LỄ HỘI KATE ĐỒNG BÀO CHĂM TẠI NINH THUẬN, Sv Châu Kim Sơn, K9

 





TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP HỒ CHÍ MINH

KHOA VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

 


 

 

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN

MÔN: VĂN HÓA CHĂM

Chủ đề: LỄ HỘI KATE ĐỒNG BÀO CHĂM TẠI NINH THUẬN

 

Sinh viên thực hiện: Chau Kim Sơn

GVHD: PGS. TS PHAN QUỐC ANH

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

 

Lý do chọn đề tài 2

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM    4

1.1.     Nguồn gốc tộc người. 4

1.2.     Văn hóa tộc người. 6

1.3.     Tôn giáo – tín ngưỡng. 7

CHƯƠNG II : LỄ HỘI KATE CỦA ĐỒNG BÀO CHĂM NINH THUẬN

2.1.     Nguồn gốc và ý nghĩa. 10

2.2.     Quá trình tổ chức lễ Kate. 11

2.3.     Thời gian và địa điểm tổ chức 12

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN.. 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 18

HÌNH ẢNH.. 19

 

 

Lý do chọn đề tài

Mỗi con người Việt Nam chúng ta luôn cảm thấy tự hào về một đất nước Việt Nam giàu truyền thống và tinh thần dân tộc. Một đất nước với 54 thành phần dân tộc cùng chung tay xây dựng một Việt Nam tươi đẹp. Mỗi dân tộc là một bông hoa cùng nhau tô màu cho nét đặc sắc của 54 dân tộc anh em. Nếu như người Kinh chúng ta vốn rất giàu truyền thống làng xã, cuộc sống luôn gắn bó với miền sông nước, với ruộng vườn bao la thì các dân tộc khác Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khmer… với những phong tục tập quán, văn hóa truyền thống đặc sắc. Người Chăm là một trong những 54 tộc người anh em của đại gia đình dân tộc Việt Nam, đã từng có một nền văn minh phát triển và nền văn hóa đặc sắc riêng của họ trong bức tranh tổng thể của nền văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Chăm đã có những đóng góp to lớn trong việc làm nên sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam trong thời đại hiện nay. Người Chăm Việt Nam sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng miền Trung với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Một dân tộc hiền hòa, chân chất và cuộc sống của họ với sự đa dạng màu sắc nghệ thuật, những nghi lễ trang trọng luôn trải dài trong lịch sử tạo nên bản sắc văn hóa của người Chăm hiện nay.

Một dân tộc với những phong tục, lễ nghi rất thu hút mọi người, từ tháng ăn kiêng (Ramadan) đến lễ hội Kate luôn làm cho du khách ước muốn được nghiên cứu, tìm hiểu về nó. Tại sao cùng là người Chăm nhưng có sự khác nhau giữa người Chăm ở An Giang và Người Chăm ở Ninh Thuận- Bình Thuận? Về tín ngưỡng của người Chăm như thế nào và ý nghĩa của tháng Ramadam đến lễ hội Kate hằng năm, sự huyền bí ở những ngôi tháp…

Người Chăm là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác. Với sự phong phú và độc đáo trong nét văn hóa truyền thống của tộc người, người Chăm đã có sự đóng góp không ít trong việc làm phong phú cho nền văn hóa của một nước Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

     Trong nghi lễ vòng đời, cụ thể là trong tổ chức tang sự của mỗi tộc người có một cách thức tổ chức và ý nghĩa riêng mang nét đặc trung và ý nghĩa riêng biệt của mình, điều đó có thể do các yếu tố bản địa, ảnh hưởng từ các tín ngưỡng của tộc người hoặc là có sự chi phối của cả yếu tố tôn giáo trong đó. Với người Chăm thì họ cũng có những cách thức tổ chức tang sự cho người mất riêng của mình, mang cả yếu tố về tín ngưỡng lẫn tôn giáo trong đó. Người Chăm ở mỗi nhóm có cách thức tổ chức tang sự khác nhau, mang đặc trưng của mỗi tôn giáo mà người Chăm đang tin theo. Riêng với người Chăm Bàlamôn thì nghi thức quan trọng nhất đối với người mất không phải là việc tổ chứa tang sự, mà là lễ “Nhập Kút”, Nghi lễ quan trọng nhất trong đám tang của người Chăm Bàlamôn.Từ các vấn đề đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu về đề tài “Lễ nhập kút của người Chăm Bàlamôn”.

