Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, còn gọi là tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam, là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc sống trên
lãnh thổ Việt Nam trải qua nhiều thời đại.
Đặc điểm
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm
gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống
chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự
nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường
nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm
cho Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng.
Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng
lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm
thức một người Việt. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng – tôn
giáo của người Việt đó là tính hỗn dung tôn giáo. Trước sự du nhập của các tôn
giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải
biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi
các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan
trọng trong đời sống tâm linh của người dân.
Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà
người Việt thể hiện sự bàng bạc trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều
có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần đông trong số đó không là tín đồ thành
kính của riêng một tôn giáo nào. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến
phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả
mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong
đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là tính dụng. Tôn giáo là để phục
vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống.
Phân loại
Tín ngưỡng phồn thực
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống,
ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con
người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ
tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm
dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa
là nhiều, thực nghĩa là nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện
ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ (như linga, yoni) và thờ
hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn,
chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi.
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức
ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu
tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực:
Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm
lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo
Tâm mặt trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho
sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh
thực khí nữ
Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc,
một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực (xem thêm Con cóc là cậu ông trời)
Thờ sinh thực khí
Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở,
khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở
hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các
nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam
thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên
các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên. Ngoài ra nó còn được
đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) có tục rước cặp sinh thực
khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia
cho mọi người để lấy may.
Thờ việc sinh đẻ
Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt
Nam còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến
các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam
Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng
Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người,
cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đồng
Hoàng Hạ (Hòa Bình).
Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền
điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu
trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ
lại "dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón
dâu" cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu
tượng cho sinh thực khí nam và nữ[cần dẫn nguồn]. Ngoài ra một số nơi còn vừa
giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.
Sùng bái tự nhiên
Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng
bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín
ngưỡng đa thần và âm tính (trọng tình cảm, trọng nữ giới). Các vị thần ở Việt
Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ở trên
nên các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo,
tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu. (Xem thêm Đạo Mẫu).
Thờ Tam, Tứ phủ
Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà
Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay
Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản
những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời
là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng.
Thờ Tứ pháp
Tượng Pháp Vân
Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần
Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng
trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ
thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Ảnh
hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước
tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa. Tứ pháp gồm:
Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Thờ động vật
Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian việc thờ
cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người
dân, và trong các tín ngưỡng dân gian đó phải kể đến Tín ngưỡng thờ động vật
hay thờ thú. Người Việt Nam là dân tộc đa dạng trong việc thờ các vị thần có
nguồn gốc từ động vật, họ thờ những con vật mạnh mẽ như thờ hổ, cá voi, thờ
voi, thờ ngựa, thờ rắn, thì người Việt còn thờ các con vật hiền cóc, chó, cá,
hạc, dơi, các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội
nông nghiệp.
Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức
biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc
"họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống
"Rồng Tiên". Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp:
tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà
không cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt
Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng.
Thờ cây cối
Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có
Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,...
Các câu chuyện về ma cây cũng khá phổ biến, nhất là chuyện hồn ma quanh quẩn
bên gốc cây chỗ người chết.
Thờ người
Ngoài phồn thực, tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam
rất coi trọng con người. Họ cũng hay thờ con người, đặc biệt là thờ sống và
phong thánh, chẳng hạn như người ta phong Trần Hưng Đạo là Đức Thánh Trần, hay
thờ những người được mến trọng như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp...
Hồn vía
Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể
xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm
"hồn" và "vía". Vía được hình dung như phần trung gian giữa
thể xác và hồn[cần dẫn nguồn]. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy
vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí
(năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía
ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới
cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều
cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con.
Tuy nhiên có cách giải thích khác (xem thêm chín vía). Người Việt thường có câu
nói nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía",
cũng là từ các quan niệm trên mà ra.
Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ,
trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ
thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì
người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng
hơn sẽ bay là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như:
"hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run
sợ, mất chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây". Khi chết là hồn đi
từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông
nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người
chết trong những chiếc thuyền.
Tổ tiên
Người Việt là một trong những dân tộc có tục
thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo
ông bà.
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.”
— Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên
Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người
Việt coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ
tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ
cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng
xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn—khói bay lên
trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất—theo họ như thế tổ tiên mới nhận được.
Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời - Đất - Nước
(tam tài) mang tính triết lý sâu sắc.
Thờ Tổ nghề
Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn
đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau
tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Tổ
nghề (hoặc thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con người bình thường, nhưng lại
được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các
thế hệ sau.
Thành hoàng
Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và
Thổ Công, ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công,
Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở
Việt Nam mà không có Thành hoàng.
Những người được thờ thường là những người có
tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ
những người lý lịch không rõ ràng gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp...
nhưng họ chết vào "giờ thiêng" (Giờ xấu theo mê tín dị đoan).
Giỗ Tổ
Ở phạm vi quốc gia, người Việt thờ Vua tổ, đó
là Vua Hùng. Nơi thờ phụng ở Phong Châu, Phú Thọ. Ngày giỗ tổ là ngày 10 tháng
3 âm lịch.
Tứ bất tử
Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là
Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh. Tản Viên biểu hiện cho ước
vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống
giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất; Liễu
Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.
Tiền hiền
Ngoài ra, tại Việt Nam có rất nhiều đền thờ
các vị danh nhân như vua Đinh Tiên Hoàng, Lương Thế Vinh, Trần Hưng Đạo (Tín
ngưỡng Đức Thánh Trần),....
Thờ Thần
Thổ Địa, Thần Tài, Táo Quân, Hà Bá, Môn Quan,
Phúc Lộc Thọ