Nguyễn Xuân Lý
Không phải sau giải phóng chúng ta mới
nghiên cứu về văn hóa Chăm, mà ngay từ những thập niên cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX cho đến trước năm 1945 các nhà khoa học Pháp đã đến những địa bàn cư
trú của người Chăm để nghiên cứu về sử học, di tích kiến trúc, khảo cổ học, tôn
giáo, phong tục tập quán…
Một số công trình đã được công bố kết quả từ quá
trình khảo sát và nghiên cứu của các tác giả như A.Cabaton, L.Finot, G.Maspero,
H.Parmentier, E.Aymonier… dân tộc Chăm lược sử của Dohamide và Dorohiem (Sài
Gòn, 1965), Mẫu hệ Chăm của Nguyễn Khắc Ngữ (1967) và một số các công trình
nghiên cứu khác. Do đang trong thời gian chiến tranh, mặt khác chính
quyền cũ không quan tâm đến đời sống cũng như những vấn đề khác thuộc các lĩnh
vực văn hóa, nghệ thuật hoặc nếu có thì hầu hết cũng đều bị khúc xạ qua lăng
kính chính trị.
Sau giải phóng,
văn hóa Chăm được Đảng và Nhà nước ta chú trọng quan tâm, thể hiện bằng nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế ở từng địa bàn
có người Chăm sinh sống, từ việc phục hồi và phát triển kinh tế đến việc ổn
định để xây dựng và phát triển văn hóa – xã hội. Trong đó lĩnh vực văn hóa được
ưu tiên chú ý phát triển trên nhiều phương diện khác nhau. Sự quan tâm này được
nhân rộng từ Trung ương đến các ban ngành ở địa phương, trong đó ngành Văn hóa
đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Chăm
ở Bình Thuận.
Sau khi có Chỉ thị số 121-CT/TW ngày 26-10-1981 của Ban Bí thư
Trung ương về công tác đối với đồng bào Chăm ra đời, với chủ trương “Có kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy
vốn văn hoá dân tộc Chăm, trùng tu các ngôi tháp Chăm, nhất là số tháp đang ở
trong tình trạng hư hỏng; khôi phục một số trung tâm văn hoá tiêu biểu của đồng
bào Chăm; tiếp tục thực hiện việc dạy chữ Chăm cổ; Khuyến khích phong trào văn
nghệ quần chúng, nhất là ở cơ sở, đầu tư củng cố, xây dựng đoàn văn nghệ Chăm
không chuyên đang hoạt động”. Từ đây công tác nghiên cứu khoa học đối với
văn hóa Chăm được đầu tư thực hiện, trên các lĩnh vực của đời sống văn hóa-xã
hội, tạo nên một luồng sinh khí mới, sống động.
Về văn hóa nghệ thuật, cùng lúc chúng ta đã
tiến hành nghiên cứu khoa học trên cả hai lĩnh vực: văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể. Có thể điểm lại những công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa và
nghệ thuật 40 năm qua.
Về
văn hóa vật thể
Có thể thấy đó là những thành tựu nổi bật
so với trước giải phóng. Bắt đầu từ 1982, với sự quan tâm của Chính phủ Ba Lan
đã cử nhiều đoàn chuyên gia có trình độ tay nghề cao và đã từng tu bổ, phục hồi
nhiều di tích cổ ở các nước châu Âu, châu Á như TS-KTS.Kazit, Ukar... Ở Việt
Nam thì có các chuyên gia được đào tạo tại Ba Lan, Đức về tu bổ di tích cổ như
GSTS-KTS.Hoàng Đạo Kính, TS-KTS.Lê Thành Vinh, TS.Nguyễn Hồng Kiên… của Trung
tâm Tu bổ di tích Trung ương. UBND tỉnh Thuận Hải lúc đó đã rất hoan nghênh hợp
tác với đoàn chuyên gia để thực hiện việc tu bổ tôn tạo một số tháp Chăm bị
xuống cấp nghiêm trọng và đang trong quá trình sụp đổ, như nhóm tháp Po Kong
Girai, nhóm tháp Porome ở Ninh Thuận và nhóm tháp Po Sah Inư, nhóm tháp Po Dam
(Pô Tằm) ở Bình Thuận.
Đầu
tiên là chống xuống cấp tu bổ và đi đến phục hồi từng phần tháp Po Kong Girai. Từ
1982 – 1988, hàng năm từ tháng 3 – 9 trước mùa mưa, đoàn chuyên gia Ba Lan và
Trung tâm Tu bổ di tích Trung ương lại đến Phan Rang làm nhiệm vụ. Họ hướng dẫn
cho những người thợ của Công ty xây dựng số 2 (ở Thuận Hải lúc đó có 2 công ty
xây dựng, công ty xây dựng 1 ở Phan Thiết và công ty xây dựng 2 ở Phan Rang)
cách cắt gạch, mài gạch, cách xây không để lại mạch hồ… Bắt đầu gia cố nền móng
các tháp (tháp cổng, tháp nhà, tháp chính). Cái khó là không thể kiếm đâu ra
gạch Chăm to bản như ở tháp, mỗi viên nặng khoảng 10 kg, lớn gấp 5 lần viên gạch
thường và nhiều chỉ số khác. Ấy vậy mà chúng tôi được chuyên gia Ba Lan hướng
dẫn và cùng làm thí nghiệm ở lò gạch của hợp tác xã Tân Hội, khoảng vài chục
lần thí nghiệm thì thành công. Nhờ đó hàng ngàn viên gạch Chăm phục chế đủ để
tu bổ phục hồi cả nhóm tháp Po Kong Girai. Hàng chục pho tượng đá trên các vòm
tháp bị mất trước đây đều được phục hồi từ nhóm thợ điêu khắc từ Non Nước Quảng
Nam ,
để đủ lắp vào chổ thiếu… Tại nhóm tháp này năm 1983, khi đang gia cố đế tháp
chúng tôi phát hiện được 5 chiếc chén bằng vàng. Kiên trì như vậy sau 7 năm thì
cả 3 tháp trong nhóm đều được tu bổ, phục hồi và trở thành tháp Chăm đẹp nhất
trong các tháp Chăm hiện có ở Việt Nam.
Tiếp tục việc tu bổ phục hồi nhóm đền tháp Pô
Sah Inư, từ năm 1987 – 1998. Hơn 10 năm với các công đoạn như đã từng làm ở
nhóm tháp Po Kong Girai, nhưng phức tạp và khó khăn hơn, bởi nhóm đền tháp này
có niên đại sớm hơn Po Kong Girai 500 năm. Do đó các tháp ở đây cũng bị hư hại
nhiều hơn, gần như chỉ còn lại các ụ đất cao, cùng với những cây leo cổ thụ
quấn hết toàn bộ các tháp. Do vậy, ngay ở gần Phan Thiết như vậy mà ít người
biết đến ngôi tháp cổ này. Tại đây những năm 1990 – 1994 khi khai quật khảo cổ
học đã phát hiện 7 nền móng tháp và nhiều hiện vật khác có giá trị về kiến trúc
điêu khắc.
Với tháp Po Dam (Pô Tằm) ở Phú Lạc, Tuy
Phong: Công tác khảo cổ học đã đưa lại những hiểu biết mới về kiến trúc và kỹ
thuật xây dựng của người Chăm ở nhóm tháp cổ này. Trong đó quan trọng hơn cả là
việc phát hiện tấm bia đá khắc bằng chữ Phạn cổ, cho biết niên đại của nhóm
tháp là từ năm 710 sau công nguyên. Nhờ đó chúng ta biết thêm về niên đại và
một phần lịch sử xây dựng của ngôi nhóm tháp, đồng thời cũng cho chúng ta biết
thêm mối liên hệ giữa nhóm tháp này với các nhóm tháp khác trong kiến trúc và
nghệ thuật. Qua đó khẳng định tháp Po Dam là ngôi tháp cổ nhất ở miền Trung
được phát hiện chắc chắn đến thời điểm này, ngoại trừ một số kiến trúc ở Mỹ Sơn (Quảng Nam ).
Đó là những nhóm đền tháp Chăm được biết đến
trên thực địa và trên sách vở người xưa và các nhà khoa học Pháp để lại. Ngoài
ra, trong 40 năm qua Bảo tàng Bình Thuận cũng đã phát hiện thêm từ trong lòng
đất hoặc trong rừng núi thêm 11 nhóm đền tháp Chăm khác, như nhóm đền tháp Hàm
Thắng (chùa Phật nổi); cụm tháp Bàu Xuyên; cụm tháp Mương Mán; cụm tháp Hàm
Thạnh; cụm tháp Hàm Cường; cụm tháp Làng Gọ; cụm tháp Pô Ptao Yang Tôm; cụm
tháp Liêm An; cụm tháp Liêm Hòa; cụm tháp Bà Châu Rế và cụm tháp Bình Tân.
Qua nghiên cứu cho thấy, ngoài 2 cụm đền
tháp Po Dam và Po Sah Inư, ở Bình Thuận còn có 11 nhóm đền tháp Chăm mới phát
hiện như trên. Mỗi nhóm trung bình có từ 3- 4 tháp (một tháp chính và các tháp
phụ), nhưng có những nhóm tháp có đến 6 - 8 tháp, chia thành 2 nhóm như cụm
tháp Po Dam và cụm tháp Làng Gọ. Số đền tháp Chăm nhiều như vậy ở Bình Thuận
chỉ xếp sau Mỹ Sơn (Quảng Nam), nhưng không tập trung trong một thung lũng như
Mỹ Sơn mà rãi rác ở các vùng rừng núi của huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Nam và Hàm
Thuận Bắc.
Về
văn hóa phi vật thể
Song song với quá trình tu bổ, tôn tạo và
nghiên cứu phát hiện các di tích Chăm cổ, việc nghiên cứu văn hóa, lịch sử phát
triển tộc người và mối quan hệ giao lưu văn hóa cũng được đầu tư nghiên cứu.
Trước hết phải kể đến những công trình nghiên cứu khoa học trong 40 năm sau
giải phóng của các nhà khoa học: Người Chăm ở Thuận Hải (1989) của nhiều tác giả;
văn hóa Chăm (1991) của Phan Xuân Biên, Phan An và Phan Văn Dốp; văn hóa Chămpa
(1994) của Ngô Văn Doanh, vương quốc Champa (2006) của GS Lương Ninh…
Nhằm giữ gìn và
phát huy giá trị lịch sử, văn hóa từ trong lễ nghi, lễ hội của người Chăm, công
việc nghiên cứu đã được tiến hành nhiều thời gian liên tục với nhiều thể loại
khác nhau. Từ văn hóa dân gian, tín ngưỡng, lễ nghi, lễ hội, làng nghề... được
phục dựng và phát huy những đặc trưng cơ bản của văn hóa Chăm. Những nghiên cứu
khoa học bước đầu đã đem lại những kết quả rất đáng khích lệ và được nhân dân
đồng tình, ủng hộ, đóng góp thêm nhiều tư liệu cũng như kinh nghiệm quí báu. Ngành văn hóa trong chương trình bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể hay các công trình nghiên cứu
khoa học cấp tỉnh, đã thực hiện được những công trình nghiên cứu sau đây:
Các công trình khoa học công nghệ
Các
đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp tỉnh gồm những đề tài sau: Đề
tài “Sưu tầm, nghiên cứu di tích lịch sử - văn hóa Chăm phục vụ bảo tồn và phát
triển du lịch văn hóa tỉnh Bình Thuận (năm 2005 - 2006)”, Đề tài “Nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đảo Phú Quý phục vụ phát triển du
lịch (năm 2005 - 2007)”, Đề tài “Sưu tầm,
bảo tồn và phát huy giá trị truyện cổ dân gian Chăm trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận. (2010 – 2012)”, Đề tài “Nghiên cứu luật tục của đồng bào dân tộc
thiểu số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống văn hóa cơ sở
tỉnh Bình Thuận (2012 – 2014)”.