Đây không chỉ là một bài tiểu luận kết thúc môn mà nó còn là sự đam mê khao khát được nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa của cộng đồng tộc người anh em. Việc nghiên cứu về lễ “ Kate”, không chỉ là việc khái quát lên nét văn hóa đặc sắc trong cộng đồng người Chăm Bàlamôn mà còn đóng góp vào làm rực rỡ hơn những nét văn hóa của cả người Chăm ở Việt Nam nói chung. Từ đó, tạo được những hướng tích cực trong việc giữ gìn và phát triển nền văn hóa bản địa của người Chăm người Chăm Bàlamôn nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Không những thế mà còn góp phần tạo nên những tài kiệu quý báu trong việc tìm hiểu về người Chăm ở Việt Nam.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM

1.1.         Nguồn gốc tộc người.

   

          Người Chăm là một trong các dân tộc ở Việt Nam có một nền văn hóa, văn minh phát triển rực rỡ và đặc sắc. Tiếng nói của họ được nhà ngôn ngữ xếp vào ngữ hệ Nam đảo cùng nhóm ngôn ngữ với các dân tộc Êđê, Raglai, Churu, Jarai. Đây là cư dân bản địa thuộc loại hình nhân chủng Indonesian có truyền thống canh tác nông nghiệp lúa nước với trình độ phát triển cao và đã định cư lâu đời dọc theo đồng bằng duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay.

Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp. Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.

Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).

Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.

Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.

Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận… Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu; điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa. Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v…, tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây.

Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.

 

Do biến cố lịch sử thường xuyên xãy ra đối với quá trình hình thành và phát triển tộc người, ngày nay địa bàn cư trú của dân tộc Chăm có khuynh hướng phân tán thành nhiều khu vực khác nhau. Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, dân số người Chăm ở Việt Nam có khoảng 132.873 người, phân bố ở các khu vực thuộc các tỉnh thành khác nhau. Khu vực Cam Hroi tập trung sinh sống ở các tỉnh như Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Khánh Hòa, Dak Lak… Khu vực Cam Klak tập trung sinh sống ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng… Khu vực Cam Birau tập trung sinh sống ở các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh và một số ít ở các tỉnh khác như Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình   Dương, Bình Phước, Cần Thơ, Kiên Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp …

     Trong ba khu vực vừa nêu trên, khu vực Cam Klak thuộc tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng là nơi cộng đồng tộc người Chăm tập trung sinh sống đông nhất, chiếm tỉ lệ khoảng 65,26%. Đồng thời, đây cũng là nơi còn bảo lưu nhiều di tích văn hóa lịch sử gắn liền với văn minh Champa.

     Riêng ở tỉnh Ninh Thuận, cộng đồng Urang Cam Klak ngày nay phân hóa thành 4 nhóm: Nhóm cộng đồng Cam Awal, Cam Ahier, Cam Angaok, Cam Jawa.

     Nhóm cộng đồng Cam Awal là nhóm cộng đồng chịu ảnh hưởng sâu đậm lễ nghi của Hồi giáo nên khi chết họ đưa thi hài (atau) đi chôn (dar). Sau đó, họ thực hiện các nghi lễ Padhi để tiễn người chết về với tổ tiên (nao taom muk nao toam  akei). Nơi chôn người chết của Cam Awal gọi là Ghur. Mỗi một Ghur có hai patau kut hay còn gọi patau ghur.

     Ngược lại với nhóm cộng đồng Cam Awal, nhóm cộng đồng Cam Ahier là nhóm cộng đồng chịu ảnh hưởng sâu đậm lễ nghi của Balamon giáo nên khi chết họ đưa thi hài (atau) đi hỏa thiêu (cuh). Sau đó, họ lấy 9 mãnh xương tráng cho vào một chiếc hộp làm bằng chất liệu vàng, bạc hoặc đồng gọi là Klong để thực hiện các nghi lễ Padhi và cuối cùng đưa các mãnh xương này đi chôn (ba talang tama Kut) để tiễn người chết về với tổ tiên (nao taom muk nao toam  akei). Nơi chôn người chết của Cam Ahier gọi là Kut. Mỗi một Kut người ta đặt một dãy các phiến đá gọi là Patau Kut.

     Vì trong khuôn khổ giới hạn bài báo cáo, nên chúng tôi chủ yếu tập trung giới thiệu những vấn đề liên quan đến Kut của nhóm cộng đồng Cam Ahier ở Ninh Thuận là chính.

