phần âm nhạc và ca từ trong Câu hò bên bờ được mọi người đón nhận một cách nồng Hiền Lương mang đậm chất liệu âm nhạc nhiệt. Vào cái ngày 30.4.1975 lịch sử ấy, ca dân ca của cả miền Nam lẫn miền Bắc, phải khúc đã như tiếng kèn chiến thắng vang lên chăng sự thống nhất trong âm nhạc này theo từng bước chân thần tốc của đoàn cũng là niềm mơ ước cho sự thống nhất quân Tiến về Sài Gòn (Lưu Hữu Phước), Bắc Nam trong từng con người Việt Nam?. đã như tiếng reo hòa chung của cả dân tộc Lời ca da diết, dạt dào cảm xúc trong bài trong niềm vui toàn thắng Như có Bác Hồ Tình ca của Hoàng Việt cũng là cảnh thật ở trong ngày vui đại thắng (Phạm Tuyên). đời thường. Cảnh vợ Nam chồng Bắc – sự Mọi người đã cùng sát cánh bên nhau thật của đời sống lúc ấy đã được ca khúc cụ hướng về ngày mai trong mùa xuân mới, thể hóa bằng chất liệu âm thanh. Ca khúc mùa xuân chiến thắng, mùa xuân thống và lịch sử lại đan xen, hòa nhập vào nhau nhất, ta như nghe thấy tiếng cười hồ hởi một cách trọn vẹn. Dường như bản Tình ca tưng bừng, như nhìn thấy những ánh mắt là một ca khúc hoàn chỉnh nhất của giai lấp lánh ngời ngời tươi vui trong ca khúc đoạn âm nhạc cách mạng thời kỳ 1957 khi Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh đất nước còn bị chia cắt. Đó là sự hòa tan (Xuân Hồng, 1975). Và Đất nước trọn hai tâm hồn lớn trong sự nghiệp cách mạng niềm vui được coi là một sự kiện âm nhạc cao cả. Vẻ đẹp của lời ca và giai điệu gây chính trị xã hội lớn. Bài hát được sáng tác xúc động mãnh liệt cho người nghe. Tính vào thời điểm miền Nam và Sài Gòn giải hùng ca trữ tình của bài hát đã lấn át những phóng. Đây là một trong những hành khúc nỗi buồn chia ly đau khổ, đem lại niềm yêu nổi tiếng và có giá trị lịch sử trong thời thuơng cuộc sống vô bờ bến trong mỗi con điểm quan trọng nhất của đất nước ta. Ca người. Tình ca đã xuất hiện và có sức sống khúc này đã mang trong mình cái trường bền vững suốt nửa thế kỷ qua. tồn, cái bản chất của lịch sử. Một lần nữa Ca khúc trong thời kỳ này đã gắn nét điển hình của ca khúc Việt Nam ở thế liền với lịch sử. Những ca khúc cách mạng kỷ XX, tính sử ca – lại được thể hiện một đã giúp bao thế hệ giữ gìn truyền thống của cách rõ rệt và sâu đậm nhất. cha ông và tự hoàn thiện nhân cách, với 3. Kết luận mỗi sự kiện lịch sử, gợi lên một nhân cách Ca khúc ở thời kỳ này lời ca hòa chân thực, mỗi một giai đoạn quá khứ. vào giai điệu thể hiện đậm nét bản sắc dân Chúng ta có thể không nhớ hết nổi những tộc của quá trình lịch sử, gợi lên ý thức số liệu về năm tháng, không nhớ hết nổi theo năm tháng lịch sử là minh chứng cho những sự kiện đã diễn biến trong lịch sử tinh thần yêu nước, yêu hòa bình, yêu cuộc nhưng khó có thể nào quên những ca khúc sống, yêu cái đẹp của dân tộc Việt Nam đã từng gắn liền với những trang sử chói trong thời kỳ này. Ca khúc ở giai đoạn này lọi, hào hùng của quá khứ, những âm thanh, đã thể hiện được lịch sử đấu tranh hào hùng giai điệu đã từng làm rung động từng mạch và vẻ vang của một dân tộc kiêu hùng chưa máu, mỗi con tim của biết bao con người. hề biết khuất phục trước kẻ thù. Do song Chính những ca khúc này đã làm tái hiện hành cùng với lịch sử nên hòa cùng nhịp lịch sử, đã giúp cho lịch sử trở về từ quá bước rầm rập của cả nước trong cuộc chiến, khứ một cách sống động nhất. Các ca khúc vì vậy mà phần lớn chất liệu chính trong ca có thể được xem như là một loại biên niên khúc ở thời kỳ này là nhịp hành khúc. Các sử bằng âm thanh. Bởi vậy, ca khúc đã ca khúc lúc này mang tiết tấu rộn ràng, dồn dập như nhịp đi của con người Việt Nam sắp xếp theo đúng trình tự thời gian tất cả trên đường chiến đấu oanh liệt và chiến những bài hát sáng tác trong mấy chục thắng trước kẻ thù. Ca khúc bấy giờ như năm qua, ta có thể có được một tuyển tập một đội kèn xung trận, một bản hiệu triệu lớn gần như một biên niên sử bài hát cách thúc giục nhân dân ta đứng lên chống lại kẻ mạng” [4, tr.6]. Một lần nữa, chúng ta có thù. Ở một khía cạnh nào đó, nó đã chứa thể khẳng định rằng: Tính sử ca là nét điển đựng những tài liệu, sự kiện lịch sử cụ thể. hình của các ca khúc cách mạng Việt Nam “Nếu sưu tầm được đầy đủ và đem ở giai đoạn 1954 -1975

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Thụy Kha (1998), Nửa thế kỷ Tân nhạc Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.

[2] Nguyễn Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm nhạc.

[3] Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên (2000), Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu, Viện Âm nhạc.

[4] Nhiều tác giả (1975), Tiếng hát Việt Nam (1930-1963), tập 1, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

[5] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tân_Nhạc-Việt_Nam (25/3/2016)

[6]https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhạc-đỏ (25/3/2016)

[7]https://www.wattpad.com/6217882-lịch-sử-âm-nhạc-việt-nam (25/3/2016)

 [8]http://www.hoinhacsi.vn/nhung-van-de-li-luan-am-nhac-giai-doan-1954-1975 (02/4/2017)

[9] https://vi.wikipedia.org/wiki/Âm_nhạc_Việt_Nam (11/4/2017)

[10] http://www.baobinhdinh.com.vn/thi60nam/2005/6/11568/ (26/4/2017) Abstarct Epic – The typical feature of Vietnamese songs in the period 1954 - 1975 For twenty-one years (1954-1975), the country was split up into two regions, the people in the north of Viet Nam always united into a mass unanimously devoted to constructing the socialism in the North, fighting against the American imperialists and fighting for the country’s reunification. This political goal governed the entire social, economic and cultural life. Music as well as all other forms of arts and literature, always associated with the spiritual life of the people, especially during the war-time, the period in which mental factors was multiplied to encourage every citizen to contribute their utmost to the survival of the nation. In this article, the author continues to recommed the epics, as typical features of Vietnamese songs in the period 1954-1975. Keywords: epic, communist revolutionary musical gerne 1954-1975

 

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn