Khóa luận tốt nghiệp cử nhân quản lý văn hóa. Sinh viên Huỳnh Văn Vinh, GV Hướng dẫn: Phan Quốc Anh. Hochiminhcity university of culture. 2009
Tính
cấp thiết của đề tài
Người Chăm huyện Bắc Bình- Tỉnh Bình Thuận theo đạo
Bàlamôn và hồi giáo củ gọi là “Bàni “có nhiều loại hình văn hóa vật thể phi vật thể với những nội dung đặc sắc thể hiện
rõ nét về xã hội con ngừơi và phản ánh trung thực các hiện tượng xã hội, các
phong tục tập quán và mơ ước của con người về một xã hội tốt đẹp.
Người Chăm là một trong 54 dân tộc anh
em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam ,
và có một nền văn hóa Chăm từ nhiều thế kỷ nay đã và đang góp phần xứng
đáng tạo nên sự phong phú đa dạng về những giá trị cho nền văn hóa Việt Nam thống
nhất .
Đến với Huyện
Bắc Bình – Bình Thuận môt vùng đất nông nghiệp lúa nước. Người Chăm sinh sống
khá đông và còn lưu giữ nhiều di sản Văn hóa vật thể và phi vật thể . Đặc biệt Đền
PÔKLONGMƠNAI đền PÔNÍT và bộ sưu tập Hoàng tộc chăm Bà Nguyễn Thị Thềm ( hậu duệ của dòng vua ) còn
lưu giữ nhiều hiện vật quí , được Bộ VH,TT&DL công nhận di tích lịch sử văn
hóa quốc gia .
Người Chăm
Huyện Bắc Bình gồm: 2 tôn giáo Bà la môn và Bàni , ngoài một nền văn hóa chung
rất phát triển từ hàng ngàn năm trước, có nhiều lễ hội văn hóa , tôn giáo tín
ngưỡng rất khác biệt nhau về mọi mặt từ nguồn gốc , thời gian theo mùa cho đến cả hình thức và nội dung giáo luật của
tôn giáo đều có những mục đích , ý nghĩa , nhưng chung quy lại tất cả đều phục
vụ cho lợi ích cuôc sống của nhân dân ,
văn hóa tinh thần của nhiều thế hệ , được lưu truyền từ đời này sang đời khác và
được nhân dân tôn trọng tín ngưỡng , gởi vào thế giơiù thần linh huyền bí niềm
tin của mình.
Hàng năm vào
tháng 9 của lịch hồi ,người Chăm Bàni Huyện Bắc Bình tổ chức lễ Hội Ramưwan , đây
là lễ hội lớn có thể gọi là ngày tết của người Chăm Bàni , để tưởng nhơ ùđến thế giới thần linh ông bà, tổ tiên, những người có công đất nướccầu
mong xóm làng bình yên , mưa thuận gió hòa . Lễ hội có những giai đoạn gắn với
nghi lễ riêng một hình thức riêng rất phong phú .Đây là lễ hội lớn của người Chăm
Bàni còn đượcbảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống .Được Đảng và nhà nước
quan tâm theo tinh thần NQTW 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc .
Do đó tôi chọn đề tài “ Lễ hội Ramưwan người
Chăm Bàni ở Huyện Bắc Bình “ làm khóa luận tốt nghiệp , bằng phương pháp nghiên
cứu điền dã ở các làng Chăm , gặp gỡ các nhân sĩ trí thức, đạo giáo của người
Chăm Bàlamôn và Bàni và Nghiên cứu một số tư liệu của nhiều nhà nghiên cứu . Và
được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu Trường, khoa quản lý văn hóa ,Thầy hướng dẫn
TS Phan Quốc Anh , UBND 3 xã Chăm , các
bạn đồng nghiệp , bà con người Chăm tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nhiều tư
liệu quý để làm đề tài .
Tuy nhiên
trong quá trình nghiên cứu làm đề tài khóa luận , bản thân rất còn nhiều bở ngỡ
trong cách viết thành văn, sắp xếp bố cục , rất mong được nhiều ý kiến đóng góp
và cảm thông để giúp đỡ khóa luận tốt hơn .
Xin chân thành cảm ơn !
MỤC LỤC
Phần mở đầu ……………………………….
1/ Tính cấp thiết của đề tài
2/ Mục đích & nhiệm vụ nghiên cứu
3/ Đối tượng nghiên cứu
4/ Phạm vi nghiên cứu
5/ Cơ sở phương pháp luận
6/ Phương pháp nghiên cứu
7/ Cấu trúc đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1/ lễ hội quá trình hình thành
1.2/ Người Chăm
1.2.1/ Người Chăm ở Việt Nam
1.2.2/ Người Chăm Huyện Bắc Bình
1.2.3/ Người Chăm Bà ni ở Huyện Bắc Bình
1.3 Lễ hội của người Chăm
Chương 2 lễ hội
Ramưwan của người Chăm Ba ni ở huyện Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận
2.1/ Điều kiện tự nhiên sinh thái và xã hội nhân văn ở Huyện Bắc Bình
2.1.1/ Điều kiện tữ nhiên sinh thái
2.1.2/ Điều kiện xã hội nhân văn ở
Huyện Bắc Bình
2.2 Lễ Hội Ramưwan ở Huyện Bắc Bình
2.2.1 Tôn giáo tín ngưỡng
2.2.2/ Lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni
2.2.3/ Qui trình lễ hội Ramưwan
2.2.4/ lễ sút Amưram ( kinh hội đầu năm )
2.2.5/ kinh hội xoay vòng hay còn gọi là “sút yâng “
2.2.5/ Lễ tảo mộ
2.2.6/ tháng Ramưwan
2.2.7/ lễ “ và ha “
Chương 3: Bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Ramưwan
3.1/ Những
giá trị văn hóa của lễ hội
3.2/ một số vấn đề cần bàn về lễ hội
3.3/ Kiến nghị và giải pháp nhằm bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa
Kết luận
Danh mục tài
liệu tham khảo
PHẦN MỞ ĐẦU
1/
Tính cấp thiết của đề tài
Người Chăm huyện Bắc Bình- Tỉnh Bình Thuận theo đạo
Bàlamôn và hồi giáo củ gọi là “Bàni “có nhiều loại hình văn hóa vật thể phi vật thể với những nội dung đặc sắc thể hiện
rõ nét về xã hội con ngừơi và phản ánh trung thực các hiện tượng xã hội, các
phong tục tập quán và mơ ước của con người về một xã hội tốt đẹp. Với hơn 50 lễ
hội diễn ra liên tục trong năm, trên mọi mặt của cuộc sống, lễ hội ngoài việc là
văn hóa tinh thần giúp cho mọi người vui tươi phấn khởi, hăng say lao động sản
xuất trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống .Lễ hội Ramưwan là lễ hội lớn nhất và có
ý nghĩa nhất trong hệ thống lễ hội của người Chăm Bàni, nó giữ một vai trò hết
sức quan trọng trong đời sống người Chăm Bàni, nó được lưu giữ, kế thừa từ lâu đời
cho đến ngày hôm nay .
Hàng năm vào
những thời điểm nhất định theo qui định của lịch hồi giáo. Lễ hội RamưWan được
tổ chức và gắn kết cộng đồng rất cao ,giữa các tầng lớp tu sĩ với các tín đồ của
mình . chính từ những ý nghĩa như vậy của từng nghi lễ đã tạo nên lòng tin cho
mọi người và cũng cố tình làng nghĩa xóm , thắt chặt tình đoàn kết và đồng cảm
hơn để thực hiện việc đời việc đạo tốt đẹp hơn, kết chặt với đời người. Do đó,
bất cứ trong hoàn cảnh lịch sử nào,dù khó khăn đến mấy cộng đồng người Chăm Bàni
đều tổ chức lễ hội để tưởng nhớ thần linh ông bà , tổ tiên và dịp gặp gỡ giao lưu
tình làng nghĩa xóm giữa quá khứ và hiện tại . Do đó, tôi chọn. Đềtài “ lễ hội Ramưwan của người Chăm “Bàni ở huyện Bắc Bình- Bình Thuận làm khóa luận tốt
nghiệp lớp hoàn chỉnh kiến thức đại học.Khoa quản lý văn hóa.
2/
Mục đích & nhiệm vụ nghiên cứu:
Nói bản sắc
văn hóa dân tộc Chăm là nói đến tính giá trị tinh thần và vật chất của văn hóa
mang sắc thái đặc trưng riêng biệt của dân tộc Chăm, khác với bản sắc văn hóa của
các dân tộc anh em khác. Đó cũng chính là cái hồn và sức sống của dân tộc Chăm
mà người Chăm cần phải bảo tồn và phát huy vì nếu không thì bản sắc văn hóa dân
tộc sẽ bị mai một, tha hóa dần. Khi đó tính dân tộc theo đúng nghĩa của nó sẽ
không còn, vì mất
bản sắc văn hóa dân tộc là mất hồn dân tộc.Do đó cần phát
huy bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể phi vật thể , chú trọng đến các lễ hội
truyền thống , đối với đồng bào Chăm lễ hội tương đối ổn định , hàng năm cứ vào
tháng 10 dương lịch ( tức là tháng 7 liïch chăm ) bà con theo đạo Bàlamôn tổ chức
tết Katê , riêng đồng bào Chăm Bàni đến tháng 8-9 lịch hồi tổ chức lễ hội Ramưwan
.
Lễ hội Ramưwan
giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người
Chăm Bàni là một trong hai lễ hội lớn nhất và chính thống của người Chăm từ bao
đời nay. Với người Chăm Bàni các quy trình của lễ hội Ramưwan gắn gần hết với
cuộc đời họ: từ lúc sinh ra, lớn lên, trưởng thành rồi vào đạo đến lúc qua đời
mỗi tín đồ đều được chăm sóc, an ủi. Do đó mỗi người đều gắn mình với việc đời
và trung thành với việc đạo, gởi gắm lòng tin vào thượng đế. Đặc biệt với với tầng
lớp tu sĩ, giáo lý Hồi giáo đã ăn sâu vào tiềm thức từng câu, từng chữ trong đó
kinh Koran và những sách vở giải thích từng đoạn từng chương. Sức hấp dẫn của
giáo lý hồi giáo đã làm cho lòng tin của mỗi tín đồ được tăng lên và do vậy càng
được bảo vệ và lưu giữ. Nghiên cứu về lịch sử du nhập và hoạt động của người Chăm
từ xưa đến nay, chưa có năm nào các quy trình lễ hội lại gián đoạn. Dù trong
chiến tranh ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hay dưới chế độ
phong kiến triều Nguyễn có nhiều năm bị cấm đoán nhưng bằng cách này cách khác
lễ hội Ramưwan vẫn được thực hiện.
Kiến nghị : Dù vẫn còn nhiều yếu tố
trong một số nghi lễ của hội như về thời gian còn quá dài, nhất là trong tháng
Ramưwan hay vẫn còn quá nhiều phiền phức theo quy định của giáo luật, như mỗi lần
chuẩn bị chuyển qua một lễ khác phải làm lễ tẩy thể, hay các tu sĩ phải tắm quá
nhiều lần trong đêm, trời lạnh dễ ảnh hưởng tới sức khỏe, một vấn đề nữa là quá
phiền toái mà tu sĩ hay tín đồ, người thân của tu sĩ phải gánh chịu, việc gia đình
đồng án và các khoản kinh phí chi tiêu trong gia đình và công việc phải gánh chịu
để cho tu sĩ tròn việc đạo. Vì xét đến cùng chính là cái tâm và lòng trung thành
của mỗi người với thượng đế chứ không phải là của cải vật chất, cũng không phải
thời gian của những buổi lễ kéo dài. Xét trên nhiều phương diện, trong suốt thời
gian diễn ra các nghi lễ của lễ hội Ramưwan thì năm nào, lúc nào tính cộng đồng
vẫn bao trùm. Nếu không có sự chung sức của nhiều người thì không thể hoàn tất được
bất kỳ một nghi thức nào chứ chưa nói đến một nghi lễ. Nhờ đó, thông qua lễ hội
tính cộng đồng thể hiện rõ hơn, sự thương yêu đùm bọc nhau cũng được phát huy,
tình làng nghĩa xóm được tăng cường.
Giải
pháp :Bảo tồn lưu giữ
những giá trị của lễ hội đã trở thành thành truyền thống và bản sắc văn hóa của
người Chăm, trong lễ hội Ramưwan đã là ý thức và việc làm của nhiều thế hệ người
Chăm trong nhiều thế kỷ qua. Từ sau ngày giải phóng quê hương, thống nhất đất nước
.Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, đường lối, chương trình mục tiêu cụ
thể đối với đồng bàoChăm nói riêng các dân
tộc ít người nói chung đặc biệt quan tâm đến việc duy trì và phát triển văn hóa,
bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa vật thể và phi vật thể. Nằm trong
chương trình mục tiêu đó, lễ hội Ramưwan đã được sưu tầm, nghiên cứu một bước tạo
tiền đề cho quá trình nghiên cứu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thể, loại bỏ những yếu tố nặng nề, rườm rà trong lễ hội để cho lễ hội thực sự
mang những ý nghĩa, giá trị nhân văn vốn có của nó, góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII của Đảng .
3/
Đối tượng nghiên cứu:
Trong các
nghi lễ của qui trình lễ hội Ramưwan, tất cả đều đã được biến thể, không còn những
yếu tố mang nguồn gốc ngoại nhập, do điều kiện tự nhiên và xã hội chi phối. Đơn
thuần lúc đầu là các yếu tố tôn giáo, dần dần đã được chuyển hóa cho phù hợp với
quan niệm, phong tục tập quán, tâm lý của người Chăm bản địa, đó cũng là qui luật
tiếp biến tự nhiên, khách quan không thể khác được. Càng về sau, các yếu tố
nguyên gốc của Hồi giáo nhạt dần và đã mang những nét biểu hiện đặc trưng của văn
hóa Chăm trong hoạt động của Chăm Bàni và trong diễn trình của lễ hội Ramưwan.
Do vậy trong một nghi lễ thường có sự pha lẫn giữa giáo luật Hồi giáo với các
phong tục tập quán ở địa phương. Sự thích nghi này rất có lợi cho tu sĩ, tín đồ,
do vậy được nhiều người quan tâm hưởng ứng. Một số nghi lễ được rút ngắn về mặt
thời gian và giảm tối thiểu về vật chất cần phải có cho nghi lễ đó, mục đích cuối
cùng là đạt được những ước nguyện của mọi tín đồ về phía tôn giáo và nhẹ nhàng
cho tín đồ về cảc hình thức và nội dung của nghi lễ.
Có thể nói
rằng tôn giáo với xã hội người Chăm từ xưa đến nay gắn liền với nhau như hính với
bóng, là linh hồn của đời sống tinh thần và tôn giáo đã sinh ra nhiều loại hình
văn hóa vật thể và phi vật thể như các điệu múa dân gian phục vụ Thần Thánh đã
nổi tiếng từ lâu đời, những làn điệu dân ca nguyên gốc và đặc sắc nhất, có tác
dụng nhất đối với cả xã hội và các lễ hội, những ngày lễ này đóng vai trò quan
trọng trong cuộc sống của cộng đồng. Các tôn giáo người Chăm đã tác động mạnh mẽ
vào lễ hội và lễ hội đã ăn sâu vào ý thức của mỗi người Chăm, hun đúc nên những
sức sống lâu bền và tạo ra nhu cầu cho mọi người, thỏa mãn cho họ về đời sống tâm
linh.
4/
Phạm vi nghiên cứu:
Đối với người Chăm Bàni huyện Bắc Bình gồm hai xã Phan
Hòa, Phan Thanh gồm 06 làng, Bình Thắng , Bình Hòa , Bình Minh , cảnh Diễn , Thanh
kiết , Châu Hanh , mỗi làng đều có thánh đường người dân thường gọi là “Chùa “lễ
hội lớn nhất của người Chăm Bàni là lễ hội Ramưwan .Đây là lễ hội mang tính chất
tôn giáo tín ngưỡng đã trờ thành truyền thống giữa đạo giáo và dân làng có mối
quan hệ chặt chẽ trong các nghi thức lễ và lễ hội Ramưwan phải trải qua nhiều
giai đoạn mỗi giai đoạn lại gắn một nghi lễ riêng một hình thức riêng rất phong
phú. Với người Chăm ngoài một nền văn hóa chung rất phát triển từ hàng ngàn năm
trước lại có nhiều lễ hội văn hóa, tôn giáo rất khác biệt nhau về mọi mặt từ
nguồn gốc, thời gian cho đến cả hình thức và nội dung mỗi lễ hội diễn ra theo
thời gian, theo mùa trong năm hay theo giáo luật của tôn giáo đều có những mục đích
ý nghĩa khác nhau, nhưng chung qui tất cả đều phục vụ cho lợi ích của nhân dân,
cho cuộc sống văn hóa của nhiều thế hệ, được lưu truyền từ đời này sang đời khác
và được nhân dân yêu quý gởi vào thế giới thần linh huyền bí đó tâm linh và niềm
tin của mình. lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni được vận dụng vào hoàn cảnh thực
tế để sáng tạo ra nhiều nghi lễ phù hợp với điều kiện xã hội hiện nay.
5/
Cơ sở phương pháp luận:
- Xuất phát từ thực
tiễn lịch sử và bằng phương pháp luận duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được thể hiện trong các phương
pháp nghiên cứu chuyên biệt về dân tộc học , xã hội học , lôgíc và lịch sử.
Đồng thời, dựa vào những luận điểm có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận trong
các văn kiện của Đảng. Bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa theo tinh thần NQTW
5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời
thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị ( Khóa VIII) và Chỉ thị số 14/CP năm 1998
của Thủ tuớng chính phủ về việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội.các văn bản chỉ đạo của Huyện Bắc Bình về thực hiện chỉ thị 27/CT của
Bộ chính trị , ngành VH-T tổ chức hội thảo về chuyên đề này .
6/
Phương pháp nghiên cứu:
Lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni ở huyện Bắc Bình- Bình
Thuận. Quá trình nghiên cứu làm đề tài thể hiện trên nhiều phương pháp khoa học
khác nhau ,tìm hiểu các làng Chăm Bàni về
đời sống kinh tế văn hóa xã hội cộng đồng
các nhân sĩ trí thức các vị chức sắc , bà con người Chăm , đồng thời tiếp thu những ý kiến , tâm tư và chọn lọc nhiều
tư liệu quý về người Chăm ở huyện Bắc Bình,căn cứ các điều kiện tự nhiên sinh thái và xã hội nhân
văn người Chăm thông qua lễ hội Ramưwan trên cơ sở bằng phương pháp quan sát điều
đã ở các làng Chăm Bàlamôn, Chăm Bàni và phương pháp nghiên cứu đọc sách, báo,
tài liệu tham khảo của nhiều tác giả để có cơ sở căn cứ làm phong phú đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
7/
Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần mở đầu và
kết luận, khóa luận gồm 3 chương:
- Chương
1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni ở huyện
Bắc Bình – tỉnh Bình Thuận
- Chương
3: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa của lễ hội Ramưwan
Trong các chương giới
thiệu từng phần lớn nhỏ để giới thiệu nhiều vấn đề cần nghiên cứu kỷ hơn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Lễ
hội quá trình hình thành :
Lễ hội ở nước ta đa
dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt
Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng
bao giờ cũng hướng tới một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị
anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên
tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế… Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi nổi bằng những sự tích, công
trạng là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được
công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc
biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố
không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.
Lễ hội là một dạng sinh hoạt văn hóa tổng hợp
của con người, là nhu cầu văn hóa chính đáng của một cộng đồng người mà chỉ
trong tâm thế hội mỗi người mới có dịp thăng hoa một cách bay bổng nhất là những
phẩm chất, tài năng tốt đẹp của ,mình, hòa nhập vào cái chung của ngày hội.. Hội
xuất hiện phải có thời điển của nó, hay nói cách khác, phải có cái cớ để có thể
hợp duyên với những người đi hội. Ngày kỷ niệm, ngày lễ, đêm giao thừa, dịp tết…
Sau một thời vụ lao động dài, căng thẳng là những cái cớ để mở hội. Các ngày hội,
dù là ngày hội lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với những nghi thức nghiêm túc,
sau đó mới đến phần vui chơi. Phần nghi lễ mở đầu của một ngày hội bao giờ cũng
mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại, một vị
anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội, đều hướng
tới Tổ quốc thiêng liêng. Điều đó rất cần thiết đối với bất kỳ một thế hệ nào của
đất nuớc. Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn hóa thiêng
liêng, một giá trị thẩm mỹ thiêng liêng.
Khái niệm : Lễ hội
chính là hội làng- Hội làng là nơi biểu hiện tập trung tư tưởng và tâm lý của dân
làng bao gồm lòng sùng kính những bật có công với làng, nước, ý thức cộng đồng,
nguyện vọng, ước mơ về cuộc sống thanh bình, thịnh vượng, của cộng đồng các dân
tộc lễ hội còn là “ cuộc vui chơi đông người” được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một
sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại trong đời sống xã hội .
Lễ hội là một hình
thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp được cấu thành hai yếu tố lễ và hội: Thứ nhất:
Tinh thần tôn giáo- tín ngưỡng linh thiêng là yếu tố Lễ.Thứ hai: Vật chất, văn
hóa, hòa quyện với nhau không thể bỏ đi một yếu tố nào mà không làm mất đi bản
thân nólà yếu tố hội
Cấu trúc lễ hội: Trong thế giới tâm linh của con người, thì thần linh là nơi
con người gởi gắm niềm tin ước vọng của mình, nên dân chúng rất coi trọng việc
thờ cúng các bật thần thánh mà họ tôn thờ. Để thể hiện việc tôn thờ họ nghĩ ra
các nghi thức để tiến hành lễ và nơi tiến hành nghi lễ thường là chùa, miếu, đền,
tháp, phủ, điện, đền đình làng… Lễ ở ttrong hội không đơn lẽ, nó là một hệ thống
liên kết, có trật tự, cùng hỗ trợ cho nhau, như: Lễ thỉnh sắc, lễ rước nước, lễ
túc trực… Về nghi thức thờ cúng của các lễ hội thường bao gồm: Lễ vật, bài văn
tế. Trình tự buổi cúng và các động tác cúng tế.
- Phần hội: Hội là cuộc vui chới bằng vô số hoạt động giải trí công cộng diễn ra tại một
địa điểm nhất định, vào dịp kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt
sự phấn khích, hoan hỉ của công chúnh tới dự lễ. Hội là những sinh hoạt dân dã
phóng khoáng diễn ra trên bãi đất để dân láng cùng bình đẳng, chủ động, tự nguyện
tham gia vui chơi, giải trí…
- Các loại lễ hội: Lễ hội truyền thống: Lễ tết cổ truyền, lễ hội lịch sử, lễ
hội tín ngưỡng dân gian, lễ hội tôn giáo, lễ hội đương đại…
Ý nghĩa của việc nghiên cứu lễ hội: Giúp chúng ta nhận thức được một mặt đích thực cả phần mạnh
và phần yếu của lễ hội. Lễ hội đã bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống, biểu hiện
ở những nếp sống có ý thức cơ bản như: ý thức cội nguồn, đồng loại, về thuần
phong mỹ tục, tài năng văn hóa nghệ thuật, cổ truyền. Lễ hội chính là dịp để
con người giao lưu, cộng cảm và trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và
khát vọng cao đẹp và còn cái cầu nối giữa
quá khứ và hiện tại.
1.2
Người chăm. Lịch sử hình thành và phát triển:
1.2.1/
Người chăm ở Việt Nam :
Người Chăm là một dân tộc thuộc ngữ hệ Malayô- Pôlynesien
sinh sống lâu đời trên dãi đất miền trung Việt Nam . Họ có mối giao lưu nhiều thành
phần dân cư vùng lục địa và Hải đảo Châu á. Người Chăm là con cháu của người
Champa cổ, quá trình tộc người của họ diễn ra khá phúc tạp dười sự tác động của
lịch sử và nhiều biến động xáo trộn xảy ra trong quá khứ về địa bàn cư trú của
họ. Từ khi dựng nước Champa( thế kỷ 2), người Chăm đã xây dựng và sáng tạo cho
mình một nền văn hóa đặc sắc. Nền văn hóa ấy vừa mang nét bản địa vừa mang những
yếu tố giao lưu văn hóa từ bên ngoài. Do đó đã tạo hình thành nên một nền văn hóa
Chăm rất đặc sắc. Đó là những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, tiêu biểu
là những công trình kiến trúc đồ sộ, những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật hay những
lễ hội, các tín ngưỡng tôn giáo…
Người Chăm hiện nay ở Việt Nam có trên 137.000
người với một thành phần cấu trúc khá phức tạp, phân bổ trên những địa bàn khá
xa nhau trên vùng miền trung và nam bọâ nước ta rất lâu đời đã từng kiến tạo nên
một nền văn hóa rữc rỡ với những ảnh hưởng
văn hóa Aán Độ cùng cộng đồng tôn giáo khác nhau. Trong đó tập trung nhiều nhất là ở Ninh Thuận , Bình Thuận gồm các cộng đồng Chăm Bàlamôn, Bàni và một số
theo Islam( thường gọi là hồi giáo mới). Chăm ở phú yên chăm Hroi , Còn bộ phận người Chăm An Giang, Đồng Nai, Tây
Ninh, TP Hồ Chí Minh là người Chăm thuộc cộng đồng tôn giáo Islam. Ngoài ra có
một bộ phận nhỏ được hình thành trong quá trình phát triển tộc người như: Kinh -cựu. ở Bình Thuận ( cha Việt mẹ Chăm )
Địa bàn cư trú của người Chăm khá rộng, được thể hiện ở
nhiều dạng thức khác nhau, và được tựu chung lại trong ba yếu tố: Văn hóa đồng
bằng, văn hóa biển, văn hóa núi. Ai đã từng đi qua dãi đất miền trung đều cảm
nhận được ba yếu tố “ Đồng bằng, núi, biển” luôn chen lẫn với nhau. Vốn là chủ
nhân lâu đời của vùng đất ấy trong quá trình khai thác và thích ứng với môi trường
sinh thái hỗn hợp đó, người Chăm đã sinh sản ra nền văn hóa gốc của mình hàm chứa
trọn vẹn ba yếu tố của môi trường sinh thái đó là: Núi, đồng bằng, biển.
1.2.2.
Người Chăm ở huyện Bắc Bình:
Người Chăm ở huyện Bắc Bình có 03 xã
tập trung người Chăm sinh sống như; xã
Phan Thanh gồm 05 làng thuộc cả hai cộng đồng tôn giáo Bàlamôn và Bà ni như : Tịnh
Mỹ, Trí Thái, Cảnh Diễn, Thanh Kiết, Châu Hanh; Xã Phan Hòa gồm 03 làng thuộc Bàni:
Bình Thắng , Bình Hòa , Bình Minh ; xã phan Hiệp được chia ra 03 “thôn” gồm 06
làng của người Chăm Bàlamôn: Kỳ La, Ninh Hà, Tường Loan, Đạo Hiệp, Chương Thiện
Hiệp An, Trị Đức và Thanh Hiếu và có 04 thôn người Kinh cựu,
thôn Xuân Quang( xóm Oåi), thôn Xuân Hội( xóm tầm), thôn Tuân Giáo( xóm Rau cá)
và thôn Tuân mục. Theo Đại nam nhất thống chí ghi như sau: Chỉ có 03 xã thôn Xuân Hội, Xuân
Quang và Tuân Giáo . Nhóm người có nguồn gốc Cha việt mẹ chăm mà người ta gọi là
kinh cựu con trai theo y phục việt con gái dùng y phục chăm nhóm người này hôn
thú , tang lễ đại lượt như phong tục người Việt, ngày nay trong ý thức nhóm
kinh cựu họ đều tự nhận là người Việt mặc dù một số phong tục tín ngưỡng của họ
vẫn còn lưu dấu ấn của người Chăm . Đồng bào Kinh Cựu còn bảo lưu một số tín ngưỡng
dân gian, phong tục Chăm, nhưng lại không theo huyết hệ mẹ, không chôn ở “ Kút”
như người Chăm mà theo phụ quyền, có nhiều phong tục, tập quán như người Kinh.
Xu hướng hiện nay của đồng bào là đang hòa nhanh vào người Kinh.
Kiến trúc nhà
ở mỗi ngôi nhà họ xây cất bằng gạch ngói , kiến trúc nhà ở còn nét cổ truyền ,
nhà của người chăm xây luôn có bốn mái , giếng nước làm luôn ở phía đông –bắc góc
khuôn viên, nhà phải có rào dậu xung quanh thường làm bằng cây khô hay cây tre
, hay những cây thay thế bằng loại cây sống ( như keo , cây thuốc dấu , cây bông
bụt tất cả dãy nhà này đều xếp theo chiều Bắc –nam thẳng tắp vào cửa ngõ đều đồng
loạt trổ về gốc tây nam và hướng về . Vì vậy khách phương xa đến sẽ rất lấy làm
lạ về cách bố trí có quy củ nhất định từ làng này đến làng khác . Đường xá giữa
hai dãy nhà thì khá rộng , hẹp nhất là đủ cho hai chiếc xe bò đi ngược chiều dể
di chuyển được , các con đường ngang thì hẹp hơn , chính vì thế mà đường xá
trong thôn , làng chăm theo một khuôn mẫu đúng phong tục quy định , thật nề nếp
. Không người nào dám xé lẻ nghĩa là tự xây dựng ngôi nhà riêng rẻ , không đứng
vào dãy rào nào . Làm như thế người chăm tin là sẽ gặp xui xẻo : bệnh tật , làm
ăn không phát đạt , gặp nhiều rủi ro trong đời sống
Người Chăm có truyền thống nông nghiệp lúa nước
giỏi làm thủy lợi, làm vườn , trồng cây ăn trái, buôn bán có người tự làm một công
trình đập nước phát điện và lấy nước canh tác . Trong giai đoạn phát triển hiện
nay các làng Chăm có phương tiện, điều kiện sinh hoạt gia đình phát triển rất tốt.
Các làng nghề tồn tại, làng gốm và làng dệt truyền thống. Đối với làng dệt truyền
thống hiện nay chỉ còn nghề gốm và thổ cẩm. Làng gốm thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp( Bàlamôn) và làng Thổ cẩm thôn Cảnh
Diễn, thôn Bình Minh, thôn Bình Hòa, thôn Bình Thắng( Chăm Bàni). Thổ cẩm Chăm
qua thời gian dài đã mai một dần do nhiều lý do khách quan. Có địa phương còn một
vài gia đình thỉnh thoảng còn dệt thổ cẩm chủ yếu là những sản phẩm cổ truyền
phục vụ cho vài lễ nghi. Những năm gần đây, nhờ có sự quan tâm chỉ đạo của Tình
trực tiếp là Huyện đã đầu tư khuyến khích tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí mua sắm các khung cửi và nguyên liệu, đồng thời
tuyển chọn nghệ nhân chuyên nghiệp để dạy nghề, từ đó làng nghề thổ cẩm được phục
hồi và hoạt động trở lại có hiệu quả. Và làng nghề truyền thống như các làng gốm
“ mẹ truyền con nối “ . Đây là một nghề tạo công ăn việc làm cho bà con ,lúc đầu
làm những sản phẩm dùng sinh hoạt gia đình, dần dần bà con được nhà nước đầu tư
cho bà con làng gốm gởi đi tập huấn tạo mẫu theo nét truyền thống
nhiều mẫu đẹp giới
thiệu khách du lịch, sản phẩm có chất lượng kinh tế bán thu lợi nhuận cao thu
nhập bà con khá hơn . Đặc biệt đã giới thiệu sản phẩm gốm tại Nhật .
Văn
hóa xã hội : hiện nay trên địa
bàn các làng Chăm được Đảng và nhà nước đầu tư các điều kiện sinh hoạt cho nhân
dân điện đường , trường , trạm , các thiết chế văn hóa tạo bộ mặt nông thôn mới
. Về chính sách dân tộc Tỉnh ủy Bình Thuận có NQ 04/TU về phát triển dân sinh dân
trí vùng đồng bào dân tộc , cấp ruộng , đất , đầu tư chăn nuôi và vốn làm ăn
…,các dự án như dự án xây dựng Trung tâm trưng bày Văn hóa Chăm tổng kinh phi` 15 tỷ đồng
, các xã và một số làng Chăm có nhà văn hóa được trang bị đầy đủ phương tiện
sinh hoạt văn hóa.Để bảo tồn bản sắc văn hóa Chăm
năm 1989 Uỷ ban nhân
dân quyết định thành lập Đoàn nghệ thuật bán chuyên Chăm do con em người Chăm Bà
la môn, chăm Bà ni tham gia, trong những năm qua Đoàn đã xây dựng nhiều chương
trình nghệ thuật biểu diễn phục vụ bà con các xã Chăm , các vùng sâu và đi biểu
diễn phục vụ và giao lưu trong nước , các đoàn khách quốc tế về nghiên cứu văn
hóa Chăm được nhiều người mến mộ khen ngợi . Do đó người Chăm Bắc Bình cả 2 tôn giáo sống
cùng cộng đồng người kinh có mối quan hệ rất tốt giúp nhau cùng phát triển . Đặc
biệt các cấp chính quyền , đoàn thể của 3 xã Chăm vận động bà con đăng ký thực
hiện các chỉ tiêu phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa Thôn , làng Văn hóa , gia đình văn hóa , hàng
năm các thôn đều được chọn công nhận các danh hiệu Thôn , làng văn hóa gia đình
văn hóa
1.2.3.
Người Chăm Bàni ở huyện Bắc Bình:
Quá trình ảnh
hưởng và biến thể dần như vây lại tiếp tục và nảy sinh ra nhiều mâu thuẫn giữa
các nhóm tín đồ Hồi giáo và đến một giai đoạn đã có trong lịch sử, tín đồ Hồi
giáo trong xã hội người chăm đã tự phân chia thành hai nhóm Hồi giáo cũ để phân
biệt với Hồi giáo mới. Hồi giáo là tôn giáo đến muộn hơn cả, song đó cũng là tôn giáo có sự phân hóa
rất mạnh mẽ trong cộng đồng người chăm. Ở huyện Bắc Bình nói riêng và Tỉnh Bình Thuận nói chung chỉ có Hồi giáo cũ tức là”
Chăm Bà ni “ không có Hồi giáo mới, riêng Ninh Thuận có cả Hồi giáo cũ và Hồi
giáo mới, còn ở các nơi khác như: An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh
chỉ có đạo Hồi giáo mới. Người Chăm Hồi giáo cũ trong dân gian Chăm gọi là Bàni
để phân biệt với người Chăm Hồi giáo mới( Islam). Tên Bàni xuất phát từ chữ Ả Rập
“ Beni ” nghĩa là “Những người con trai” của đấng
tiên tri và từ đó trở thành tên gọi của một cộng đồng Hồi giáo Chăm. Còn Hồi giáo
mới là Islam sở dĩ có tên này là do từ thế kỷ thứ VII khi Hồi giáo ra đời đã
qui định tín đồ phải phục tùng ý muốn của thánh Allah. Sự phục tùng ấy gọi là
Islam cho nên Hồi giáo có tên là Islam.
Ở huyện Bắc
Bình Tỉnh Bình Thuân người Chăm Hồi giáo cũ gọi là “Chăm Bà ni “sinh sống ở các
xã Phan Hòa và Phan Thanh, hiện nay có tất cả 06 thánh đường: Bình Hòa, Bình Thắng,
Bình Minh, Cảnh Diễn, Thanh Kiết, Châu Hanh, mỗi thôn có một thánh đường, đó là
sản phẩm của trí tuệ và tài năng của nhân dân đóng góp xây dựng nên, nhân dân và
tín đồ Hồi giáo ở đây thường quen gọi là “ Chùa” có Tổng sư cả Thanh Tàu điều hành
từ những năm 1945 trở về trước, có thánh đường Chro thuộc làng Hà Yến, Tổng thuần
giáo được coi là thánh đường gốc vì được xây dựng đầu tiên. Năm 1946- 1947 thánh
đường đã bị giặc Pháp đốt cháy trụi, tín đồ Hồi giáo bỏ nơi này về gia nhập vào
các thánh đường khác. Cũng trong thời gian này giặc Pháp cũng đã đốt cháy thánh
đường Marố ở láng Marố( gần Sông Mao) tín đồ Hồi giáo và nhân dân ở đây đa õvề
gia nhập vào thánh đường Bình Minh ( trước
đây là xã Minh Mỵ). Trong những thánh đường còn lại, Bình Hòa được coi là thánh
đường gốc, từ đây mới nhân ra những thánh đường khác. Do vậy, về sau hàng năm đến
nghi lễ “ Sút Yâng” hay còn gọi là “Kinh hội xoay vòng” mở đầu cho mùa Ramưwan đều
được bắt đầu từ thánh đường Bình Hòa. Làng của người Chăm Bàni có ngôi chùa là
trung tâm sinh hoạt tư tưởng văn hóa của dân làng. Ngôi chùa xây cất trên một
khu đất rộng rãi khô ráo, có hàng rào vây quanh, thường thường năm ở cổng phía Nam của
làng hoặc ở giữa làng. Người Chăm theo đạo Bàlamôn có “ nhà làng” làm nơi hội họp,
sinh hoạt chung của cả dân làng. Nhưng có lẽ “ nhà làng” xuất hiện trong xã hội
người Chăm chưa lâu nên họ thường gọi bằng một từ ghép Chăm- Việt là “ thang làng”,
không mấy ai gọi nó là “ thang play”. Vốn do dân làng đóng góp xây dựng nên để
cho các chức sắc trong làng làm việc và dân làng họp hành bàn bạc những việc
chung của làng.Các làng Chăm Bàni sống liên cư ở gần làng người Kinh và Chăm Bàlamôn
có mối quân hệ tốt
Về âu phục họ vẫn giữ nguyên bộ y phục cổ truyền
của dân tộc. Người phụ nữ Chăm thì luôn mặc váy gọi là “khăn” thường là màu đen , sẫm và áo dài cổ truyền của nguời Chăm chui đầu ,áo
ghép bốn mảnh vải dọc theo chiều đứng của thân người , hai mảnh ở phía trước
hai mảnh ở phía sau , ngoài ra còn có hải mảnh nhỏ được ghép hai bên trên đầu
đội khăn” lang “ sinh hoạt gia đình phụ nữ mặc váy kim tiếm áo ngắn đầu đội khăm
nỉ nhiều màu , người đàn ông cũng mặc xà
rông, nhưng không phổ biến.Ngày nay trang phục của người Chăm được cải biên cách
điệu và họ mặc đồ như người kinh , trừ trường hợp giới thiệu cho các nhà nghiên
cứu , trong lễ hội thì họ sử dụng .
Người chăm Bà ni đời sống kinh tế gia đình tương đối ổn định
, nhà cửa khang trang ,chủ yếu nghề nông nghiệp lúa nước buôn bán nhỏ , nghề truyền thống là dệt thổ cẩm
. Mỗi làng đều có đội văn nghệ, đội bóng đá trang thiết bị âm thanh ánh sáng được
nhà nước đầu tư để sinh hoạt cộng đồng .
1.3.
Lễ hội của người Chăm:
Người
Chăm bàlamôn và Chăm Bà ni có rất nhiều lễ hội trong năm liên quan đến sản xuất nông nghiệp,
tín ngưỡngtôn giáo , như lễ Pơh Mbăng Yang( lễ cúng đầu năm tại lăng, tháp, cầu
xin thần linh cho phép dân khai kênh, đắp đập, làm mùa), lễ Yôn Yang và Plao
Pasah( lễ cầu đảo), lễ Rija(lễ cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa).
.Những lễ hội liên quan đến tín ngưỡng tự nhiên , hiện nay chỉ còn rải rác , các
lễ hội Rijà ngày , rijà đêm và lớn thì mang tính đột xuất , chỉ khi gia đình
hay tộc họ tộc có chuyện “hứa “ với gia tiên , gia thần ( bệnh hoạn đi xa , xui
xẻo ) phải thực hiện để trả nợ “ miệng “ đối với thần linh , thì diễn ra với mức
độ ngày càng thưa dần , chỉ còn lễ hội Rijà Nưgar ( chà vàlệ ). Nhưng quan trọng
hơn cả, có quy mô lớn và kéo dài nhiều ngày là lễ hội Mbăng Katê và Chabur. Đây
là lễ tết của người ChămBàlamôn,tổ chức vào tháng 7 lịch Chăm( tháng 10 Dương lịch),
còn Chabur thì vào tháng 9 lịch Chăm( tháng 11 Dương lịch), tết Katê thì cầu phụ
thần, tết Chbur thì cầu mẫu thần( Pônagar) thể hiện âm dương hòa hợp nhưng tết
Katê thì qui mô tổ chức rộng lớn hơn trong cộng đồng còn Chabur thì đóng khung
chỉ ở một số thôn hiện nay như thôn Mai Lãnh. Mục đích của tết katê là nhằm
kỷ niệm công đức vua thần vừa cầu mong mùa màng được bội thu, cộng đồng được an
sinh phồn thịnh. Vào ngày đầu tháng 7 chăm, người Chăm mọi nơi đều
lên tháp, rước sắc ở Đền PôNít tổ chức trước tiên sau đó về thôn làng dự kết tại
nhà của các thầy đạo Bàlamôn, rồi mới đến gia đình họ tộc, người dân tổ chức tại
nhà.Và các thôn tổ chức văn nghê –thể thao giao lưu với các thanh niên trong nhiều
Thôn và bà con vui mừng tết Katê.
Người
chăm Bà ni có kinh hội , sút Amưrăm
,kinh hội đầu năm, lễ tảo mộ , vàha ,ramưwan …. Và lễ tết Ramưwan của người Chăm
Bàni cũng vui vẻ trong cả cộng đồng, vừa mang tính cội nguồn dân tộc, vừa mang
tính tôn giáo, thời gian tổ chức tết không trùng với Bàlamôn mà tổ chức vào thời
gian của tháng chay niệm, tức là tháng 9 của lịch Hồi thống nhất. Lễ tết diển
ra 03 ngày trong mỗi gia đình họ tộc trong không khí niềm vui sum họp của gia đình
.Cũng là dịp để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, các vị thần linh, nữ thần Pô
Nagar, các vị vua có công phát triển nông nghiệp như Pô Klông Girai, Pô Rômê đã
được thần hóa và cúng tổ tiên, ông bà.Những lễ hội liên quan đến tín ngưỡng tự
nhiên .Hiện nay chỉ còn rải rác như Lễ Karơh ( cấm phòng ) được coi là quan trọng hơn và đượctổ
chức lớn hơn cho các thiếu niên đến tuổi dậy thì ( 15tuổi ) . Đây là lễ thức
chuẩn bị cho con gái trưởng thành chuẩn bị bước vào hôn nhân , thường được tổ
chức nhiều cô gái một lúc . Người ta dựng hai căn nhà tạm rồi đối mặt nhau :
chiếc nhàlớn ở phía đông để làm lễ , chiếc nhỏ ở phía tây cho các cô gái vào cấm
mình . Suốt đêm hôm trước , ông thầy lmưm đọc kinh cầu nguyện trong căn nhà lớn
. Các cô gái ngủ trong căn nhà nhỏ và được bốn bà già canh giữ không cho ra ngoài
. Sáng hôm sau , các cô gái mặc lễ phục nhiều màu xanh ,đỏ , được một người đàn
ông mặc đồ trắng và một bà già bồng trên tay một đứa bé chừng một tuổi hướng dẫn
sang qua căn nhà lớn . Các cô gái vào lần lượt từng người .,ông thầy cả đặc vào
miệng cô gái một hạt muối , cắt một lọn
tốc nhỏ trên đầu rồi cho uống nước , chịu lễ xong , cô gái lại trở về ngôi nhà
nhỏ tiếp tục cầm mình . Khoảng mười giờ sáng , các cô lại trở ra , lần này mặc áo dài trắng , lần lượt sang nhà lễ , lậy tạ ông
pôgrù và các thầy lmưm , ông thầy pôgrù đặt tên thánh cho các cô . Trong dịp này
các cô gái được cha mẹ, bạn bè, người thân tới tặng của cải vật chất như đồ
trang sức , quần áo tiền bạc…….. .Những tặng vật ấy được coi như là của cải hồi
môn . Lễ Katắt ( cắt bao qui đầu ) cho các thiếu niên nam đến tuổi trưởng thành
cùng tổ chức vào một thời điểm do ông pôgrù quyết định lễ này còn có ý nghĩa là
lễ nhập đạo và để sau này có thể thành tu sĩ ngày nay , lễ cắt bao qui đầu chỉ
mang tính tượng trưng .
CHƯƠNG 2: lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni ở Huyện bắc
Bình
2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên sinh thái và xã hội nhân văn của Huyện
2.1.1/ Điều kiện địa
lý tự nhiên sinh thái:
Bắc
Bình là một huyện miền núi nằm về phía Bắc Tỉnh Bình Thuận, với số dân trên
100.000 người trong đó người Chăm có trên 15.000 người, đông nhất so với 7 dân
tộc ít người trong huyện như: Tày, Nùng, Hoa, Sám dìu, K’ho, R’lay.
Huyện Bắc Bình cũng là nơi vinh dự đang lưu giữ nhiều di sản Văn hóa lịch sử Chăm,
đặc biệt là di sản Đền Pô KlongmơNai và Po Nit , bộ sưu tập của Hoàng tộc Chăm
( công chúa cuối cùng của Chăm) Bà Nguyễn
thị Thềm còn nhiều hiện vật quí được Bộ
VHTT nay là (BộVH,TT&DL ) công nhận là di tích văn hóa lịch sử Quốc gia.
Huyện Bắc Bình nằm về phía Đông bắc tỉnh Bình
Thuận. Đông giáp huyện Tuy Phong, Tây giáp huyện Hàm Thuận Bắc và Thành phố Phan
Thiết Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Nam giáp biển Đông. Huyện Bắc Bình có diện tích
tự nhiên là 190.630 ha.Huyện lại nằm ở vị trí chuyển tiếp từ đồng bằng duyên hải
và vùng cao nguyên, điều kiện tự nhiên
phân hóa thành 03 vùng khác nhau, tài nguyên thiên nhiên đa dạng mang đủ tính
chất núi rừng, đồng bằng biển và bờ biển; lại có đường sắt và đường Quốc lộ IA đi
qua khá dài, cho nên huyện có vị trí rất quan trọng về Kinh tế- văn hóa- xã hội
và Quốc phòng
của tỉnh Bình Thuận.
Khí hậu Bắc Bình nằm trong vùng khô hạn, chịu ảnh hưởng
gió mùa, mưa và nắng rõ rệt. Bắc Bình lại chịu ảnh hưởng khí hậu của tiểu vùng
III thuộc khí hậu khắc nghiệt, mưa ít, lượng bốc hơi gấp đôi, độ ẩm không khí
biến động mạnh. Lượng mưa bình quân hàng năm 744 mm/năm; lượng bốc hơi 1.180mm/năm.
Bắc Bình nằm trong vùng khí hậu khô hạn, chịu ảnh hưởng của gió mùa, một năm có
2 mùa mưa và nắng rõ rệt, mùa nắng kéo dài hơn, mùa mưa thường bắt đầu vào tháng
5 và kết thúc vào tháng 11 Dương lịch. Đầu mùa mưa thường có đợt gió thổi từ hướng
Tây- Nam mang theo hơi nóng
khô hanh gay gắt có hại cho cây trồng giữa mùa mưa thường có đợt nắng hạn có
khi kéo dài cả tháng. Khi có gió bấc từ hướng Đông- Bắc thổi về sẽ báo hiệu chuẩn
bị sắp hết mùa mưa để chuyển sang mùa khô. Lượng mưa bình quân trong năm khoảng744mm.
Nhiệt độ trung bình 26,9oC, độ ẩm không khí trung bình 81%, lượng bốc
hơi 1.180mm. Đất mau khô hạn, bão lũ lớn ít xảy ra.
Về
địa hình Huyện có 3 vùng đồng bằng , núi , biển ,thiên nhiên có nhiều thuận lợi ưu đải về rừng
nhiều gỗ quiù và thú rừng, tạo nguồn kinh tế phát triển , nhiều sông suối , thủy
điện quốc gia như : thủy điện đại ninh , thủy lợi có Hồ chứa nước càgiây , đập đồng
mới , ….tưới tiêu hàng ngàn ha cánh đồng 3 vu lúa ngắn ngàyï cho các dân tộc sản
xuất . Đường du lịch biển kéo dài từ mũi né đến khu du lịch bàu trắng Hòa Thắng
cư dân sống bằng nghề đánh bắt hải sản .
2.1.2/
Điều kiện xã hội nhân văn:
Huyện BắcBình là một
Huyện miền núi có dân số người Chăm đứng thứ hai so với người Kinh
Dân số người
Chăm Bàlamôn, Chăm Bàni toàn huyện thuộc 3 xã Phan thanh, Phan Hòa, Phan Hiệp gồm
15.000 người, Cộng đồng người Chăm họ sống thành “Play” ( làng xóm), mối quan hệ
mỗi người trong “Play” và ngoài “ Play” rất gần gũi với nhau. Bởi vì, họ cùng
nhau tổ chức trong các ngày hội, các lễ tục của họ như nhau cả chứ không phải làng
này có nghi thức của lễ tục khác làng khác. Người Chăm sinh hoạt kinh tế theo đơn
vị gia đình, công việc đồng án dựa trên tập quán trồng trọt của địa phương( các
loại cây nào) căn cứ vào nông lịch, sản xuất theo thời vụ và theo trung kỳ, họ
tuân thủ đúng theo thời vụ và chu kỳ sản xuất dựa vào sự tuần hoàn của các ngôi
sao: Sao vua, sao cày, sao càng long… công việc đồng án thường được phân công rõ ràng cho những lao động
trong từng gia đình tùy theo lứa tuổi theo giới tính, nam giới thì gánh vác việc
nặng nhọc hơn như khâu làm đất ( cày, bừa, trục, trang, gieo lúa, cũng như khâu
theo nước và chăm sóc lúa. Nhiều địa phương có sinh hoạt thêm những ngành
nghề khác như đánh cá, làm gốm, dệt vải,
buôn bán nhưng không tách khỏi nông nghiệp. Những năm gần đây, theo đà phát triển
chung của đất nước họ biết giao lưu thi đua trong học tập, gia đình nào cũng có
các con em được cấp sách đên trường và mong muốn con mình đươc làm công chức nhà
nước hay công nhân các xí nghiệp…… . như thế triển vọng mở rộng giao lưu sẽ ngày
càng lạc quan, nâng cao trình độ nhân thức trong cộng đồng người Chăm .
. Về
gia đình cho đến ngày nay người Chăm nói chung còn tồn tại chế độ mẫu hệ, nên vai trò của người
phụ nữ trong các lễ tục rất quan trọng. Con cái sinh ra đều mang dòng của mẹ, còn
dòng họ với nhau cũng tính theo máu mũ bên mẹ nặng hơn bên cha. Do điều kiện và
hoàn cảnh sống tập trung tương đối gần nhau, có tính cộng đồng cao ,cho nên các nghi lễ cổ truyền mà họ bảo tồn
và duy trì vẫn còn nhiều. Hơn nữa, nếp sống sinh hoạt và phong tục tập quán
mang đậm nét màu sắc dân tộc. Có thể dây là nét đặc thù riêng biệt của người Chăm
mà hình như không có một dân tộc nào giống được.
Đối với người
Chăm tang lễ bị chi phối đậm nét bởi yếu tố tôn giáo cho nên có sự khác biệt giữa
các nhóm Chăm Bàlamôn , Chăm Bàni , Chăm Islam .. Tang lễcủa người Chăm Bàlamôn
có rất nhiều nghi thức phức tạp và phân chia theo tầng lớp xã hội khác nhau do ảnh
hưởng chế độ đẳng cấp của Bàlamôn . Tang lễ của Bàlamôn chia thành 4 đẳng cấp
theo 2 chế độ hỏa táng ( thiêu ) và nghĩa táng ( chôn ) . chỉ có những tu sĩ ,
quý tộc , trí thức và dân lao động chân tay
mới được theo chế độ thiêu . Ngày nay sự phân biệt đẳng cấp thường còn 3
hạng gồm : những tu sĩ , trí thức và người lao động chân tay thuộc dòng thiêu . Còn những người nghèo khó thuộc dòng
chết chôn , ngoài ra tre sơ sinh và thiếu niên dưới 15 tuổi nếu chết thì cũng
chôn . Ở người Chăm Bàlamôn , khu nghĩa địa
gọi là kut còn gọi là nhà tổ . Theo quan niệm người Chăm họ tộc nào mà không có
nhà kut sẽ bị dân làng mỉa mai , chê cười cho là không có tổ tông . Người Chăm Bàni quan niệm người chết được chôn
càng sớm càng tốt để được trở về với cát bụi , người Chăm Bàni cũng qui định số
thầy cho từng loại đám tang và trong nghĩa địa cũng chia thành từng dãy , từng
hàng ( thường có 3 hàng cao ,trung , thấp ) . Người có địa vị xã hội nào khi chết
được chọn vào hàng tương ứng . Mộ người chết không đắp cao cũng không xây , hai
đầu mộ được đặt 2 tảng đá , sau lễ tang , người Chăm Bàni làm tuần cho người chết
vào các ngày 7,10, 30,40, 100 ngày . Hàng năm , tại khu vực “ động cát trắng “
nơi sẽ diễn ra thực hiện lễ tảo mộ , người Chăm Bà ni tổ chức cúng chung cho tất
cả nhưnhg4 người đã mất trong gia đình , dòng họ . Mỗi hòn đá là 1 người đã khuất
trong gia đình , hòn đá càng to thì người đó càng lớn tuổi ngược lại . Mỗi gia đình
có 1 hàng đá riêng biệt , không gia đình nào nhầm với gia đình nào .Đám tang cử
hành lặng lẽ không kèn không trống về nơi tổ tiên ông bà
Tục trong hôn
nhân : lễ cưới của người Chăm mang đậm dấu ấn của chế độ mẫu hệ và chịu ảnh hưởng
sâu sắc của nghi lễ tôn giáo . Đối với người Chăm ngày nay , gia đình người con
gái vẫn giữ vai trò chủ động trong hôn nhân . Họ là người đi hỏi và cưới chồng
, lễ cưới trải qua nhiều bước : lễ đi chơi hay lễ trầu cau , lễ hỏi và lễ cưới
. Lễ cưới người Chăm Bàlamôn đon giảm hơn Chăm Bàni nhưng cũng bao gồm nhiều bước
.Sau ngày cưới , đôi vợ chồng trẻ cũng phải ở trong phòng the 3 ngày trải chiếu
nằm dưới đất , mỗi người nằm một bên chính
giữa thắp một cây đèn dầu cháy trong 3 ngày đêm , sau 3 ngày cúng 1 mân lạy tạ ông
bà , dọn phòng vợ chồng mới ăn ở với nhau và đem bành trái về thăm viếng cha mẹ
họ hàng nhà trai giống như vợ chồng trẻ người Chăm Bàni.
Lễ cưới của người Chăm Bàni trước đây rất rườm rà tốn kém
, nhưng ngày nay đã giảm tiện rất nhiều . Trước ngày cưới chính thức một ngày ,
gia đình nhà trai phải làm lễ đưa con
trai ra khỏi nhà để “ đi nuôi người khác “ họ hàng cùng ông mai của chú rể dẫn
chàng trai về nhà gái . Người Chăm khi chưa có vợ ở với cha mẹ, khi xây dựng
gia đình thì họ về ở rể , nhưng vì một lý do nào đó mà ly di hay vợ chết hoặc đi
lấy vợ khác thì họ phải để lại toàn bộ tài sản cho vợ hay người thừa kế bên vợ
. . Ngày nay , khi xã hội phát triển , giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng
được mở rộng thì chế độ mẫu hệ cũng thay đổi dần .
Sinh hoạt
trong xã hội gần như khép kín , người Chăm đã phát huy tính cộng đồng đ6én mức độ
khá cao , trong các đình đám , đặc biệt đám tang , người Chăm ngừng tất cả các
hoạt động của mình , dù là hoạt động mang tính cấp bách : ngày gieo lúa chẳng hạn
, để tụ lại giúp đỡ và an ủi gia đình đương sự .Mặt khác , những công việc thông
thường nhưng vượt quá sức lao động của các thành viên trong gia đình như : giở
nhà , xây nhà , lợp tranh ……. Phải nhà đến lao động cộng đồng , bà con láng giềng
đến giúp đở một cách vui vẻ.
Quan hệ xã hội người Chăm hiện nay ở các làng Chăm về đời
sống kinh tế hộ gia đình , có nhiều bước phát
triển tốt nghiên cứu nhiều mô hình sản xuất tốt cải tiến kỷ thuật ,văn hóa
xã hội được nhà nước đầu tư các điều kiện phương tiện để sinh hoạt nhằm giữ gìn
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc , mối quan hệ xóm làng đoàn kết dân tộc chung
tay xây dựng cuộc sống mới .mỗi thôn , làng
đều thực hiện nếp sống văn minh trong tang , cưới , lễ hội và thực hiện phong
trào toàn dân đoàn kế xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư .
2.2.
Lễ hội Ramưwan ở huyện Bắc Bình:
2.2.1.
Tôn giáo và tín ngưỡng Chăm: Ngay từ đầu lập quốc tôn giáo đã gắn chặt với
người Chăm và suốt trong các thời kỳ tồn tại của mình, tôn giáo đóng vai trò hết
sức quan trọng, tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt, đời sống
kinh tế văn hóa xã hội. Bởi vậy, các vấn đề nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn hóa
Chăm, kể cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đều phải đề cập đến văn hóa tín
ngưỡng. Đạo Bàlamôn du nhập từ Aán Độ vào Champa vào đầu công nguyên trên cơ sở
giao lưu văn hóa, ban đầu người Chăm theo đạo Bàlamôn tôn thờ 03 vị thần chính
là thần Brahma( thần sáng tạo), thần Shiva( thần hủy diệt), thần Vishnu( thần bảo
tồn) nhưng khi bị Chăm hóa vào thế kỷ thứ 17 thì lại mang sắc thái hoàn toàn Chăm.
Cho đến hôm nay chúng ta chỉ thấy những tín đồ Bàlamôn Chăm thờ Pônưgar( Bà mẹ
xứ sở) các vị vua có đức có tài đựợc thần hóa như: Pklong, Pôrômê, Pklong mưnai,
PôNít… cũng như các vị tướng và vị quan lại có công với đất nước: Pôdam, Pôsanư.
Chúng ta đều thừa nhận, tôn giáo tín ngưỡng
là sản phẩm của chính hoạt động của con người, phản ánh một bình diện của đời sống
tinh thần nhân loại, phát sinh và tồn tại từ buổi bình minh của văn minh nhân
loại và là một kết tinh văn hóa.
Tôn
giáo tín ngưỡng là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển cùng với xã hội
loài người trong một thời gian khó mà đoàn định trước được. Trong quá trình tồn
tại và phát triển, tôn giáo tín ngưỡng ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính
trị, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều dân tộc,
nhiều quốc gia. Bản thân tôn giáo tín ngưỡng chức đựng nội dung phong phú về lịch
sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa, chính trị… Nó thực sự là nhu cầu của
con người, nhu cầu của xã hội, và một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình
thái khác của ý thức xã hội, tôn giáo tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị đạo
đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…
Tôn giáo Bàlamôn tín
ngưỡng liên quan đến vòng đời người như lễ cúng mừng trẻ sơ sinh, đám cưới, đám
tang. Lễ nhập kut. Chức sắc theo đạo giáo Bàlamôn bao gồm nhiều hệ phái: thầy Xế,
hệ phái thầy Ka- Thành, hệ phái thầy Bóng, hệ phái thầy Vỗ, một số thầy cúng và
các chức sắc khác chuyên phối hợp trong đám hỏa táng. Trong đó hệ phái thầy Xế
rất được mọi người trọng nể vì giữ vai trò chính yếu trong các nghi thức tang
ma và vị sư cả thầy Xế là người có quyền tính toán ấn định ngày tháng lịch Chăm
cho tín đồ sử dụng. Hầu hết các chức sắc đạo giáo đều có gia đình và nhìn chung
các hoạt động hành đạo của họ mang tính chất phục vụ xã hội nhiều hơn, không đặt
nặng vấn đề thù lao. Tuy tôn giáo chính là Bàlamôn, nhưng do lịch sử du nhập đạo
Hồi và Champa trước đây, cho nên hiện nay một số lễ nghi của người Chăm theo đạo
Bàlamôn, vẫn có sự hành lễ của thầy Char đạo Bàni. Người Chăm Bàlamôn vẫn đi cúng chùa Bàni vào dịp “ Súc Dâng”, “
Ramưwan” và phải tuân thủ nghiêm ngặt qui định không sát sinh vào thời gian “
Ramưwan” đạo Bàni.
Tôn giáo Chăm Bàni ở Bắc Bình hầu như không bị lệ thuộc vào
giáo luật Hồi giáo. Ở đây, họ có một hệ thống giáo luật riêng, trong đó có những
nghi lễ hoàn toàn xa lạ với Hồi Giáo. Đó là việc thực hiện những tập tục như lễ
vào đạo Karơh và Katơt, tang lễ, hôn lễ… mà chủ lễ là các tu sĩ đạo Bàni. Chỉ
riêng tầng lớp tu sĩ .là gìn giữ giáo luật Hồi giáo và nhiệm vụ của họ là thực
hiện các giáo luật thay thế cho tín đồ. Đối
với tín đồ và tu sĩ đạo Bàni thì giáo lý của Hồi giáo cũng được ghi lại trong
thánh kinh Coran bằng chữ A rập Đó là bản kinh chép tay mà theo họ hoàn toàn là
các bài kinh cầu nguyện. Nhưng vì đây là những bản chép tay nên đã “ tam sao thất
bổn”. Trong đó, các tu sĩ còn ghi vào các phần hướng dẫn đoạn kinh nào đọc lúc
nào trong lễ gì bắng tiếng Chăm. Việc truyền dạy Kinh Koran trong nội bộ tầng lớp
tu sĩ bao gồm việc dạy chữ Chăm, cách đọc cho đúng các bài kinh và sử dụng các
bài kinh trong lễ nào. Công việc sao chép kinh Koran chỉ có một số ít tu sĩ có
khả năng và thường là những người thuộc dòng dõi tu sĩ, cha truyền con nối, còn
lưu giữ các bản kinh. Phần lớn tu sĩ Bàni hiện nay chỉ học thuộc các bài kinh và
cách hành lễ mà thôi.
Nghiên cứu đến các mặt văn hóa, xã hội của người Chăm là
phải nghiên cứu đến tôn giáo của họ, là việc làm của một quá trình lâu dài tìm
tòi, sưu tầm nhiều loại tư liệu thành văn và không thành văn, cả vật thể và phi
vật thể để từ đó xác định được nguồn gốc và ảnh hưởng của từng tôn giáo đến văn
hóa. Đã từ lâu đời, trong thực tế của cuộc sống tôn giáo đã bao trùm lên toàn bộ
xã hội người Chăm. Trải qua hàng ngàn năm như thế, tôn giáo đã chính phục được
xã hội người Chăm, và về cơ bản đã giữ được những yếu tố chung, phần còn lại do
điều kiện môi trường sống của người Chăm đã tác động trở lại và hình thành nên
một bộ phận mới, những yếu tố mới song song tốn tại và được thực hiện chung với
các yếu tố nguyên gốc của từng tôn giáo. Người Chăm từ xa xưa đã gắn liến với tín
ngưỡng tôn giáo và mẫu hệ Chăm nền văn hóa chăm có nhiều đặc trưng bản sắc dân
tộc, qua quá trình phát triển dân tộc với nền kinh tế biển, ruộng, rừng và tín
ngưỡng tôn giáo đã tạo văn hóa Chăm vui tươi sống động khi cúng, cầu đếu có hò
hát, nhảy múa, tôn vinh các vị thần linh làm cho lễ hội càng thêm rộn rã vui tươi,
cầu mong những điều tốt lành bình an.
Người Chăm
Bàlamôn theo tín ngưỡng đa phần vật linh với nhiều hình thức thờ cùng khác
nhau. Tín ngưỡng sơ khai với hình thức Tô tem giáo, bái vật giáo, Saman giáo,
phồng thực, thờ cây cối, đồ vật, sinh thực khí. Tín ngưỡng liên qua đến việc thờ
cúng tổ tiên thể hiện trong các nghi lễ như Katê, Rijanưgar, Rijaproong, tín ngưỡng
liên qun đến sản xuất nông nghiệp với các nghi lễ như lễ cúng thần lúa (Yang
Sri), lễ đắp đặp khai mương ( Trun Jamưng hatăm )
Người Chăm Bà ni chuyển sang tín ngưỡng nhất thần , chỉ
thờ phụng thánh Ala
và thiên sứ Môhamet. Tuy nhiên , trong tiềm thức người Chăm Bàni vẫn sâu đậm
quan niệm đa thần , thể hiện trong viêc tham gia vào các nghi lễ mang tính chất
nông nghiệp như lễ hội Rijanưgar , lễ hội Kaplau krong , plao pasah ….. các thầy
char vẫn làm chủ một số nghi lễ cộng đồng quan trọng
Bàlamôn giáo và Hồi
giáo là hai tôn giáo có hai hệ thống giáo luật, quan niệm, nghi lễ hoàn toàn khác
nhau, thậm chí đối lập nhau đều đã du nhập và phát triển ở người Chăm. Tuy có
khác nhau về thời điểm du nhập, về thời gian tồn tại nhưng hai tôn giáo này đều
đã có những tác động và làm phong tục thêm cho nền văn hóa Chăm. Bản thân người
Chăm, với những yếu tố văn hóa bản địa( mang đặc trưng của Văn hóa Nam Á, của dân
cư Mã Lai- đa đảo…) đã có những ảnh hưởng, tác động ngược lại đối với Bàlamôn giáo và Hồi giáo ờ người Chăm
đã được biến đổi và mang những đặc trưng riêng so với những nơi khác. Đồng thời,
thông qua những biến đổi đó mà Bàl;amôn giáo và Bàni ở người Chăm lại mang những
đặc điểm chung và đã có ảnh hưởng tác động lẫn nhau.
2.2.2/
Xuất xứ của lễ hội Ramưwan:
Như phần trên đã tóm
lượt lịch sử hình thành và phát triển của Vương quốc Chăm pa từ những năm cuối
thế kỷ thứ hai và cho mãi đến sau này gần hai thiên niên kỷ, xã hội người Chăm đã
tiếp thu nhiều tôn giáo lớn trên thế giới, qua quá trình các tôn giáo lớn du nhập
vào đã được cải tiến cho phù hợp và tùy theo từng thời kỳ phát triển để trở thành
quốc giáo. Đến nay, trong lịch sử phát triển của mình, người Chăm đã tiếp thu
ba tôn giáo lớn đó là Bàlamôn( Aán độ giáo), phật giáo và Hồi giáo. Aûnh hưởng
của Hồi giáo với chăm hồi giáo Bàni là một thí dụ điển hình về sự tiếp nhận, thụ
giáo và biến đổi cho phù hợp hay nói cách khác là đã bị Chăm hóa, trong đó thể
hiện nhiều ở lễ Ramưwan trong từng nghi thức lễ mang tính dân gian lâu đời và bản
sắc văn hóa Chăm.
2.2.3/
lễ hội Ramưwan của người ChămBà ni:
Lễ hội Ramưwan của cộng đồng người Chăm Bàni cũng như lễ
hội Katê của người Chăm Bàlamôn có ý nghĩa văn hóa truyền thống cũng như giá trị
tâm linh tình cảm, đoàn kết cộng đồng ở địa bàn cư dân tương tự như
|
Sau lễ cầu nguyện, tu sĩ thưởng thức lễ vật do tín đồ
mang tới.
|
ngày tết nguyên đáng
của người Kinh nên có nhiều người gọi là tết. Nhân dịp này mọi người đều phấn
khởi, cùng nhau cầu nguyện cho mọi người bình yên, xóm làng thanh tịnh, ai cũng
lấy tình yêu thương để đối xử với nhau, chia sẻ khó khăn lẫn nhau theo truyền
thống bao đời truyền lại
Ramưwan là lễ hội lớn
nhất và ý nghĩa nhất trong hệ thống lễ hội của người Chăm Bàni nó giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống của người Chăm Bàni, nó được lưu giữ, kế
thừa từ lâu đời và vẫn diễn ra hằng năm vào những thời điểm nhất định theo qui định
của lịch Hồi giaó Lễ
hội Ramưwan gắn chặt với từng người, đời người từ khi sinh ra, lớn lên cho đến
lúc qua đời. Do vậy, bất luận trong hoàn cảnh lịch sử nào, dù khó khăn đến mấy
lễ hội cũng phải được thực hiện.
2.3/
Qui trình của lễ hội:
2.3.1/ lễ hội Ramưwan có rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
lại có nhiều nghi thức, nghi lễ khác nhau, nối tiếp nhau thành một chuỗi liên tục
kéo dài về mặt thời gian, đi đôi với thời gian là những hình thức, nghi lễ khác
nhau đã qui định sẵn. Về cơ bản lễ hội Ramưwan có những nghi lễ và các lễ giai đoạn
lễ sau:
1-
Lễ
Sút Amưrăm( kinh hội đầu năm)
2-
“
Kinh hội xoay vòng” hay còn gọi là “ Sút Yâng”
3-
Lễ
tảo mộ
4-
Tháng
Ramưwan
5-
Lễ
“ Và ha”
Nếu
tính từ ngày đầu tiên của lễ Sút Amưrăm( Kinh hội đầu năm) đến lễ tảo mộ, tháng
Ramưwan, lễ Vàha( hay còn gọi là tết ra) kể cả thời gian hành lễ và thời gian
nghĩ, chờ đợi đến giai đoạn khác kéo dài gần trọn một năm mới kết thúc các qui
trình của lễ hội Ramưwan. Thời gian của từng lễ cũng rất dài và diễn ra liên tục
như “ Kinh hội xoay vong” hơn một tháng rưỡi cho 6 Thánh đường ( mặc dù mỗi thánh
đường chỉ diễn ra 01 ngày và chỉ diễn ra vào ngày thứ 6 trong tuần) còn thánh
Ramưwan đúng một tháng.
Lễ Kinh hội đầu năm: ( sútAmưram )
Nghi lễ này được tổ
chức vào ngày đầu năm tức là ngày 01 tháng 01 của lịch Chăm. Mục đích của lễ hội
này nhằm tâu lên thượng đế biết là năm mới đã đến và cầu mong cho thượng đế phù
hộ cho các tu sĩ, tín đồ, cho muôn dân được bình an.
Theo
qui định xa xưa, Thánh đường nào có ông Tổng sư cả chủ trì( tức là người có vị
trí tôn giáo, chức sắc cao nhất trong tất cả các Thánh đường của khu vực) thì các
tu sĩ của Thánh đường khác phải tập trung tại đó dự lễ, dưới sự điều khiển của ông
Tổng sư cả( hay cả lớn). Vì trong các Thánh dường Hồi giáo của khu vực, mỗi Thánh
dường đều có một ông sư cả, nhưng riêng một ông có uy tín và có thời gian làm
chức sư cả cao nhất và được tín nhiệm bầu làm tổng sư cả( Ngày xưa người Chăm gọi
là “ Oâng yêu” tức người thay mặt tín đồ Hồi giáo tiếp xúc, làm việc với vua
hay với các vị thánh).
Hiện
nay ở huyện Bắc Bình ông tổng sư cả Thanh Tàu chủ trì Thánh đườnglàng Châu Hanh
xã Phan Thanh vừa quản lý luôn những thánh đường khác cùng hàng ngàn tín đồ về
mặt tôn giáo. Kinh hội đầu năm khác với các nghi lễ khác trong qui trình lễ hội
Ramưwan là chỉ diễn ra ở một thánh đường mà thôi, chứ không thay phiên hay đồng
loạt diễn ra. Cụ thể là, Thánh đường Châu Hanh mới có vinh dự này. Trong lễ, trước
sự chứng giám của hàng trăm tu sĩ từ các Thánh đường của các thôn, các xã đến dự,
ông sư cả lớn đưa ra quyết định năm nào là nhuận, năm nào không nhuân( đã nghiên
cứu lịch Hồi trước). Quyết định xong bắt đầu làm lễ, trong lễ có 14 vị chức sắc
ngồi theo thứ tự và xoay mặt về hướng tây để thỉnh cầu thượng đế. Sau đó ông Mưm
Tân đánh 3 hồi trống và ông Típ Tân đến cánh cửa làm dấu mở cửa mời Thượng đế và Giáo chủ cùng
các vị Thánh về để chứng giám lễ đầu năm của Hồi lịch.
Trước
khi vào lễ tâu lên thượng đế, ông Tổng sư cả cho phép một ông Mưm 40 là vị có
uy tín nhất ngồi giữa cầm cây Thánh và đọc Kinh cầu nguyện. Lễ cầu nguyện xong
3 trong 14 vị tu sĩ có thẩm quyền là các ông Mưm Tân Mưm 40 và ông Típ Tân ngồi
vào giữa, những tu sĩ khác tới bắt tay( axalam) chúc mừng cuộc “ đi kinh” đã hoàn
tất và tin rằng những điều tấu trình đã đến tai Thượng đế. Bắt tay chúc mừng
xong, ông Mưm Tân mời vị sư cả lớn ngồi ở giữa và các vị sư cả khác ngồi tiếp
theo về hai phía, đến các vị Mưm và chức sắc khác ngồi theo thứ tự, thứ bậc.
Khi các tu an tọa, ông Mưm Tân cho phép ông Thay Char( Chang) bưng trầu cau lên
để cho sư cảc lớn mời Mohamét, tiếp đến bưng đến cho mỗi tu sĩ một mâm bánh, một
mâm cơm để phía trước mặt, xong rồi cả Thánh đường đọc kinh cầu nguyện, cầu cho
mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi người đều được khỏe mạnh… Mọi người cầu
nguyện xong, ông sư cả lớn ngồi giữa đọc Kinh tâu lên Thượng đế. Lúc này mọi người
đến Thánh đường tham dự lđều im lặng và chấp tay vaí lạy, cầu nguyện theo. Đến đây
lễ Kinh hội đầu năm kết thúc. Kinh hội đầu năm mở đầu cho qui trình lễ hội Ramưwan
và mãi hơn 4 tháng sau nghi lễ tiếp theo mới lại bắt đầu: Đó là “ Kinh hội xoay
vòng”.
ngày
thứ 6 Hồi lịch coi là ngày tốt, mới tiến hành( Kinh hội đầu năm tiếng chăm là
Sut Amưrăm). Mục đích của lễ hội này nhằm tâu lên Thượng đế phù hộ cho các tu sĩ,
tín đồ, cho muôn dân được bính an.
2.3.3/ Kinh hội xoay vòng:
Theo
Hồi lịch cứ 8 năm, tháng Ramưwan lại được lùi lại 03 lần, đương nhiên Kinh hội
xoay vòng cũng lùi lại đúng như vòng luân chuyển trên của thời gian. Bao giờ
Kinh hội xoay vòng cũng diễn ra ở Thánh đường cuối cùng của tháng Ramưwan khoảng
hơn một tháng. Có Kinh hội xoay vòng mới có lễ hội Ramưwan trong tháng Ramưwan.
Đối với qui trình của lễ hội Ramưwan, Kinh hội xoay vòng có một ý nghĩa quan trọng,
không chỉ đối với tầng lớp tu sĩ và tín đồ Bàni mà đây còn là dịp hội ngộ, gặp
gỡ, hẹn hò của mọi người giữa các làng, xã, trai thanh, gái tú không chỉ trong
cộng đồng người Chăm Bàni mà còn được sự quan tâm của các thành phần dân tộc, tôn
giáo cùng nhau chia sẽ niềm vui, thắt chặt mối quan hệ láng giềng,đoàn kết gắn
bó bên nhau trong cuộc sống cộng đồng.Mỗi làng có kinh hội xoay vòng đều tổ chức
văn nghệ – thể thao giao lưu tạo không khí như ngày tết của làng ai ở đâu xa ngày
kinh hội phải về làng chung vui .
Theo
qui định Thánh đường đầu tiên được thực hiện Kinh hội xoay vòng là Thánh đường
Bình Hòa( Thánh đường gốc) và theo giáo luật, ông Tổng sư cả cũng phải chọn ngày
đầu tiên cho Thánh đường đầu tiên làm lễ phải là ngày thứ 6 trong tuần. Chuẩn bị
cho Kinh hội ở Thánh đường nào, ngày hôm trước Thánh đường đó đã được quét dọn,
tẩy rửa sạch sẽ; các tín đồ chuẩn bị trang phục bắt buộc của mình. Ở gia đình,
cũng chụẩn bị mua sắm thức ăn, đồ uống mừng Kinh hội. Người Chăm Bàni coi đây
như một ngày lễ lớn trong năm, thậm chí về mặt vật chất, một số gia đình tổ chức
lớn hơn cả lễ chính trong tháng Ramưwan.ở làng tổ chức văn nghệ – thể thao và
người dân ở đâ xa cũng về chung vui kinh hội Mục đích của “ Kinh hội xoay vòng” cũng nôm na
như một lễ nghi lớn ở Đình- Chùa để cầu cho Quốc thái dân an, cho mưa thuận gió
hòa, cho mùa màng tươi tốt, nhưng thể hiện
dưới hình thức theo giáo luật.
Kinh
hội tổ chức ở Thánh đường nào, thì các vị tu sĩ ở các Thánh đường khác đều quay
trở về Thánh đường nơi đến lượt tổ chức Kinh hội xoay vòng để làm lễ và là dịp
chia vui với các tu sĩ, các tín đồ Hồi giáo. Trong đó có cả ông sư cả lớn, tuy
nhiên ở các Thánh đường trong Kinh hội xoay vòng, vai trò ông sư cả lớn không
như Kinh hội đầu năm, mà ở đó vai trò chính là thuộc ông sư cả chủ trì và các vị
chức sắc ở Thánh đường đó.
Nội dung nghi thức phong chức chính của Kinh hội xoay vòng nữa là ông sư cả
của Thánh đường sở tại làm lễ tấu chức( lễ thụ phong) cho 2 vị tu sĩ đã được bàn
bạc trước lên một chức mới cao hơn. Cụ thể thụ phong cho vị tu sĩ từ chức Char
lên chức Kho Tib( Tip) và một vị khác được phong từ Kho Tip( típ) lên 01 chứ Mưm
Tân được phong năm trước trở thành ông Mưm Tân cũ, ông Mưm này về sau lại được
tấu chức thành ông Mưm 40.
Sau
khi được phong chức, hai ông gọi là ông Típ Tân và ông Mưm Tân được nhận chức
ngay. Kể từ đây hai ông là chủ lễ, không chỉ phải trong Kinh hội xoay vòng mà chủ
lễ cho đến hết mùa Ramưwan. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hành của mình, khi đến
giờ hành lễ ngày Suk trong tháng Ramưwan cũng như các ngày Suk ngoài Ramưwan, ông
Mưm Tân lúc nào cũng đánh trống và ông Típ Tân là người đánh dấu đóng cửa. Bắt đầu
trong buổi lễ này, ông Mưm Tân đánh 03 hồi trống để Báo cho Thượng đế Allah và
giáo chủ Mohamét biết cuộc lễ bắt đầu. Còn ông Típ Tân đi tới hai cánh cửa chính
của Thánh đường( đã mở săn, làm dấu mở cửa đón chào và mời Thượng đế cùng vào với
các vị Thánh đến chứng giám. Khi các nghi thức đánh trống, mở cửa làm xong hai ông
Mưm Tân và Típ Tân đi đến giữa Thánh đường đọc một câu kinh và làm dấu tay. Với
nội dung thể hiện đức tin của mình với Thượng đế Allah. Sau đó ông Mưm Tân và ông
Típ Tân đi thẳng tới Imưpar đặt ở chính giữa tường phía Tây của Thánh đường, ông
Típ Tân cúng các vị tu sĩ khác đứng thành hàng ngang hướng về Imưpar lạy và cầu
nguyện. Sau đó ông Típ trình xin để ông Mưm 40 đọc Thánh Kinh Koran. Trước khi đọc
ông Mưm 40 cầm cây thánh hướng dẫn. Thánh Kinh Koran được việt bằng tay chữ Ả Rập
trên hai mặt giấy trắng rất dài, được cuộn lại, đọc đến đâu nhả ra đến đấy. Phía
đầu cuốn Kinh Thánh này có vẻ hoa văn nhiều màu sắc theo kiểu Hồi giáo( tùy
theo từng đoạn Kinh để các tu sĩ đọc theo và chấp tay cầu nguyện).
Trong
lúc các tu sĩ và tín đồ đang chăm chú nghe Thánh Kinh Koran, ở phía dưới khoảng
1/3 diện tích của Thánh đường, các tín đồ là phụ nữ và người già cũng ngồi nghe
và thỉnh thoảng chấp tay lạy, quỳ lạy Thượng đế. Họ chỉ được phép ngồi khoảng
1/3 đoạn đầu của Thánh đường, không được dịch về phía trên. Đặc biệt là không có
phụ nữ và trẻ con. Các tín đồ ăn mặc chỉnh tề, ngăn nắp theo phong tục tập quán
của người Chăm Bàni . Trong số này có cả
tín đồ ở khắp nơi về dự lễ và cầu nguyện, họ là những người làm ăn xa hoặc là bà
con thân thích với các tu sĩ, tín đồ Chăm ở đây. Xen lẫn trong các tín đồ Chăm đến`
cầu nguyện, gặp gỡ, chia sẽ niềm vui với các tín đồ Chăm. Cũng có rất nhiều người
thuộc các dân tộc anh em đến dự lễ, chung vui với bạn bè trong Kinh hội. Khi ông
Mưm 40 đọc hết cuốn kinh Koran( phần hướng dẫn trong Kinh hội xoay vòng, mọi người
ngồi lại bắt tay nhau mừng cho lễ “ đi kinh” hoàn tất).
Bên
ngoài sân lễ, từ các nẻo đường dẫn tới Thánh đường, từng tốp, từng nhóm, các bà,
các chị và các em gái Chăm trong trang phục sặc sỡ áo dài truyền thống của dận
tộc, đầu đội mâm lễ đi dần về tập trung tại sận lễ của Thánh đường, theo từng hàng
dọc và có trên 200 mâm lễ như vậy, với nhiều tấm vải che đủ màu sắc.
Khi
trong Thánh đường làm lễ xong, mọi người mới xếp mâm lễ của mình theo sự sắp đặt
của các vị tu sĩ lần lượt ngồi vào các mâm lễ, cầu nguyện xong và sử dụng để chuẩn bị kết thúc Kinh hội. Xong việc, tu sĩ ở thôn nào trở về Thánh đường
của thôn đó, nghỉ ngơi để chụẩn bị đến ngày thứ sáu kế tiếp lại tập trung vào một
Thánh đường khác ở thôn khác cũng những nghi thức lễ, nội dung như đã diễn ra ở
Thánh đường trước đó. Vì vậy, gọi là Kinh hội xoay vòng.
Trong
các gia đình trong thôn, nơi đang diễn ra Kinh hội thì cùng lúc với thời gian kết
thúc Kinh hội tại Thánh đường, các gia đình bắt đầu vào tiệc để cầu mong cho Thượng
đế phù hộ, khấn vái ông bà, Tổ tiên và để tiếp đãi khách, bạn bè, người thân(
thức ăn, đồ uống một số theo phong tục từ xưa, một số mới cho phù hợp với khẩu
vị của khách). Có rất nhiều người thuộc
các tầng lớp và các dân tộc hoặc tôn giáo khác đến cùng chung vui, dự tiệc.
Kinh hội xoay vòng ngoài ý nghiã tôn giáo ra, nó còn gắn kết với các tập quán,
những phong tục truyền thống từ xưa của người Chăm cũng như nhiều dân tộc khác.
Đó là tính cộng đồng, sự liên kết giữa các dòng tộc, họ tộc với nhau, giữa làng
này với làng khác, giữa các Thánh đướng trong khu vực. Một năm đến Kinh hội
xoay vòng, các tu sĩ mới gặp nhau. Đó cũng là thời điểm các tín đồ khắp nơi gặp
gỡ nhau và giao lưu tình cảm với nhau, tạo nên mối đoàn kết giữa các nơi trong
cùng một tôn giáo cộng cảm với nhau để vừa thực hiện tốt giáo luật của Thượng đế
cũng như giúp nhau trong công việc làm ăn.
2.3.4/ Lễ tảo mộ:
Sau
hơn một tháng kết thúc Kinh hội xoay vòng ở Thánh đường cuối cùng, cũng như kết
thúc luôn vòng quay của Kinh hội đến ngày 27,28 tháng 8 Hồi lịch, người Chăm Bàni
ở các làng lo lắng sắm sữa lễ vật cho lễ tảo mộ và chuẩn bị tháng Ramưwan trong qui trình của lễ hội
Ramưwan, có những nghi lễ các tu sĩ và tín đồ cũng như toàn bộ người Chăm Bàni
thực hiện theo đúng giáo luật hoặc có biến một phận cho phần với điều kiện thực
tại mà thôi. Riêng lễ tảo mộ là một phong tục rất quan trọng một phần thuộc về
tôn giáo, còn lại là tín đồ dân gian, sự
tưỡng niệm biết ơn tổ tiên và dòng tộc cũng như tâm linh của mọi người trong cộng đồng, không phân biệt đẳng
cấp, tầng lớp tất cả đều vì đều vì tổ tiên ông bà. Khác với một số dân tộc ít
người khác, khi người chết` đủ vài ba năm, sau lễ cúng cuối cùng, ngườu ta không
còn biết đến người đã chết hay ngôi mộ đó nữa. Còn với người Chăm Bàni, việc ứng
xử với người chết là điều hệ trọng, đó là đạo lý giữa con người với con người,
giữa thế hệ sau với thế hệ trước, đó cũng thể hiện lòng biết ơn về nguờn gốc, cội
rễ.
Các
dân tộc đều có lễ tảo mộ, chỉ khác nhau về hình thức, nội dung và thời gian đa
phần đều theo nùa trong năm, hoặc cùng một số dân tộc nơi tảo mộ vào tết thanh
minh có nơi lại tổ chức vào khoảng rằm tháng chạp, gọi là chạp mã… lễ tảo mộ của
người Chăm Bàni thì lại không theo một thơi gian nhất định nào cả mà lại tuân
thủ theo sự chậm lại của lịch Hồi của tháng Ramưwan.Như trên đã phân tích, cứ 8
năm lễ Ramưwan lùi lại 3 lần, lễ tảo mộ gắn liền với lễ hội Ramưwan cũng lùi lại
như lễ hội Ramưwan( bất cứ sự lùi lại nào diễn ra như thế nào thì lễ tảo mộ cũng
lùi lại cho lịp thời gian) lễ tảo mộ diễn ra trong 3 ngày và lúc nào cũng kết
thúc vào ngày cuối cùng củ tháng cũ và xong vào ngày đầu tiên của tháng Ramưwan,
để mọi người còn kịp cúng tổ tiên, ông bà, người thân của mình, coi như là ăn tết
và chuẩn bị cho mọi thủ tục cần thiết để tối hôm đó vào đọc kinh cầu nguyện một
tháng trong các thánh đường. Khunhrak là nghĩa địa của người Chăm Bàni thường rất
xa nơi cư trú của họ ở vào những vị trí cao ráo và sạch sẽ của họ, có nơi xa hàng3
đến 4 km và nhiều nhiều khi thuộc địa phận của địa phương khác. Theo qui định của
các vị chức sắc trong từng làng. Từ sáng sớm các tu sĩ, tín đồ và các tầng lớp
nhân dân đủ mọi thánh phần lứa tuổi, đủ mọi màu áo theo từng nhóm, từng hàng nột
ra khỏi làng để theo các nẻo đường hướng đến nghĩa địa của làng mình. Các bà, các
chị mặc áo dài đủ màu, những ngưởi lớn tuổi mặc theo áo dài truyền thống, những
người trẻ tuổi mặc áo dài cách điệu đầu đội lễ vật đan bằng tre sơn nhiều màu
khác nhau gọi là Đônrong: Trong đó có 02 chiếc hộp bằng đồng đã têm trầu cau,
thuốc lá sẵn để mời ông bà và người thân trong dòng tộc đã khuất, riêng các vị
chức sắc, tôn giáo hay tu sĩ mặc áo dài trắng, quấn khăn màu trắng có tua đó,
tay cầm gậy.
Chuẩn
bị cho lễ tảo mộ toàn bộ nam giới đều đã mặc áo dài trắng, nhưng có sự phân biệt
Là áo dài của các tín đồ không có viền đỏ mà áo dài của các vị tu sĩ có viền đỏ,
đầu đội khăn trắng có tua đỏ, tập trung theo từng khu vực mộ của dòng họ xới đất
theo từng luống nhỏ với chiều rổng khoảng 30 cm, dài khoảng hơn 1m. Mỗi dòng tộc
có 02 dãy mả dãy chính và dãy phụ, mộ đất hoặc cát, mỗi dãy đặt hai hàng đá núi
để qui định phía đầu và phía chân của người đã khất, có 02 hàng đá được sắp thẳng
hàng song song theo chiều đông tây cách đều nhau nối dài đó là phạm vi của một
dòng họ, có bao nhiêu cặp đá( Một viên dãy bên này đặt ở phía đầu, một viên phía
bên kia đặt ở chân người đã khuất) thì có bấy nhiêu người chết nhiều hay ít để
có diện tích rộng hay hẹp. Mộ của người chết lúc nào cũng quay đầu về hướng Bắc,
chân ở hướng Nam ,
mặt ngoảnh về hướng tây, hướng của Thánh địa Hồi giáo. Trong lúc các tín đồ nam
và các tu sĩ dãy mộ, vun mộ thì các tín đồ nữ và trẻ nhỏ không được đến khu vực
mộ chỉ ngồi gần đó để sắp xếp đồ lễ.
khi
nghĩa địa của từng dòng họ đã dãy cỏ, vun đất xong cho từng ngôi mộ thì những vị
tu sĩ cao nhất của dòng họ đó bắt đầu chủ trì làm lễ. Ở những dòng họ không có
tu sĩ thì ông tộc trưởng chủ lễ( Aên mặc như thầy Char, nhưng áo không viền hình
lá bồ đề) vị tu sĩ tay cầm đồ chứa nước đã được pha sẵn các chất tẩy rữa như
chanh, cát lồi đọc một đoạn kinh, tưới lên các hòn đá và một ít vào các ngôi mộ
vừa mới được đắp lại tiếp tục đọc kinh và lấy nước trầm hương đã pha tẩm nước hương
lên hai dãy đá, đọc tiếp một câu kinh. Ý nghĩa của việc làm này là tẩy rửa ô uế
trong năm để được sạch sẽ và người quá cố sẽ được hưởng an lành trong năm mới.
Sau đó tất cả các thành viên ở trong dòng họ ngồi thành hai hàng trước các dãy đá
và đặt lễ vật trước mặt riêng vị tu sĩ cao nhất trongdòng họ hay vị tộc trưởng
phía trước mặt có một lư trầm nghi ngút khói, tăng thêm sự trầm mặt cho những
người trong dòng họ trước mộ người thân đã khuất mặt. Khi vị chủ lễ lên tiếng,
mọi người đều làm dấu, chấp tay người chủ lễ đọc kinh đoạn kinh trích đọc đã được
chụẩn bị kỹ đó là đoạn kinh “ Phoathắt- Aàuva” người chủ đọc hướng dẫn trước một
đoạn và những người khác đọc theo.
Sau
đoạn kinh trên mọi người cùng cầu nguyện tập thể, làm dấu thánh chấp tay cầu
xin ông bà tổ tiên phù hộ cho những người
đang sống tiếp tục, các tu sĩ và tín đồ, những người thân trong dòng họ,
mỗi người nhận một phần nước ( Nước ngọt, nước trà, nước chanh) của mình mang
theo, rót vào chén uống một hớp rồi tưới lên hòn đá trước mặt, lấy trầu cau đã
têm sẵn nhét xuống dưới những nấm mộ vừa vun xong rồi ăn bánh, hút thuốc. Đây là
một hình thức mời ông bà và những người thân đã khuất, hưởng thụ lễ vật và về dự
lễ Ramưwan. Đây coi như kết thúc lễ tảo mộ của các dòng họ.
Ở
kề phía sau khu mộ của các dòng họ, một khu mộ khác với một số ít ngôi mộ và các
vị chức sắc tập trung làm lễ tại đây sau cùng. Đây là mộ của những người đã cúng
hết ruộng đất cho thánh đường, không còn người tế tự nên các vị chức sắc đaọ giáo
phải có trách nhiệm tảo mộ và cầu nguyện cúng kính họ. Sau khi tảo mộ đã hoàn tất
mọi người ai về nhà nấy chuẩn bị sửa soạn cho việc cúng tế ông bà.
Sau
phần tảo mộ và cúng mời, họ về nhà, gia chủ chụẩn bị một chỗ trang trọng trên
giường hoặc phòng, trải chiấu mới bày trầu cau, trà, hoa quả( chỗ này chính là
nơi tổ tiên về ngự). Khi lễ vật và người phục vụ đã chuẩn bị xong, vị chủ lễ là
thầy Char ( 1 chứ sắc Hồi giáo), hoặc người thông hiểu, thuộc kinh thánh làm lễ
tẩy trần. Mọi người chính tề trang phục. Vị chủ lễ khẩn nguyện và vẽ bùa, toàn
gia đình bắt đầu cúng. Lễ vật cúng thường có 02 loại được chưng lên các mâm có
chân cao đó là: mâm lễ ngọt gồm: Bánh trái, chè và mâm lễ mặn có: cơm, canh, cá,
thịt dê, gà, và trầu cau, trầm hương( tín đồ Hồi giáo kiêng ăn thịt con heo,
con dông, kiêng uống rượu). Tuần tự, lễ vật được dâng nhiều đợt, mỗi đợt 02 mâm
thức ngọt và thức mặn và gia chủ khấn mời tên một vị thần, vị tổ tiên và cầu phù
hộ cho toàn gia tộc, toàn xóm làng, tín đồ. Trong những ngày này, về phần hội,
tùy theo khả năng các làngå cóthể tổ chức văn nghệ dân gian, thi dệt vải, đội nước,
thi cày bằng bò,, các trò chơi thể thao… tạo ra không khí vui nhộn để bước vào
tháng chay tịnh. Đây là dịp thu hút đông đúc mọi người, mọi dân tộc đến chung
vui.
2.3.5/ Lễ Ramưwan:
So
với một số tôn giáo khác như Bàlamôn, Thiên chúa giáo, Phật giáo thì Hồi giáo Bàni
có những Qui định rất khắc khe và có phần nặng nề trong giáo luật, bắt buộc tín
đồ của mình phải thọ giáo. Tuy nhiên, không phải nơi nào Hồi giáo cũng ảnh hưởng
và tác động như nhau, mà tùy vào sự tiếp nhận của mỗi nơi với điều kiện thực tại
của xã hội nơi đó. Aûnh hưởng của Hồi giáo với Người Chăm Bàni là
một thí dụ điển hình về sự tiếp nhận, thụ
giáo và biến đổi cho phù hợp, hay nói cách khác là đã bị Chăm hóa, trong đó thể
hiện nhiều ở lễ Ramưwan trong từng nghi thức lễ mang tính dân gian lâu đời và bản sắc văn hóa Chăm. Còn đối
với tín đồ Hồi giaó trên thế giới trong tháng Ramưwan ở đó tất cả mọi tín đồ bắt
buộc phải cầu nguyện, nhịn tất cả mọi thực phẩm, cấm ăn uống, hút thuốc và cấm
tất cả những gì tiếp xúc với cơ thề kể cả chuyện vợ chống nhưng chỉ nhịn vào
ban ngày, ban đêm tín đồ được tự do ăn uống. Chỉ những người già, đàn bà có
thai và những trẻ em dưới 10 tuổi nới được miễn còn những người đau yếu hay đi đường
xa cũng chỉ được tạm hoãn trong thời gian bất khả kháng, nhưng cũng phải ăn
chay bù lại vào dịp khác. Những điều răng đe trên, bắt tín đồ phải thực hiện đã
được ghi rõ ở chương II điều 183 Thánh kinh Koran. Trãi qua thời gian đầu khi
giáo luật Hồi giáo áp đặt cho người Chăm ở thế kỷ XVII chắc chắn có sự thực hiện
đúng như vậy, nhưng càng về sau sự áp đặt đó không được tuân thủ đồng bộ ở
trong tín đồ và nặng nề không phù hợp với điều kiện sinh sống. Thực tại khi mà
xã hội người Chăm đa số là cư dân nông nghiệp. Nếu đến mùa Ramưwan tất cả đều
phải đến thánh đường không được làm gì cả khi mùa lúa chín hay mùa cày cáy sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi tín đồ và nhiều điều liên quan tương tự như
vậây. Bắt buộc những người đứng đầu tôn giáo quản lý tín đồ của mình sẽ phải
suy nghĩ và xin Thượng đểù bãi bỏ cho một số giai đoạn cấm kỵ trong tháng Ramưwan.
Càng về sau những qui định trong giáo luật không phù hợp với điều kiện sống, về
phong tục tập quán, về truyền thống văn hóa dân tộc đã dần bị bãi bỏ.
Sưu
tầm các loại tư liệu thời xưa đến nay và với việc khảo sát thực tế ở các thánh đường
trong các tín đồ Bàni của người Chăm chúng ta sẽ thấy quan niệm và sự thụ giáo
của các tu sĩ và tín đồ có những sự khác nhau cơ bản. Đối với họ, việc cấm kỵ( ăn
chay) trong tháng Ramưwan là bổn phận của ông sư cả các ông Pô Típ, thầy Mưm và
những thầy Char. Những người này đại diện cho tất cả tín đồ và sẽ phải hãm mình
trong thánh đường để đọc kinh, cầu nguyện và ăn uống theo qui định riêng của tu
sĩ. Còn dân chúng vẫn được ăn uống bình thường, làmn việc bình thuờng trong suốt
9 tháng Hồi lịch. Đây là sự biến đổi rất tiến bộ của các thế hệ tu sĩ đi trước
và các tín đồ ngày nay luôn biết ơn.
Chuẩn
bị cho tháng Ramưwan, vì phải ăn ở tại thánh đường suốt một tháng nên từ chiều
ngày 1 tháng 9 Hồi lịch, tất cả các tu sĩ đã lần lượt chuyển đồ dùng sinh hoạt
cá nhân của mình đến thánh đường. Khi việc chuẩn bị đã hoàn tất, lúc hoàng hôn đang
xuống, mặt trời ở cuối chân trời phía Tây, dưới sự chủ trì của ông sư cả, tất cả
các tu sĩ áo quần chỉnh tề di chuyển về phía trái bên ngoài thánh đường xếp thành
nhiều hàng, mọi người đều nhìn về phía Tây nơi mặt trời đang lặng dần và đọc một
số câu kinh. Lúc mặt trời xuống thì cũng là lúc mặt trăng đã le lói ở phía chân trời, các tu sĩ và tín đồ cũng như
mọi người tin rằng, những năm trời quang mây tạnh cùng lúc nhìn thấy mặt trời
không bị mây che và cả mặt trăng khuyết, theo kinh nghiệm dân gian năm đó sẽ rất
hên cho dân làng. Nhưng mục đích chính của các tu sĩ ra đọc kinh và nhìn về phía
mặt trời lặn là để ông Sư cả báo cáo với thượng đế sỉ số tín đồ đến thánh đường.
Đối với nhân dân lễ Ramưwan bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 9 Hồi lịch, tất cả mọi
gia đình Chăm Bàni đều tổ chức ngày lễ Ramưwan trong gia đình mình hay còn gọi
là tết người Chăm Bàni. Lễ hội gồm gà, vịt, cơm, bánh tét, bánh ít, chè, bánh trái…
lễ được tiến hành do một ngươi trong gia đình đã làm “Ka ráh”( người thuộc kinh
Coran). Trước tiên mâm lễ vật được dang lên cho người làm lễ, đặc biệt mâm phải
có chân tức “ ta lao kai” trên mâm có một cái bát đựng cát và lửa dùng để đốt
trầm. Người làm lễ đọc kinh, những người đàn bà trong gia đình cầu nguyện vong
hồn người quá cố về dự Ramưwan. Kinh đọc dứt, tiếp đến dâng mâm chè, tiếp nữa là
mâm cơm. Trong ngày lễ Ramưwan, tất cả những thành viên trong gia đình đã quá cố
đều được mời về ăn tết Ramưwan, họ mời linh hồn người quá cố theo thứ tự, thứ bậc
cao nhất rồi mới đến bậc trung niên và cuối cùng trẻ con cho nên lễRramưwan kéo
dài từ 10h sáng cho đến 3,4 giờ chiều mới xong, ngoài ra trong lễ này họ còn mời
linh hồn ông cố, ông xơ cách ngày này mấy thế kỷ cũng về dự. Lễ Ramưwan thường
tổ chức ở nhà cha mẹ trước, đến ngày hôm sau mới tổ chức ở gia đình con cái(
con cái có chồng làm nhà riêng) ngày lễ Ramưwan chấm dứt, tối đến tất cả tăng lữ(
thầy Chang) đều vô chùa cùng đêm hôm đó, tất cả mọi gia đình đều làm một mâm cơm
đem đến chùa để tăng lữ cầu nguyện. Khác với tín đồ Hồi giáo Islam, người chăm,
Bàni không nhịn ăn trong tháng Ramưwan, mà chỉ có tăng lữ nhịn ăn tượng trưng.
Thật ra sáng, trưa, chiều họ đều ăn cơm do gia đình mang đến. Nhưng họ ăn theo đùng
giờ qui định của giáo điều Chăm Bàni. Ngoài ra lễ Ramưwan còn mang ý rất lớn là
một năm cũ đã bước sang một năm mới, mọi người đến từng nhà thăm viếng chúc tụng
nhau vui chơi .
2.3.6/ Lễ
Và ha:
Đúng 3 tháng 10 ngày sau, tức 100 ngày
kể từ ngày đầu tiên của tháng Ramưwan lễ Vàha diễn ra và cũng để kết thúc luôn
qui rình rất dài của lễ hội .
Trước đó 10 ngày toàn bộ người Chăm
trong khu vực, kể cả người Chăm theo đạo Bàlamôn phải kiêng cử, một số hành vi
trong sinh hoạt phải tạm ngưng, như bên Hồi giáo cũ thì kiêng sát sinh, trong
thôn xóm không được gây ồn ào, cải vả nhau. Bên phía người Chăm theo Bàlamôn giáo
thì những người xấu số chết trong dịp này sẽ không được lên dàn hỏa để thiêu xác
mà phải chôn, đến 3 năm sau mới đưa lên thiêu lại. Trong thời gian này cũng kiêng
không sát sinh. Không biết luật tục này cò từ bao giờ, vì cả hai bên đạo giáo
không còn ai được biết, chỉ biết rằng ,họ thực hiện rất nghiêm túc từ trước đến
nay, không hề có một ngoại lệ nào.
Xong một hồi kinh tất cả các tu sĩ
trong thánh đường lấy mũ đang đội đầu xuống, tháo những sợi tua tủa màu sắc và đã
kết thành hoa văn trên chớp ra khỏi mũ, chỉ còn lại vành mũ trắng và đội lên đầu.
Đây là loại mũ vải, vành trắng có viền tua xung quanh và trên chớp mũ nhiều màu
và kết thành nhiều hoa văn khác nhau chỉ sử dụng cho các
tu sĩ, mỗi khi thực hiện các nghi lễ hay đọc kinh, trong những buổi cầu nguyện
quan trọng mới đội lên, tiếmg Chăm gọi là Kalăh. Nghi thức tháo tua trên mũ Kalăh
chỉ thực hiện ở trong nghi lễ Vaha là lễ cuối cùng đã kết thúc qui trình lễ hội
Ramưwan.
Trong thời gian này nghiêm cấm không
ai được đi qua lại suốt chiều dọc của thánh đường. Khi các tu sĩ đang lắng nghe
đọc kinh cầu nguyện đến đoạn kinh đã qui định thì ông Mưthình với chức trách của
mình đã đi ra ngoài, tiến về gốc phài của thánh đường để cắt cổ gà. Một cặp gà
trắng đã được người nhà của ông Típ Tân mang đến chờ sẵn cùng một cây dao sắc và
một chén nước. Oâng Mưthình ngồi xuống về phía tây miệng lầm bầm đọc kinh, lấy
nước rữa cổ gà và cắt cổ cho máu chảy xuống đất. Khi con gà đã chết hẳn lại tiếp
tuục cắt cổ con thứ 2 mọi việc diễn ra như con thứ nhất. Việc cắt tiết thực hiện
xong, người nhà ông Típ Tân đưa 2 con gà về làm các món ăn để chiêu đãi các tu
sĩ tại thánh đường. Oâng Mưthình nhìn về hướng tây, tháo khăn quấn đấu xuống,
quàng ở vai, khấn thượng đế và trở vào thánh đường. Ý nghĩa của việc cắt cổ gà
là để bào hiệu cho các tín đồ bên ngoài biết từ thời điểm này được phép sát
sinh, các công việc khác trở lại bình thường.
Như vậy, lễ và ha khác với các nghi lễ
trong qui trình lễ hội Ramưwan, trước hết là trang phục của các tu sĩ từ ông sư
cả đến ông thầy Char đều có aó trắng, quần trắng, mũ trắng và 2 con gà cũng màu
trắng. Sở dĩ có qui định này, theo vị sư cả là để tang cho thượng đế theo truyền
thuyết.
Ở bên ngoài, mọi nhà đều đã chuẩn bị mâm
cồ để chờ các tu sĩ đến làm lễ. Thực ra đây là nghi lễ để các gia đình mời người
quá cố, nguồi thân đến vui tết( Gọi là tết Ra) trong thôn xom, mọi nhà, mọi người
vui vẻ ăn tết, không khí phấn khởi như lễ “ Kinh hội xoay vòng” mở đầu qui trình
lễ hội Ramưwan cách đó khoảng 6 tháng.
CHƯƠNG 3:
Bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa của lễ hội Ramưwan
3.1 Những giá trị văn hóa của lễ hội:
Lễ hội Ramưwan là sản
phẩm văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Chăm bà ni , cũng đồng thời là
tài sản chung là môt bộ phận của văn hóa việt nam . Những đặt trưng cơ bản chỉ
riêng của Ramưwan trong lĩnh vực văn hóa – tôn giáo đã tạo nên một diện mạo và
bản sắc văn hóa của một bộ phận người chăm . Đây chính là nội dung văn hóa phi
vật thể , từ trong chiều dày lịch sử , chiều sâu của văn hóa cộng đồng đã kết
tinh cao những giá trị mang bản sắc văn hóa dân tộc Nhờ đó tuy lễ hội diễn ra một
năm một lần nhưng đã diễn tả đầy đủ những nội dung cần thiết , chuyển tải những
lượng thông tin lớn giữa con người với thế giới thần linh trong đó có tổ tiên ông
bà , cũng là dịp mọi người truyền đạt tình cảm với nhau , trao đổi công ăn việc
làm , giao hòa với quá khứ và hiện tại .
Lễ hội Ramưwan giữ
một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người chăm
Bàni, là một trong hai lễ hội lớn nhất và chính thống của người Chăm từ bao đời
nay. Lễ hội Ramưwan khi người Chăm tiếp nhận , họ cải biên thành lễ hội mang bản
sắc của riêng mình .Do vậy lễ Ramưwan của người Chăm không chỉ chay niệm , đọc
kinh cầu nguyện thánh Alla một ngày 5 lần mà nó còn kết hợp với lễ cúng gia tiên
, tục dâng gạo , lễ cúng nữ thần giáng thế – một tín ngưỡng bản địa lâu đời của
người Chăm . Hơn thế nữa , trong lễ hội còn chấp nhận cho các tín đồ múa hát –
một loại hình sinh hoạt văn hóa khó có thể chấp nhận trong luật của hồi giáo nhưng
cuối cùng cũng hội nhập vào lễ Ramưwan . Những yếu tố trên đã kết hợp , dung hòa
lại với nhau tạo cho lễ Ramưwan trở thành một lễ hội đặc sắc của người Chăm , góp
phần làm phong phú và đa dạng sắc màu độc đáo của lễ hội Chăm .
Do đó quan điểm của
Đảng và nhà nước về chính sách dân tộc. Bảo tồn, lưu giữ những giá trị
của lễ hội đã trở thành truyền thống và bản sắc văn hóa của người Chăm nói
chung và trong lễ hội Ramưwan đã là ý thức và việc làm của nhiều thế hệ người
Chăm trong nhiều thế kỷ qua. Từ sau ngày giải phóng quê hương, thống nhất đất nước
Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, đường lối để khôi phục các di tích lịch
sử văn hóa dân tộc , lễ hội truyền thống , tín ngưỡng , dân gian , đồng thời đầu
tư ø phát triển kinh tế- văn hóa xã hội trên nhiều lĩnh vực , trong đó có những
chủ trương, đường lối chương trình mục tiêu cụ thể đối với đồng bào các dân tộc
ít người, đặc biệt quan tâm đến việc duy trì và phát triển văn hóa vật thể và
phi vật thể., góp phần xây dựng nền văn hóa việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng.
3.2. Một số vấn đề cần bàn về lễ hội:
Trong các nghi lễ của
qui trình lễ hội Ramưwan tất cả đều đã được biến thể không còn những yếu tố
mang nguồn gốc ngoại nhập, do điều kiện tự nhiên và xã hội chi phối. Đơn thuần
lúc đầu là các yếu tố tôn giáo, dần dần đã được chuyển hóa cho phù hợp vơí quan niệm, phong tục tập
quán, tâm lý của người Chăm bản địa, đó cũng là qui luật tiếp biến tự nhiên, khách
quan, không thể khác được. Càng về sau các yếu tố nguyên gốc của Hồi giáo nhạc
dần và đã mang những nét biểu hiện đặc trưng của văn hóa Chăm trong hoạt động của
Chăm Bàni và trong diễn trình của lễ hội Ramưwan. Do vậy trong một nghi lễ thường
có sự pha lẫn giữa giáo luật Hồi giáo với các phong tục tập quán văn hóa ở địa
phương, sự thích nghi này rất có lợi cho tu sĩ, tín đồ, do vậy được nhiều người
quan tâm hưởng ứng. Một số nghi lễ được rút ngắn về thời gian và giảm tối thiểu
về vật chất cần phải có cho nghi lễ đó, mục đích cuối cùng là đạt được những ước
nguyện của mỗi tín đồ và nhẹ nhàng cho tín đồ về cả hình thức và nghi lễ.
Thực trạng :
Dẫu vẫn còn những yếu tố trong một số nghi lễ của lễ hội như vế thời gian còn
quá dài nhất là trong tháng Ramưwan hay vẫn còn quá nhiều phiền phức theo qui định
của giáo luật, như mỗi lần chuẩn bị chuyển qua một lễ khác phải làm lễ tẩy thể,
các tu sĩ những người lớn tuổi phải tắm quá nhiều lần trong đêm, trời lạnh dễ ảnh
hưởng đến sức khỏe, một vấn đề nữa là quá phiền phức về việc chuẩn bị đồ ăn thức
uống cho người thân của mình là tu sĩ ở trong thánh đường nhưng đó là những vấn
đề thuộc về tôn giáo dù đã biến thể và giảm đi nhiều nhưng dù sao đó lại là những
vấn đề quá phiền toái mà tu sĩ hay tín đồ,
người thân của tu sĩ phải gánh chịu cho tròn việc đạo. Vì xét đến cùng chính là
cái tâm và lòng trung thành của mỗi người
với thượng đế chứ phải là của cải vật chất, cũng không phải thời
gian của buổi lễ kéo dài. Theo qui định của giáo luật các vị tu sĩ phải ở trong
thánh đường một tháng và kiên cử rất nhiều . Nhưng thực tế các tu sĩ ban ngày về
nhà làm công việc chiều mới vào thánh đường , bữa ăn phải có bia và các món cấm
ky, mặt khác trong tháng Ramưwan người thân trong gia đình phải đảm nhận các công
việc đồng án, có gia đình các vị chức sắc là lao động chính,do dó người thân phải
lo kinh phí chi tiêu , lễ hội và phục vụ tu sĩ chức sắc , cho nên tốn kém rất
nhiều ở mỗi gia đình làm hạn chế sự phát triển kinh tế gia đình .
Trong qui trình lễ
hội diễn ra trong phần lễ Và ha, lễ chỉ diễn ra trong vòng một đêm, 2 ngày ngoài
thông lệ đọc kinh cầu nguyện thánh thần phù hộ cho trần thế, theo giờ giấc qui định
ngày đêm trong thánh đường, còn lại là tục liên hệ đến mục đích của lễ Và ha là
việc để tang cho thượng đế theo truyền thuyết theo tinh trên, ngày đó các giáo
sĩ ở mọi cấp đều mặc y phục màu trắng, vật lễ là 2 con gà cũng phải lông màu trắng,
khi đọc kinh xong thì các tu sĩ điều tháo tua có hoa văn màu sắc trên mũ lễ gọi
là Kalah thể hiện qui trình lễ hội Ramưwan đã kết thúc. Đặc biệt trong thời
gian này, toàn bộ người Chăm trong đó có Bàlamôn trong khu vực cũng phải kiên cử
sát sinh. Trong người Chăm ngày thánh lễ(Suk) không được thực hiện hỏa táng. Do
đó có trường hợp tang lễ phải kéo dài nhiều ngày, có gia đình thiếu điều kiện để
tổ chức hoạt lý do khác phải mang chôn tạm, sau bóc lên làm hỏa tán.các quy định
nghi thức lễ hội Ramưwan và nhiều nghi lễ khác trong năm do đó ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển kinh tế gia đình .
Tuy nhiên, đó chỉ là những kết quả bước đầu để
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Chăm theo đúng tinh thần xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với nền văn hóa
Việt Nam đương đại, vẫn còn nhiều điều trăn trở, trước hết phải thấy rằng một số
địa phương có đông người Chăm sinh sống việc thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và các lễ hội của đồng bào Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni vẫn còn
nhiều việc cần phải bàn, cái gì tốt thì nên giữ lại cái gì không phù hợp thì nên
loại bỏ dần, ví dụ: như việc tang lễ, tuy đã tiến bộ về mặt rút ngắn thời gian
tổ chức nhưng vần đề vệ sinh môi trường vẫn chưa đảm bảo, việc cưới xin vẫn còn
có những nơi xảy ra nạn tảo hôn, thách cưới tổ chức ăn uống linh đình, lễ cúng
gia tiên của một số tộc họ hình thức còn rườm rà, chi phí vật chất hàng năm cho
tập tục vẫn rất tốn kém, là gánh nặng kinh tế của mỗi gia đình.
Những
vấn đề thực trạng ở địa phương . Để thực hiện chỉ thị 27/CT của Bộ Chính trị TW
Đảng, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc “ vận động xây dựng nếp sống văn
minh trong việc tang, việc cưới, lễ hội”. Được sự chỉ đạo của UBND Huyện Bắc Bình
, ngành Văn hóa và Thông tin huyện vừa
qua phối hợp với UBMT huyện tổ chức hội
thảo chuyên đề việc tang, việc cưới, lễ hội trong đồng bào các dân tộc Kinh, Chăm,
Nùng, Hoa, Rắclay, K’Ho.trên địa bàn Huyện
Với
sự tham gia các đồng chí lãnh đạo Tỉnh , Huyện các ban ngành , các nhà nghiên cứu
, các nhân sĩ trí thức, chức sắc tôn giáo già làng của các dân tộc .Hội thảo đi
sâu thảo luận về nội dung bản khảo sát thực
trạng về tang , cưới ,lễ hội của các dân tộc tốn kém về kinh phí vật chất ,thời
gian , vệ sinh môi trường . Đồng thời thảo luận dự thảo quy chế cuộc vận động xây
dựng nếp sống văn minh trong việc tang, việc cưới, lễ hội do ngành Văn hóa và Thông tin biên soạn.
Qua
hội thảo ở từng thành phần dân tộc, các đại biểu đều có chung quan niệm cơ bản
thống nhất các phần nguyên tắc chung vận động thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, tang, lễ hội. Hội thảo đã đi sâu giới thiệu những nét đẹp cũng như các
mặt lạc hậu, mê tín dị đoan, đồng thời định hướng cụ thể phương hướng tích cực cần thực hiện văn
minh hơn trong việc tang, cưới, lễ hội của từng dân tộc góp phần xây dựng con
người mới theo xu thế xã hội phát triển .
.
3.3/ Kiến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng lễ hội:
Kiến nghị :
Trở về cội nguồn là bản chất đồng thời là giá trị văn hóa và lịch sử của lễ hội
là nhu cầu vĩnh hằng của con người. Đặc biệt khi quá trình giao lưu văn hóa và
vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng quan trọng, thì việc
trở lại với cội nguồn tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng và nguồn gốc văn hóa dân tộc
chính là biểu hiện giá trị văn hóa cũng như tính nhân bản của hoạt động lễ hội.
Những giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền giống về tính chất, nhưng lại khác về
yêu cầu và mức độ biểu hiện ở từng lễ hội, từng môi trường xã hội, từng thời đoạn
lịch sử, từng biểu hiện cụ thể bên tron lễ hội. Lễ hội cổ truyền đang phục hưng
và đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của con người. Do đó việc tìm hiểu lễ hội cổ
truyền, chọn lọc, phát huy, nâng cao các giá trị văn hóa tiêu biểu của nó nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày nàng cao và đa dạng của con người thời đại mới, là một việc làm
rất cần thiết.
Lễ
hội tôn giáo hay lễ hội dân gian tín ngưỡng là dịp con người tự ngẫm nghĩ tu thân
hướng về làm việc thiện , điều nhân văn nhân
đứcvà cũng là dịp để tộc người hoàn thiện những nét văn hóa tinh thần thông
qua việc thưc hiện lễ nghi và các bài khấn niệm thần linh , tổ tiên phù hộ về đời
sống vật chất và tinh thần . Mặt khác lễ hội cũng là nơi giao lưu học hỏi ,
trao đổi ( phần hội ) và tham gia các
phong trào văn hóa văn nghệ –thể thao qua
những ngày lao động mệt nhọc để cùng chung vui với xóm làng trong ngày hội .
Nhà Nước tôn trọng tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của dân,phát huy lòng tôn kính đến tổ tiên ông bà những người
có công xây dựng đất nước bảo đảm cho các
tôn giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp luật nghiêm cấm xâm phạm
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, thực hiện nhất quán chính xác đại đoàn kết
dân tộc. Khuyến khích ý tưởng công bằng bác ái, hướng thiện. Trong tôn giáo, đồng
thời tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan, chống việc lợi dụng tôn
giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu.Tuy nhiên lễ hội cũng cần xem xét
trên nhiều phương diện , điều kiện , phương tiện , thời gian và hiệu quả theo nếp
sống văn minh tiến bộ .
Chăm lo phát triển kinh tế xã hội giúp đỡ đồng
bàodân tộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe xây dựng môi
trường văn hóa thức hiện tốt trách nhiệm công dân đối với tổ quốc.
Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của ,các dân tộc
đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ đồng
bào dân tộc học tập, hiểu biết và sử dụng
thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện bồi dưỡng tổ chức lực
lượng sáng tác, sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân tộc nghệ thuật . Xây dựng nếp sống
văn minh, gia đình văn hóa, thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế xã hội,
giảm tỷ lệ hộ nghèo, cải thiện đời sống , xóa mù chữ,nâng cao dân trí, xóa bỏ hủ
tục lạc hậu.
Xét trên nhiều phương diện, trong suốt thời gian diễn ra
các nghi lễ của lễ hội Ramưwan thì nơi nào, lúc nào tính cộng đồng vẫn bao trùm.
Nếu không có sự chung sức của nhiều người thì không thể hoàn tất được bất kỳ một
nghi thức nào chứ chưa nói đến một nghi lễ. Nhờ đó, thông qua lễ hội tính cộng đồng
thể hiện rõ hơn, sự thương yêu đùm bọc nhau cũng được phát huy, tình làng nghĩa
xóm được tăng cường.
Đề
nghị các cấp chính quyền, phối hợp các ngành chức năng nghiên cứu khảo sát về
phong tục tập quán của người chăm về nghi thức tang, cưới lễ hội. Tham khảo các ý kiến của già làng , các
vị chức sắc đạo giáo , đồng thời tổ chức hội thảo chuyên đề khoa học lấy ý kiến nhân dân , già làng các vị chức sắc
đạo giáo để đi đến thống nhất chung , đảm bảo được nét văn hóa về phong tục tập
quán mang tính bảo tồn và phát triển .
Kết luận:
Mỗi dân tộc đều có những lễ hội văn hóa, lễ hội tôn giáo
hay những lễ hội truyền thồng của riêng mình, lễ hội có yếu tố cấu thành về nguồn
gốc, thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức… và mỗi lễ hội đều mang màu sắc văn
hóa, tôn giáo khác nhau tạo nên đặc trưng về bản sắc của dân tộc đó.
Với người
Chăm ngoài một nền văn hóa chung rất phát triển từ hàng ngàn năm trước lại có
nhiều lễ hội văn hóa, tôn giáo rất khác biệt nhau về mọi mặt từ nguồn gốc, thời
gian cho đến cả hình thức và nội dung. Mỗi lễ hội diễn ra theo thời gian, theo
mùa trong năm hay theo giáo luật của tôn giáo đều có những mục đích, ý nghĩa khác
nhau nhưng chung qui lại tất cả đều phục vụ lợi ích của nhân dân, cho cuộc sống
văn hóa tinh thần của nhiều thế hệ, được lưu truyền từ đời này qua đời khác và được
nhân dân yêu quý, gởi vào thế giới tâm linh huyền bí đó tâm linh và niềm tin của
mình. Trong đó có lễ hội Ramưwan của người Chăm Bàni có nguồn gốc từ bên ngoài
du nhập vào, được người Chăm vận dụng vào hoàn cảnh thực tế để sáng tạo ra nhiều
nghi lễ phù hợp với điều kiện môi trường xã hội của họ. Mặc dù được tiếp thu
nguyên vẹn ban đầu, nhưng ngày càng được cải biên trên nhiều lĩnh vực kể cả về thời gian, hình
thức, nội dung phù hợp với điều kiện sinh hoạt của mỗi tín đồ và không ảnh hưởng
lớn đến cái chung của nền văn hóa dân tộc có từ lâu đời. Và chính những cái khác
biệt đó đã kết thành các giá trị văn hóa trong tôn giáo như đi, đứng, trang phục,
hình thức và nội dung của các nghi lễ, cách thức tiến hành… Hoàn toàn khác với
giáo luật và rõ ràng nó đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của người Chăm
Bàni.
Để phân tích
vì sao lại có sự khác nhau đó khi điểm xuất phát ban đầu là cùng một tôn giáo,
phải có nhiều thời gian nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác. Ở đây trong lĩnh vực
lễ hội Ramưwan, tôi chỉ dừng lại trên gốc độ của văn hóa “ phi vật thể” để nghiên
cứu về đề tài, nội dung, giá trị cùa văn hóa dân gian trong tôn giáo và tôn giáo
trong văn hóa truyền thống của từng nghi lễ, chútrọng đi sâu vào các yếu tố
nguyên gốc được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Lễ hội Ramưwan
là sản phẩm văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Chăm Bàni, cũng đồng thời
là tài sản văn hóa chung là một bộ phận của văn hóa Việt Nam . Những đặt trưng cơ bản chỉ riêng
của Ramưwan trong lĩnh vực văn hóa – tôn giáo đã tạo nên diễn mạo và bản sắc văn
hóa của một bộ phận người Chăm. Đây chính là nội dung của văn hóa phi vật thể,
từ trong chiều dày của lịch sử, chiều sâu của văn hóa cộng đồng đã kết tinh cao
những giá trị mang bản sắc văn hóa dân tộc. Nhờ đó dung cần thiết, chuyển tải
những lượng thông tin lớn giữa con người với thế giới thần linh trong đó có tổ
tiên , ông bà , cũng là dịp để mọi người truyền đạt tình cảm với nhau .Lễ hội
Ramưwan giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của
người chăm Bàni ở huyện Bắc Bình –Bình Thuận . Đang được bảo lưu và thực hiện hàng
năm của đồng bào Chăm Bàni huyện Bắc Bình .
Tài liệu tham khảo
- Phan An( 1992),“ Tượng kút người Chăm”, Kỷ yếu hội thảo kinh tế Chăm, Viện đào tạo
mở rộng Thành Phố Hồ Chí Minh
- Phan An(
chủ biên) (1994), Những vấn đề dân tộc tôn
giáo ở miền nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
- Đào Duy
Anh( 1992), Đất nước Việt Nam
qua đời, tái bản, Nxb. Thuận Hóa.
- Phan Quốc
Anh( 2002), “ Những quan niệm trong tang ma của người Chăm Bàla môn”, tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 6( 84), tr.27-31
- Toan
Aùnh( 1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam,
nếp cũ, tết, lễ, hội hè, tái bản, Nxb.Thanh niên Hà Nội.
- Aymonier
M.E.( 1891), Những người dân Chàm ở tình
Bình Thuận, Paris, bản dịch của Đào Trọng Lũy.
- Nguyễn
Chí Bền (1992), văn hóa dân gian Việt nam
những suy nghĩ, Nxb. Văn hóa dân tộc Hà Nội.
- Phan Xuân
Biên ( chủ biên) (1989), Người Chăm ở Thuận
Hải, Sở văn hóa thông tin Thuận Hải.
- Phan Xuân
Biên ( 1989), “ Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Thuận Hải”, Trong người Chăm ở Thuận Hải, Sở văn hóa- Thông
tin Thuận Hải, tr. 164- 200.
- Nguyễn
Xuân Lý( 2000) “ Lễ hội Ramưwan của người
Chăm Hồi giáo cũ ở Bình Thuận”, Dự án, chương trình bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa phi vật thể.
- Phan Xuân
Biên( 1990), “ Tính đa dạng của văn hóa Chăm”, tạp chí Khoa học xã hội, số 4.
- Phan Xuân
Biên, Phan An, Phan Văn Dốp( 1991), văn hóa
Chăm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Ngọc
Canh( 1991), “ Phong tục cười của dân tộc Chăm”, tạp chí Dân tộc học, số 4.
- Lê Ngọc
Canh, Tô Đông Hải( 1995), Nghệ thuật biểu
diễn truyền thống Chăm, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Ngô Văn
Doanh( 1994), Văn hóa Chăm Pa , Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Ngô Văn
Doanh( 1998), Lễ hội Rija Nưgar của người
Chăm, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Ngô Văn
Doanh(2001), “Yang tikuh, núi đá trắng và lễ tế trâu trắng: từ truyền thống tín
ngưỡng dân gian hiện nay của người Chăm”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á, số 1.
-
Dohamide(1963), “ Vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam hiện nay”, tạp chí Bách khoa( số 146), tr.19-24.
- Phan Văn
Dốp( 1992), Tôn giáo của người Chăm ở Việt
Nam, luận án phó tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện khoa học xã hội tại Thành
phố Hồø Chí Minh.
- Phạm Đức
Dương( 2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
- Đảng cộng
sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương( 1991), Thông tin về công tác đối với đồng bào Chăm, số 3- TT/Tw.
- Bố Xuân
Hổ,(1977), “ Tín ngưỡng tượng kút ở vùng Chàm Thuận Hải”, tạp chí Dân tộc học, số 4.
- Văn Đình
Hy( 1979), “ Quá trình chuyển hóa từ Pô Inư Naga( Chăm) đến thiên Y ana( Việt)”,
tạp chí Văn học, số 6.
-
Inrasara(1999), các vấn đề văn hóa xã hội
Chăm, Nxb.Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Vũ Ngọc
Khánh( 2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ,
Nxb.Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Phan Lạc
Tuyên( 1977), “ Góp phần tìm hiểu người Kinh- Cựu ở vùng Chàm Thuận Hải”, tạp
chí Dân tộc học, số 3.
- Phan Lạc
Tuyên( 1990), “ Nông nghiệp cổ truyền của người Chăm ở Thuận Hải”, tạp chí Dân tộc học, số 1.
- Vương Hoàng
Trù( 2003), Tín ngưỡng dân gian của người
Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, Luận án tiến sĩ, Viện khoa học xã hội tại
Thành phố Hồ Chí Minh.