 

1.2.         Văn hóa tộc người.

 

     Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và Mlô ở dân tộc Ê-đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

- Trong cưới xin:  Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

- Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bàlamôn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.

- Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà.

- Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

- Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

- Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo.

- Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp.

 

1.3.                     Tôn giáo – tín ngưỡng

Khi nói về tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc này, nhiều người trong chúng ta xác nhận rằng: tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng cư dân Chăm có một sắc thái riêng, rất đa dạng và phong phú, ngoài sự kết hợp hài hòa giữa Ấn Độ giáo với tín ngưỡng dân gian và lễ hội truyền thống mang tính bản địa của dân tộc Chăm, theo đó tính vượt trội của yếu tố dân tộc bao giờ cũng lớn hơn và mang tính bền vững hơn trong đời sống – xã hội của cộng đồng.

Như đã nói, tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng cư dân Chăm có một sắc thái riêng, theo đó tính vượt trội của yếu tố dân tộc bao giờ cũng lớn hơn. Tuy nhiên, một vấn đề khác nữa là nét đặc thù của dân tộc này còn có một đặc điểm mang tính nguồn gốc, được phỏng theo yếu tố tôn giáo mà xã hội loài người đã chia cộng đồng dân tộc Chăm thành bốn nhóm tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau.

Nhóm thứ nhất, là tín ngưỡng – tôn giáo bản địa cổ Bà la môn, còn gọi là Bà Chăm. Nhóm này, cư trú ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, thuộc vùng Cực Nam, Trung bộ, với khoảng 46.000 người;

Nhóm thứ hai, là Chăm Bàni, còn gọi là đạo Bàni hoặc Hồi giáo Bàni. Nhóm này, hiện cư trú tại ba tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Phước, với khoảng 39.500 người;

Nhóm thứ ba, là người Chăm theo tín ngưỡng Islam, gọi là Chăm Islam hoặc Hồi giáo Islam (đạo Islam). Nhóm này, hiện cư trú ở khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ, bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Trà Vinh, Kiên Giang và tập trung chủ yếu ở tỉnh An Giang, với khoảng 25.700 người – trong đó An Giang là 12.700 người;

Nhóm thứ tư, là cộng đồng người Chăm không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào, còn gọi là Chăm Roi. Cư ngụ ở các tỉnh: Phú Yên, Bình Định và Đắc Lắc, với khoảng 18.400 người.

Như đã nói ở phần I trên đây, cộng đồng đồng bào Chăm ở Việt Nam ngoài tín ngưỡng – tôn giáo bản địa cổ Bà la môn, còn chịu ảnh hưởng một số tín ngưỡng, tôn giáo trên thế giới. Khi nói về tín ngưỡng – tôn giáo của cộng đồng cư dân Chăm, các nhà quản lí chỉ “nhìn nhận” Chăm Bàni và Chăm Islam. Điều đó hoàn toàn đúng và không có vấn đề gì bàn cãi nữa. Tuy nhiên, đối với tín ngưỡng – tôn giáo bản địa cổ Bà la môn có một số người mà trước hết là các nhà quản lí cho rằng đó không phải là một hình thức tôn giáo, vì rằng nếu là một tín ngưỡng – tôn giáo thì nó phải hội đủ bốn điều kiện, yếu tố, sau:

 Phải có Giáo chủ – người đứng đầu.

 Phải có hệ thống tín lí và luật lệ.

  Phải có cơ sở thờ cúng.

 Phải có người hướng dẫn việc đạo (chức sắc, giáo sĩ) và tín đồ.  

Tuy nhiên, trong nghiên cứu lĩnh vực tín ngưỡng – tôn giáo, chúng ta không thể không công nhận một thực tế khách quan rằng: Lịch sử hình thành và phát triển tôn giáo nói chung và một tôn giáo cụ thể nào đó bao giờ cũng gắn với quá trình vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử xã hội (tức xã hội nào, tôn giáo đó). Theo đó, nó chỉ ra tín ngưỡng – tôn giáo cũng hình thành qua các thời kì, từ hình thái tôn giáo sơ khai (tôn giáo chưa hoàn chỉnh), nó mới phát triển thành một tôn giáo hoàn chỉnh (tôn giáo có tổ chức).

Vì vậy, trong nghiên cứu về tín ngưỡng – tôn giáo bản địa cổ Bà la môn của cộng đồng cư dân Chăm ở nước ta, thì nền tín ngưỡng đó có nguồn gốc và đã từng chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng Bà la môn giáo Ấn Độ xưa, với những yếu tố sau đây: Như đã nghiên cứu, nước Chămpa xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của ba nền văn minh lớn Án Độ, Trung Hoa và Ả Rập. Đồng thời, chịu tác động nhiều mặt của ba nền tín ngưỡng – tôn giáo, là: Bà la môn giáo (Ấn Độ), Phật giáo và Hồi giáo: Đồng bào Chăm ở nước ta cũng có truyền thống cùng thờ chung hoặc riêng 3 vị thần linh có nguồn gốc Bà la môn giáo Ấn Độ. Với hệ thống tín ngưỡng của con người cổ xưa: Tín ngưỡng vật linh và tín ngưỡng đa thần; đạo Bà la môn nó mang tính đẳng cấp, phù hợp với chế độ phong kiến của vua chúa Chăm pa xưa; là cư dân của một nước nông nghiệp nên có quan niệm mọi vật đều có “linh hồn”. Do đó, mới sản sinh ra nhiều phong tục, lễ hội, như lễ Cầu Đảo, lễ Chặn nước đầu nguồn, lễ Cầu yên… Và trong gia đình có truyền thống thờ chiếc Atâu – biểu tượng cho linh hồn tổ tiên dòng họ mẹ.

Ngoài ba vấn đề có tính nguồn gốc trên, tín ngưỡng cổ Bà la môn của cộng đồng cư dân Chăm có yếu tố quan trọng được mô phỏng từ giáo lí của Ấn Độ giáo, là: thần tượng con bò đực (Nandin) và đề cao luật nhân quả, thuyết luân hồi.

Khi nghiên cứu tín ngưỡng – tôn giáo của cư dân Chăm, vấn đề trước hết là cần xác định thuật ngữ về tín ngưỡng – tôn giáo Chăm thì mới có thể nhận ra bản chất của nó. Như đã nói, nước Chămpa thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng của ba nền văn minh lớn của thế giới và chịu tác động của ba nền tôn giáo lớn (Bà la môn giáo – Ấn Độ, Phật giáo và Hồi giáo). Tuy nhiên, cho mãi tới khi nước Chiêm Thành suy vong thì mới nổi lên sự tranh giành ảnh hưởng của hai luồng tín ngưỡng Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Từ sự tranh giành ảnh hưởng này, nó đã dẫn tới sự phân hóa trong cộng đồng cư dân Chăm. Vì vậy, để giải quyết sự phân hóa đó con người đã dùng quan niệm “lưỡng hợp” bằng phương pháp lập hai nhóm cộng đồng, là: Cộng đồng Jat – Ahier và cộng đồng Awal (Ahier là biểu tượng dương tính, Awal là biểu tượng về âm tính). Ahier và Awal luôn luôn có mối quan hệ và tác động lẫn nhau, là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Vì vậy, trong nghiên cứu tín ngưỡng – tôn giáo của cư dân Chăm phải làm rõ hai việc khác nhau. Một mặt, phải xác định tín ngưỡng – tôn giáo của người Chăm; Mặt mữa, khi nói về cộng đồng Chăm Bà la môn hoặc Chăm Bàni thì phải chỉ ra và làm rõ bản chất của hai cộng đồng này, đó là: thứ nhất, Nhóm cộng đồng Chăm nguyên gốc (Chăm Jat – Ahier); thứ hai, nhóm cộng đồng Chăm đã biến đổi từ nhóm cộng đồng gốc (Chăm Bà ni – Awal). Điều đó có nghĩa là, dù Bà Chăm hay Chăm Bàni đều xuất phát từ một nguồn gốc. Vì vậy, dù ngày nay có sự khác nhau, nhưng sự khác biệt đó chỉ là sự khác biệt trong vai trò phụng sự Yang hoặc Awluah mà thôi. Từ đó, chúng ta có thể nhìn nhận hình thức tín ngưỡng – tôn giáo bản địa cổ Bà la môn là một tín ngưỡng – tôn giáo của cộng đồng Chăm nguyên gốc, tức Bà la môn hay còn gọi là Bà Chăm.

 

CHƯƠNG II : LỄ KATE CỦA ĐỒNG BÀO CHĂM NINH THUẬN

2.1.    Nguồn gốc và ý nghĩa.

Cho đến ngày nay, dù trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử. Người Chăm tại Ninh Thuận vẫn gìn giữ trọn vẹn nét đặc sắc lễ hội Kate. Một lễ hội mang dấu ấn đậm nét của nền văn hóa tín ngưỡng Chăm sau hàng trăm hình thành.    

Dựa theo từ điển của E. Aymonier – A. Cabaton, Kate là danh từ có nguồn gốc từ Katik của Hindu (Hindu giáo) và từ kattika của Phạn ngữ (Sanskrit) Ấn Độ. Ý nghĩa của từ Kate này được dịch theo nghĩa hẹp là lễ cúng vào tháng 7 lịch Chăm. Tuy nhiên, một điều chú ý ở đây là Ấn Độ không có tục lễ cúng này.

Ngoài ý nghĩa được dịch theo từ Kate của Hindu và Ấn Độ, Kate còn có ý nghĩa chung rộng hơn là một lễ tưởng nhớ tổ tiên, một số vị thần linh, một số vua chúa và các nhân vật có công với đất nước và dân tộc. Ý nghĩa này được thể hiện rõ qua nội dung tổ chức lễ hội kate theo văn bản chữ Chăm (akkar thrah) bao gồm: kinh hành lễ Kate (danak ngap yang Kate), bài thánh ca của các vị thần (damnây dom po yang) và những lời cầu nguyện của người tham dự lễ (panuec alankar po yang).

Từ những điều lý giải trên, ta có thể kết luận Kate là một nghi lễ có nguồn gốc bản địa (tín ngưỡng địa phương) mang bản sắc riêng của Champa xưa. Tuy nhiên, về sau lễ hội Kate có một số yếu tố ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ và Hồi giáo. Minh chứng cho chúng ta thấy rõ, tuy ba cộng đồng tôn giáo Chăm Ahier, Chăm Awal và Chăm Islam đều có chung một lễ nghi, lễ tục ban đầu. Tuy nhiên, về sau khi chịu sự ảnh hưởng từ Hồi giáo và Ấn giáo nên có sự khác biệt theo tín ngưỡng và lễ cúng riêng.

Lễ hội Kate của người Chăm xuất hiện khi nào?

Nếu để chọn một khoảng thời gian chính xác để nói về sự ra đời và hình thành của lễ hội Kate thì thật khó, vì chiến tranh giữa vương quốc Champa với các triều đại phong kiến Việt Nam đã hủy hoại rất nhiều tài liệu.

Để xác định rõ hơn mốc thời gian và quá trình hình thành nên lễ hội Kate ta có thể nhìn nhận lại quá trình lịch sử từ thế kỷ II đến thế kỷ XII khi Champa còn là một vương quốc thịnh vượng. Đáng nói hơn, đây là giai đoạn mà Ấn độ giáo du nhập vào và phát triển mạnh mẽ tại Champa. Sự du nhập này đã hình thành nên các nghi lễ cúng tế của người Chăm trong những sự kiện quan trọng như hoàn thiện công trình đền tháp, thu hoạch mùa màng, đánh thắng trận, đăng cơ của vua chúa… Tuy nhiên, thời kỳ này cũng chưa có một minh chứng nào cụ thể nói về sự hình thành của lễ hội Kate. Đa phần chỉ nói về những lễ nghi, lễ tục, nghi thức thờ cúng trong những dịp trọng đại.

Mãi cho đến thế kỷ XV (1471), khi thủ đô Vijaya (Bình Định) bị suy tàn, đánh dấu cho nền văn minh Champa đã sụp đổ, kéo theo đó là ảnh hưởng của Ấn Độ giáo cũng đi xuống và nhường chỗ lại cho Hồi giáo. Dựa theo nhiều ghi chép về tiếng Phạn trên các bia ký và tài liệu của Champa trong giai đoạn này. Hồi giáo đã bắt đầu phát triển mạnh và ảnh hưởng ở phía Nam Champa, vùng Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận nay) và đã xác lập một nền văn minh mới. Tuy phát triển cực thịnh nhưng nền văn minh này còn lưu giữ lại một số tàn dư của Ấn Độ giáo kết hợp với những tín ngưỡng địa phương. Cũng từ đây, các tín ngưỡng thờ cúng trong Ấn Độ giáo, Hồi giáo và tín ngưỡng địa phương đã dần hình thành nên nghi thức cúng tế thường niên vào tháng 7 lịch Chăm.

Sau quá trình du nhập và phát triển của Hồi giáo vào thế kỷ XV tại xứ Panduranga. Một nghi thức cúng tế, kèm theo đó là các lễ nghi, lễ tục đã hình thành theo phương thức mới bao gồm các tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, Hồi giáo và tín ngưỡng địa phương. Để minh chứng cho điều này, ta có thể thấy rất rõ, trong lễ hội Kate có chứa đựng các yếu tố: Ấn Độ giáo (tục cúng tế đền tháp, tượng thờ, tầng lớp tu sĩ (Basaih) và lời văn cúng tế thền Siva (Po Ginuer Mantri) của Chăm Aheir), Hồi giáo (cúng tế tượng thần Poklong Grai và Po Rome có đội một loại mũ hình ống). Và có lẽ, lễ hội Kate có thể hình thành trong giai đoạn này với các yếu tố rõ nét và riêng biệt nhất định.

 

Thông qua những điều trên, ta có thể nhận định rằng: Lễ hội Kate được hình thành trên những nền tảng về tục cúng lễ và tín ngưỡng của Ấn Độ giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ II. Về sau, nó được lan tỏa và hình thành nên lễ hội khi có sự ảnh hưởng và dung hòa của Hồi giáo từ thế kỷ XV và tín ngưỡng địa phương.

Ai là chủ nhân chính trong việc tổ chức lễ hội Kate?

Trong suốt tiến trình lịch sử được tiếp biến bao tín ngưỡng, tôn giáo từ bên ngoài vào. Người Chăm đã có sự phân chia cộng đồng về mỗi tín ngưỡng tôn giáo nhất định. Cụ thể bao gồm Chăm theo Hồi giáo, Chăm theo Ấn giáo, Chăm theo Hồi giáo truyền thống, Chăm Thiên chúa giáo và Chăm Tin lành. Tuy nhiên, đến ngày nay chỉ còn hai bộ phận chính là Chăm Ahier theo tôn giáo Bà La Môn và Chăm Awal theo tôn giáo Bà Ni.

 

Theo đó, Chăm Ahier theo tôn giáo Bà La Môn nổi bật với lễ hội Kate còn Chăm Awal theo tôn giáo Bà Ni thì nổi bật với lễ hội Ramưwan. Hai cộng đồng dân tộc Chăm này tuy tách rời nhau về các phong tục, tập quán tín ngưỡng nhưng vẫn thường xuyên liên hệ qua lại với nhau khi các lễ hội, lễ tục của dân tộc mình được diễn ra. Điều này thông qua sự kính viếng, dâng kính lễ vật để cầu an và tham gia trực tiếp vào lễ hội. Chính vì thế, mà lễ hội của cộng đồng nào thì cộng đồng đó là người chủ trì buổi lễ trong suốt quá trình diễn ra. Tuy nhiên, đối với lễ hội Kate của người Chăm thì còn có sự góp mặt của một dân tộc nữa có vai trò quan trọng, đó là cộng đồng người Raglai.

 

Nhắc đến bộ phận người tham gia trực tiếp vào lễ hội Kate, ngoài bộ phận người Chăm Awal đến tham viếng và dâng kính lễ hội. Bộ phận người Raglai là bộ phận đóng một vai trò hết sức quan trọng để tạo nên tính thành công của lễ hội. Bởi lẽ, chính người Raglai là người giữ những đồ vật quan trọng của vua chúa như áo, váy, khăn mão, còng tay, hoa tai, cùng với đó là các đồ vật cúng lễ như tô, bát, chén… được làm bằng vàng và bạc. Ngoài ra, những lễ vật cúng tế như trầu cau, đậu, dê, nếp… cũng đều do người Raglai chuẩn bị.

Dựa theo tiến trình lịch sử và văn hóa của tài liệu Chăm ghi chép. Theo đó, người Raglai là một bộ phận thần dân của Champa xưa và người Raglai chính là người em út của người Chăm theo sự lưu truyền trong tập quán mẫu huệ. Chính vì thế mà mối gắn kết giữa hai dân tộc chính là mối gắn kết của chị em ruột chung một mẹ goi là Chăm sa – ai Raglai ader. Quan trọng hơn nữa, trong tập quán mẫu hệ, người em út chính là người thừa kế tài sản, giữ đồ gia bảo vả thờ phụng tổ tiên. Chính vì thế, mà hầu hết các đồ vật quan trọng người Raglai đều lưu giữ và bảo quản hết.

 

Tóm lại, khi nói về tính chủ đích trong việc tổ chức lễ hội kate thì người Chăm và người Raglai đóng vai trò quan trọng nhất để quyết định tính thành công của lễ hội. Còn người Chăm Awal cũng như một số tín đồ khác chỉ đóng vai trò đến tham gia và công hiến lễ vật để cầu nguyện chứ họ không đứng ra tổ chức. Thế nhưng, nếu xét về phương diện văn hóa, lịch sử và cộng đồng thì lễ hội Kate là di sản vắn hóa của cả chúng Champa vùng Panduranga.

Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội Kate

Lễ hội kate của người Chăm tại Ninh Thuận được diễn ra trong vòng 3 ngày. Thường được bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng 25/9 – 5/10 dương lịch). Địa điểm được hơn để tổ chức là đền tháp Po Nagar (thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tháp Po Klaong Garai (phường Đô Vinh, TP. Phan Rang – Tháp Chàm) và tháp Po Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tỉnh Ninh Thuận.

Theo trình tự tổ chức của lễ hội, quy trình được bắt từ từ đền tháp cho đến các làng xã và mỗi gia đình. Theo đó, tên gọi của từng nơi tổ chức là: đền tháp (Bi môn, Ka lan), làng (Paley) và từng gia đình (Nga wôm). Quy trình này được xem như một dòng chảy phong phú theo suốt thời gian hàng ngàn năm nay.

2.2.    Quá trình tổ chức lễ hội Kate

Quá trình tổ chức lễ hội Katê của người Chăm tại Ninh Thuận diễn ra ở 3 đền tháp trong cùng ngày, cùng giờ. Các nghi lễ cơ bản giống nhau về nội dung, nghi thức hành lễ. Thời gian diễn ra lễ hội dễ kéo dài trong vòng ba ngày. Ngày đầu tiên sẽ diễn ra ở trên các đền tháp, ngày thứ hai tại làng và ngày thứ ba là tại nhà.

        Trên đền tháp

Bắt đầu tiến hành nghi lễ cúng tế trên đền tháp là sự chủ trì của thầy cả sư hay còn gọi là vị chủ lễ thực hiện nghi thức đầu tiên trên đền tháp. Cùng với vị cả sư là thầy kéo đàn Kanhi hát thánh ca, bà bóng dâng lễ vật lên các vị thần, ông từ chủ trì lễ tắm tượng cùng một số tu sĩ Bà la môn phụ lễ.

 

Các lễ vật dâng cúng Katê tại đền tháp bao gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế ở tháp, 5 mâm cơm, canh cúng với thịt dê, 1 mâm cơm với muối vừng, 3 ổ bánh gạo và hoa quả. Ngoài ra còn có rượu, trứng, trầu cau, xôi chè… Đây là những lễ vật được bay cúng trên các tháp, riêng dưới chân tháp còn có hàng trăm mâm lễ vật khác cũng được bày ra từ những người đi tham gia lễ.

Trình tự theo các bước, nghi thức cúng tế sẽ được thực hiện theo quá trình như sau:

Đầu tiên là lễ đón rước y phục do người em út Raglai đem từ trên núi xuống lên trên các đền tháp. Lễ rước y phục của vị thánh mẫu Po Ina Nagar, buổi lễ thường được bắt từ 7 giờ sáng. Các đồ vật trong lễ được đón rước một cách trang nghiêm và cẩn trọng trước khi thực hiện các nghi lễ tiếp theo.

Tiếp theo là lễ mở cửa tháp diễn ra tại 3 đền tháp gồm tháp Po Nagar (thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tháp Po Klaong Garai (phường Đô Vinh, TP. Phan Rang – Tháp Chàm) và tháp Po Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước) tháp tại cụm tháp Po Klaong Garai).

 

Sau lễ mở cửa tháp là lễ tắm tượng thần, gọi theo tiếng Chăm là Manei yang, lễ mặc y phục cho tượng thần (Anguei khan aw kapo) và cuối cùng là phần đại lễ (adaoh tama). Phần đại lễ thường bắt đầu từ 9h sáng kéo dài đến 11h trưa. Hầu hết, tất cả các lễ thực hiện tại đền tháp đều diễn ra cùng thời gian và cùng địa điểm.

        Tại làng và tại gia đình

Sau phần lễ cúng tế trên các đền tháp là nghi thức cúng lễ tại làng. Song song trong nghi thức cúng lễ tại làng này là phần hội. Để chuẩn bị cho phần lễ và phần hội tại làng, dân làng phân công nhau quét dọn đền thờ, ngôi nhà chung của làng, chuẩn bị sân khấu, sân bãi… Cùng thời gian đó một bộ phận khác lại chuẩn bị lễ vật cúng thần.

Nghi thức làm lễ tại làng cũng được tổ chức trang trọng không kém gì như ở trên các đền tháp. Vì tín ngưỡng là mỗi làng thờ một vị thần riêng nên trong lễ cúng tế thần làng, chủ tế lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà thường được dân làng tôn vinh hoặc người có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Ông là người thay mặt cho dân làng dâng cúng lễ vật cho thần và cầu mong thần sẽ phù hộ, độ trì ban phước lành cho làng.

Khác với những nghi thức trang trọng được tổ chức tại các đền tháp. Quá trình lễ diễn ra ở làng là lúc tổ chức các hoạt động gắn kết cộng đồng như thi dệt vải (làng Mỹ Nghiệp), thi đội nước, đá bóng, văn nghệ…

Kết thúc lễ Katê ở làng là lễ Katê ở các gia đình. Chủ lễ cúng Katê là người trong gia đình hoặc là người lớn tuổi trong tộc họ. Cũng như những ngày quan trọng trong văn hóa người của người Việt, vào ngày này, mọi thành viên trong gia đình đều có mặt đông đủ để cầu mong tổ tiên, thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn. Không chỉ vậy, đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ, giáo dục con cháu kính trọng tổ tiên. Điều đặc biệt, lễ kate tổ tại gia đình là khoảng thời gian sum hợp tràn ngập tiếng cười.

2.3.    Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội Kate

Lễ hội kate của người Chăm tại Ninh Thuận được diễn ra trong vòng 3 ngày. Thường được bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng 25/9 – 5/10 dương lịch). Địa điểm được hơn để tổ chức là đền tháp Po Nagar (thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tháp Po Klaong Garai (phường Đô Vinh, TP. Phan Rang – Tháp Chàm) và tháp Po Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tỉnh Ninh Thuận.

Theo trình tự tổ chức của lễ hội, quy trình được bắt từ từ đền tháp cho đến các làng xã và mỗi gia đình. Theo đó, tên gọi của từng nơi tổ chức là: đền tháp (Bi môn, Ka lan), làng (Paley) và từng gia đình (Nga wôm). Quy trình này được xem như một dòng chảy phong phú theo suốt thời gian hàng ngàn năm nay.

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN

          Cũng như các nghi thức và nghi lễ diễn ra tại các đền tháp, các nghi thức làm lễ tại làng được tổ chức một cách trang trọng. Bởi lẽ theo tín ngưỡng, mỗi làng thờ một vị thần riêng nên trong lễ cúng tế thần làng, chủ tế lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà thường được dân làng tôn vinh hoặc người có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Ông là người thay mặt cho dân làng dâng cúng lễ vật cho thần và cầu mong thần sẽ phù hộ, độ trì ban phước lành cho làng. Có một điều đáng nói trong ngày thứ ba của lễ hội Kate này là có rất nhiều hoạt động gắn kết cộng đồng diễn ra. Nổi bật trong số đó có thể kể đến như thi dệt vải (làng Mỹ Nghiệp), thi làm gốm (làng Bàu Trúc) thi đội nước, đá bóng, đánh bóng chuyền, trình diễn văn nghệ…

Và quan trọng hơn, vào những ngày này, tất cả  thành viên trong mỗi gia đình dù đi đâu, làm gì, ở nơi nào cũng gác lại công việc để về sum họp bên gia đình. Trong từng nghi thức và mỗi nghi lễ, ai ai cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn. Quan trọng hơn, qua những ngày này, đây là dịp ông bà, cha mẹ, giáo dục con cháu kính trọng tổ tiên, yêu thêm nét văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Khamphaninhthuan.com

2.     Bài viết được tổng hợp từ Sách Sakaya “Văn hóa Chăm – nghiên cứu và phê bình” – NXB: Phụ nữ

3.     Những vấn đề văn hóa –xã hội người Chăm ngày nay.( Nhà xuất bản trẻ)

4.     Hành trình văn hóa Chăm (Nhà xuất bản dân tộc học)

5.     Văn hóa Chăm nghiên cứu và phê bình. (Nhà xuất bản phụ nữ)

6.     Văn hóa xã hội Chăm nghiên cứu và đối thoại. (Nhà xuất bản khoa học xã hội)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


HÌNH ẢNH

 

 


 

 


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn