Tiểu luận kết thúc môn NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM ISLAM Ở TỈNH AN GIANG, Sv Phạm Thị Nhã Tiên, K9_2019

 



BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ

&

 


 

BÀI TIỂU LUẬN

 

ĐỀ TÀI :

 “Nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang”

 

                                                           GVHD: PGS, TS Phan Quốc Anh        

                                                           SVTH : Phạm Thị Nhã Tiên                                                                                 

                                                                    MSSV : D16DT031

                   

                                    TP.HCM, ngày 30 tháng 12 năm 2019

 

 

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1.     Lý do chọn đề tài

2.     Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

3.     Mục đích nghiên cứu

4.     Phương pháp nghiên cứu

5.     Bố cục đề tài

Chương 1 : Khái quát về người Chăm ở tỉnh An Giang

1.1  Tên gọi

1.2  Nguồn gốc

1.3  Phân bố dân cư

Chương 2 : Nghi lễ vòng đời  của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang

2.1 Nghi lễ trong giai đoạn sinh

2.2.1 Nghi lễ trong giai đoạn mang thai

2.2.2 Nghi lễ trong giai đoạn sinh đẻ

2.2.3 Nghi lễ cắt tóc và đặt tên

2.2 Nghi lễ trong giai đoạn trưởng thành

2.2.1 Lễ cắt bao quy đầu

2.2.2 Tục cấm cung

2.2.3 Nghi thức cưới sinh

2.3 Nghi lễ trong giai đoạn tử

Chương 3 : Kết luận

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

     Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Riêng ở An Giang có 4 dân tộc (Việt, Hoa, Kh’mer và Chăm). Chăm lo sự phát triển của đồng bào dân tộc, nhất là trong lĩnh vực văn hóa xã hội là một chủ trương luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Đời sống văn hóa xã hội của các cộng đồng dân tộc được ổn định và nâng cao sẽ là động lực to lớn để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Người Chăm là một trong số 54 dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Về văn hóa, dân tộc Chăm có nền văn hóa khá đồ sộ, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa tổng thể ở nước ta. Mặc dù trải qua nhiều giai đoạn biến động thăng trầm của lịch sử, văn hóa Chăm vẫn giữ được những giá trị đáng quý đồng thời tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Bên cạnh nền văn hóa vật chất như các đền đài, tháp chàm, các thánh đường… thì nền văn hóa phi vật thể của người Chăm cũng là một khía cạnh chứa nhiều yếu tố vừa đặc sắc vừa huyền bí. Để tìm hiểu một tộc người, một nền văn hóa, theo chúng tôi, điều cốt yếu nhất là tìm hiểu đời sống tâm linh, hay nói khác hơn là tìm hiểu những yếu tố thuộc về đời sống tinh thần của tộc người đó. Trong đó, các nghi lễ vòng đời là một nội dung cốt lõi để tìm hiểu đời sống tâm linh. Bởi lẽ, thông qua những nghi lễ trong cuộc đời con người, ta có thể tìm hiểu thế giới quan, nhân sinh quan, phong tục tập quán, tâm hồn, tình cảm của tộc người đó. Nghi lễ vòng đời người chứa đựng đời sống tâm linh, nét văn hóa, tâm hồn tình cảm của một tộc người. Nó có ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi cá nhân và cộng đồng, thậm chí còn là sợi dây vô hình gắn kết giữa cá nhân với cộng đồng dân tộc. Con người từ khi sinh ra đến lúc mất đi, dù muốn dù không, họ cũng sẽ bị những nghi lễ vòng đời chi phối. Chính vì vậy, nghi lễ vòng đời người là một trong những môi trường tốt nhất để bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi tộc người. Trong xu hướng phát triển, hội nhập như hiện nay, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa đang được chú trọng. Văn hóa các tộc người ngày càng được đầu tư nghiên cứu. Đó là cơ sở để khẳng định và đề ra những chính sách hợp lý nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đích thực. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, do giao lưu, tiếp nhận các nền văn hóa khác nhau, văn hóa Chăm, trong đó có các nghi lễ vòng đời người, đã ít nhiều có những biến đổi. Việc nghiên cứu, khẳng định lại những nét đặc sắc trong nghi lễ vòng đời người Chăm là một việc làm cần thiết và cấp bách. Đối với người Chăm Islam ở An Giang, từ trước đến giờ đã có rất nhiều đề tài, chuyên luận, bài báo khoa học… đề cập với nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở An Giang lại là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Thiết nghĩ, nghiên cứu văn hóa người Chăm ở An Giang nói chung và nghi lễ vòng đời nói riêng là một việc làm cần thiết. Nó góp phần khẳng định những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Chăm ở An Giang; khu biệt với những đặc trưng, giá trị văn hóa của người Chăm Bà la môn, Chăm Bà ni khu vực miền Trung, đồng thời nghiên cứu một cách có hệ thống nghi lễ vòng đời của người Chăm ở An Giang còn là cơ sở để đề xuất những kiến nghị nhằm duy trì và phát huy những giá trị văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc này.

 

2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

 Phạm vi

Người Chăm Islam ở tỉnh An Giang

Đối tượng nghiên cứu

Nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích, tham khảo tài liệu tư liệu từ sách, báo,…

4. Bố cục đề tài

Ngoài phần phục lục, mở đầu , tài liệu tham khảo thì được chia làm 3 chương

Chương 1. Khái quát về người Chăm ở An Giang

Chương 2. Nghi lễ vòng đời  của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang

Chương 3.  Kết luận

 

 

CHƯƠNG I    KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI CHĂM ISLAM Ở TỈNH AN GIANG

1.1  Tên gọi

 Trước đây, đồng bào Chăm có nhiều tên gọi như: Chàm, Chà, Chà Và, Chà Và Ku, Chiêm Thành, Champa... Ngoài ra, đồng bào thường tự gọi là Chăm, Chăm Bàni,Chăm Islam, Chăm Chuk, Chăm Kaphir, Chăm Jet... Trong đó, một số tên gọi xuất phát từ việc đọc trại các âm tiếng Chăm mà thành. Điển hình như tên “Chàm” bắt nguồn từ tên gọi là Champa, dần dần biến âm thành Chàm. Tên gọi này được dùng phổ biến trong người Chăm. Hay tên “Chà” cũng là trường hợp tương tự. Vì trong ngôn ngữ người Chăm có danh từ “Ja” và “Chà” có nghĩa là “thằng”, từ đó người Kinh cũng thường gọi: người Chà, xóm Chà, làng Chà để chỉ xóm xã người Chăm. Tên “Chà Và” cũng có thể do người Kinh phiên âm từ tiếng “JaVa” (tên thủ đô của nước Inđônêxia) mà thành. Tuy nhiên, người Chăm rất thành kiến với tên gọi Chà Và. Theo họ, tên gọi này mang tính “kỳ thị dân tộc”. Trong tên tự gọi riêng, đồng bào Chăm thường dựa theo đặc điểm về tôn giáo. Chẳng hạn, người Chăm Hồi Giáo tự xưng là Chăm Islam (Chăm con giáo chủ Allah) và Chăm Bà ni (người Chăm theo Hồi giáo không chính thống). Người Chăm theo đạo Bà la môn tự xưng là Chăm Jet (Chăm chính thống) và Chăm Chuk (khi có người chết thì đem thiêu xác). Người Chăm Hồi giáo cũng còn gọi những người Chăm theo tôn giáo khác là “Kaphis”, có nghĩa là “dị giáo”. Với mỗi tên gọi của đồng bào, những cách giải thích và tiếp cận khác nhau sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn trong việc tìm hiểu và tiếp xúc với văn hoá và cộng đồng của người Chăm ở từng vùng miền cũng như cộng đồng người Chăm ở Việt Nam nói chung. Ở Việt Nam, người Chăm Hồi giáo được chia thành hai nhóm chính. Trong đó, người Chăm theo Hồi giáo không chính thống hiện cư ngụ tại khu vực Ninh Thuận và Bình Thuận, còn gọi là Chăm Bà ni. Họ mang nhiều yếu tố của văn hóa bản địa do quá trình giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa. Các lễ thức được tiến hành mang đậm dấu ấn chế độ gia đình mẫu hệ và văn minh nông nghiệp, ít liên quan đến lễ thức Hồi giáo chính thống. Người Chăm theo Hồi giáo chính thống hiện cư ngụ tại An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, còn gọi là Chăm Islam. Họ vẫn giữ được những phong tục, tập quán cũ và thường xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo thông qua Hồi giáo Malaysia, Campuchia, Ả Rập.... Họ không bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa bản địa (An Giang). Trước đây, các nhà khoa học, giới báo chí thường gọi người Chăm Islam ở An Giang bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Ví dụ như “Người Chăm Châu Đốc”, “Người Chăm Châu Giang”, “Người Chăm Hồi Giáo ở An Giang”, “Người Chăm Hồi Giáo ở Châu Đốc”… Chúng tôi nhận thấy, các cách gọi gắn với địa danh Châu Đốc ngày nay không còn phù hợp nữa. Bởi lẽ, hiện tại địa bàn Thị xã Châu Đốc không có các Puk, Pơlây hoặc một nhóm cộng đồng Chăm nào. Hiện nay, để thống nhất cách gọi, các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ “Chăm Islam” để chỉ người Chăm theo đạo Hồi chính thống. Ngoài ra, còn có thuật ngữ “Chăm Bà ni” để chỉ những người Chăm theo đạo Hồi không chính thống (Phạm Thị Vinh, 2008). Các thuật ngữ này xuất hiện từ tiếng Ả Rập. Cụ thể trong tiếng Ả Rập, chữ “ Islam” có nghĩa là Hồi giáo.Những người Chăm theo đạo Hồi giáo được gọi là “ Musulman”, còn một người Hồi giáo thì được gọi là “ Muslim” có nghĩa là một trong những người nộp thân cho Chúa trời, tức Allah. Bản thân người Chăm ở An Giang và nhiều nơi khác cũng sử dụng thuật ngữ Chăm Islam để chỉ những người Chăm theo Hồi giáo chính thống.

 1.2 Nguồn gốc

    Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, người Chăm Islam ở An Giang     có cùng nguồn gốc với người Chăm khu vực Miền Trung. Tuy vậy, khi lý giải về quá trình di dân và định cư của người Chăm Islam ở An Giang thì còn có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất. Theo các sử liệu cổ của Trung Quốc, Vương quốc Champa được thành lập từ năm 192 sau Công nguyên, lấy tên là Lâm Ấp (có nghĩa là xứ rừng). Sau đó, Lâm Ấp lần lượt đổi tên thành Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Lâm Ấp được thành lập là do Khu Liên, một viên chức bản địa vì không chịu nổi sự cai trị hà khắc của nhà Hán nên lãnh đạo người dân nổi dậy lật đổ chính quyền khu vực Nam Thừa Thiên Huế ngày nay. Lâm Ấp có địa bàn trải dài từ thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng thuộc Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển đất nước, Vương quốc Champa có những biến động nhất định do ảnh hưởng của chiến tranh. Người Champa từng có xung đột với các quốc gia trong khu vực thời bấy giờ như Chân Lạp (Campuchia), Malaska, Xiêm (Thái Lan)… Đặc biệt, những cuộc xung đột và giao tranh với Đại Việt có ảnh hưởng rất lớn đối với sự biến đổi lãnh thổ và dân cư Lâm Ấp. Năm 982, dưới thời vua Lê Đại Hành, quân đội Đại Việt đã phá hủy kinh thành Indrapura thuộc Quảng Nam ngày nay, buộc người Champa phải rời bỏ kinh thành, di cư về phía Nam. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cầm quân tiến đánh Chiêm Thành, bắt sống Quốc vương Champa là Chế Củ. Champa phải dâng các châu Địa lý, Ma linh, Bố chánh (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị). Dưới thời của Hồ Quý Ly, Quốc vương Champa tiếp tục thất trận, phải dâng đất Chiêm động và Cổ lũy để đổi lấy sự tự do. Tuy nhiên, biến động lớn nhất của cư dân Champa có lẽ được đánh dấu vào năm 1471. Khi ấy, vua Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đánh Champa, bắt sống Quốc vương Bàn-la. Sau đó, lãnh thổ Champa bị chia cắt thành ba nước nhỏ, đó là Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan. Cũng từ sau thất bại ấy, hàng loạt người Chăm đã bỏ chạy. Có nhóm chạy lên miền núi, có nhóm vượt biên giới sang trú tại vương quốc Chân Lạp. Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi thống nhất giang sơn, nhà Nguyễn đã áp dụng chính sách cai trị ngày càng chặt chẽ đối với người dân Champa. Đến năm 1822, vua Champa cuối cùng là PoChơnChan đóng đô ở Phan Rang phải bỏ ngai vàng cùng các binh tướng, tùy tùng và gia đình vượt Trường Sơn trốn sang Campuchia. Năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi lên chống lại nhà Nguyễn, nhờ được người Champa (lúc này đang hưởng quyền tự trị) ủng hộ nên dễ dàng chiếm các miền Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. Tuy nhiên, sau đó khoảng thời gian không lâu, cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bị dẹp tan. Vua Minh Mạng đã thẳng tay tàn sát dân Champa khiến họ phải trốn đi nơi khác như Campuchia, Mã Lai, Xiêm,... Trong những năm của thế kỷ XVII, XVIII, tình hình Chân Lạp có những biến động phức tạp, chiến tranh xảy ra liên miên, đời sống người dân nhất là những lưu dân vốn gặp khó khăn lại khó khăn hơn. Trong bối cảnh ấy, người Chăm dễ dàng tìm đến với chúa Nguyễn khi có điều kiện. Nhưng cũng vì những điều kiện cụ thể mà họ không thể trở về cố hương với cộng đồng gốc của mình mà định cư rải rác ở nhiều nơi thuộc vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Năm 1841, Nam Bộ có cuộc khởi nghĩa Lâm Sâm ở Trà Vinh. Lúc bấy giờ, vua Thiệu Trị xuống chiếu cho Trương Minh Giảng đang ở Chân Lạp (Campuchia) rút quân về. Những người Chăm và người Mã Lai được tuyển vào quân đội triều Nguyễn cùng gia quyến của họ đã rút theo

đoàn quân của Trương Minh Giảng, khâm sai đại thần Lê Văn Đức, phó khâm sai Doãn Uẩn của triều Nguyễn cũng theo về. Sau đó, họ cư trú cùng gia đình dọc sông Hậu (cù lao Katambong) và Khánh Bình (An Phú) cho đến ngày nay. Năm 1858, ở Chân Lạp, Tuôn Sết It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều đình phong kiến. Cuộc khởi nghĩa đã thu hút khá đông người Chăm, người Mã Lai tham gia. Đến khi cuộc khởi nghĩa thất bại, rất nhiều người Chăm, người Mã Lai chạy về Nam Bộ. Tất cả đều được Triều Nguyễn thu nhận và cho định cư ở vùng đất An Giang, cụ thể là phân bố trong 7 làng: Châu Giang, Katambong, Phũm Soài, La Ma, Koh Koi, Koh Kia và Sa Bâu. Đây được xem là đợt di dân đông đảo nhất của người Chăm từ Campuchia về An Giang. Cần phải nói thêm, địa bàn lãnh thổ vương quốc Champa xưa kia là một khu vực có khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, không thuận lợi cho quá trình sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Do vậy, có nhiều khả năng, người Chăm có xu hướng di cư đến các vùng lân cận để tìm một môi trường sống thuận lợi hơn. Do phía Đông giáp biển, họ không thể di cư theo hướng này mà chỉ có thể đi theo hướng Bắc, Tây hoặc Nam. Theo hướng Tây, họ sẽ gặp trở ngại lớn bởi dãy Trường Sơn hiểm trở và các tộc người miền núi lúc bấy giờ. Hướng Bắc, người Chăm sẽ gặp cộng đồng Đại Việt và chắc chắn rằng, họ không đủ sức để chống chọi với dân tộc hùng mạnh này. Do vậy, nếu những người Chăm muốn rời bỏ quê hương của họ để tìm vùng đất tốt hơn, chỉ còn một hướng duy nhất là Nam tiến. Lúc bấy giờ, Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang hóa. Tuy vậy, điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng so với lãnh thổ vương quốc Champa là thuận lợi hơn rất nhiều. Có lẽ, vì nguyên do này, khi Chúa Nguyễn lập phủ Gia Định (1698), Nguyễn Hữu Cảnh thụ mệnh chiêu mộ dân binh vào Nam khai phá ruộng đất, khẩn hoang lập làng thì một bộ phận người Chăm miền Trung đã mạnh dạn tham gia vào đây để tìm một môi trường sống mới. Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói chung và ở An Giang nói riêng được hình thành từ hai nguồn chủ yếu, từ Trung Bộ chuyển cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và một phần khác không nhỏ từ Chân Lạp trở về.