Các đề tài thuộc chương trình mục tiêu Bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch:
Lễ hội Ramưwan của người Chăm Hồi giáo Bình Thuận
(1999 - 2000); Đám cưới của người Chăm Hồi giáo cũ ở Bình
Thuận (2001); Nghề gốm truyền thống của
người Chăm Bình Đức huyện Bắc Bình (2004); Phục dựng lễ hội Katê của
người Chăm Hàm Thuận Bắc tại tháp PôSahInư (2005); Nghiên cứu làng nghề dệt của
người Chăm Bình Thuận (2010); Kiểm kê khoa học di sản lễ hội của người Chăm
tỉnh Bình Thuận (2012 - 2013).
Các đề tài này đều do Bảo tàng Bình Thuận thực hiện.
Về
văn hóa nghệ thuật
Trên lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp, nhiều tác phẩm múa dân gian và cung đình Chăm đã được NSND Đặng Hùng,
NSƯT Thu Vân tiếp thu từ các nghệ nhân rồi cải biên, nâng cao và cho ra đời
nhiều tiết mục hết sức độc đáo và đặc sắc. Có thể kể ra đây một số tác phẩm
tiêu biểu được giới chuyên môn cả nước đánh giá cao, được cộng đồng người Chăm
thừa nhận như: bộ ba tác phẩm Ước mơ, Khát vọng, Niềm tin của NSND Đặng Hùng;
các tác phẩm Huyền thoại Baghavati, Khát vọng sinh tồn, Tình làng gốm của NSƯT
Thu Vân. Kịch hát Lửa tình yêu của soạn giả kiêm đạo diễn Hải Liên và nhiều
công trình khác đã góp phần thiết thực mở ra một phương hướng mới nhằm bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa quý báu của dân tộc Chăm ở Bình Thuận.
Từ chổ chỉ có các
nhóm múa và dân ca hình thành tự phát trong các thôn xóm, đến nay đã có đoàn ca
múa nhạc dân gian dân tộc Chăm ở tỉnh và đoàn nghệ thuật không chuyên dân gian
Chăm ở huyện Bắc Bình, kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu bảo tồn
cũng như thưởng thức nghệ thuật của nhân dân.
Đến nay đã có 5 di tích Chăm được thiết lập
hồ sơ khoa học và đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp
quốc gia. Đó là các di tích: nhóm đền tháp Pô Sah Inư, Po Dam; đền thờ Pô Klong
Mơh Nai và bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm, đền thờ Pô Nit, đền thờ
công chúa Bàn Tranh và 01 di tích được xếp hạng
di tích cấp tỉnh: đền thờ Po Nrop và trong năm 2015 sẽ là đền thờ Po Klaong
Kasat. Ngoài ra công trình nghiên cứu về làng nghề gốm ở Bình Đức xã Phan Hiệp
huyện Bắc Bình lần đầu tiên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia ở cả khu vực phía Nam.
Như vậy, sau 40 năm giải phóng trên các
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật Chăm đã được nhà nước quan tâm và đầu tư nghiên
cứu, cùng với sự góp sức sáng tạo của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu nghệ
thuật trong và ngoài tỉnh chuyên sâu vào từng lĩnh vực cụ thể của đối tượng văn
hóa, xã hội Chăm để phục vụ cho việc xây dựng và phát triển văn hóa cơ sở. Những
công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ là bắt đầu, là cơ sở để hệ thống lại
nhằm tạo đà cho công việc về sau. Công cuộc nghiên cứu tiếp tục để tìm hiểu về
lịch sử, văn hóa của tổ tiên, một mặt phát huy các yếu tố tích cực phục vụ đời
sống văn hóa của người dân, mặt khác từng bước xóa bỏ những hủ tục lạc hậu
trong văn hóa nhằm nâng cao đời sống văn hóa của đồng bào Chăm.
Thời gian tới
cùng với việc thực hiện Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy, Nghị quyết 5 khóa VIII và Nghị
quyết 9 khóa XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, chắc chắn văn hóa Chăm ở
Bình Thuận sẽ được đầu tư nghiên cứu khoa học cũng như đầu tư kinh phí đúng trọng
điểm trên nhiều lĩnh vực, trong đó các loại hình di tích lịch sử văn hóa được
chú trọng hơn cả về kinh phí và phương pháp bảo vệ, quản lý, phát huy tác dụng,
phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, trước hết là cho người Chăm ở
địa phương.