1.3. Phân bố dân cư

   Theo số liệu tập hợp của Ban Dân tộc tỉnh An Giang, hiện nay người Chăm ở An Giang là 13.722 nhân khẩu, khoảng 2.810 hộ, 7404 nữ, 6.318 nam sống chủ yếu tập trung ở các Puk (ấp) hay trong những Pơlây (xã) xen kẽ với người Kinh. Có thể liệt kê tình hình phân bố dân cư như sau: - Ấp Đồng Cô Ky thuộc xã Quốc Thái huyện An Phú. Tiếng Chăm gọi là “Koh Kôkia”, có nghĩa là “cồn Cây Sao”. - Ấp La Ma (hay còn gọi là cù lao Ba) thuộc xã Vĩnh Trường, huyện An Phú. Tiếng Chăm gọi là “Koh plao ba”, có nghĩa là “ba cù lao” hay “ba cái cồn”. - Ấp Phước Thành thuộc xã Đa Phước huyện An Phú. Tiếng Chăm gọi là “Koh kapoak” có nghĩa là “còn tơ tằm”. - Ấp Phum Soài, thuộc Phường Châu Phong, Thị xã Tân Châu. Tiếng Chăm gọi là “Puk Pa ok”, có nghĩa là “ấp chòm Soài”. - Ấp Châu Giang trước đây thuộc xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân. Tuy nhiên, từ tháng 10/2009, Tân Châu chính thức được quyết định nâng lên Thị xã, có sát nhập một số địa phận hành chính thuộc Huyện Phú Tân vào Thị xã Tân Châu, trong đó có Châu Giang, cho nên, hiện nay, làng Châu Giang thuộc Phường Châu Phong, Thị xã Tân Châu. Cũng chính vì nguyên do này, hiện nay, các làng Chăm ở An Giang chủ yếu thuộc 3 huyện (An Phú, Châu Phú, Châu Thành). Hầu hết đồng bào Chăm theo đạo Hồi, có mối quan hệ với tín đồ Hồi giáo các nước Ả Rập, Malaysia, Indonesia, Campuchia. Nguồn thu nhập chính bằng nghề chài lưới, buôn bán nhỏ và dệt thủ công truyền thống.

CHƯƠNG II  NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM ISLAM Ở TỈNH AN GIANG

 

2.1 Nghi lễ trong giai đoạn sinh

                       

2.1.1 Những điều kiêng cử khi mang thai

  Không riêng về người Chăm Islam, hầu như đối với các dân tộc trên thế giới, việc phụ nữ mang thai luôn là niềm vui lớn, là sự kiên quan trọng trong mỗi gia đình. Bởi việc sinh đẻ đánh dấu quá trình duy trì và phát triển nồi giống, đảm bảo cho quá trình tồn tài và vững chắc của mỗi gia đình nói riêng và cộng đồng nói chung.

Đối với người Chăm Islam ở tỉnh An Giang, ngay trong giai đoạn phụ nữ mang thai, họ đã có những kiêng củ nhất định để bảo vệ cho mẹ và thai nhi. Trước đây phụ nữ mang thai phải kiêng nằm võng, kiêng leo trèo lỡ té hư thai , không ngồi quay lưng ra hướng cửa chính sợ sinh châm, mỗi khi làm việc gì thì phải thật mong lẹ sau sẽ dễ sinh, chỉ được ăn uống ngồi, kiêng ăn đứng hoặc vừa đi vừa ăn sợ động thai…

Theo một số  tài liệu khi phụ nữ mang thai họ có thể ăn uống không cần kiêng cử như một tín đồ bình thường, mà them gì thì ăn nấy. Điển hình họ có thể ăn uống tự nhiên trong tháng chay Ramadan,..

Hiên nay, đời sống xã hội phát triển, phụ nữ Chăm khi mang thai và sinh nở thường đến các cơ sở y tế địa Phương, được tư vấn và chăm sóc sức khỏe theo phương pháp y học hiện đại, do vậy sự kiêng kỵ trước khi cũng phần nào giảm được. Thay vào đó họ sẽ ăn uống đủ chất, hạn chế lo lắng buồn phiền, tránh thức khuya, mang vác đồ nặng ,….

 

2.1.2  Nghi lễ trong giai đoạn sau sinh đẻ

  Sau khi sinh, lá nhau phải được rửa sạch và chôn ngay dưới chân cầu thang. Theo quan niệm của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang, việc chôn nhau thai dưới chân cầu thang là để sau này đứa trẻ dù có đi nơi đâu, vẫn nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhớ gia đình tổ tiên mà quay về.

Khi sinh con xong, thì người mẹ cũng nằm lửa đúng một tuần, sau một tuần ấy, người ta sẽ hốt bếp cho người phụ nữ. Tất cả than, xác thuốc uống đều được gói chung lại, đem chôn dươi cầu thang như nhau thai.

 

 

2.1.3 Nghi lễ cắt tóc và đặt tên

  Đối với người Chăm Islam ở An Giang, việc sinh đẻ, nhất là con trai, được xem là điều vui vẻ nhất. Do đó, người Chăm slam thường đặt nhiều nghi thức để phòng ngừa “ hồn ma” có thể quấy nhiễu đến hài nhi và cầu mong cho đứa bé gặp nhiều việc tốt lành. Ngoài ra, người ta thường đặt cạnh đứa trẻ đường ngọt ( cầu mong sau này nó thành người tốt), bánh mì ( cầu mong sống lâu) và vàng ( cầu mong sau này giàu có ),… Trước kia con gái thường không được đón tiếp long trọng như con trai. Tuy nhiên, hiện nay hiên tượng “ trọng nam khinh nữ” trong người Islam không còn nhiều. Hầu như gái trai ra đời đều là niềm vui của gia đình và cộng đồng.

 

Thông thường , sau 7 ngày người ta sẽ làm lễ cắt tóc và đặt tên cho đứa trẻ. Trong lễ cắt tóc và đặt tên, nhà nào khá giả thì làm con cừu hoặc dê, bò tùy ý. Nhà nào khó khan thì làm gà nấu cháo. Nếu đứa trẻ là con trai thì số lượng các con vật giết cúng và đãi khách là 2 con, còn nữ là 1 con. Người ta sẽ mời các ông Hakem, Tuôn, Imâm đến để đọc kinh cầu nguyện cho đứa bé sống khỏe, sống tốt, biết giữ đạo và đời. Ngoài ra còn mời bà con đến  xem như cho đứa trẻ ra mắt. Tại buổi lễ, sau khi những người tham dự an tọa, họ sẽ bắt đầu đọc kinh. Sau đó, người trong gia đình sẽ bồng đứa bé ra trước các ông Hakem, Tuôn, Imâm, rồi đến các bô lão để những người này ban phúc bằng cách đọc vào tai nói những câu kinh rồi nhúng lông già vào nước quệt lên trán nó. Tiếp theo, ông Hakem hoặc các vị bô lão sẽ đọc kinh rồi dùng kéo cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu đứa trẻ, thao chút dầu thơm và tiến hành đặt tên cho nó.

Người Chăm Islam có 3 cách đặt tên chủ yếu : đặt tên thánh, đặt tên trí thức và đặt tên thường.

Ngoài tên thường gọi hoặc trên danh nghĩa giấy tờ, mỗi người Chăm Islam đều phải có 1 tên thánh. Về phương diện tín ngưỡng, tên thánh là tên mà khi chết, người thân bạn bè sẽ gọi để nhắc nhũ vong hồn.

 2.2 Nghi lễ trong giai đoan trưởng thành

2.2.1 Tục cắt bao quy đầu (khotanh):

   Độ tuổi tiến hành tục khotanh không được quy định cụ thể, nhưng bắt buộc không vượt quá 15 tuổi. đối với người Chăm Islam đây là một nghi lễ được tôn trọng triệt để, dù không được minh định trong thánh Koran. Nghi thức nhầm bảo đảm sự trong sạch cho con trai trong quá trình thực hiện nghi lễ tại thánh đường , nó đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời đứa trẻ, chứng nhận đã đến tuổi thành niên, có đầy đủ năng lực và trực tiếp lãnh hội trách nhiệm cũng như đức tin đối với Allah.

Trước khi thực hiện tục này, người ta giải thích cho đứa trẻ biết nguyên do và yêu cầu chúng phải nghiêm chỉnh thực hiện để làm tròn bổn phận của một tín đồ Islam. Ông chèn kho tanh (người thực hiện việc cắt da quy đầu trong một xóm Chăm) đọc kinh và tiến hành cắt da quy đầu cho chúng. Đứa trẻ được thoa một chất thuốc (các loại thuốc dân gian) lên đầu dương vật, sau đó, chèn kho tanh dùng một chiếc kẹp tre kẹp da quy đầu của đứa trẻ mà kéo lên. Tiếp theo, ông dùng dao bén cắt lớp da quy đầu. Cắt xong, chèn kho tanh thoa thuốc cầm máu lên vết cắt.

 2.2.2 Tục cấm cung (ga sâm):

   Trước năm 1975, phụ nữ Chăm Islam ở An Giang tới tuổi dậy thì phải cấm cung, mục đích là để gia đình và bản thân thiếu nữ tự quản lý mình tốt hơn. Thiếu nữ chỉ được ở trong một căn phòng kín đáo, sinh hoạt, dệt vải và đi lại trong căn phòng đó. Nếu cần đi đâu, cô ta chỉ đi vào ban đêm và có người thân đi cùng. Thông thường, các cô gái cũng chỉ đi khỏi phòng vào các dịp lễ cưới của chị em, bạn bè trong xóm. Ngày nay, tục này không còn nữa.

2.2.3    Nghi thức cưới hỏi

   Người Chăm Islam khuyến khích kết hôn giữa anh chị em họ; nam, nữ phải cùng tôn giáo. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có trường hợp người Chăm Islam kết hôn với người không cùng tôn giáo. Đối với người ngoại đạo, họ phải thực hiện một số thủ tục và làm lễ nhập đạo trước khi làm lễ cưới. Trước đây, nam nữ thường được xây dựng gia đình rất sớm, bởi vì hôn nhân của họ do cha mẹ sắp xếp. Độ tuổi của nữ khi kết hôn thường vào khoảng 15-18. Còn nam thường kết hôn ở độ tuổi từ 16-20. Hiện nay, tuổi kết hôn của nữ thường là khoảng 18-20, còn nam từ 20-25. Trong lễ cưới phải có vị chủ hôn (ông wali), ôn uốk và mụ uốk là những người rất am hiểu về các tập tục của dân tộc. Họ hướng dẫn cho cô dâu và chú rể từ cách ăn mặc, trang sức đến cách trang trí phòng hoa chúc, các nghi thức hành lễ… Ngoài ra còn phải có người mai mối (maha). Người Chăm Islam không nhất thiết phải coi ngày khi cưới hỏi. Thông thường, họ tổ chức vào khoảng thời gian sau mùa hành hương hoặc vào dịp sinh nhật thiên sứ Muhammad.

*Đối tượng kết hôn

 Cấm việc kết hôn với những người cùng thân tộc. Cụ thể cấm nam kết hôn với mẹ đẻ, con gái, chị em ruột, dì, mẹ vợ, mẹ nuôi, con dâu, con gái riêng của vợ. Họ khuyến khích kết hôn giữa anh chị em họ, ví dụ như con chú, con bác, con dì, con cô, con cậu. Con gái có thể lớn tuổi hơn chàng trai chứ không nhất thiết là phải nhỏ tuổi hơn. Nguyên tắc cơ bản trong chế độ hôn nhân là hai đối tượng phải cùng tôn giáo, tuy nhiên trong thực tế vẫn kết hôn với người không cùng tôn giáo. Đối với trường hợp không cùng đạo họ phải thực hiện một số thủ tục và làm lễ nhập đạo trước khi làm lễ cưới. Trong trường hợp người ngoại đạo là nam, họ phải làm lễ khotanh, học giáo lý và hướng dẫn cách hành lễ. Nếu là nữ, họ phải học giáo lý thuộc các tin điều Hồi giáo, đặc biệt à tín điều thứ nhất ( giữ lòng tin tuyệt đối với Thánh Allah và thiên xứ Muhammad). Ngày nay việc kết hôn với những người ngoài dòng họ đang ngày càng phát triển do người Chăm nhận thức được những cuộc hôn nhân với người cùng dòng họ trong phạm vi 3 đời sẽ gây nên hiện tượng đồng hóa, để lại nhiều di chứng ảnh hưởng đến con cái.

*Độ tuổi kết hôn

  Trước đây năm nữ thường xây dựng gia đình rất sớm, bởi vì hôn nhân do cha mẹ sắp đặt. Do vậy nạn tảo hôn xuất hiện trọng cộng đồng người Chăm. Lúc đó nữ kết hôn thường từ 15 đến 18 tuổi , năm từ 16 đến 20 tuổi. Hiện nay, do bãi bỏ tục cấm cung đối với nữ giói nên nam, nữ được tự do tìm hiểu nhau.

Độ tuổi kết hôn được nâng lên, nữ khoảng 18 đến 20 tuổi, nam từ 20 đến 25 tuổi.

Mục đích nâng lên để nhằm bài trừ nạn tảo hôn, ý thức được phải có sự nghiệp mới lập gia đình như thế mới có điều kiện lo cho con cái sau này.

*Nguyên tắc kết hôn

- Đối tượng kết hôn phải làm người Chăm Islam hoặc những người đã đảm bảo đức tin với Thánh Allah, tuân thủ luật tục Hồi giáo.

- Trong lễ cưới bắt buộc phải có cô dâu chú rễ

- Cô dâu chú rể là những người trưởng thành có đủ trí khôn

- Bắt buộc hôn lễ phải có sự chấp thuận của cha vợ và chú rể ( biểu hiện chế độ phụ quyền )

- Phải trao đủ số tiền đồng cho cô dâu

*Trang phục

  Trước đây, trong ngày cưới, chú rể mặc trang phục giống như vị Hadji đi hành hương ở thánh địa Mesxscca, bao gồm áo trắng phết gót, quần ống chẹt cũng màu trắng. Trên lưng có khan Sal trắng, đầu đội muc và vải trắng ( tượng trưng cho sự trong sạch )

Cô dâu được trang điểm lộng lẫy, đầu đội vương miện có đính cườm, trang sức lấp lánh, tóc bới cao cài 3 cây trâm . cây trâm to nhất cài giữa có hình mảnh trăng lưỡi liềm và ngôi sao, biểu hiện của đạo Islam. Trang phục thường là áo nhung đỏ hoặc tím, dài tới gối, không sẻ hông. Một dải bang to màu xanh lam quấn quanh ngực và vai. Dưới chân áo là xà rông được làm bằng tơ tằm, máu sắc đẹp, thông thường cũng là do cô gái tự dệt. Theo luật tục trang sức cô dâu mang phải là lẻ không được chẳn, vì đó là điều không tốt.

Cô dâu và chú rể thường nhuộm móng tay, móng chân màu đỏ từ lại cây lá của dân tộc này.

Ngày nay, ngoài việc mặc trang phục truyền thống, cô dâu chú rễ còn mặc trang phục hiện đại như vest, áo cưới theo kiểu phương Tây.

*Phương thức di chuyển

 

  Trước đây người ta không cho chú rể bước chân xuống đất, nên trong ngày cưới thường dùng xe lôi, những người khác thì đi bộ đến nhà cô dâu.

Còn hiện nay, nếu nhà dâu xe người ta sẽ dùng xe oto, gần thì đi bộ

*Vị chủ hôn ( ông Wali)

  Trong lễ cưới, nhất thiết phải có người đứng ra đại diện cho cô dâu để nói lời chấp thuận thay cô dâu. Vị này gọi là Wali,  giống như chủ hôn., là người thuộc về họ nội bên cô dâu, có thể là cha, ông nội, anh trai, chú bác ,…ngoài ra cũng có thể mời người lớn tuổi có uy tín trong làng,..

*Ôn Uốk và mụ Uốk

  Trong lễ cưới nhà trai nhất thiết phải có Ôn Uốk và nhà gái phải có mụ Uốk, đây là người am hiểu luật tục dân tộc. Họ sẽ hướng dân cô dâu chú rễ cách mặc trang phục, trang sức các nghi thức hành lễ,…

*Người mai mối ( maha)

  Cũng như các dân tộc khác, người mai mối có vai trò quan trọng trong việc cưới hỏi của nguoqif Chăm Islam ở An Giang. Họ sẽ được nhờ đến nhà cô dâu chú rễ để nói chuyện xin cưới hỏi cho đến khi được chấp thuận

*Cách chọn ngày cưới

  Khác với Chăm Bàni và Chăm Bàlamon khu vực miền trung, người Chăm Islam ở An Giang không nhất thiết phải coi ngày trước khi cưới, họ có thể tổ chức các ngày trong năm, thường là sau mùa hành hương, tức là tháng 12 theo lịch Islam( khoảng tháng 3 lịch tây ) hoặc vào dịp sinh nhật thiên sứ Muhammad khoảng 12 tháng 3 theo lịch Islam ( tháng 7 lịch tây ).

*Lễ hỏi (hay còn gọi là đám nói):

  Vào ngày này, gia đình chú rể gồm khoảng mười người, mang lễ vật đến nhà cô gái. Bên nhà gái, thường phải có cha mẹ cô gái, thân nhân họ hàng và ông ahly tham dự để chứng kiến. Theo thông lệ, trong lễ này, nhà trai trao tiền chợ cho gia đình cô gái. Từ lễ hỏi đến lễ cưới thời gian dài, ngắn tuỳ mỗi gia đình.

*Lễ cưới

  Thường diễn ra trong hai ngày, ngày nhóm họ và ngày cưới. Ngày nhóm họ (harie padưng baguk) còn gọi là ngày dựng việc. Trong ngày này, nhà trai và nhà gái đều trang hoàng nhà cửa lộng lẫy, sạch sẽ, tinh tươm. Cô dâu sẽ được mụ uốk trang điểm thật lộng lẫy, còn chú rể sẽ được ôn uốk hướng dẫn về nghi thức ăn mặc, các cách hành lễ... Chiều ngày nhóm họ, cô dâu và chú rể được mặc trang phục cưới truyền thống của dân tộc và được trang điểm như trong ngày cưới chính thức. Ôn uốk và mụ uốk sẽ tiến hành làm lễ cho cô dâu và chú rể ở hai nơi khác nhau. Sau đó, có một vị bô lão khấn vái đọc kinh cùng những người chung quanh chúc tụng hướng về cô dâu hoặc chú rể. Bài kinh này có nội dung như lời giao ước chấp nhận cuộc hôn nhân trước thánh Allah. Tối đến, các thanh niên tụ hợp tại nhà cô dâu và nhà chú rể để chúc mừng. Ngày cưới còn gọi là ngày đưa rể. Trong ngày này, họ hàng và bạn bè nhà trai đưa chàng rể về nhà cô dâu. Người ta thường nhờ hai em bé trai bưng hai cái khay, một đựng tiền đồng, một đựng trầu cau. Ngoài ra, lễ vật nhà trai mang qua nhà gái còn có một mâm trái cây, một mâm bánh ngọt và một chén nhỏ đựng gạo.

Đến nhà gái, mọi người chỉ được tập trung ở phòng ngoài. Khi mọi người ổn định chỗ ngồi, ông wali sẽ giao số tiền đồng cho đại diện nhà gái trước sự chứng kiến của mọi người. Tiếp theo, họ tiến hành lễ gả, gọi là kobol. Chú rể được đưa đến ngồi trước mặt cha mẹ vợ, vị đại diện chủ hôn bên nhà gái, ông mai bà mối và những người làm chứng. Một người đứng tuổi, có uy tín đọc những lời khot bah cho chú rể nghe. Nội dung lời khot bah là những khuyến cáo về hôn nhân, nghĩa vụ của vợ chồng, những điều cấm kỵ của luật tục và luật đạo trong cuộc sống vợ chồng. Sau lời khot bah, vị chủ hôn bên nhà gái sẽ nắm lấy tay chú rể, long trọng tuyên bố: “gia đình tôi bằng lòng gả con gái tôi, tên... cho chàng trai, tên là... với số tiền đồng là...”. Lập tức, chàng rể phải trả lời ưng thuận: “Tôi xin nhận người con gái này, từ đây là vợ chính thức của tôi, có nộp số tiền đồng là...”. Khi chú rể đáp lại xong, ông wali và các bô lão đọc kinh chúc phúc cho đôi trẻ.

Sau khi mọi người cầu nguyện xong, chú rể được ôn uốk đưa vào phòng cô dâu, đến trước mặt cô dâu, đặt khai trầu xuống và rút cây trâm cao nhất trên đầu cô dâu. Đây là cây trâm có biểu tượng hình mặt trăng lưỡi liềm và ngôi sao, một biểu tượng chứng tỏ cô dâu là người Islam. Sau đó, chú rể sẽ thay trang phục và cùng ra gian nhà ngoài tiếp chuyện cùng bạn bè. Tối đến là lễ hợp cẩn. Những người phụ nữ đứng tuổi, có đầy đủ chồng con đến giăng mùng, chuẩn bị gối mền cho đôi tân lang và tân nương. Trước khi động phòng hoa chúc, đôi vợ chồng cùng ăn chung bữa cơm đầu tiên, có tính tượng trưng cho việc bắt đầu sự chung sống của hai người. Sau 3 ngày, họ hàng, cha mẹ chú rể cùng nhau đến thăm hai vợ chồng mới, đem theo đủ các thứ vật dụng cần dùng cho một gia đình. Nhà gái cũng làm một bữa tiệc để đãi đằng trai cùng một số bà con đến chứng kiến tài sản của nhà trai tặng cho vợ chồng mới.

2.3 nghi thức trong giai đoạn tử

Người Chăm Islam tỏ ra hết sức bình thản đối với cái chết. Khi gia đình có người hấp hối, người nhà đi báo cho bà con lân cận đến để cùng đọc kinh cầu cho linh hồn người chết bình thản rời khỏi cõi đời. Khi bệnh nhân tắt thở, người nhà dùng tay thấm nước sạch vuốt mặt người chết. Thông thường, người chết được chôn trong ngày (24 giờ). Nếu chết buổi sáng thì chiều chôn, nếu chết buổi tối thì sáng hôm sau chôn. Trước khi chôn, tử thi phải được tắm rửa sạch sẽ. Khi tắm rửa xong, họ đặt tử thi lên một bộ ván và xé vải trắng liệm (quấn ba lớp). Khâm liệm xong, ông hakêm hoặc ông ahly đến kiểm tra xem tử thi có được liệm đúng thủ tục Islam hay không. Nếu đúng rồi, các ông đọc kinh cầu nguyện cho vong hồn người chết.

Người Chăm Islam ở An Giang chôn người chết (không thiêu xác). Huyệt mộ, khác hẳn so với các dân tộc khác, luôn được đào theo hướng bắc - nam. Dưới đáy huyệt bên phía tây, người ta khoét một cái lỗ theo chiều dài vừa với tử thi. Khi chôn, tử thi nằm nghiêng bên phải, mặt và ngực quay về hướng mặt trời lặn (hướng tây, hướng của thánh địa Mecca). Ngoài ra, tử thi phải được ép vừa vặn vào cái lỗ đã khoét, dùng tấm ván chèn bên ngoài rồi mới lấp đất lại, không được chôn theo quần áo hay bất kỳ vật gì. Phần mộ của người Chăm Islam không được đắp mô lên mà phải được san lấp cho bằng phẳng, đánh dấu phần mộ bằng cách dựng hai tấm bia hoặc đóng hai thanh gỗ ở đầu và chân mộ. Trên đó có ghi họ tên người chết, ngày, tháng, năm qua đời. Dựng xong hai tấm bia xem như công việc chôn cất hoàn tất.

Buổi tối ngày chôn cất, bạn bè, người thân của tang chủ đến nhà tang chủ để cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện, tang chủ đãi cháo gà hoặc bánh ngọt tùy hoàn cảnh từng gia đình. Việc cầu nguyện như thế diễn ra trong ba đêm liền. Sau đó, người ta còn cầu nguyện vào các đêm thứ 7, thứ 10, thứ 40, thứ 100 và một lần nữa vào đúng 1 năm kể từ lúc người mất. Người ta không tổ chức lễ giỗ mà bất cứ lúc nào có của ngon vật lạ, họ có thể cầu nguyện để tưởng nhớ chung cho những người quá cố. Người Chăm Islam ở An Giang không làm bàn thờ để thờ cúng ông bà, tổ tiên. Giáo luật nghiêm cấm việc thờ cúng các di ảnh hay mẫu tượng. Trong nhà có người chết cũng không mặc tang phục. Họ cũng không cần chọn đất mai táng. Ai chết ở đâu thì chôn ở khu vực đó, chỉ cần thực hiện đúng quy tắc mai táng là được.

Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam An Giang so với người Chăm Bàni và Chăm Bàlamôn có những điểm tương đồng, nhưng về cơ bản vẫn khác nhau. Sự tương đồng này bắt nguồn từ cội rễ xa xưa tổ tiên của ba cộng đồng người này, đó là có cùng nguồn gốc, sống chung trong vương quốc Champa. Tuy nhiên, theo dòng lịch sử, với quá trình di cư, cộng cư liên tục, mỗi cộng đồng dân tộc có sự giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa phù hợp. Trong sự biến đổi ấy, có sự biến đổi các nghi lễ vòng đời. Mặt khác, sự khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo dẫn đến sự khác biệt trong các nghi lễ vòng đời của mỗi cộng đồng dân tộc. Điều đáng nói là, tuy có sự khác biệt cơ bản, nhưng nhìn chung nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam An Giang, người Chăm Bàni hay người Chăm Bàlamôn đều chứa đựng những giá trị độc đáo.

 

CHƯƠNG 3   KẾT LUẬN

 

Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam An Giang so với người Chăm Bàni và Chăm Bàlamôn có những điểm tương đồng, nhưng về cơ bản vẫn khác nhau. Sự tương đồng này bắt nguồn từ cội rễ xa xưa tổ tiên của ba cộng đồng người này, đó là có cùng nguồn gốc, sống chung trong vương quốc Champa. Tuy nhiên, theo dòng lịch sử, với quá trình di cư, cộng cư liên tục, mỗi cộng đồng dân tộc có sự giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa phù hợp. Trong sự biến đổi ấy, có sự biến đổi các nghi lễ vòng đời. Mặt khác, sự khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo dẫn đến sự khác biệt trong các nghi lễ vòng đời của mỗi cộng đồng dân tộc. Điều đáng nói là, tuy có sự khác biệt cơ bản, nhưng nhìn chung nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam An Giang, người Chăm Bàni hay người Chăm Bàlamôn đều chứa đựng những giá trị độc đáo.

Cần phát huy, giữ gìn, thay đổi những luật tục củ để có những luật tục mới phát triển cộng đồng Chăm Islam ở An Giang nói riêng và cộng đồng người Chăm nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

https://khamphavanhoaviet.com/dan-toc-cham-tim-hieu-ve-nguoi-cham-o-giang/

 https://ivivi.vn/dam-cuoi-nguoi-cham-theo-dao-hoi-islam

 https://www.facebook.com/pg/CHAMPA-AND-ME-245177003398/photos/?tab=album&album_id=10150090183563399

 vannghequandoi.com.vn/ong-kinh-nha-van/van-hoa-cham-islam-o-an-giang_10132.html

40 năm nghiên cứu văn hóa Chăm

một số tập tục người Chăm An Giang ( Lâm Tâm. 1993)

/document/285968-nghi-le-vong-doi-cua-nguoi-cham-islam-o-an-giang.htm

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn