ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BÁC ÁI
ĐỀ ÁN
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC RAGLAI GẮN VỚI XÂY DỰNG KHÔNG GIAN VĂN HÓA RAGLAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÁC ÁI GIAI ĐOẠN 2025 – 2030 TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050
HUYỆN BÁC ÁI – 2025
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BÁC ÁI
ĐỀ ÁN
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC RAGLAI GẮN VỚI XÂY DỰNG KHÔNG GIAN VĂN HÓA RAGLAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÁC ÁI GIAI ĐOẠN 2025 – 2030 TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050
Đơn vị tư vấn: Viện Khoa học, Giáo dục Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Thành viên thực hiện:
PGS. TS. Phan Quốc Anh (Chủ nhiệm)
TS. Nguyễn Hồ Phong (Thư ký)
Ths. Nguyễn Trần Bảo Trinh (Thành viên)
TS. Lê Anh Vân (Thành viên chính)
TS. Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (Thành viên)
Ths. Lê Thành Vinh. (Thành viên)
HUYỆN BÁC ÁI – 2025
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1. SỰ CẦN THIẾT LẬP ĐỀ ÁN
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1. Tổng quan nghiên cứu
2.2. Cơ sở lý luận
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.4. Cơ sở pháp lý
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.2. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ ÁN
1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA CỦA HUYỆN BÁC ÁI
1.1. Những thành tựu
1.2. Những hạn chế tồn tại
2. DỰ BÁO XU THẾ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA HUYỆN BÁC ÁI TỪ NAY ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN 2045
2.1. Cơ hội và tiềm năng
2.2. Khó khăn và thách thức
3. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
3.1. Quan điểm xây dựng Đề án
3.2. Mục tiêu xây dựng Đề án
3.2.1. Mục tiêu tổng quát
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
4. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
4.1. Về văn hóa vật thể
4.1.1. Thiết kế, xây dựng nhà sàn truyền thống
4.1.2. Nghề thủ công truyền thống
4.1.3. Sưu tầm hiện vật lịch sử văn hóa và lịch sử cách mạng
4.2. Về văn hóa phi vật thể
4.2.1. Về tín ngưỡng, tôn giáo
4.2.2. Lễ hội truyền thống
4.2.3. Âm nhạc dân gian
4.2.4. Trang phục truyền thống
4.3. Nghiên cứu khoa học
4.3.1. Mục tiêu
4.3.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.3.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
4.4. Phát huy văn hóa trong phát triển du lịch
4.4.1. Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng
4.4.2. Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa ẩm thực dân tộc Raglai
4.4.3. Tổ chức lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai
4.4.4. Đầu tư xây dựng không gian văn hóa Raglai tại khuôn viên nhà truyền thống huyện và trung tâm văn hóa, thể thao và truyền than
4.4.5. Số hóa tư liệu văn hóa truyền thống Raglai, thực hiện truyền thông quảng bá văn hóa Raglai trong phát triển du lịch
5. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
5.1. Tăng cường sự quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai xây dựng và thực hiện đề án
5.2. Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong cán bộ và nhân dân huyện Bác Ái
5.3. Vận dụng cơ chế đặc thù, vận dung các chính sách, đầu tư cho lĩnh vực bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số của các Bộ, Ngành Trung ương và UBND tỉnh Ninh Thuận
5.4. Quy hoạch về phát triển văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn huyện gắn với bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
5.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
5.6. Truyền thông, quảng bá và thúc đẩy giao lưu hội nhập văn hóa
5.7. Nhom giải pháp về đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo an toàn xã hội về hoạt động văn hóa, du lịch cộng đồng.
5.8. Nhóm giải pháp về xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao, sử dụng ngân sách các Sở Ngành liên quan trong triển khai thực hiện đề án.
6. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
7. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT LẬP ĐỀ ÁN
Bác Ái là huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Thuận, được thành lập năm 2000. Huyện có ranh giới hành chính giáp với một số địa phương của tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa. Từ những ngày đầu tái lập huyện đến nay đã 24 năm, các ngành, các cấp đã tập trung nguồn lực để xây dựng cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế; chăm lo cái ăn, cái mặc, lo chỗ ở che nắng che mưa cho nhân dân. Nhờ đó, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân huyện Bác Ái không ngừng được cải thiện cùng với sự phát triển chung của đất nước, cũng như của tỉnh Ninh Thuận. Tuy nhiên, so với các huyện khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, Bác Ái vẫn là huyện còn nhiều khó khăn nhất, nhất là đời sống của người dân tộc thiểu số, trong đó có người Raglai.
Raglai là một tộc người thiểu số sinh sống ở sườn Đông cuối dãy Trường Sơn các tỉnh cực Nam Trung bộ gồm Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Người Raglai cư trú đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (trên 50%) [Phan Quốc Anh, 2010, tr. 1]. Trong đó, huyện Bác Ái là địa phương có đông người Raglai nhất Việt Nam với tổng dân số hơn 28.000 người (Tính đến năm 2024). Sau hàng trăm năm định cư, lao động sản xuất, cộng đồng người Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái đã sáng tạo nên kho tàng văn hóa hết sức phong phú, độc đáo, trở thành nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc nơi đây, đáng chú ý, như: Nghi lễ nông nghiệp; Nghi lễ vòng đời; âm nhạc - nghệ thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật diễn tấu, hòa tấu Mã la của người Raglai; nhạc cụ truyền thống: Đàn đá, trống lớn, trống nhỏ, mã la, các loại đàn chế từ lồ ô (tre, nứa); nghề thủ công truyền thống: Làm rựơu cần, nghề rèn các công cụ sản xuất và nghề đan lát và chế tác các loại nhạc cụ…; các bài thuốc cổ truyền, ẩm thực, nhà sàn truyền thống; trang phục, trang sức truyền thống, chữ viết,… Có thể nói sắc thái văn hóa rừng núi và tín ngưỡng bản địa thể hiện đầy đủ trong văn hóa vật thể và phi vật thể lâu đời và phong phú của dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái.
Sự phong phú của kho tàng tài nguyên văn hóa truyền thống của người Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái đã giúp huyện Bác Ái có những sắc thái văn hóa tộc người độc đáo. Bên cạnh đó, huyện Bác Ái còn có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử cách mạng, làng nghề truyền thống, v.v... Xét ở góc độ kinh tế văn hóa, kho tàng tài nguyên nhân văn đó đã mở ra những cơ hội phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác các tài nguyên văn hóa, điển hình là du lịch văn hóa-du lịch cộng đồng. Sự lựa chọn phát triển du lịch không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế mũi nhọn của quốc gia, mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa tộc người, tạo động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững kinh tế, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện Bác Ái.
Tuy nhiên, thực tế là đời sống của bà con nhân dân huyện Bác Ái nói chung, cộng đồng người dân Raglai nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn về kinh tế. Hơn nữa, những năm gần đây, với sự hội nhập, giao lưu văn hóa đang phát triển nhanh chóng, sự phát triển như vũ bão của truyền thông toàn cầu thông qua các nền tảng mạng xã hội, văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái đang đứng trước rất nhiều thách thức. Nhiều yếu tố văn hóa truyền thống được hình thành từ ngàn đời xưa đang ngày càng mai một, nguy cơ mất dần các yếu tố truyền thống ngày càng rõ nét.
Trước thực tế trên, trong thời gian qua, Huyện ủy và UBND huyện Bác Ái đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế -xã hội địa phương, trong đó có các đề án về phát triển về bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện, mà dân tộc Raglai là điển hình. Trong chủ trương chung đó, văn hóa Raglai cũng được nghiên cứu, tìm các phương thức để bảo tồn và phát huy. Tuy vậy, sự mai một của các giá trị văn hóa truyền thống vẫn đang có chiều hướng diễn biến phức tạp. Vấn đề làm thế nào để níu kéo sự mất mát, mai một của văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong giai đoạn phát triển hiện nay đang là vấn đề nóng hiện nay, trong đó có văn hóa Raglai. Huyện Bác Ái có thể được xem là “bảo tàng sống” cho nhiều biểu đạt văn hóa truyền thống của người Raglai ở tỉnnh Ninh Thuận, là chiến khu VI anh hùng. Vì vậy, chúng ta cần có giải pháp để đạt được mục tiêu kép: Vừa bảo tồn được những thành tố văn hóa truyền thống, vừa phát huy văn hóa truyền thống ấy bằng cách xây dựng văn hóa truyền thống thành những sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo. Với yêu cầu đó, việc xây dựng và thực thi Đề án “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Raglai gắn với xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2024 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045” là giải pháp rất hữu ích và cần thiết.
Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc thù của dân tộc Raglai thông qua xây dựng các mô hình không gian văn hóa và phát triển cộng đồng gắn kết với phát triển du lịch nhằm tạo ra sinh kế mới, giảm nghèo đa chiều và bền vững là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị ở huyện Bác Ái, trong đó ngành giáo dục và ngành văn hóa trong sự kết nối với ngành du lịch giữ vai trò quan trọng nhất. Mặt khác, xây dựng một không gian văn hóa và phát triển cộng đồng bền vững của dân tộc thiểu số Raglai là nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống của cộng đồng người Raglai trước những tác động không mong muốn của đời sống xã hội mới đối với sự tồn tại và phát triển vững bền của các giá trị văn hóa truyền thống. Đây là công việc rất quan trọng và cấp thiết cả về lý luận và triển khai trong thực tiễn nhằm cung cấp cho dân tộc Raglai sự hiểu biết về văn hoá truyền thống đặc thù của các dân tộc mình, từ đó bồi dưỡng ý thức dân tộc, nâng cao thái độ trân trọng di sản văn hoá dân tộc và trách nhiệm đối với sự phát triển của cộng đồng và quê hương, góp phần hình thành nhân cách con người Raglai trong xã hội mới có tri thức, lối sống văn minh, hiện đại nhưng vẫn giàu bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người; hình thành những tình cảm trong sáng, cao đẹp, yêu thương, gắn bó với cộng đồng. Đây là nền tảng, động lực văn hóa vô cùng quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và bảo tồn di sản văn hóa gắn kết với phát triển du lịch nói riêng của huyện Bác Ái.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1. Tổng quan nghiên cứu
2.1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa Raglai
Nhóm công trình của tác giả nước ngoài
Những công trình sớm nhất có đề cập đến người Raglai và văn hóa Raglai đến từ các ghi chép của người Pháp trong cuộc khai thác thuộc địa của họ ở Đông Dương vào cuối thế kỷ XIX. Theo Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (trích theo phái bộ Pháp) đó là thời gian “Pháp tổ chức một số phái đoàn khảo sát địa lý và dân cư vùng Nam Trường Sơn - Tây Nguyên”. Có thể kể tới những ghi chép của phái bộ Harmand (1887) và Pavie (1891) với nhiều tư liệu về đặc điểm môi sinh, đời sống sinh hoạt các nhóm dân cư Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung nhưng tập trung nghiên cứu nhiều từ góc độ ngôn ngữ học. Tuy nhiên, miêu tả về người Raglai rất hiếm, chỉ có vài ghi chép về người “Orang glai” tức “Raglai” (Aymonier, 1885); (Brien, 1889); (Brien, 1893).
Những chuyến phái bộ tiếp tục được thực hiện vào những năm đầu thế kỷ XX (1909 - 1911), để lại thêm một số ghi chép có giá trị về người Raglai. Có thể kể đến cuốn Les Jungles Moi, Exploration et histoire des hinterlands moi du Cambodge, de la Cochinchine, de l’Annam et du Laos do Henri Maitre (1912). Công trình này cho biết “Orang Glai” là cách gọi người Raglai, có nghĩa là “Người của Rừng”, đồng thời cũng dùng cụm từ “người Mọi” để chỉ người Raglai, người Chu Ru và người K’Ho.
Công trình Les Population montagnardes du Sud – Indochinois (1950), trên trang số đặc biệt của tạp chí Pháp Á là nghiên cứu đặc biệt của Jacques Dourners (bút danh Dambo) về các dân tộc miền núi Nam Đông Dương. Dambo đã trình bày một cách tổng quan về phương thức canh tác nương rẫy, quá trình hình thành làng, hình thức hôn nhân và sự hiếu khách của người Raglai. Trong phần Các diện mạo Tây Nguyên, tác giả đã giới thiệu về sự hiếu khách của người Raglai thông qua câu chuyện về một cuộc viếng thăm của một vị linh mục đến một palei của người Raglai. Đây được coi là một nguồn tư liệu quý giá, mang lại cái nhìn chi tiết hơn về đời sống kinh tế, xã hội, và văn hóa của người Raglai trong giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Công trình Đô thị hóa và sự biến đổi văn hóa tộc người Raglai ở Việt Nam (2004) của Hoàng Văn Việt và Toh Goda (Nhật Bản) được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2005. Nghiên cứu này đã đặt người Raglai trong mối quan hệ với các nhóm dân tộc khác thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo.
Nhóm công trình của tác giả trong nước
Công trình Cao nguyên miền Thượng (1974) là những ghi chép chân thật và tình cảm về cộng đồng các dân tộc miền Trung Tây Nguyên “Thượng Kinh nguyên vốn một nhà/Mối tình huynh đệ thiết tha khôn cùng” (Cửu Long Giang, Toan Ánh, 1974). Công trình 543 trang này đã khái quát lịch sử, tự nhiên miền Thượng; nếp sống của đồng bào Thượng, trong đó khẳng định “người Raglai thuộc ngôn ngữ Malayo – Polynesien” (Cửu Long Giang, Toan Ánh, 1974, tr.21).
Từ năm 1975, các nhà nghiên cứu ngày càng có nhiều công trình về các dân tộc thiểu số nói chung và người Raglai nói riêng. Theo Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, “năm 1976, Ban Dân tộc thuộc Viện Khoa học xã hội tại TP Hồ Chí Minh tổ chức cho một số nhà nghiên cứu điền dã dân tộc học vùng Nam Trường Sơn – Tây Nguyên; trong đó có vùng mà người Raglai sinh tụ”. Một số công trình có ý nghĩa nghiên cứu hoàn chỉnh đầu tiên về người Raglai như Một số tư liệu về người Raglai (Mah Mod, 1980); Tộc người Raglai và vấn đề chủ nhân đàn đá (Phan Văn Dốp, 1981).
Công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của Viện Dân tộc học (1984) giới thiệu về người Raglai từ trang 266 - 276 nhằm lược khảo về người Raglai gồm các phần như địa bàn phân bố, hoạt động kinh tế, tổ chức gia đình, cấu trúc xã hội, nghi lễ và phong tục tập quán.
Công trình Từ biển lên ngàn (1990) của Đình Hy gồm 107 trang về mã la của người Raglai từ góc nhìn dân tộc học và trình bày những nét khái quát về người Raglai ở tỉnh Thuận Hải lúc bấy giờ. Trong đó, tác giả cũng phân tích các tác động của một số chủ trương của Đảng đến người Raglai sau năm 1975. Tác giả cho rằng “sự tiếp xúc, giao lưu mạnh mẽ về kinh tế – xã hội đã làm thay đổi bộ mặt xóm làng ở mức độ cao và “khiến họ tổ chức cuộc sống định canh, định cư, đời sống kinh tế tương đối ổn định” (tr.88).
Công trình Người Raglai ở Việt Nam (1991) của Nguyễn Tuấn Triết gồm 151 trang chia làm 3 chương nội dung làm nổi bật quá trình hình thành và những đặc trưng trong khu vực cư trú của người Raglai. Nguyễn Tuấn Triết cũng mô tả các hoạt động kinh tế của người Raglai (săn bắt và hái lượm, trồng trọt và chăn nuôi, nghề thủ công, sự trao đổi sản phẩm), tổ chức palei, cấu trúc gia đình, về văn hóa (nhà cửa, trang phục, thức ăn – uống – hút, công cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt, nhạc cụ, tín ngưỡng và lễ nghi, tri thức dân gian, văn học nghệ thuật). Theo tác giả, “mỗi yếu tố văn hóa (élément culturel) đều chứa đựng và phản ánh những khía cạnh của văn hóa vật chất (culture matérielle), văn hóa tinh thần (culture spirituelle) và văn hóa xã hội (culture sociale). Đồng thời, nó cũng phản ánh mức độ của sự tiếp xúc, giao lưu và ảnh hưởng văn hóa giữa các tộc người cộng cư.” (tr.56) Tác giả còn chỉ ra rằng “Trên cơ sở của một nền kinh tế còn đậm màu sắc nguyên thủy và tổ chức xã hội trong đó các gia đình lớn mẫu hệ đóng vai trò chính, người Raglai đã sáng tạo ra một phức hợp văn hóa khá độc đáo thích ứng với môi trường thiên nhiên nơi họ sống”. Theo đó, vùng cư trú của người Raglai chia thành hai tiểu vùng Bắc và Nam, khẳng định rằng “trước khi phân bố cư trú trên vùng lãnh thổ rộng lớn thuộc miền núi cực Nam Trung bộ, dân tộc Raglai vốn quần cư lâu đời trong vùng núi thuộc dãy Tây Khánh Hòa (thuộc địa phận miền tây tỉnh Khánh Hòa ngày nay)”. Đặc biệt, tác giả đã phân tích các biến đổi của xã hội Raglai từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến 1986.
Dự án Điều tra, sưu tầm và nghiên cứu di sản văn hóa dân gian các dân tộc Việt Nam (1994) do Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian chủ trì có chương trình “Điều tra, sưu tầm và nghiên cứu các luật tục và hương ước”. Chuyên khảo “Luật tục Raglai (Adãt panuaĩq Raglai) – song ngữ Việt – Raglai” là kết quả của chương trình, gồm 14 chương đều có miêu tả các phong tục, nghi lễ, các hiện tượng văn hóa liên quan (Nguyễn Thế Sang, 2005).
Từ năm 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII thực hiện Nghị quyết 5 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn dân tộc”, quá trình nghiên cứu văn hóa người Raglai đã có nhiều khởi sắc. Cho đến nay, số lượng các công trình nghiên cứu dân tộc này đã tương đối phong phú, bao quát được nhiều lĩnh vực, cung cấp cái nhìn khá hoàn chỉnh về văn hóa Raglai, cho thấy niềm say mê của nhà nghiên cứu đối với văn hóa Raglai - một bộ phận quan trọng trong cấu trúc văn hóa Việt Nam.
Năm 1998, công trình Văn hóa và xã hội người Raglai ở Việt Nam của Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện và Nguyễn Văn Huệ gồm có 346 trang với 6 chương được coi là công trình có tính khái quát nhất về người Raglai.
Năm 2002, công trình nghiên cứu Người Raglai của Viện Dân tộc học được tái bản có ghi rõ: “Người Raglai đôi khi được gọi là OrangGlai, hay người rừng, là một bộ lạc đông khoảng 40.000 người, cư trú ở hai khu vực tách riêng gần bờ biển Việt Nam Cộng hòa. Một số làng Raglai bắc nằm ở vùng núi phía tây Nha Trang ở tỉnh Khánh Hòa. Một số làng Raglai bắc còn nằm ở phía đông tỉnh Tuyên Đức và phía bắc tỉnh Ninh Thuận” (tr.1).
Năm 2003, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam – Đông Nam Á, Trường Đại học KHXHNV TP Hồ Chí Minh đã in sách Những vấn đề văn hóa và ngôn ngữ Raglai bao gồm 16 bài viết từ hai hội thảo khoa học, xoay quanh bốn nhóm nội dung chính là “tổ chức dòng họ, luật tục, nghi lễ và ngôn ngữ Raglai” (Đại học KHXHNV, 2003).
Năm 2003, công trình Luật tục Chăm và luật tục Raglai của Phan Đăng Nhật sưu tầm được công bố. Ngoài phần Mở đầu về các khái niệm, đặc điểm đáng chú ý của luật tục và lịch sử vấn đề nghiên cứu, tác giả trình bày thành quả sưu tầm dày công của mình trong văn bản luật tục Chăm và luật tục Raglai, gồm cả phần phiên âm và dịch nghĩa. Trong đó, luật tục Raglai được trình bày từ trang 385 đến trang 834.
Từ năm 2004 đến năm 2006, nhiều nghiên cứu về văn hóa các dân tộc của các chuyên gia đầu ngành đã dành sự quan tâm cho văn hóa Raglai, có thể kể đến công trình Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam của Ngô Đức Thịnh (2006).
Năm 2007, Phan Quốc Anh công bố công trình Văn hóa Raglai - những gì còn lại. Trong phần văn hóa truyền thống, tác giả khái quát lịch sử hình thành và phát triển của người Raglai, bao gồm dân số và địa bàn cư trú. Ngoài ra, ông/ông bà cũng đưa ra một số nét về văn hóa truyền thống như văn hóa làng, tộc họ và gia đình, các lễ hội, văn học dân gian, âm nhạc, trò chơi dân gian, ẩm thực, trang phục, nhà ở, nhà mồ và nghề thủ công truyền thống. Tác giả cũng nêu rõ sự giao lưu và biến đổi văn hóa Raglai qua các giai đoạn khác nhau. Trong phần văn hóa đương đại, tác giả tiếp cận sự tham gia của người Raglai trong lĩnh vực giáo dục, từ các cấp học cơ bản đến các cấp học cao hơn. Tác giả cũng tập trung phân tích công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong khu vực cư trú của người Raglai, đặc biệt là những hoạt động có thể ảnh hưởng đến văn hóa đương đại của họ.
Năm 2010, Phan Quốc Anh cùng với một số nhà nghiên cứu ở địa phương (Ninh Thuận) công bố công trình Văn hóa Raglai gồm có 341 trang được chia thành 10 chương. Công trình này đã khái lược lịch sử hình thành và phát triển người Raglai ở tỉnh Ninh Thuận với những nghiên cứu chuyên sâu vào văn hóa tổ chức tộc họ, gia đình, văn học dân gian, âm nhạc, ẩm thực, trang phục, tang ma và nghề thủ công truyền thống của người Raglai Ninh Thuận.
Năm 2010, Hải Liên và Sử Văn Ngọc có Hát kể truyện cổ Raglai gồm có 390 trang về hai truyện “Anai Pung Njruk và Cei Suk Cei Lak”, trình bày bằng tiếng Raglai phiên âm và tiếng Việt. Các tác giả khẳng định “giá trị của truyện kể Raglai nằm ở chỗ nó bao hàm, chứa đựng nhiều quan điểm về nhân sinh quan, cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của con người trong những buổi đầu của lịch sử phát triển tộc người.”
Cũng trong năm 2010, Hải Liên có công trình Lễ tang của người Raglai cực Nam Trung bộ gồm 3 chương. Công trình không chỉ khái quát về người Raglai ở cực Nam Trung bộ mà còn tập trung phân tích yếu tố văn hóa và những tồn tại cần thay đổi trong tiến trình tổ chức tang ma của người Raglai. Công trình cũng có sự so sánh văn hóa phi vật thể của hai nhánh Raglai Bắc và Raglai Nam, nhất là qua tiến trình tổ chức tang ma từ khi có người chết cho đến khi làm lễ bỏ mả để kết thúc một chu kỳ vòng đời người.
Cùng năm, Hải Liên cũng cho ra mắt công trình Po Anai Tang di tích, lễ hội của người Raglai gồm có 163 trang, chia làm 2 chương, mô tả cụ thể di tích Po Anai Tang. Thông qua việc phối hợp thực hiện một lễ hội của người Raglai và người Chăm tại di tích này, tác giả trình bày biểu hiện tiếp biến văn hóa giữa người Chăm và Raglai, cho thấy mối quan hệ lâu đời giữa họ.
Năm 2011, Hải Liên với công trình Văn hóa gia tộc Raglai góc nhìn từ nghệ nhân gồm có 323 trang được chia làm 2 chương, trình bày về địa bàn cư trú của nhánh Raglai Bắc và Raglai Nam cùng với “sự tan rã của văn hóa làng”. Tác giả giới thiệu 5 gia tộc lớn ở tỉnh Ninh Thuận là Pinăng, Katơr, Taing, Chamaleăq, Tathiăq và phân tích mối quan hệ giữa các gia tộc.
Năm 2011, tập thể tác giả gồm Lê Khắc Cường, Phan Văn Dốp, Nguyễn Văn Huệ, Phan Xuân Viện đã sáng tác công trình Truyện cổ Raglai bao gồm 263 trang với tổng cộng 60 câu chuyện. Theo quan điểm của các tác giả, “Những câu chuyện cổ Raglai thường sử dụng hình ảnh của con vật để truyền đạt những giáo lý đạo đức cho con người, giúp họ hiểu về cách ứng xử trong cuộc sống và thường phản ánh những mối quan hệ giữa con người, cũng như mối quan hệ trong gia đình và xã hội.” (tr.6).
Tác giả Chamaliaqriya Tiẻnq và Trần Kiêm Hòang với công trình Tri thức dân gian của người Raglai (2011) đã đề cập đến văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người Raglai ở Khánh Hòa qua bốn phương diện: văn hóa tận dụng, đối phó, sùng bái và lưu luyến. Ngoài ra, công trình này còn miêu tả và phân tích chức năng văn hóa của nhà dài, cây cau trong văn hóa Raglai; phân tích yếu tố biển trong văn hóa Raglai qua tín ngưỡng và các hình thức ngữ văn dân gian như sử thi, truyện cổ.
Công trình Luật tục và công cuộc phát triển kinh tế xã hội Raglai của tác giả Nguyễn Thế Sang (2011) gồm 2 phần: phần đầu trình bày những vấn đề liên quan đến luật tục Raglai để chứng minh luật tục Raglai là di sản quý giá của nền văn hóa dân gian Raglai, phần sau là nội dung luật tục được sưu tầm và văn bản hóa.
Năm 2014, Nguyễn Thế Sang với công trình Nghi lễ vòng đời người vòng đời cây lúa của người Raglai trình bày về đời sống tâm linh của người Raglai qua nghi lễ vòng đời người; nghi lễ cầu cúng qua vòng đời cây lúa. Phần cuối, tác giả đưa ra quan điểm về việc bảo tồn giá trị văn hóa dân gian của người Raglai trong quá trình hiện đại hóa.
Năm 2014, Nguyễn Hữu Bài, Trần Kiêm Hoàng, Lê Văn Hoa, Trần Vũ, Chamaliaq Riya Tiẻng có công trình Văn hóa dân gian Raglai ở Khánh Hòa. Nhóm tác giả đã nghiên cứu văn hóa dân gian Raglai ở Khánh Hòa qua nhiều phương pháp mang tính liên ngành như phương pháp lịch sử, phương pháp điền dã, dân tộc học, xã hội học…Công trình này đã vận dụng cấu trúc văn hóa gồm các thành tố văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức đời sống, văn hóa ứng xử để phân tích văn hóa dân gian Raglai Khánh Hòa. Trong đó, các tác giả đã phân chia thành tố văn hóa thành tiểu mục: Văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục, văn hóa cư trú, văn hóa giao thông, văn hóa sản xuất và khai thác... Đặc biệt, các tác giả cũng nhấn mạnh chất rừng và chất biển trong văn hóa ứng xử của người Raglai với môi trường tự nhiên.
Năm 2014, Hội văn học – Nghệ thuật tỉnh Khánh Hòa với công trình Tuyển tập Văn hóa dân gian Khánh Hòa. Tuyển tập này gồm 16 bài viết về văn hóa Khánh Hòa, trong đó có 4 bài viết liên quan đến người Raglai ở phần đầu tuyển tập, bao gồm “Đồng dao của người Raglai ở Khánh Hòa” (Chamaliaq Ryia Tiernq, tr. 9 – 30), “Hát ru của người Raglai ở Khánh Hòa” (Nguyễn Văn Hảo, tr.63 – 91), “Hình tượng sông, biển trong văn hóa dân gian của dân tộc Raglai ở Khánh Hòa” [Trần Kiêm Hoàng, tr.91 – 102], “Một góc nhìn về giao lưu tiếp biến văn hóa của dân tộc Raglai với dân tộc Chăm và dân tộc Kinh ở Khánh Hòa” [Trần Vũ, tr.102 – 146].
Năm 2015, Vũ Đình Mười, Đặng Minh Ngọc, Trương Văn Cường báo cáo tổng hợp đề tài cấp cơ sở Viện Dân tộc học có tên Biến đổi kinh tế – xã hội của dân tộc Ra – Glai (1980 – 2014). Báo cáo gồm 62 trang giới thiệu địa bàn nghiên cứu tại xã Sơn Hiệp, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, và phân tích các nhân tố liên quan đến biến đổi kinh tế xã hội Raglai.
Năm 2018, tác giả Nguyễn Ngọc Thanh với công trình Hôn nhân và gia đình người Raglai ở Khánh Hòa do NXB Khoa học xã hội phát hành. Sau 2 năm nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài khoa học công nghệ cấp tỉnh, tác giả đã làm rõ đặc điểm của hôn nhân, gia đình truyền thống Raglai, yếu tố tác động và xu hướng biến đổi. Nhóm tác giả đã trình bày những đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy các yếu tố tích cực, đề xuất hướng khắc phục những hạn chế trong hôn nhân và gia đình của người Raglai ở tỉnh Khánh Hòa.
Năm 2018, Sử thi Raglai: Chàng Kei Kamaow và Cei Balaok Li-U (Song ngữ Việt – Raglai) Sakaya (chủ biên), Sử Văn Ngọc, Tạ Yên Thị Marong, Gia Trang giới thiệu. Đây là hai tác phẩm sử thi tiêu biểu trong kho tàng truyện dân gian của người Raglai ở Ninh Thuận, “là loại sử thi sáng thế và sử thi thiết chế xã hội”.
Năm 2019, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Tuyết Hạnh về Biến đổi kinh tế, xã hội, văn hóa của người Raglai ở Ninh Thuận từ 1975 đến 2015 được công bố. Công trình này đã chỉ ra những biến đổi căn bản trong văn hóa, xã hội người Raglai ở Ninh Thuận từ 1975 đến 1986, từ 1986 đến 2015. Văn hóa Raglai được nhìn từ góc độ lịch sử, gắn với sự thay đổi theo thời gian giúp tác giả kế thừa những luận giải về sự tác động giữa các yếu tố tự nhiên, xã hội, văn hóa cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa người Raglai và người Kinh.
Có thể thấy, các tác giả đã trong và ngoài nước đã cố gắng mô tả, phân tích nhiều khía cạnh, chiều kích văn hóa của cộng đồng Raglai, từ nguồn gốc hình thành, không gian sinh tụ, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa, kinh tế, xã hội, tôn giáo... Các công trình đã đem lại cái nhìn tổng quan về người Raglai bên cạnh những phân tích sâu sắc về một số lĩnh vực cụ thể trong văn hóa của dân tộc này ở những lát cắt thời gian nhất định. Nhiều công trình nghiên cứu khá công phu về mặt lý luận. Hầu như các tác giả đều vận dụng quan điểm phức hợp (liên ngành) để tiếp cận nhằm mục đích trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu văn hóa Raglai. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đưa ra một số định hướng để giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai.
2.2.2. Những công trình nghiên cứu về huyện Bác Ái
Năm 2000, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Ái - 20 năm một chặng đường tập hợp 25 bài viết về các chặng đường phát triển của huyện cũng như đưa ra các thảo luận cụ thể liên quan đến phát triển văn hoá - xã hội gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Raglai trên địa bàn. Một số bài viết trong hội thảo cũng được đăng trên các tạp chí như “Phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Bác Ái sau 20 năm tái thành lập: Thành tựu và những vấn đề đặt ra” của Hồ Xuân Ninh (2019), “Phát triển kinh tế xã hội huyện Bác Ái theo hướng bền vững” của Mẫu Thái Phương (2020).
Công trình Urbanization and Formation of Ethnicity in SouthEast Asia (2008), công do Toh Goda chủ biên được phát hành, bao gồm 11 chương về văn hóa – xã hội của một số nhóm thiểu số các nước Đông Nam Á trong quá trình đô thị hóa. Trong đó, chương 10 là bài viết về người Raglai của tác giả Hoàng Văn Việt “The Raglai social management and Administrative System in Bac Ai District, Ninh Thuan, Vietnam” (tr. 193 - 220) và chương 11 là bài viết “The Suitability of the Khmer Traditional Socio Political Institutions in their ethnicity processes in Mekong delta” của tác giả Phan An [tr.221 – 247]. Nếu như tác giả Hoàng Văn Việt so sánh tổ chức xã hội truyền thống và hiện đại của người Raglai ở huyện Bác Ái thì tác giả Phan An phân tích sự phù hợp của thể chế chính trị truyền thống của người Khmer trong quá trình định hình dân tộc tính của họ.
Bên cạnh đó còn có luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về văn hoá xã hội người Raglai huyện Bác Ái của Nguyễn Thị Thu Hương với đề tài “Văn hóa quản lý xã hội ở cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái – Ninh Thuận” (2007); Nguyễn Hoàng với đề tài “Định hướng phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đến năm 2020” (2010); Nguyễn Văn Hạnh với đề tài “Sự biến đổi lối sống của dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái tỉnh Ninh Thuận trong quá trình đổi mới hiện nay” (2014). Các đề tài này đều phân tích các biến đổi văn hoá xã hội của đồng bào Raglai ở Bác Ái và chỉ ra các thách thức trong việc bảo tồn văn hóa và sản xuất truyền thống ở địa phương.
Công trình “Đời sống sản xuất vật chất của người Raglai tại xã Phước Đại, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận trong bối cảnh đô thị hóa” của nhóm tác giả Hoàng Văn Việt, Nguyễn Thị Kim Thanh, Nguyễn Hồng Ngọc, Nguyễn Phương Yến Thảo, Lưu Vỹ Phú, Nguyễn Thị Chi Lê từ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP. HCM) cũng chỉ ra các biến đổi trong sinh kế người Raglai xã Phước Đại và những tác động của quá trình đô thị hoá đối với đời sống bà con, đánh giá sự ảnh hưởng của đô thị hóa đến các phong tục, tập quán sản xuất truyền thống, bao gồm cả việc dần mất đi các nghề thủ công truyền thống và thay đổi quan niệm về sản xuất vật chất.
Công trình “Thực trạng phóng uế bừa bãi tại cộng đồng người dân tộc thiểu số Raglai và một số yếu tố liên quan tại huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận” của Lê Thị Thanh Hương, Lưu Văn Trị (2018) cũng trình bày về văn hóa truyền thống, phong tục và các yếu tố đời sống tinh thần của người Raglai, đặc biệt là trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân và cộng đồng, từ đó phân tích tác động tiêu cực của tình trạng phóng uế bừa bãi đến sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm liên quan đến nước và vệ sinh, cách các yếu tố văn hóa truyền thống của người Raglai ảnh hưởng đến thói quen vệ sinh, bao gồm cả những hạn chế trong việc chấp nhận các cải tiến vệ sinh mới.
Công trình “Điều tra tài nguyên cây thuốc theo tri thức bản địa của người Raglai ở huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận” của Nguyễn Thị Ngọc Nghĩa, Lương Văn Dũng (2022) đã khái quát tri thức bản địa về chăm sóc sức khoẻ và trị bệnh của người Raglai ở huyện Bác Ái, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của tri thức bản địa trong việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và sức khỏe cộng đồng.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề án, cơ sở thực tiễn còn được xây dựng dựa trên các báo cáo của Huyện uỷ, UBND huyện Bác Ái có nội dung liên quan đến công tác dân tộc nói chung và vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hoá của dân tộc Raglai trên địa bàn huyện nói riêng, bao gồm:
+ Báo cáo của UBND huyện Bác Ái năm 2021 về tình hình triển khai công tác bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hoá của dân tộc trên địa bàn huyện gắn với hình thành không gian văn hóa Raglai tại Bác Ái;
+ Báo cáo của UBNB huyện Bác Ái về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới năm 2022;
+ Báo cáo của Huyện uỷ Bác Ái năm 2024 về Những vấn đề phát sinh phức tạp trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo thời gian qua;
+ Báo cáo của Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo, huyện uỷ Bác Ái về Tình hình công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm, phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm năm 2024;
+ Báo cáo của Ban chỉ đạo Đại hội Đại biểu các Dân tộc thiểu số huyện Bác Ái lần thứ IV năm 2024
+ Báo cáo của UBND huyện Bác Ái về Kết quả triển khai thực hiện các chính sách dân tộc giai đoạn 2016 - 6/2024 và đề xuất xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2026 - 2030.
Nhìn chung, các nghiên cứu về huyện Bác Ái còn ít ỏi, chủ yếu tập trung vào điểm nhìn xã hội học với các vấn đề thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, hầu như chưa có công trình nào đi sâu vào các vấn đề của văn hoá truyền thống Raglai tại Bác Ái hay đánh giá nức tranh du lịch cộng đồng tại Bác Ái.
2.2. Cơ sở lý luận
2.2.1. Hệ thống khái niệm
Nhóm thuật ngữ: Không gian văn hóa, giá trị văn hóa, văn hóa dân tộc thiểu số, văn hóa Raglai, di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn và phát huy; du lịch, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa có thể tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của mỗi nhà nghiên cứu. Trong đề án này, các thuật ngữ đó được hiểu như sau:
- Không gian văn hóa: là môi trường xác định bản sắc văn hóa của mỗi cá nhân, tộc người. Môi trường này có thể biểu đạt ranh giới vật lý nhỏ hẹp và dễ dàng xác định giới hạn như trong khuôn viên một ngôi nhà, hoặc không biểu đạt ranh giới vật lý và không thể nhận biết giới hạn như “không gian mạng internet”, hoặc rất khó xác định giới hạn như không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên; không gian văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Ở phạm vi làng, xã, không gian văn hóa bao gồm các mối quan hệ láng giềng, các hoạt động tôn giáo, đời sống sinh hoạt, các mạng lưới tổ chức/thiết chế xã hội như trường học, bệnh viện,… Các nhân tố đó kết hợp lại với nhau hình thành nên ranh giới văn hóa vô hình và khuôn định nên bản sắc của từng cá nhân tồn tại trong không gian đó [Dẫn theo Đặng Hoàng Giang, 2019, tr. 51].
Không gian văn hóa là khái niệm dùng để chỉ một môi trường hoặc phạm vi mà trong đó các yếu tố văn hóa được hình thành, tồn tại, và phát triển. Đây không chỉ là không gian vật lý mà còn là không gian phi vật lý, nơi các giá trị, tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật, lối sống và truyền thống của một cộng đồng hoặc một nhóm người được bảo tồn và biểu đạt. (Phan Quốc Anh)
Không gian văn hóa bao gồm
- Yếu tố lãnh thổ
- Yếu tố tự nhiên, sinh thái, địa lý khí hậu
- Yếu tố kinh tế - xã hội nhân văn:
- Tính biểu trưng, đặc trưng văn hóa
- Tính biến đổi và bền vững:
Phát triển không gian bền vững với môi trường tự nhiên và xã hội: Kinh tế xanh, chất lượng đời sống cư dân, bảo tồn văn hóa truyền thống
- Giá trị văn hóa: Giá trị văn hóa của một dân tộc bao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể (dân tộc) của nền văn hóa đó đã tích lũy được, bao gồm rất nhiều thành tố, cả vật chất lần tinh thần. Các giá trị cụ thể này luôn biến động, cho nên thực chất là toàn bộ giá trị thành phần trong hệ giá trị văn hóa của một dân tộc là không đếm được, không thể bao quát được hết [Trần Ngọc Thêm, 2014, tr. 98].
- Bản sắc văn hóa: Kế thừa quan điểm của Trần Ngọc Thêm (2014) cho rằng: Bản sắc văn hóa là các giá trị tinh thần liên quan đến con người và thuộc con người, nhưng phải là giá trị cốt lõi [tr. 98], trong đề án này, chúng tôi đưa ra nội hàm của khái niệm “bản sắc văn hóa” là: những giá trị văn hóa cốt lõi của một cộng đồng người cụ thể. Nó có những dạng biểu đạt hữu hình và vô hình và là chỉ báo để phân biệt được dân tộc này với dân tộc kia; cá nhân này với cá nhân kia.
- Bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số: Từ khái niệm bản sắc văn hóa được đề cập trên, chúng ta có thể hiểu “bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số” là những giá trị văn hóa cốt lõi của các dân tộc thiểu số, được biểu đạt vô hình và hữu hình. Bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số là cơ sở để nhận diện sự khác nhau giữa các tộc người thiểu số.
- Văn hóa Raglai: Người Raglai mang đầy đủ trên mình những yếu tố văn hoá truyền thống của các dân tộc trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo. Là một dân tộc ở miền rừng núi, sống du canh du cư với nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp, cũng như các dân tộc thiểu số vùng cao khác, người Raglai từ bao đời nay đã hình thành nên cho mình một nền văn hoá riêng gắn với điều kiện môi sinh của cư dân nông nghiệp nương rẫy Nam Trung Bộ. Nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, người Raglai vẫn mang trên mình những tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước (biểu hiện qua hệ thống nghi lễ cầu mùa, lễ ăn đầu lúa, lễ mừng lúa mới và các phong tục tập quán khác) những tàn tích của cư dân hải đảo (như hình kagor trong lễ bỏ mả). Người Raglai cũng đã giao lưu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc khác, đặc biệt là mối quan hệ tộc người và văn hoá tộc người giữa người Chăm và người Raglai hiện nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ [Phan Quốc Anh, 2010, tr. 22].
- Di sản văn hoá: Là bao gồm văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể là tài sản vô giá của một địa phương, của một dân tộc. Chúng phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng văn hoá, về cội nguồn văn hoá của địa phương đó, dân tộc đó [Nguyễn Thịnh, 2012, tr.12].
- Di sản văn hóa vật thể: Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [Khoản 2, Điều 4, Văn bản hợp nhất số 10-Luật Di sản văn hóa].
- Di sản văn hóa phi vật thể: Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [Khoản 1, Điều 4, Văn bản hợp nhất số 10-Luật Di sản văn hóa].
- Bảo tồn: Là giữ nguyên hiện trạng, không để mất đi [Nguyễn Như Ý và cộng sự, 2013, tr. 80]. Quan điểm này phù hợp với các di sản văn hóa vật thể. Luật Di sản văn hóa cũng đưa ra một khái niệm tương đồng với “bảo tồn” là bảo quản di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Đó là những hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [Khoản 11, Điều 4, Văn bản hợp nhất số 10-Luật Di sản văn hóa].
- Phát huy và phát huy giá trị di sản văn hóa: Là “những hành động nhằm đưa di sản văn hoá vào trong việc thực hiện xã hội, coi đó là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hoá đối với sự phát triển của xã hội” [Võ Quang Trọng Bảo, 2010, tr.6]. Và “phát huy các giá trị di sản văn hoá còn nhằm mục tiêu phát triển những giá trị văn hoá một cách bền vững, phục vụ tích cực cho công tác bảo tồn di sản văn hoá” [Nguyễn Thịnh, 2012, tr.12].
- Du lịch: Là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác [Khoản 1, Điều 3, Luật du lịch 2017].
- Du lịch cộng đồng: Là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi [Khoản 15, Điều 3, Luật du lịch 2017]. Như vậy, một trong những cơ sở để phát triển du lịch cộng đồng là các cộng đồng tham gia cung làm du lịch phải sản sinh được những giá trị văn hóa có thể thu hút được du khách [Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Hồ Phong, 2020, tr. 201].
- Du lịch văn hóa: Là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại [Khoản 17, Điều 3, Luật du lịch 2017]. Nền tảng để phát triển du lịch văn hóa là các tài nguyên du lịch nhân văn. Mục đích của phát triển du lịch văn hóa ngoài yếu tố thương mại còn hướng đến góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa” [Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Hồ Phong, 2020, tr. 218-219].
2.2.2. Một số vấn đề chung về xây dựng không gian văn hóa, bảo tồn và phát huy, xây dựng nhận diện thương hiệu không gian văn hóa Raglai
- Không gian văn hóa với việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc
Mọi giá trị và biểu đạt văn hóa của người Raglai ở huyện Bác Ái chỉ có thể được bảo tồn và phát huy một cách trọn vẹn trong chính không gian văn hóa của cộng đồng người Raglai. Do đó, một trong những vấn đề chung cần được quan tâm của Đề án này là đảm bảo rằng các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án không làm tổn hại đến cấu trúc tổng thể của không gian văn hóa của cộng đồng người Raglai, đồng thời cũng không làm tổn hại đến cấu trúc tổng thể của không gian văn hóa dân tộc chung trên địa bàn huyện với tư cách không gian văn hóa của người Raglai là một thành tố hữu cơ trong cấu trúc không gian văn hóa chung của cả huyện.
- Hướng tới mục tiêu kép: Vừa bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai, vừa phát huy những giá trị văn hóa đó phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Bác Ái và ngược lại
Sự xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo tồn di sản văn hóa thực tế đã xảy ra ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Điều này xuất hiện khi một địa phương chỉ quan tâm đến mục tiêu phát triển kinh tế không dành sự quan tâm đúng mức đến bảo tồn các giá trị của di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể. Trong trường hợp đó, các giá trị văn hóa dễ bị tổn thương, xâm hại và dẫn đến mai một, biến mất khỏi đời sống xã hội đương đại. Ở chiều ngược lại, nếu địa phương không phát triển kinh tế thì không có nguồn lực tài chính để thực hiện các dự án bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa-vốn là hoạt động tiêu tốn khá nhiều nguồn lực tài chính. Do đó, vấn đề chung của Đề án này là cần phải đưa ra được các giải pháp, mục tiêu, nhiệm vụ cân bằng giữa bảo tồn giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế. Điều này tạo ra tính bền vững của quá trình điều hành, quản lý kinh tế, xã hội của chính quyền huyện Bác Ái.
- Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa
Sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa của các dân tộc trên địa bàn huyện Bác Ái, trọng tâm là người Raglai là cơ sở để đảm bảo tính bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Do đó, cần đảm bảo rằng sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa của dân tộc Raglai và những dân tộc khác trên địa bàn huyện Bác Ái được bảo vệ, phát huy một cách bình đẳng và không bị tổn thương trong quá trình khai thác những biểu đạt văn hóa đó để phát triển kinh tế. UNESCO đã phát biểu vấn đề này như sau: đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại, cần được tôn vinh và bảo vệ vì lợi ích của tất cả mọi người. Đa dạng văn hóa tạo nên một thế giới phong phú và đa dạng, gia tăng các lựa chọn, nuôi dưỡng khả năng và giá trị của con người, và vì vậy, đa dạng văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các cộng đồng, các dân tộc và các quốc gia [UNESCO, 2005].
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý, địa hình và khí hậu
Về vị trí địa lý, huyện Bác Ái nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Ninh Thuận, phía Bắc giáp huyện Khánh Sơn - tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp huyện Ninh Sơn và TP. Phan Rang - Tháp Chàm, phía Đông giáp huyện Thuận Bắc và TP. Cam Ranh - tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp huyện Đơn Dương - tỉnh Lâm Đồng. Diện tích tự nhiên của huyện là 102.184,65 ha, chiếm 29,76% diện tích của tỉnh Ninh Thuận. Tính đến năm 2019, Huyện có 7.193 hộ với 30.251 nhân khẩu. Trong đó, đồng bào Raglai chiếm hơn 85%. Toàn Huyện có 9 xã, gồm xã Phước Bình, Phước Hòa, Phước Tân, Phước Tiến, Phước Chính, Phước Đại, Phước Thắng, Phước Thành và Phước Trung. Huyện Bác Ái có địa hình bán sơn địa, thấp dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Địa hình phức tạp bị chia cắt bởi các dãy núi cao, xen kẽ với các sông, suối và các thung lũng nhỏ nên việc giao thông đi lại, giao lưu giữa các khu dân cư gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ. Dạng địa hình đồi núi thấp tương đối bằng phẳng - nơi người Raglai cư trú có diện tích chiếm 4,4% diện tích toàn huyện. Địa hình đồi núi trung bình và cao trên 1.000m chiếm đến 70,6% diện tích toàn huyện.
Ranh giới hành chính với các huyện khác là các dãy núi cao trên 1000m như núi Ma Nai (1.637m) ở ranh giới với Khánh Hòa, núi Tà Năng (1.451m) ở ranh giới với huyện Thuận Bắc, núi Chuẩn (1.645m) ở ranh giới với huyện Ninh Sơn. Các con sông chính ở Bác Ái gồm: Sông Cái dài 119km, tổng diện tích lưu vực 3.000 km2. Đây là sông lớn nhất tỉnh Ninh Thuận, là nguồn cung cấp nước quan trọng nhất cho đời sống và sản xuất của nhân dân Huyện. Sông Sắt dài 32km, diện tích lưu vực 411 km2, là sông lớn thứ hai trong Huyện. Hiện trên sông này đã xây dựng hồ Sông Sắt để mở rộng diện tích 3.800 ha đất trồng trọt trên địa bàn huyện Bác Ái. Sông Trà Co dài 25km, diện tích lưu vực 154 km2 là con sông lớn thứ ba ở huyện Bác Ái. Hiện trên sông này đã xây dựng đập Trà Co để phục vụ tưới tiêu cho khoảng 45 ha lúa của Huyện.
Về khí hậu, Bác Ái nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa cao nguyên, bán khô hạn, có nền nhiệt cao và tài nguyên gió dồi dào, thời tiết khắc nghiệt nắng hạn thường xuyên, mưa ít và nắng nóng kéo dài. Riêng vùng núi phía Tây huyện thuộc địa phận của xã Phước Bình và Phước Hòa giáp với tỉnh Lâm Đồng chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, hơi thiếu ẩm, lượng mưa trung bình 1500 - 2000mm, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1, hầu như mát mẻ quanh năm. Trong khi đó, 7 xã còn lại ở vùng trung du và đồng bằng phía Đông có khí hậu nhiệt đới - gió mùa, bán khô hạn, nhiệt độ cao hơn, lượng mưa trung bình chỉ 800 - 1000mm, mùa mưa chủ yếu từ tháng 9 đến tháng 11, thời gian còn lại trời nắng nóng, khô hạn khắc nghiệt.
Cảnh quan tự nhiên, sinh thái, tài nguyên thiên nhiên
Về cảnh quan tự nhiên, Bác Ái là vùng đất được thiên nhiên ban tặng nhiều cảnh quan đẹp như Vườn quốc gia Phước Bình, thác Chapơr ở xã Phước Tân, Suối Lạnh ở xã Phước Thành. Bên cạnh đó, huyện Bác Ái còn có tài nguyên đất dồi dào với hơn 13.450 ha đất sản xuất nông nghiệp và 81.798,51 ha đất lâm nghiệp, trong đó diện tích đất có rừng tự nhiên là 63.412 ha, chiếm 77,65% diện tích đất lâm nghiệp. Tài nguyên rừng với độ che phủ 58,6%. Ngoài ra, Bác Ái cũng có nguồn tài nguyên đất, cát xây dựng dồi dào. Đặc biệt, vườn quốc gia Phước Bình có hơn 1.225 loài thực vật và 327 loài động vật quý hiếm. Nơi đây còn nổi tiếng về các điểm di tích lịch sử cách mạng, đặc biệt là di tích lịch sử bẫy đá Pi Năng Tắc được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia vào năm 1993.
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân số, dân cư, dân tộc và phân bổ dân cư
Theo Tổng hợp kết quả điều tra thực trạng Kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2023 của Uỷ ban Dân tộc, dân số của người Raglai xếp thứ 19 trong 54 dân tộc ở Việt Nam với 146.613 người. Trong đó, phân bố ở Trung du và miền núi phía Bắc là 34 người, đồng bằng sông Hồng là 24 người, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung là 143.787 người, Tây Nguyên là 2.038 người, Đông Nam Bộ là 654 người và đồng bằng sông Cửu Long là 76 người. Người Raglai tập trung chủ yếu ở các tỉnh Khánh Hòa (55.844 người), Bình Thuận (17.382 người), Lâm Đồng (1.910 người) và đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (70.366 người), chiếm 48% tổng số người Raglai ở Việt Nam. Đối với hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận, Raglai là dân tộc có số dân đông thứ hai, chỉ sau người Kinh. Ở Ninh Thuận, số người Raglai ở nông thôn là 69.741/70.366 người, chiếm tỉ lệ 99,11%.
Theo Báo cáo kết quả triển khai chính sách dân tộc tại huyện Bác Ái, đến năm 2023, toàn huyện có 8.035 hộ/35.117 khẩu, dân tộc Raglai 29.805 người, chiếm 84,% so với dân số toàn huyện.. Người Raglai ở huyện Bác Ái cận cư cùng các dân tộc anh em khác như Kinh, Hoa, K'ho, Nùng, Chăm,...
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bác Ái giai đoạn 2020 – 2025
Theo Nghị quyết Số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/11/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 30a), Bác Ái là một trong 64 huyện nghèo của cả nước. Cả 09 xã của huyện Bác Ái đều thuộc khu vực III, 31/38 thôn đặc biệt khó khăn. Sinh kế của bà con chủ yếu từ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản với quy mô nhỏ, siêu nhỏ và còn thô sơ. Tuy nằm trên ngã đường kết nối 03 tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Lâm Đồng, có diện tích tự nhiên rộng, nguồn nước sông suối dồi dào, con người lao động cần cù, nhưng trước đây, đời sống bà con huyện Bác Ái, nhất là đồng bào Raglai còn gặp rất nhiều khó khăn. Sinh kế chủ yếu của bà con Raglai huyện Bác Ái vẫn gắn với sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, bắp, mì, đậu,.... Sản xuất nông nghiệp của người Raglai phụ thuộc nhiều vào mưa (nước trời), chỉ một phần nhỏ diện tích được tưới tiêu.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng với việc triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia như giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề, kinh tế - xã hội của huyện Bác Ái đã có những bước tiến đáng kể. Từ năm 2020 đến nay, tổng giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 12,4%. Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số huyện Bác Ái lần thứ VI - năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện đến cuối năm 2023 còn 28,42%, giảm 11,89% so với năm 2019 và tỷ lệ hộ cận nghèo cuối năm 2023 còn 8,92%, giảm 5,76% so với năm 2019 theo chuẩn nghèo mới. Bên cạnh việc duy trì các hoạt động nông nghiệp truyền thống, trong những năm gần đây, người dân Bác Ái đã từng bước đổi mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Nhờ đó, dù chưa nhiều, nhưng một số nông sản của Huyện đã vào hệ thống OCOP, được thị trường đón nhận. Các sản phẩm đạt chuẩn 3 sao như rượu chuối mồ côi, bưởi da xanh, hạt chuối cô đơn, dưa lưới SunFam, hạt điều Chapi và gạo Phước Chính. Nhờ đó, đời sống của một bộ phận người dân được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt, việc xóa bỏ thành công nhà tạm bợ và không còn hộ đói là một thành tựu nổi bật của Đảng, chính quyền và nhân dân huyện Bác Ái.
Tuy nhiên, nếu so với nhiều địa phương cùng cấp khác thì kinh tế ở huyện Bác Ái vẫn còn chậm phát triển, quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhiều nơi chưa đạt được những kết quả lớn, đủ khả năng tạo là những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của người dân. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trên toàn huyện có giảm theo thời gian từ năm 2020 đến nay, nhưng con số đó vẫn ở mức cao so với mức trung bình của tỉnh Ninh Thuận và nhiều địa phương cùng cấp khác. Đó là điều mà toàn Đảng, toàn dân và chính quyền huyện Bác Ái cần tiếp tục nỗ lực trong thời gian tới.
Công tác giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng của huyện đã có những bước tiến đáng kể. Công tác giáo dục và đào tạo thường xuyên được quan tâm, duy trì thực hiện tốt công tác dạy và học tại các nhà trường. Đến năm 2024, huyện có 16/29 trường đạt chuẩn quốc gia (so với giai đoạn 2016-2020: 08/36 trường đạt chuẩn). Hệ thống trường lớp được đầu tư xây dựng đáp ứng công tác dạy và học. Hệ thống cơ sở y tế công được quan tâm đầu tư từ cấp huyện đến cấp xã. Công tác khám và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân được chú trọng quan tâm, bảo hiểm y tế được hỗ trợ miễn phí 100% cho người dân. Công tác xây dựng Đảng và chính quyền cũng đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đảm bảo an ninh trật tự và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Đời sống văn hóa tinh thần của người dân cũng có nhiều tiến triển tốt đẹp. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, TDTT được duy trì trong các ngày lễ tết và lễ hội của địa phương. Tháng 8 năm 2024, huyện đã tổ chức thành công Lễ hội Văn hoá Raglai huyện Bác Ái lần thứ II, làm cơ sở tiếp tục triển khai các hoạt động văn hoá văn nghệ khác nhằm bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc đặc sắc trên địa bàn huyện.
Về công tác dân tộc, tôn giáo, theo Báo cáo Tình hình công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2024 của Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo huyện uỷ Bác Ái, tính đến hết tháng 5/2024, toàn huyện có 524 hộ/1911 khẩu (tăng 06 khẩu so với cuối năm 2023) theo 05 tôn giáo bao gồm: Phật giáo, Công giáo, Bà la môn, Bà ni, Tin lành. Nhờ công tác quản lý chặt chẽ của chính quyền địa phương, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện diễn ra một cách lành mạnh, không gây ra những vấn đề phức tạp. Tình hình tôn giáo luôn ổn định, góp phần duy trì trật tự xã hội.
- Khái quát về nguồn gốc, lịch sử văn hóa tộc người Raglai ở huyện Bác Ái
J.M. Brien và M. Brière đề cập đến thuật ngữ “Orang Glai” dùng để chỉ một nhóm người ở vùng núi Khánh Hoà [Brière, 1889; Brien, 1893, tr.236 – 272]. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tìm cách giải thích thuật ngữ này. Thuật ngữ “Orang Glai” vốn có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai cổ, thường gặp ở các dân tộc vùng hải đảo Indonesia và bán đảo Malắca. “Orang” có nghĩa là “người”, “glai” là “rừng”; “Orang glai” có nghĩa là “người rừng” [Viện Dân tộc học, 2002, tr.1]. Người Pháp gọi “Orang Glai” để phân biệt với “Orang Laút”, tức là phân biệt người ở rừng với người ở biển vì trong tiếng Mã Lai, “Laút” có nghĩa là “biển” [Nguyễn Tuấn Triết, 1991, tr.31].
Sau khi nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp tìm hiểu trong tục ngữ, ca dao của người Chăm thì đều thấy nhắc đến người Raglai chứ không phải “Orang Glai” và kết luận rằng “Orang Glai” là sự gán ghép của những người nghiên cứu đầu tiên về người Raglai chứ không phải đó là tên gọi đầu tiên đầy đủ của người Raglai.
Tên gọi Raglai cũng chính thức được sử dụng trong “Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam” do Tổng cục Thống kê Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công bố ngày 02/3/1979. Khi điền dã các khu vực có người Raglai sinh sống, hầu hết đồng bào cũng gộ tộc danh của họ là “Raglai”. Về quan hệ tộc người, người Raglai có mối quan hệ gần gũi về văn hoá và ngôn ngữ với các tộc người khác trong nhóm Malayo-Polynesien như Chăm, Chu ru, Ê đê. Hơn nữa, địa bàn cư trú của người Raglai gần gũi và đan xen với người Chăm nên họ có mối quan hệ gắn bó trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế đến xã hội, văn hoá. Tuy vậy, người Raglai có phải một phần thuộc vương quốc Chăm Pa cổ đại hay họ là tộc người láng giềng độc lập với người Chăm vẫn là những câu hỏi chưa có đáp án.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu như địa bàn cư trú của người Raglai các địa phương khác đã thay đổi sâu sắc tại thời điểm trước và sau năm 1975 theo hướng rời khu vực núi cao chuyển về khu vực triền núi hoặc đồng bằng thì trong ký ức của người cao tuổi Raglai tại Bác Ái, địa bàn cư trú của các thế hệ ông bà đều ở các khu vực núi cao thuộc vùng giáp ranh các tỉnh Khánh Hòa – Ninh Thuận – Lâm Đồng – Bình Thuận, tương ứng với huyện Bác Ái ngày nay. Người Raglai ở Bác Ái ít có sự di dân mang tính cưỡng bức bởi các chính sách di cư của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (dồn dân lập ấp) hay chính sách định canh định cư của Nhà nước sau năm 1975. Vì vậy, so với các địa phương khác có người Raglai sinh sống, tại huyện Bác Ái nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai vẫn còn được bảo tồn khá tốt.
Nói đến văn hoá truyền thống của đồng bào Raglai huyện Bác Ái, không thể không nhắc đến văn hoá ẩm thực. Văn hóa ẩm thực của người Raglai ở Ninh Thuận là một bức tranh sinh động về cuộc sống của người dân nơi đây. Món ăn hàng ngày của người Raglai khá đơn giản, thường là cơm, cháo gạo (buriăk) hoặc cháo bắp hầm mang đến cảm giác ấm cúng và quen thuộc. Trong các lễ hội, mâm cỗ cúng luôn tràn đầy những sản vật quý giá từ thiên nhiên, thể hiện lòng thành kính của người Raglai đối với thần linh. Trong đó, rượu cần - một thức uống đặc biệt luôn có mặt trong các dịp lễ tết và trở thành biểu tượng văn hóa của người dân nơi đây. Phong cách ăn uống của người Raglai mang đậm nét văn hóa cộng đồng với những nghi thức riêng biệt. Câu nói “Bb âk chanang la, manlum ra chanang ngok” (ăn cơm giường dưới, uống nước giường cao) đã trở thành một câu tục ngữ quen thuộc, thể hiện quan niệm về ẩm thực và ứng xử của người Raglai nơi đây.
Về y phục và trang sức cổ truyền của người Raglai, các nhà nghiên cứu cho rằng để mô tả lại đầy đủ là rất khó khăn. Trong những chuyến đi thực tế đầy gian nan vào thập niên 80-90 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu đã miệt mài tìm kiếm dấu vết của trang phục truyền thống Raglai, từ những câu chuyện kể của người già, từ những mảnh vải còn sót lại. Dần dần, hình ảnh một người phụ nữ Raglai với chiếc áo khoang màu đen trắng, váy dài thướt tha, cùng những món trang sức bằng bạc, đồng đã hiện lên rõ nét trong tâm trí họ. Nhờ sự nỗ lực không ngừng, các nhà nghiên cứu đã dần khôi phục lại vẻ đẹp nguyên sơ nhưng rất sinh động của trang phục Raglai. Về trang sức, nam giới mang vòng tay, vòng chân, vài người già có đeo vòng cổ làm bằng đồng, ống píp để hút thuốc cũng trở thành một loại trang sức. Nữ giới có thêm hoa tai, dây đeo cổ làm bằng hạt bo bo; tóc búi hoặc kẹp phía sau. Ngày nay, những điều này cũng không còn nữa. Gần 20 năm trở lại đây, trang phục truyền thống Raglai xuất hiện thường xuyên hơn trong các lễ hội, biểu diễn văn nghệ trên địa bàn huyện.
Về nhà ở, để thích nghi với cuộc sống gần gũi thiên nhiên, người Raglai đã sáng tạo nên những căn nhà sàn độc đáo, vừa là nơi trú ngụ, vừa là nơi sinh hoạt chung của cả gia đình. Với đôi bàn tay khéo léo và những vật liệu sẵn có trong rừng như gỗ, dây mây, nứa, lồ ô, người Raglai đã xây dựng nên những ngôi nhà sàn đơn sơ mà ấm cúng với cột chính có đường kính hơn ba gang tay, cao hơn 4m, phần thềm rộng hơn 3m. Phần mái nhà được lợp bằng lá tranh vồ, tạo nên một không gian thoáng mát và gần gũi với thiên nhiên. Sàn nhà được làm bằng những thanh tre chắc chắn, tạo cảm giác ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Ở huyện Bác Ái, nhà sàn được xây dựng nhiều tại các xã Phước Hòa, Phước Đại, Phước Trung, Phước Tiến. Cho đến nay, nhà sàn không chỉ là nơi ở mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai. Tại đây, người ta cùng nhau sinh hoạt, tổ chức các lễ hội, gắn kết tình cảm gia đình, tộc họ. Trong truyền thống, cuộc sống của người Raglai chủ yếu xoay quanh các bur (xóm) hoặc palei (buôn làng). Mỗi palei có lãnh thổ riêng, được bảo vệ bởi cộng đồng. Lãnh thổ này thường được thừa kế và phân bố rải rác. Người đứng đầu palei là Pô palei (trưởng làng). Bên cạnh đó có Pô chưq (chủ núi) quản lý đất đai, rừng núi. Già làng và thầy cúng rất quan trọng trong các nghi lễ và giữ gìn truyền thống của người Raglai.
Về công cụ sản xuất, người Raglai làm từ những nguyên vật liệu có sẵn trong khu vực cư trú, nhìn chung khá đơn giản trong cách chế tác và chủng loại, bao gồm công cụ cầm tay như rìu, rựa (để chặt cây rừng), chà gạc (để dọn rẫy, hái măng), gậy chọc lỗ (để tra hạt giống, đào bới củ cây rừng), nạo cỏ lưỡi dày (dọn cỏ), dao (hái rau rừng, thu hoạch). Công cụ để săn bắt thú rừng của người Raglai thì đa dạng hơn gồm cung, ná, tên, chông tre, bẫy,... Về công cụ chứa đựng và vận chuyển vật phẩm, người Raglai dùng gùi.
Về thiết chế gia đình và dòng họ mẫu hệ Raglai: trước đây, người Raglai sống quy tụ theo tộc họ (patià) gồm các dòng họ lớn là Chamaléa, Pupur, Katơr, Pinãng, Patâu Axá. Người Raglai ở Bác Ái vẫn còn lưu truyền truyền thuyết ly kỳ về Đá Ba Cái nói về nguồn gốc của các họ tộc của người Raglai ở địa phương. Đó không chỉ là một câu chuyện dân gian đơn thuần, mà còn là một bài học về lòng dũng cảm, sự thông minh và tinh thần đoàn kết của con người trước những khó khăn thử thách.
Về nghi lễ truyền thống, dân tộc Raglai có hệ thống nghi lễ phong phú, bao gồm các nghi lễ gắn với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (lễ cầu mưa, cầu nắng, lễ cúng để cầu xin đất làm rẫy, xin đất cất nhà, lễ vào nhà mới, lễ đặt đá bếp, lễ xin khi gặp nạn bị đuối nước, bị cây đè, lễ rước lúa mẹ, mời hồn lúa và ăn mừng lúa mới) và nghi lễ vòng đời người (lễ cúng bà đỡ, lễ đeo vòng, đặt tên, lễ hỏi vợ hỏi chồng, lễ cưới, lễ bắt chồng, lễ cắt lỗi, lễ thuận hòa, lễ báo hiếu, lễ chúc thọ, lễ tang, lễ bỏ mả). Bên cạnh tín ngưỡng cổ truyền, từ năm 1940 đến nay, các tôn giáo như Thiên chúa và Tin Lành đã xâm nhập vào vùng người Raglai và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là những năm gần đây.
Về âm nhạc dân gian, người Raglai có hơn 20 loại nhạc cụ có tên gọi thuộc bộ gõ, bộ hơi, bộ dây: mã la, đàn chapi, trống, chiêng núm, kèn bầu, kèn môi, sáo, đàn bầu, đàn môi, tù và…
2.4. Cơ sở pháp lý
- Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009;
- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội Nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
- Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;
- Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc;
- Nghị quyết Số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/11/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo;
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/ 9/ 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá;
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc;
- Nghị định số 39/2024/NĐ-CP ngày 16/4/2024 của Chính phủ quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong các danh sách của UNESCO và danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;
- Quyết định số 1909/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/11/2021 về Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030;
- Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030;
- Quyết định số 209/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 18/01/2019 về việc phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay";
- Quyết định số 2774/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 02/10/2020 về việc tổ chức tuyên truyền, quảng bá và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch;
- Quyết định số 2621/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 09/9/2024 về Phê duyệt kế hoạch hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số thuộc chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
- Quyết định số 555 /QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận ngày 03/10/ 2021 về Ngân sách tỉnh hỗ trợ địa phương;
- Quyết định số 51/2022/QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận ngày 04/9/2022 về ngân sách tỉnh hỗ trợ địa phương;
- Quyết định số 3574/QĐ-UBND ngày 16/8/2022 của UBND tỉnh Ninh Thuận về ngân sách nhà nước thuộc CTMTQG phát triển kinh tế -xã hội vùng đổng bào dân tộc, miền núi;
- Quyết định số 753/QĐ-UBND ngày 31/12/2022 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc Ban hành Chương trình phát triển du lịch Ninh Thuận trở thành ngành kinh tế mũi nhọn giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030;
- Chỉ thị 14-CT/TU ngày 15/6/2016 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn tỉnh;
- Quyết định số 84/2014/QĐ-UBND, ngày 17/11/2014 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận;
- Quyết định 507/QĐ-UBND ngày 05/12/2016 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc phân cấp trực tiếp quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh; Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận;
- Quyết định số 555/QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận về Phê duyệt Đề án Phát triển du lịch Ninh Thuận giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 năm 2023;
- Nghị quyết số 02-NQ/ĐH ngày 02/7/2020 của Đại hội Đại biểu đảng bộ huyện lần thứ XIV nhiệm kỳ 2020 – 2025;
- Nghị quyết số 152/NQ-HĐND ngày 18/12/2019 của HĐND huyện Bác Ái về việc Phê chuẩn Đề án Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn huyện giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030;
- Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 30/11/2022 của Ban Chấp hành đảng bộ huyện khóa XIV về phát triển du lịch trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2022 –2025, định hướng đến năm 2030;
- Chương trình hành động số 277-CTr/HU ngày 15/10/2014 của Huyện ủy Bác Ái về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa Con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”;
- Chỉ thị số 06-CT/HU ngày 15/7/2016 của Huyện ủy Bác Ái Về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn huyện Bác Ái;
- Báo cáo của UBND Huyện Bác Ái (2022) về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới;
- Công văn số 1278-CV/HU ngày 08/12/2023 của Huyện ủy về thống nhất chủ trương thuê tư vấn lập Đề án bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Raglai gắn với xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định số 1471/ QĐ-UBND ngày 17/8/2023 về Phê duyệt Đề án Phát triển du lịch trên địa bàn huyện Bác Ái gia đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030;
- Báo cáo Kết quả triển khai thực hiện các chính sách dân tộc giai đoạn 2016 - 6/2024 và đề xuất xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2026 – 2030 của UBND Huyện Bác Ái năm 2024;
- Quyết định số 862/QĐ-UBND ngày 23/5/2024 của UBND huyện về việc phê duyệt Đề cương nhiệm vụ và dự toán chi tiết lập Đề án “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Raglai gắn với xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện Bác i giai đoạn 2024 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống của người Raglai. Cụ thể là: nhà sàn truyền thống, nghề thủ công truyền thống, hiện vật gắn với lịch sử văn hóa, cách mạng; tín ngưỡng-tôn giáo, lễ hội truyền thống, âm nhạc dân gian, trang phục truyền thống.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian
Khảo sát điền dã văn hóa Raglai trên địa bàn 9 xã của huyện Bác Ái; khảo cứu qua các tư liệu thứ cấp viết về các vùng đồng bào Raglai ở huyện Ninh Sơn, huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh để so sánh, đối chiếu.
Triển khai thực hiện tại một số địa bàn xã trọng tâm, trong điểm hiện hữu đang có nhiều giá trị bản sắc văn hóa Raglai được phát huy gìn giữ như các xã Phước Bình, Phước Hòa, Phước Thắng, Phước Thành, Phước Tân, Phước Tiến… Sau giai đoạn thực hiện thí điểm, Huyện sẽ tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng những thành tựu điển hình trên phạm vi toàn Huyện để hướng tới mục tiêu xây dựng Bác Ái trở thành không gian văn hóa Raglai đặc trưng của tỉnh Ninh Thuận kết nối với các tỉnh bạn có dân tộc Raglai sinh sống.
+ Phạm vi thời gian: Thời gian khảo sát để thu thập dữ liệu là giai đoạn 2020 - 2024. Thời gian thực hiện đề án từ 2024 đến 2030, tầm nhìn 2045.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phỏng vấn sâu
- Đối tượng phỏng vấn
+ Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đang công tác, hoặc đã về hưu trong hệ thống chính trị từ huyện đến xã, thôn ở huyện Bác Ái, và cán bộ thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận.
+ Đại diện cộng đồng người Raglai, trong đó trọng tâm là các già làng, trưởng bản, nghệ nhân và những người có uy tín trong cộng đồng.
+ Các nhà khoa học nghiên cứu văn hóa tộc người, văn hóa du lịch, bảo tồn bảo tàng, di sản văn hóa.
+ Đại diện các doanh nghiệp du lịch, dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
- Nội dung phỏng vấn
Tùy từng nhóm đối tượng chúng tôi thiết kế nội dung phỏng vấn phù hợp, tuy nhiên tựu chung là những nội dung liên quan đến các vấn đề:
+ Quan điểm, cách nhìn nhận của đại diện cơ quan công quyền về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của người Raglai gắn với phát triển kinh tế du lịch.
+ Thái độ, sự đồng thuận và tinh thần sẵn sàng của cộng đồng người Raglai trong việc tham gia thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp của Đề án; sự kỳ vọng của cộng đồng người Raglai về hiệu quả của Đề án.
+ Các quan điểm, ý kiến có tính chất lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học có kinh nghiệm và chuyên môn liên quan đến nội dung của Đề án.
+ Những kinh nghiệm thực tiễn, những đề xuất của các doanh nghiệp du lịch, dịch vụ văn hóa trong việc khai thác các giá trị văn hóa tộc người để phát triển kinh tế du lịch theo hướng bền vững.
3.2.2. Điền dã dân tộc học kết hợp thống kê thực địa
- Số cuộc điền dã: 04 cuộc
- Địa bàn và nội dung điền dã, thống kê: Tại những địa phương mà Đề án triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ, trong đó trọng tâm là:
+ Xã Phước Bình: khảo sát về du lịch cộng đồng
+ Các xã còn lại: Khảo sát về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người Raglai.
PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ ÁN
1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC RAGLAI TRONG THỜI GIAN QUA
1.1. Những thành tựu
1.1.1. Về văn hóa vật thể
1.1.1.1 Nhà sàn truyền thống
Song song với quá trình xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ chính sách thì vấn đề bảo tồn nhà sàn truyền thống dân tộc Raglai luôn được quan tâm gìn giữ. Đến nay rất nhiều gia đình, dòng họ hay tổ chức cộng đồng dân cư đều có nhà sàn truyền thống bên cạnh nhà xây kiên cố, điều này vừa đảm bảo được yếu tố về nhà ở kiên cố, vừa bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Triển khai Đề án phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn xã Phước Bình giai đoạn 2019 – 2022, hiện nay, huyện đã thực hiện được trên 50 nhà sàn theo kiến trúc truyền thống, trong đó lựa chọn một số nhà sàn thực hiện theo kiến trúc của văn hóa nhà sàn dân tộc Raglai vừa mục đích phát triển du lịch cộng đồng, vừa bảo tồn kiến trúc nhà sàn Raglai.
1.1.1.2 Nghề thủ công truyền thống
Trước đây, người Raglai ở huyện Bác Ái nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như nghề đan lát, chế tác nhạc cụ, chế tác trang sức như vòng tay, vòng đeo cổ, nghề ủ rượu cần, điêu khắc hoa văn nhà mồ,…Nhưng theo thời gian, nhiều nghề truyền thống của người Raglai ở Bác Ái đã mai một, thất truyền.
Tuy nhiên, với những nỗ lực của chính quyền địa phương, một số nghề truyền thống đã được khôi phục dần. Nghề đan lát sau thời gian mai một hiện đang được khôi phục ở xã Phước Thắng, Phước Bình, Phước Chiến, Phước Tiến,… và đưa sản phẩm tiếp cận thị trường. Đồng bào Raglai ở huyện Bác Ái đã thành lập Tổ hội nghề nghiệp đan lát phục vụ sinh hoạt hàng ngày và du lịch, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân và bảo tồn văn hóa truyền thống của cha ông để lại. Ngoài ra, nghề làm gùi, đan nỏ tại thôn Suối Rua của xã Phước Tiến; nghề nấu rượu cần tại xã Phước Trung đã được khôi phục. Sản phẩm của các làng nghề này đang dần được thị trường chấp nhận, từng bước trở thành sinh kế quan trọng của người Raglai hiện nay.
Với nghề chế tác nhạc cụ, trong quá khứ, người Raglai thường chế tác các loại nhạc cụ như đàn Chapi, khèn Bầu, đàn đá, trống Sagơr (lớn, nhỏ). Hiện nay, nhiều nghề đã thất truyền, mai một. Chỉ còn nghề chế tác đàn Chapi và khèn Bầu là được duy trì ở mức cơ bản. Một số nghệ nhân chế tác 02 loại này sản xuất theo đơn hàng của các đơn vị nhà nước đặt, hoặc bán cho khách du lịch mỗi dịp lễ hội hàng năm.
Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện Bác Ái hiện nay, số lượng nghệ nhân gắn với các nghề truyền thống của người Raglai vẫn còn. Có thể kể đến nghệ nhân Mai Thấm với tài nghệ chế tác gùi, đàn Chapi, nghệ nhân Chamelea Liếp với nghề chế tác khèn Bầu, nghệ nhân Pinăng Trách làm trống Sagơr (trống da trâu). Điều này mở ra cơ hội thuận lợi cho việc khôi phục các nghề truyền thống này trong tương lai gần [UBND Huyện Bác Ái, Báo cáo 2022].
1.1.2. Về văn hóa phi vật thể
1.1.2.1 Về tín ngưỡng, tôn giáo
(i) Tín ngưỡng của dân tộc Raglai
Dân tộc Raglai mang trên mình đầy đủ những tín ngưỡng đa phiếm thần của cư dân Nam Đảo ở Việt Nam nói riêng và cư dân nông nghiệp Đông Nam Á nói chung. Khác với người Chăm - một tộc người được coi là người anh em gần gũi nhất - người Raglai trong lịch sử chưa tiếp nhận những tôn giáo lớn trên thế giới (chỉ mới gần đây có một số hộ theo Tin Lành). Vì vậy, tín ngưỡng tôn giáo của người Raglai mang hình thức tôn giáo sơ khai, chi phối khá đậm nét trong đời sống tinh thần, đó là tín ngưỡng vạn vật hữu linh, thể hiện trong hệ thống lễ hội, chứa đựng các hình thức shaman giáo.
Cũng như các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo khác, người Raglai tin và thờ cúng các vị thần như: yang Chứ (thần núi - cách gọi của người Gia rai), trong khi người Raglai gọi là yang Chơh; yang Ktăn (thần sét); yang Hma (thần ruộng nương); yang Pên la (thần bến nước); yang Hri (thần lúa). Đặc biệt, người Chăm cũng như các dân tộc Nam Đảo đều còn thờ vua Pơtao Ia) và vua Pơtao Puih gắn với truyền thuyết về hai vương quốc Hoả xá và Thuỷ xá. Người Ê đê cũng thờ thần Mặt trời (yang Hroê), thần Mặt trăng (yang Mlan) v.v…Các vị thần ở ba cõi đều tồn tại ở các dân tộc Nam Đảo và vẫn tồn tại ở người Chăm tuy tên gọi có khác đi do sự biến thái của ngôn ngữ.
Trong quan niệm của người Raglai, có rất nhiều vị thần liên quan đến việc sinh đẻ như: vị thần tổ sanh phù hộ cho con người sanh đẻ nhiều con cái được gọi là yang Aluah cadoh sai, viluai cheq, cadoh sai, viluai tavỡm - có nghĩa đen là Giàng Tổ sanh bầu đựng (hột giống) sai trái, bầu gieo, bầu đựng (hột giống) sai trái, bầu vun gốc. Cũng vậy, khi định danh Asur vungãq yawa suàt gajìq - Vía thần hồn hơi thở sinh mạng bản thân người Raglai còn gọi là: Asur gòq lidai - Vía ống bễ lò rèn - một vật thể có hoạt động tương ứng với hoạt động hô hấp của con người. Để phân biệt vị trí quan trọng nhiều ít, thấp cao của vungãq - hồn hay yang vungãq - Thần hồn, người Raglai dùng theo thứ tự con cái trong nhà: yang vungãq cachua - Thần hồn đầu lòng, yang vungãq khrãh - Thần hồn giữa, yang vungãq tiluiq - Thần hồn út [Phan Quốc Anh, 2006, tr.84-89].
Với tín ngưỡng vạn vật hữu linh, người Raglai coi đâu đâu cũng có thần: thần sông, thần suối, thần núi, thần cây, thần nhà, thần bếp, thần gió, thần mưa, thần mặt trời, thần ông, thần bà v.v…Khi con người bị đau bệnh hay mùa màng thất bát đều tin rằng do ma quỷ làm. Vì vậy nên sinh ra đội ngũ thầy cúng (pajau) làm lễ cầu xin và hiến tế.
Người Raglai chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu của miền Trung - Tây Nguyên với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Với một vùng khí hậu đặc biệt khô nóng như cực nam Trung bộ, các cây trồng phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên. Người Raglai cũng có những nghi lễ theo vòng cây trồng theo chu kỳ thời tiết mùa vụ nương rẫy (xem mục Lễ hội truyền thống).
Để thực hiện những nghi lễ cầu cúng, người Raglai phải mời các thầy cúng (shaman) mà người Raglai gọi là “pajau” (bầu dầu) để làm lễ. Hiện nay, những người làm nghề này không còn nhiều.
- Tín ngưỡng dân tộc Raglai đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Raglai.
- Văn hóa tín ngưỡng của người Raglai đang đứng trước nguy cơ mai một do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, xã hội và các yếu tố tôn giáo hiện nay
- Cần có chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Raglai để góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy phát triển du lịch.
(ii) Tôn giáo
Tính đến hết tháng 5/2024, toàn huyện có 524 hộ/1911 khẩu (tăng 06 khẩu so với cuối năm 2023) theo 05 tôn giáo:
- Phật giáo: 97 hộ/274 khẩu, không tăng, giảm so với cuối năm 2023.
- Công giáo: 159 hộ/564 khẩu, không tăng, giảm so với cuối năm 2023.
- Bà La Môn: 56 hộ/218 khẩu, không tăng, giảm so với cuối năm 2023.
- Bà Ni: 18 hộ/95 khẩu, không tăng, giảm so với cuối năm 2023.
- Tin lành: Có 194 hộ/760 khẩu, tăng 06 khẩu so với cuối năm 2023 (xã Phước Bình), theo 4 hệ phái: Hệ phái Tin lành Việt Nam (CMA): 147 hộ/545 khẩu; hệ phái Trưởng lão liên hiệp Việt Nam 17 hộ/73 khẩu; hệ phái Trưởng lão Việt Nam: 26 hộ/119 khẩu; hệ phái Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam: 04 hộ/23 khẩu. (Huyện ủy Bác Ái (2024) – Báo cáo công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2024).
Hoạt động của Đạo Phật, Công giáo, Bà La Môn, Bà Ni: Chủ yếu là người ngoài địa phương đến sinh sống và làm ăn, buôn bán ở địa bàn các xã đều chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, các quy định tại địa phương; chưa có biểu hiện tụ tập đông người tổ chức sinh hoạt đạo trái quy định. Những người theo đạo Bà la môn và Bà ni chủ yếu là người Chăm lên công tác ở huyện Bác Ái.
Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra đều tuân thủ các quy định của nhà nước và quản lý của địa phương nên tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện cơ bản ổn định, không có những diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng đến an ninh-trật tự của địa phương.
1.1.2.2 Lễ hội truyền thống
i) Khái quát về Lễ hội truyền thống của người Raglai
Một số đặc điểm cơ bản
Người Raglai có một kho tàng nghi lễ độc đáo, gồm nghi lễ nông nghiệp và nghi lễ vòng đời người như lễ hội ăn đầu lúa mới, lễ cầu mưa, lễ xuống giống, rễ cũng rẫy, lễ bỏ mả, lễ cưới, lễ trưởng thành, lễ tạ ơn (báo hiếu),… Trong đó, lễ Bỏ mả của người Raglai ở xã Ba Cụm Bắc (Khánh Sơn, Khánh Hòa) đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014; lễ Bỏ mả của người Raglai ở Ninh Thuận được công nhận là một trong tám Di sản Văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2019; Lễ Ăn Mừng lúa mới của người Raglai tại xã Phước Hà, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2023.
Các lễ hội truyền thống của người Raglai ở huyện Bác Ái không chỉ là nơi hội tụ các thành tố văn hóa vật thể và phi vật thể, mà còn giúp duy trì và truyền bá tín ngưỡng dân gian và nghệ thuật đặc sắc của dân tộc. Lễ nghi ăn mừng lúa mới là dịp để tạ ơn thần linh sau vụ mùa bội thu, thể hiện sự biết ơn với thiên nhiên và vũ trụ. Lễ tạ ơn, báo hiếu nhằm tôn vinh và thể hiện lòng hiếu kính đối với ông bà, tổ tiên. Trong lĩnh vực hôn nhân, lễ cưới truyền thống giúp gìn giữ các phong tục tập quán đặc trưng của người Raglai. Lễ bỏ mả, một nghi thức quan trọng trong tín ngưỡng về vòng đời, thể hiện lòng thành kính đối với những người đã khuất. Những lễ hội này không chỉ là sự tôn vinh văn hóa mà còn là cầu nối để truyền tải các giá trị tinh thần quý báu cho các thế hệ sau. Những giá trị này không chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần, mà còn góp phần củng cố sự gắn kết cộng đồng và giữ gìn những nét đẹp truyền thống qua nhiều thế hệ. Ngoài giá trị văn hóa, các lễ hội còn mang tiềm năng lớn về phát triển du lịch và kinh tế cho địa phương. Với tư cách là di sản văn hóa của cộng đồng, lễ hội có thể thu hút du khách, tạo thêm cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Nhờ đó, các lễ hội không chỉ giúp bảo tồn di sản mà còn tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân Raglai, đồng thời góp phần xây dựng hình ảnh địa phương giàu bản sắc trong mắt du khách trong và ngoài nước.
Xu hướng biến đổi trong việc thực hành nghi lễ truyền thống của dân tộc Raglai tại huyện Bác Ái
+ Giai đoạn trước Đổi mới (trước 1986)
Nghi lễ truyền thống gắn bó chặt chẽ với đời sống người dân, được thực hiện thường xuyên và trang trọng. Việc thực hiện các nghi lễ được quy định chặt chẽ trong cộng đồng, từ cách thức, không gian, thời gian, trang phục, lễ vật hay lời khấn. Các nghi lễ quan trọng đều diễn ra trong không gian nhà sàn của mỗi gia đình, không bao giờ thiếu tiếng mã la, lễ vật phong phú từ thức ăn, thức uống đến đồ hút cũng đều quy định chặt chẽ, không thể tùy tiện bỏ qua. Trong trí nhớ người già, đối với lễ báo hiếu, tất cả các con trai và con gái đều có bổn phận thực hiện nghi lễ này đối với cha mẹ của mình, ai có điều kiện thì làm trước. Còn có lễ báo hiếu của cháu gái cho ông cậu trong dòng họ. Cháu gái lớn nhất thì làm lễ báo hiếu cho ông cậu lớn, cháu gái út thì làm cho cậu út. Heo gà để cúng lễ cũng phải do con cháu tự nuôi, rượu cần do con cháu tự ủ, không được trao đổi của người khác mà đem cúng lễ. Lễ cúng diễn ra ở nhà sàn là nơi có đủ mặt con cháu, người thân và cả đội nhạc mã la của gia tộc đến tham dự. Hay đối với lễ bỏ mả, người Raglai phải chuẩn bị hàng tháng trời ủ rượu, làm nhà mồ mới, dựng rạp mả và đặc biệt là chuẩn bị thuyền Kagor làm từ cây gỗ nguyên khối được chạm khắc, trang trí tinh xảo, là quà tặng của người sống đối với người đã khuất, là biểu tượng cho nơi trú ngụ của ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia. Trong 3 ngày diễn ra các nghi lễ, lễ vật luôn phải đầy đủ trên 3 mâm cỗ cúng dành cho ông bà tổ tiên, người đã mất và những thành viên gia đình dòng họ còn ở lại. Tiến trình thực hiện nghi lễ cũng rất khắt khe và được quy định rõ ràng: Ngày thứ nhất: Lễ rước atuw, tổ tiên về chứng giám Kagor; ngày thứ 2 Rước vong linh về cúng và tổ chức bữa ăn lớn để kết thúc mối quan hệ giữa người sống và người chết; ngày thứ ba được xem là ngày chia tay vĩnh viễn người chết, lễ vật và của cải tượng trưng được mang ra nhà mồ để chia tay linh hồn người người đã khuất. Tương tự như vậy, các quy định bất thành văn nhưng vô cùng chặt chẽ đối với lễ hội khác cũng được cả cộng đồng thực hành nghiêm túc trong quá khứ, tiếc thay giờ đây chỉ còn trong ký ức người già.
+ Giai đoạn sau đổi mới (1986 đến nay)
Bắt đầu chịu tác động của kinh tế thị trường và quá trình hiện đại hóa, ảnh hưởng đến tính nguyên bản của nghi lễ. Về phần lễ, xu hướng hiện nay là thực hiện giản tiện hơn so với truyền thống ông bà. Nghi lễ được giản lược bớt, chỉ giữ lại nghi lễ quan trọng, hoặc một số nghi lễ được kết hợp lại chứ không thực hiện tuần tự, cẩn trọng nữa. Trong lễ cưới hiện nay, lễ ăn hỏi và lễ trao vòng thường được thực hiện cùng lúc, gọi là lễ dạm hỏi như người Kinh. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái cũng có nhiều biến đổi cho phù hợp với điều kiện hiện nay, một số địa phương đã bỏ phong tục têm trầu mà cô dâu phải thực hiện để thể hiện sự khéo léo hoặc bỏ quy định lễ vật gồm một cây ná, một ống mũi tên, một mũi lao, một mũi giáo và bốn con dao. Nhờ đó, hai bên gia đình đỡ được phần nào chi phí tổ chức, nhất là những gia đình điều kiện kinh tế không khá giả hoặc ở xa nhau. Trong lễ cưới tại gia đình, các cô dâu Raglai vẫn có thể mặc trang phục truyền thống. Ngoài phần nghi lễ cưới xin, người Raglai ngày nay còn tổ chức tiệc chiêu đãi khách sau hôn lễ như người Kinh, với cỗ bàn, nhạc sống hát những bài hát của người Kinh. Cô dâu mặc đầm cưới (Soiree), chú rể mặc vest. Khách dự tiệc chúc mừng bằng phong thư tiền mặt. Đây là một lựa chọn vừa thực dụng vừa tiện lợi so với việc chuẩn bị quà cưới như trước đây. Với số tiền mừng, cặp đôi mới cưới có thể trang trải chi phí đám cưới, sắm sửa vật dụng và có vốn làm ăn khi bước vào cuộc sống hôn nhân.
Đối với lễ bỏ mả, theo truyền thống, sau 1 đến 3 năm kể từ khi gia đình có người mất, người Raglai mới làm lễ bỏ mả, nay người Raglai không quy định khắt khe nữa, có thể rút ngắn chỉ còn 1 tháng - 1 năm là bỏ mả, thậm chí có gia đình là 3 ngày. Người thân đến dự lễ tang sau 3 ngày có thể ở lại để dự lễ bỏ mả cho đông đủ các thành viên. Việc rút ngắn từ 1 đến 3 năm xuống còn 3 ngày sau khi chôn người chết cho bà con đến dự đám ở lại dự luôn, và cũng để tiết kiệm cho nhà có lễ. Điều này cho thấy tư duy giản tiện và tiết kiệm đã được người Raglai vận dụng mà vẫn giữ được nghi lễ truyền thống của ông bà. Có một số gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn, họ tổ chức lễ bỏ mả rút ngắn thời gian còn 2 ngày thay vì 3 ngày như trước đây, trong đó một ngày chuẩn bị lễ vật và ngày còn lại diễn ra các nghi thức cúng lễ.
Lễ báo hiếu hiện nay cũng diễn ra rất linh hoạt. Trước đây, lễ báo hiếu được tiến hành tuần tự theo vai vế của của những người con trong gia đình, ai lập gia đình trước thì người đó tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ trước. Ngày nay, quy định đó không còn áp dụng một cách bắt buộc nữa, nếu đôi vợ chồng người em có điều kiện về kinh tế thì sẽ báo hiếu cha mẹ trước những người anh chị của mình.
Về phần hội, nếu như trong truyền thống, phần hội của các lễ hội trên gắn với không gian sinh hoạt truyền thống của người Raglai là nhà sàn truyền thống, trong âm thanh của những nhạc cụ truyền thống dân tộc như mã la, kèn bầu, đàn đá,… và các làn điệu ca dao mà ông bà để lại, chung nhau ché rượu cần ngày đêm thì ngày nay phần hội đã biến đổi sâu sắc. Phần hội của các nghi lễ hiện nay là hình thức tiệc hiện đại. Các gia đình sẽ nấu các món ăn cầu kỳ hơn từ thịt heo, gà hoặc đặt từ dịch vụ, uống bia, rượu, các loại nước ngọt đóng chai. Không nhiều gia đình, dòng họ còn sống dưới mái nhà sàn, không còn nhiều người biết chơi mã la, chapi, không còn ai hát điệu siri. Rượu cần ngày nay cũng không phải lên men từ các loại lá rừng để lên men rượu cần truyền thống như trước đây cũng không còn nữa. Người Raglai đã thay thế bằng men nếp có sẵn trên thị trường theo sự tiện lợi. Các ché rượu cần có dung tích 3 lít, 5 lít, vỏ ché màu nâu sáng có in thương hiệu bằng tiếng Việt. Khi làm lễ và ăn uống, nếu hết rượu trong ché, chủ nhà sẽ lấy rượu từ can nhựa đổ thêm vào ché để tiếp tục uống. Hỏi ra thì được biết tất cả rượu cần được mua từ tiệm tạp hóa, ai sản xuất thì người Raglai cũng không biết rõ.
Nhìn chung, người Raglai đã lựa chọn giữ lại những yếu tố cốt lõi, mang tính biểu tượng và quan trọng nhất của các nghi lễ truyền thống, trong khi biến đổi theo hướng đơn giản hóa các phần khác để phù hợp với điều kiện hiện đại. Những biến đổi này là thách thức với công tác bảo tồn nghi lễ truyền thống của người Raglai hiện nay. Đơn giản hóa các nghi lễ có thể dẫn đến mất mát các yếu tố truyền thống quan trọng, làm giảm giá trị và ý nghĩa văn hóa của các nghi lễ. Trong trường hợp việc tái hiện các nghi lễ như một sản phẩm du lịch văn hoá tại cộng đồng Raglai, du khách có thể không được trải nghiệm đầy đủ và chân thực các giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai, làm giảm sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch.
ii) Những kết quả đạt được trong công tác bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của người Raglai
Bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc Raglai là bước đi quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo, góp phần bảo tồn nguồn lực nhân văn để phát triển kinh tế địa phương theo hướng bền vững, trong đó trọng tâm là du lịch cộng đồng. Bàn về công tác này, trong những năm gần đây ở huyện Bác Ái đã có những thành tựu quan trọng là:
+ Hiện nay, các nghi lễ truyền thống điển hình của bà con Raglai đã được địa phương xác định rõ ràng, bao gồm: Lễ bỏ mả; lễ báo hiếu (Tạ ơn), lễ ăn mừng lúa mới và lễ cưới truyền thống. Đây là những nghi lễ điển hình, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, tinh thần và lịch sử của người Raglai, phản ánh sâu sắc đời sống, tín ngưỡng và mối quan hệ cộng đồng. Vì vậy, các lễ hội này được coi là nội dung trọng tâm trong công tác bảo tồn, truyền dạy và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Raglai huyện Bác Ái.
+ Huyện cũng đã thành lập đội nghệ nhân chủ trì việc tái hiện Lễ báo hiếu, Lễ ăn mừng lúa mới tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam và làng Văn hóa – Du lịch dân tộc Việt Nam, ngày hội văn hoá các dân tộc tỉnh Ninh Thuận hay đêm hội Raglai huyện Bác Ái và các không gian văn hoá văn nghệ khác. Việc tái hiện và trình diễn các nghi lễ truyền thống như Lễ báo hiếu, Lễ ăn mừng lúa mới tại các sự kiện văn hóa lớn không chỉ mang ý nghĩa bảo tồn mà còn giới thiệu, quảng bá văn hóa Raglai đến đông đảo công chúng. Qua các buổi trình diễn tại những địa điểm uy tín như Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Làng Văn hóa - Du lịch dân tộc Việt Nam và những sự kiện văn hóa quan trọng, các nghi lễ truyền thống của người Raglai được nâng tầm, trở thành biểu tượng văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Việc đem những nghi lễ này đi trình diễn giúp còn tạo cơ hội giao lưu văn hóa, giới thiệu bản sắc Raglai đến du khách và các cộng đồng dân tộc khác. Đây là cách hiệu quả để người Raglai khẳng định vị thế văn hóa của mình trong bức tranh đa dạng văn hóa của cả nước, đồng thời tạo điều kiện để các giá trị văn hóa sống động được duy trì và phát huy trong xã hội hiện đại. Những sự kiện này cũng là dịp để người dân cảm nhận sự tự hào về bản sắc dân tộc, đồng thời có thể tạo nguồn thu nhập thông qua phát triển du lịch văn hóa.
+ Về công tác truyền dạy nghi lễ truyền thống, đến nay huyện đã tổ chức được 19 lớp truyền dạy cho các thế hệ sau. Thông qua 19 lớp đã được tổ chức, những kiến thức, kỹ năng, và giá trị văn hóa cốt lõi của các nghi lễ truyền thống được các nghệ nhân thế hệ ông bà truyền đạt lại một cách bài bản và có hệ thống cho lớp trẻ. Điều này không chỉ giúp thế hệ trẻ hiểu và nắm vững quy trình thực hiện các nghi lễ mà còn thấm nhuần tinh thần và giá trị thiêng liêng của văn hóa dân tộc mình. Công tác truyền dạy còn là cầu nối giúp giữ gìn sự liên tục của các giá trị văn hóa qua thời gian, tránh nguy cơ mai một hoặc bị lãng quên trong bối cảnh xã hội hiện đại hóa nhanh chóng. Đồng thời, việc đào tạo thế hệ kế cận đảm bảo rằng những nghi lễ quan trọng sẽ được duy trì đúng chuẩn mực và tiếp tục phát huy trong cộng đồng, góp phần vào việc giữ vững bản sắc văn hóa và củng cố sự gắn kết giữa các thế hệ trong cộng đồng Raglai.
Các thành tựu trong công tác bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc Raglai thể hiện một nỗ lực toàn diện và có hệ thống của địa phương. Việc xác định rõ các nghi lễ trọng tâm, sưu tầm và biên soạn thành văn bản, cùng với hoạt động tái hiện nghi lễ tại các sự kiện văn hóa lớn, đã giúp bảo tồn và quảng bá giá trị văn hóa dân tộc một cách sâu rộng. Đồng thời, việc tổ chức các lớp truyền dạy cho thế hệ sau không chỉ duy trì sự liên tục của các nghi lễ mà còn giúp thế hệ trẻ hiểu sâu sắc và tiếp nối tinh thần văn hóa truyền thống. Những bước đi này không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ di sản phi vật thể mà còn góp phần tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của cộng đồng thông qua du lịch và giao lưu văn hóa. Đây là những minh chứng rõ ràng cho sự gắn kết giữa bảo tồn văn hóa và phát triển bền vững của địa phương.
1.1.2.3 Nghệ thuật dân gian Raglai
(i) Văn học dân gian
Văn học dân gian là một mảng còn trống trong việc nghiên cứu văn hóa dân tộc Raglai. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập hợp một cách đầy đủ về di sản văn học dân gian Raglai. Đây là một lĩnh vực cần cấp bách sưu tầm, biên dịch và xuất bản. Qua đợt điều tra, khảo sát, chúng tôi thấy văn học dân gian rất phong phú đa dạng cả về nội dung lẫn thể loại. Các thể loại văn học dân gian đều có ở người Raglai. Đó là các thể loại chuyện cổ, chuyện thơ, ca dao, dân ca, sử thi, thành ngữ, tục ngữ, câu đố. Trong đó, đáng chú ý nhất là trữ lượng sử thi khá lớn đã và đang được sưu tầm, biên dịch và xuất bản.
Các thể loại văn học dân gian Raglai thường được thể hiện bằng văn vần. Văn vần Raglai vừa gieo ở vần bình lại vừa gieo ở vần trắc giống như loại văn vần của người Chăm.
(ii) Chuyện cổ (tarikal hoặc yulukal)
Chuyện cổ có thể hiểu là chuyện đời xưa. Trong các làng Raglai hiện nay, người còn nhớ và có thể kể chuyện cổ rất ít. Số nghệ nhân có thể hát kể chuyện cổ lại càng ít hơn. Đối với các tộc người chưa có chữ viết để ghi chép bảo lưu, các nghệ nhân chính là cái kho lưu trữ và phổ biến, truyền lại tất cả các di sản văn hóa phi vật thể của tộc người đó. Nghệ nhân còn nhớ, còn hát kể chuyện cổ, hát kể sử thi một cách trọn vẹn hiện ở cộng đồng bà con Raglai còn rất ít. Trong toàn tỉnh Ninh Thuận hiện nay, chỉ còn có hai nữ nghệ nhân đã luống tuổi có thể hát kể chuyện được trọn vẹn một vài sử thi, các nghệ nhân khác mỗi người nhớ một đoạn, nên việc sưu tầm gặp nhiều khó khăn.
(iii) Chuyện cổ thông qua hình thức kể (Ikhat yulukal)
Đây là thể loại chuyện chỉ kể bằng lời mà không hát. Cũng có thể câu chuyện kể vốn đã là văn vần, vốn là chuyện thơ, xưa kia là chuyện hát kể, nhưng nay người kể chuyện không hát được hoặc không muốn hát nên họ chỉ kể bằng lời mà thôi.
Chuyện cổ Raglai khá nhiều. Tuy vậy, chuyện kể nào dài nhất cũng chỉ ghi âm được trên dưới 2 băng cassette 90 phút (tương ứng với khoảng 3 giờ đồng hồ kể chuyện). Trong quá trình sưu tầm điền dã, bước đầu nhóm sưu tầm đã ghi âm được một số chuyện như: Chay Bbơloh (chàng Gáo), Chay Kra (cậu Khỉ), Chay Kra mưk (Cậu Khỉ vàng), Patao Rang, Patao Klat (Thần Trăn, Thần Rắn), Chay Maja (Cậu Chồn), Ya Rimoong (ông Cọp), Patao Kiăk (Thần ếch), Kumay dămsa - dara Rôbbăk (hai chị em Tằm - Xà và Rô - bá), Chay Taleăk (Anh chàng thổi sáo)..v..v...
(iv) Hát kể chuyện cổ, chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn (hari ikhat yulukal)
Là những chuyện cổ được kể bằng lời hát, bao gồm cả chuyện kể bằng thơ, và hát kể chuyện sử thi. Hiện nay, số chuyện cổ dưới hình thức hát kể không nhiều, ngoại trừ hát kể chuyện sử thi.
Trong loại hình hát kể chuyện này, số lượng về chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ khoảng 80%. Chuyện thơ ngụ ngôn được hát kể thường lên án, phê phán kẻ lười nhác, độc ác, bênh vực người lương thiện, nghèo khổ, yếu thế. Tính triết lý của chuyện thường là “tham thì thâm, độc ác phải chết, người hiền lành, tài trí đều là con của trời và cái thiện sẽ thắng”.
Chuyện thơ phản ánh thiên nhiên, đời sống xã hội. Hầu hết đều là những tấm gương phản chiếu buổi bình minh của người Raglai cổ. Cái thuở mà mọi sinh vật đều biết nói. Thậm chí đá, cây cũng biết nói và vật dụng thường nói nhiều nhất. Tiên tri mọi việc là nhạc cụ mã la. Cái thuở mà thiên nhiên, con người và mọi sinh vật dường như sống hòa vào với nhau. Thiên nhiên vừa là tai họa hằng ngày vừa là ân nhân của con người. Cái thuở mà mỗi ngon núi, con suối, cái cây, con vật có thể là thần, có thể là quỉ. Con người cũng có thể là thánh nhân mà cũng có thể là ma, quỉ đội lốt người.
Qua quá trình sưu tầm, chúng tôi đã nghi chép được các chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn bằng cách hát kể như: Ja Balut (tên nhân vật), Toh Lăr (chuyện ngụ ngôn), Chay Gilâu (Cậu Trầm), Bhu (người ma), Chay Taleăk - Kumay Bhu (Chàng thổi sáo và cô gái ma), Ja Tarahit (tên nhân vật ), Chay Ta Anrok (Cậu Cóc), Ano Joh Rong (chàng Lưng gù), Anai patik kok dan (Nàng cò trắng), Anai Jajoai (nàng Chuối), Anai Atuk Ruvuk (nàng Búp măng) Anai Jah Danăng (Cô tháo phên), Chay Adoa (Chàng ốc) ..v..v...
(v) Hát kể chuyện sử thi (hari ikhat yulukal)
Sử thi là những chuyện dài được kể chuyện bằng lời hát của nghệ nhân. Cốt chuyện của sử thi thường rất phức tạp. Nhiều tuyến nhân vật xoay quanh một trục trung tâm là nhân vật anh hùng của cộng đồng. Họ đấu tranh, sống, chết vì lẽ phải, bảo vệ lợi ích của cộng đồng, vì sự phát triển nòi giống, mở mang vùng lãnh địa. Tất cả những mục đích nói trên đều phải trải qua chiến tranh để giành lấy. Sử thi được ví như những viên ngọc quí, là báu vật truyền lại từ muôn đời xưa mà không phải tộc người nào, dân tộc nào cũng có được.
Giá trị đích thực của loại văn chương truyền miệng này là những gì thuộc về nội dung thông qua lời văn, lời hát, giai điệu, giọng hát và đặc biệt là không gian, ngữ cảnh của nghệ nhân diễn đạt. Sử thi có thể giúp chúng ta tìm ra được nguồn gốc và quá trình tộc người, về những cuộc chiến tranh giành giật lấy sự sống, giành lãnh thổ, giữ gìn tộc người và vì lẽ phải. Sử thi cũng chính là kho tàng văn hóa dân gian của một tộc người, trong đó có các tư liệu lịch sử, tư liệu về vũ trụ quan, nhân sinh quan của các thời kỳ tộc người, những tư liệu về đời sống kinh tế, đời sống xã hội, quan niệm tâm linh từ thuở hồng hoang v.v…Tóm lại, sử thi là kho tàng di sản của bản sắc văn hóa của một tộc người. Kho tàng sử thi mà chúng tôi sưu tầm được cho thấy người Raglai vốn có một nền văn hóa lâu đời, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc sắc.
Đến năm 2005, qua điều tra, sưu tầm, chúng tôi đã phát hiện được 15 chuyện cổ có dấu hiệu sử thi. Cùng với chương trình sưu tầm, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên do Viện nghiên cứu văn hóa chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa thông tin tỉnh Ninh Thuận, nhóm công tác sử thi của Sở Văn hóa thông tin Ninh Thuận đã tiến hành sưu tầm, ghi âm 92 băng của các sử thi (Phan Quốc Anh (2010).
(vi) Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố
Ca dao
Có thể xa xưa, người Raglai đã từng có ca dao, nhưng hiện nay ở các làng Raglai, người già chỉ còn nhớ được ca dao trong thời kỳ kháng chiến. Trong quá trình sưu tầm, chúng tôi chưa tìm ra một người nào còn nhớ ca dao cổ, dù những người thực hiện đề tài đã lặn lội tìm kiếm ở nhiều làng. Chỉ tìm được những câu ca dao “hiện đại”.
Câu đố
So sánh với các loại hình khác, câu đố Raglai là một loại hình ổn định, tương đối bền vững và phổ biến. Người Raglai từ già, trẻ, gái, trai Raglai đều còn nhớ. Đây là một loại hình dễ nhớ, dễ thuộc vì các câu đố ngắn, gọn, ít có dị bản, tương đối bền vững. Lứa tuổi thiếu nhi là đối tượng học thuộc ở lớp người lớn tuổi và hay sử dụng.
Trong toàn bộ các loại hình thuộc lĩnh vực văn học dân gian Raglai, loại hình đáng quan tâm và cần sưu tầm gấp là sử thi và chuyện cổ vì các nghệ nhân còn thuộc và hát kể chuyện được loại hình này hiện cón rất ít và đều đã lớn tuổi. Đây là những loại hình chứa đựng nhiều tư liệu về văn hóa cổ truyền nhất của người Raglai mà nếu mất đi thì không bao giờ có thể lấy lại được.
Dân tộc Raglai có hệ thống lễ hội phong phú. Có lễ hội là có âm nhạc. Trong các nghi thức cúng tế, người Raglai đều sử dụng nhạc cụ truyền thống và các giai điệu âm nhạc dân gian. Cũng như các dân tộc thiểu số ở miền Trung - Tây Nguyên, đa phần các nhạc cụ của người Raglai đều là những vật thiêng, đều có linh hồn. Đặc biệt là mã la, một loại nhạc cụ gõ bằng đồng mang tính đặc trưng của các dân tộc nằm trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên mới được UNESSCO công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại. Theo quan niệm của người Raglai, mỗi chiếc mã la là một vị thần, chỉ có âm thanh của mã la là có thể thay tiếng nói con người để giao tiếp với thần linh. Vì vậy, mã la là một trong những nhạc cụ thiêng, được để nơi trân trọng trong nhà sàn, mỗi lần lấy xuống làm lễ đều phải cúng. Ngoài mã la, người Raglai còn nhiều loại nhạc cụ phong phú khác.
(vii) Âm nhạc dân gian
Tổng quan về hệ thống nhạc cụ Raglai
Nhóm tư vấn đã khảo sát và nhận thấy, hiện người Raglai có những nhạc cụ sau:
Bộ gõ gồm: Mã - la (char); Trống (saggơr); Chiêng núm (chiek); Trống đất (saggơr tanah); Chiêng là – a (chiek pa – or); Lục lạc chùm; Đàn đá.
Bộ hơi gồm: Kèn/khèn bầu sarakel và kèn bầu kupoăt; Kèn sừng (gadet); Sáo 6 lỗ loại lớn (taleăk); Sáo 6 lỗ loại nhỏ (talakung); Sáo 1 lỗ, có lưỡi gà (kok t’re); Sáo dài (kawau)
Bộ dây gồm: Nhóm bộ dây gảy có: đàn Chapi; Đàn kéo 1 dây hoặc 2 dây (kanhi); Nhóm bộ dây búng có: Đàn môi búng a(wach) và đàn môi giật (radik - các loại đàn môi này cũng gần giống với các loại đàn môi của các dân tộc khác) [Phan Quốc Anh, 2006, tr.145, 146].
Thực trạng về âm nhạc dân gian Raglai
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về văn hóa dân tộc bằng những chính sách, cơ chế, với sự kiện tái lập huyện Bác Ái, trong những năm qua, nghệ thuật âm nhạc dân gian Raglai đã được lãnh đạo huyện Bác Ái quan tâm, sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên âm nhạc dân gian của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, của ngưởi Raglai ở huyện Bác Ái nói riêng đang gặp nhiều thách thức, nhưng cũng có những cơ hội mới để phát triển và bảo tồn. Thực trạng hiện nay có thể khái quát qua một số khía cạnh sau:
- Suy giảm về số lượng nghệ nhân và người kế thừa: Các nghệ nhân lớn tuổi, người giữ gìn và truyền dạy âm nhạc dân gian, đang dần qua đời mà không có người kế thừa. Thế hệ trẻ ít có cơ hội hoặc không mặn mà học hỏi và gắn bó với âm nhạc truyền thống.
- Biến đổi về phong cách và nội dung: Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa, âm nhạc dân gian của các dân tộc thiểu số đang dần biến đổi. Một số điệu múa, bài hát truyền thống được cải biên để phù hợp với thị hiếu mới, điều này có thể làm mất đi bản sắc nguyên gốc của âm nhạc dân gian.
- Thiếu sự hỗ trợ và bảo tồn hiệu quả: Mặc dù có nhiều chương trình và dự án bảo tồn, tuy nhiên nguồn lực hạn chế khiến việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều dự án dừng lại ở mức tổ chức các lễ hội, mà chưa đi sâu vào nghiên cứu và phát triển lâu dài.
- Xu hướng hiện đại hóa và hội nhập âm nhạc quốc tế: Âm nhạc dân gian dần bị lu mờ bởi âm nhạc hiện đại, đặc biệt là ở các khu vực có sự giao thoa mạnh mẽ với văn hóa phương Tây và âm nhạc của người Kinh. Nhiều người trẻ thích âm nhạc hiện đại hơn là các giai điệu dân gian truyền thống.
- Tiềm năng bảo tồn và phát huy qua du lịch và giáo dục: Du lịch cộng đồng và các chương trình giáo dục có thể là một giải pháp để khơi dậy tình yêu và ý thức bảo tồn âm nhạc dân gian trong giới trẻ. Một số địa phương đã tích cực quảng bá văn hóa âm nhạc dân gian qua các chương trình biểu diễn cho khách du lịch.
- Ứng dụng công nghệ vào công tác bảo tồn và phát huy: Công nghệ hiện đại có thể hỗ trợ lưu giữ và phổ biến các tác phẩm âm nhạc dân gian thông qua ghi âm, ghi hình, cũng như tổ chức các chương trình trực tuyến để thu hút sự quan tâm từ công chúng trẻ.
Các giải pháp bảo tồn và phát triển âm nhạc dân gian cần phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, tăng cường giáo dục, và có sự đầu tư từ nhà nước cũng như cộng đồng và kêu gọi các nguồn của các thành phần kinh tế có liên quan đến đầu tư khai thác tiềm năng tự nhiên và xã hội ở huyện Bác Ái.
1.1.2.4 Trang phục truyền thống
i) Đặc điểm trang phục nữ Raglai
Áo nữ Raglai: Phụ nữ Raglai có hai loại áo truyền thống đó là áo quang (au kuang) và áo lóa quang (loăh kuang), trong đó: Áo quang là loại áo chui đầu cổ tròn hoặc vuông, áo ngắn dưới rốn, ống tay áo chỉ dài đến trên mắt cá tay. Nền áo chỉ có hai mảng màu đen và trắng (trừ các đường trang trí ở ống tay áo) hoặc đen và nhạt, trừ màu đỏ. Ống tay áo dài đến cẳng tay, để khoe vòng tay, có ba khoang từ dưới lên: đen, trắng, đen hoặc đậm, nhạt, đậm. Màu đậm hay nhạt thường đi với lứa tuổi [Hải Liên, 2001, tr.152]. Áo lóa quang là loại áo dài xuống dưới gối nhưng vẫn có hai màu cơ bản là đen, trắng hoặc đậm, nhạt như áo quang [Phan Quốc Anh, 2010, tr.224]. Áo lóa quang của phụ nữ Raglai khác với áo lóa quang của phụ nữ Chăm ở chỗ: hai ống tay áo thường có 3 khoang đen, trắng, đen hoặc đậm, nhạt, đậm.
Yếm: Yếm là áo lót để che từ cổ xuống dưới vú. Phụ nữ Raglai thường may yếm bằng vải màu hồng, tím hoặc xanh [Hải Liên, 2001, tr.153]. Nhìn chung hình dáng của yếm không khác gì yếm của người Việt trước đây: cũng mảng vải hình thang, đáy nhỏ và hai cạnh là những đường khuyết vào trong, ở bốn góc có đính vào bốn sợi dây vải. Hai dây trên cột ra sau cổ. Hai dây dưới cột ra sau lưng. Trước đây đa số phụ nữ Raglai đều mặc yếm.
Váy: Váy của phụ nữ Raglai có hai loại: váy mảnh và váy thùng. Cả hai loại bà con đều dùng vải màu đen hoặc màu đậm, hình chữ nhật, chiều dài từ 1,3m đến 1,6m, chiều rộng (tức chiều dài của thân váy) từ 0,8m đến 1m. Váy thùng là loại váy đã may kín lại như cái thùng. Đối với váy mảnh, khi mặc người ta choàng tấm vải theo chiều dài vòng quanh eo bụng sao cho hai mí vải giáp nhau [Hải Liên, 2001, tr.154].
Thắt lưng (dây lưng): Đây là một dây lưng rời bằng vải được đính thêm ở phía dưới một mảng vải hình tam giác, trùng màu với vải ở phần ngực áo quang. Khi mặc, hình tam giác này được đặt vào hơi chếch về một phía ở trước bụng sao cho góc bù còn thòi xuống dưới lai áo quang từ 7 đến 10 phân. Thắt lưng ở ngoài cạp váy được siết lại, giữ cho cạp váy khỏi bung ra [Hải Liên, 2001, tr.154].
Hoa văn trên váy và áo: Ngoài hai màu đen, trắng hoặc đậm và nhạt của vải cùng hai ống tay áo có khoang ra, thì vị trí đập vào mắt người khác là hoa văn ở gấu váy của phụ nữ Raglai. Hoa văn Raglai chỉ là những đường vải màu khiêm tốn xanh, trắng, vàng, đỏ, tím xếp liền nhau, chạy song song với đường mép của gấu váy. Những đường màu ấy là một loại vải khác được cắt ra, khâu vào trên nền vải màu đen hoặc xám,…, hoặc giữa hai mảng màu gồm nhiều đường màu tạo thành dải ấy là những màu lớn gấp khúc mang hình núi, hình sóng mà các đỉnh của nó hướng lên trên.
Khăn đội đầu: Khăn đội đầu chỉ dùng cho các cụ, các bà và phụ nữ đã có gia đình, có con. Khăn đội đầu thường là một mảnh vải hình chữ nhật chiều dài từ 70 đến 80 phân, bề ngang từ 20 đến 30 phân. Bà con thường dùng khăn có màu hoặc sọc màu: xanh, nâu nhạt, tím hoặc trắng ngà có nhiều sọc màu dọc theo chiều dài. Khăn được quấn quanh đầu hai vòng, dắt hai mối, bỏ chéo trước đỉnh đầu, vắt sang hai bên, sau mang tai [Hải Liên, 2001, tr.158-159].
Bông tai: Bông tai hình nấm bằng đồng thau, đính tua đỏ bằng len hoặc bằng sợi vải đang là đồ trang sức phổ biến ở tất cả các làng Raglai.
Kiềng đeo cổ: Kiềng của phụ nữ Raglai vốn làm bằng đồng hoặc bằng bạc. Đường kính của kiềng từ 15 đến 16cm. Để có kiềng, bà con dùng một sợi dây đồng hoặc bạc rỗng ruột hoặc đặc ruột lớn bằng đầu mút đũa con, uốn thành vòng tròn. Hai đầu sợi đồng giáp nhau tạo thành một kẽ hở rất bé. Sau này, người Raglai phổ biến loại kiềng là 02 nửa đường tròn, đặt vào đó hai cái khóa mở và đóng cho tiện sử dụng.
Chuỗi hạt cườm: Phụ nữ Raglai thường dùng hai loại chuỗi cườm để đeo cổ: chuỗi hạt cườm bện và chuỗi rời. Chuỗi bện gồm nhiều sợi, đánh xoắn lại với nhau như dây thừng. Chuỗi rời chỉ có một dây, xâu các hạt có màu ở trên rừng lại thành chuỗi. Thường chỉ mỗi sợi chỉ xâu các hạt cùng màu. Đây là chuỗi hạt cườm trang trí cổ. Có chuỗi dài, chuỗi ngắn, nhiều màu xanh, trắng, đỏ, tím, vàng, nâu,…Loại chuỗi này không chỉ dành cho phụ nữ mà các bé gái cũng theo.
Vòng cổ tay và cẳng chân: Vòng cổ tay và cẳng chân hầu hết đều bằng đồng và cũng có khóa mở, đóng như kiềng. Phụ nữ thường đeo hai cổ tay hai vòng, hai cẳng chân hai vòng. Riêng vòng chân chỉ thấy các cụ bà và các em bé thường mang.
Túi đựng trầu thuốc: Túi đựng trầu thuốc được gọi là túi bông, túi hoa. Đây là vật trang trí không thể thiếu của phụ nữ Raglai xưa, nhất là các cô gái. Nó giống như chiếc đãy, bằng bàn tay, cổ có dây rút, dưới cổ người ta trang trí chung quanh một dải vải màu có những hoa văn hình bông đâu cút màu vàng hoặc tím. Túi đựng trầu thuốc hầu hết đều dùng màu cổ chim cu và những hạt tròn trắng, đen lấm tấm tô điểm trên dải vải màu hoặc hình bông đậu cút. Mỗi cô gái thường mang hai túi đựng trầu thuốc, được quàng từ phía sau cổ bằng một sợi dây màu nâu - đỏ dính liền hai túi lại với nhau. Hai túi được bỏ thõng ra phía trước ngực.
ii) Đặc điểm trang phục nam Raglai
Áo: Đàn ông Raglai phải dùng các loại vỏ cây mềm, dai hoặc dùng lá dứa đất đan thủ công làm áo. Loại áo này không có tay. Nó chỉ là một tấm vỏ cây hình chữ nhật được gấp đôi, khoét cổ ở giữa lằn gấp, khâu kín từ dưới nách trở xuống để có một chiếc áo chui đầu. Để làm đẹp cho chiếc áo chui đầu bằng vải đen ấy, phụ nữ Raglai đã viền thêm cho chồng, con của mình những đường viền ở cổ áo, nách áo, lai áo bằng những nẹp vải, màu trái đậu cút (nâu đỏ) hoặc màu hoa đậu cú (vàng, tím) hoặc màu cổ chim cu (xám) trên nền vải đen [Hải Liên, 2001, tr.165].
Khố: Khố của đàn ông Raglai là một khổ vải dài, hình chữ nhật, bề ngang khoảng hai mươi phân, dài trên dưới một mét, màu đen hoặc xám. Hai đầu của khổ vải làm khố này được vắt vào phía trong một sơi dây buộc quanh bụng, sao cho không bị dúm lại để kéo xuống, che kín phía trước và phía sau. Phần giữa của khổ vải ôm sát bộ phận sinh dục. Để làm đẹp cho khố, về sau bà con viền thêm một nẹp vải màu cổ chim cu hoặc màu hạt đậu cút đã khô (nâu đỏ) nhưng vẫn không có tua ở dưới [Hải Liên, 2001, tr.169].
iii) Thực trạng công tác bảo tồn trang phục truyền thống của người Raglai tại huyện Bác Ái
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy, huyện ủy Bác Ái đã ban hành Chỉ thị 06-CT/HU ngày 15/7/2016 về việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng, đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn huyện. UBND huyện đã xây dựng Đề án Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn huyện giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án đã được HĐND huyện phê chuẩn tại Nghị quyết số 152/NQ-HĐND ngày 18/12/2019). Tiếp đó, UBND huyện Bác Ái đang tập trung chỉ đạo giao phòng Văn hóa và Thông tin chủ trì phối hợp với các ngành, UBND các xã xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Raglai gắn với xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2024 - 20230, tầm nhìn đến năm 2045. UBND các xã cũng tích cực triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 về phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với nội dung phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Sau thời gian quyết liệt thực hiện các giải pháp, nhiều giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số ở Bác Ái, trong đó có người Raglai đã được bảo tồn. Riêng đối với trạng phục: năm 2022, từ chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, huyện đã hỗ trợ trang phục truyền thống cho 10 đội văn nghệ dân gian. Năm 2023, Huyện đã phê duyệt kế hoạch hỗ trợ trang phục truyền thống cho 15 đội. Các dòng họ gia đình, các khu dân cư và các đơn vị trường học đều bắt đầu đưa trang phục truyền thống dân tộc Raglai vào trong các buổi lễ, hội diễn, liên hoan văn hóa văn nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nhân rộng hướng tới phổ biến trong cộng đồng dân cư. Một số trường đã chọn trang phục Raglai làm đồng phục đối với học sinh người Raglai. Điều này cho thấy công tác bảo tồn trang phục truyền thống của người Raglai tại huyện Bác Ái bắt đầu có những tín hiệu tích cực, được đông đảo người Raglai trên địa bàn ủng hộ [Theo Báo cáo số 23/BC-VHTT ngày 09/10/2024].
1.2. Những hạn chế tồn tại
- Trong những năm qua, huyện Bác Ái chưa đủ nguồn lực về tài chính, cơ sở vật chất-phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực để phục vụ cho công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống của người dân truyên địa bàn Huyện, trong đó có người Raglai. Điều này cũng là khách quan vì Bác Ái là một trong những huyện khó khăn nhất của tỉnh Ninh Thuận.
- Trong quá trình xây dựng và thực thi các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai ở Bác Ái, chưa có sự hợp tác, phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các bên liên quan như: đại diện cộng đồng Raglai (nhất là những người có uy tín trong cộng đồng), chính quyền (các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lĩnh vực văn hóa), các nhà nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực văn hóa, các doanh nghiệp du lịch, lữ hành.
- Chưa có văn bản hướng dẫn chính thức về việc thực hiện các nghi lễ trong Lễ hội truyền thống được triển khai đến cộng đồng người Raglai.
- Thái độ và tinh thần tự ý thức của một bộ phận người Raglai trong của việc bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc mình chưa cao. Bên cạnh đó, một bộ phận người Raglai chưa quen và hòa nhập được cuộc sống xã hội mới vốn đòi hỏi bản thân mỗi người phải tích cực, năng động hơn trong việc tìm kiếm các sinh kế mới, bền vững và mang lại nhiều giá trị kinh tế hơn. Đây là rào cản rất lớn trong việc vận động người Raglai tham gia các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.
- Việc thực hành và tham gia các nghi lễ, lễ hội truyền thống; thực hành biểu diễn nghệ thuật và chế tác nhạc cụ dân gian, sử dụng trang phục truyền thống trong cộng đồng người Raglai có xu hướng ngày càng giảm. Nhiều hoạt động văn hóa truyền thống gắn với lễ hội, tín ngưỡng, biểu diễn nghệ thuật dân gian đã không còn tồn tại trong đời sống xã hội.
- Nhiều biểu đạt văn hóa truyền thống đặc sắc của người Raglai như ẩm thực, trang phục, nhà sàn, lễ hội, âm nhạc dân gian, nghề truyền thống,…chưa được khai thác từ khía cạnh kinh tế văn hóa nên chưa mang lại những sinh kế bền vững cho cộng đồng người Raglai.
2. DỰ BÁO XU THẾ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA HUYỆN BÁC ÁI TỪ NAY ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN 2045
2.1. Cơ hội và tiềm năng
Với sự quan tâm sâu sát của Đảng Bộ, HĐND, UBND huyện Bác Ái, cũng như sự tham gia tích cực của các nhà khoa học, các doanh nghiệp và nhiều bên liên quan khác, từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các giá trị văn hóa truyền thống của người dân ở huyện Bác Ái nói chung, của người Raglai nói riêng có những cơ hội và tiềm năng bảo tồn và phát triển sau:
- Trong cái không gian văn hóa truyền thống chung hiện hữu sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hơn những giá trị, những biểu đạt văn hóa mới được du nhập vào trong đời sống xã hội của người dân Bác Ái. Khi đó, những giá trị văn hóa truyền thống và giá trị văn hóa đương đại sẽ cùng nhau tồn tại và phát triển đan xen nhau trong cùng một môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội. Khi đó, bức tranh đời sống văn hóa của người dân huyện Bác Ái sẽ đa sắc, sinh động và ngày càng thể hiện tính văn minh, hiện đại những vẫn đảm bảo những bản sắc văn hóa truyền thống của các tộc người.
- Nhiều di sản văn hóa của các tộc người, trong đó trọng tâm là người Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái sẽ được bảo tồn và phát triển tốt hơn. Quá trình bảo tồn những giá trị di sản văn hóa truyền thống sẽ được thực hiện theo quan điểm “Bảo tồn động”. Quan điểm bảo tồn này sẽ giúp cho các giá trị di sản văn hóa của nhân dân huyện Bác Ái có cơ hội phát huy trong môi trường đời sống xã hội mới thông qua phục vụ cho hoạt động du lịch với 02 loại hình du lịch chính là du lịch văn hóa và du lịch cộng đồng.
- Sẽ hình thành một “Không gian văn hóa Raglai” với đầy đủ những khía cạnh, màu sắc sẽ được biểu đạt một cách sinh động trong chính môi trường văn hóa-cảnh quan văn hóa vốn có của cộng đồng người Raglai ở Bác Ái. Đây có thể được xem là một ví dụ điển hình về sự thành công trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa của một tộc người trong chính môi trường sống vốn có của họ. Biến tổng thể môi trường cảnh quan hiện hữu của người Raglai thành một “Bảo tàng sống” cho những bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống của chính họ. Nhờ đó, sức sống của những giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai sẽ được nâng cao.
2.2. Khó khăn và thách thức
Trong xu hướng biến đổi văn hóa của huyện Bác Ái trong giai đoạn tới, bên cạnh những cơ hội và tiềm năng, những giá trị và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện nhiều khả năng phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức sau:
- Những biểu đạt văn hóa ngoại lai không phù hợp với thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức, lối sống và giá trị văn hóa truyền thống thâm nhập vào đời sống văn hóa xã hội của người dân. Quá trình này có thể diễn ra âm thầm, một cách tự nhiên, trong thời gian dài. Có thể nói việc các giá trị văn hóa mới thâm nhập vào đời sống của các cộng đồng cư dân là quy luật không thể đảo ngược trong bối cảnh hội nhập, mở rộng hợp tác và phát triển kinh tế, văn hóa như hiện nay. Tuy nhiên, nếu quá trình này không được kiểm soát tốt bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như khả năng “tự kháng thể” của cộng đồng người dân thì nhiều khả năng ở Bác Ái sẽ hình thành đời sống văn hóa – xã hội mới nhưng thiếu tính bản sắc tộc người.
- Nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của người dân trên địa bàn huyện Bác Ái không đủ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa tộc người mà Đảng bộ và chính quyền Huyện đã đặt ra. Hệ lụy là nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các cộng đồng tộc người như Raglai bị mai một, thậm chí là biến mất trong đời sống thực tiễn của người dân. Điều này dẫn đến những “khoảng trống” trong đời sống văn hóa mới, và nó nhanh chóng được “lấp đầy” bởi những giá trị văn hóa mới mà trong đó, nhiều giá trị văn hóa không phù hợp cộng đồng, pháp luật.
- Quá trình tự chuyển biến, tự thay đổi những thực hành văn hóa truyền thống sang những thực hành văn hóa đương đại của các cộng đồng tộc người. Quá trình này là điều tất yếu sẽ diễn ra trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự ảnh hưởng sâu sắc của các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại. Đây mới thật sự là vấn đề đáng quan ngại nhất trong quá trình biến đổi đời sống văn hóa của người dân ở Bác Ái trong thời gian tới. Quá trình này sẽ đặt ra cho các cơ quan chức năng về quản lý và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc ở Bác Ái những thách thức rất lớn trong việc tìm ra phương pháp khả thi và hiệu quả nhất để đảm bảo rằng quá trình tiếp xúc, tiếp thu và tiếp biến văn hóa trong cộng đồng người dân, trong đó có người Raglai luôn được thực thi trên nền tảng những giá trị văn hóa truyền thống.
3. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
3.1. Quan điểm xây dựng Đề án
- Những nội dung, mục tiêu và các nhiệm vụ của Đề án được đề ra dựa trên các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói riêng.
- Những nội dung, mục tiêu và các nhiệm vụ mà Đề án đặt ra đều phải được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích của cộng đồng cư dân ở địa phương – trọng tâm là người Raglai. Những lợi ích này tập trung vào các nhóm quan trọng nhất là: 1- Lợi ích kinh tế: Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập thông qua sinh kết bền vững-du lịch văn hóa/du lịch cộng đồng. 2-Lợi ích văn hóa: Giảm thiểu nguy cơ mai một những giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai trước sự tác động không mong muốn của nền kinh tế thị trường, môi trường xã hội mới. 3- Lợi ích xã hội: Góp phần giảm thiểu khả năng đứt gấy các cấu trúc gia đình, cấu trúc xã hội truyền thống của người Raglai thông qua việc giảm tình trạng “Ly nông – ly hương” và hướng đến đạt mục tiêu bền vững “Ly nông không ly hương”. 4- Lợi ích chính trị: Góp phần duy trì và phát triển vững chắc niềm tin của cộng đồng người Raglai nói riêng, các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bác Ái nói chung đối với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đó là cơ sở đặt biệt quan trọng để xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc-một trong những mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước.
- Những nội dung, mục tiêu và các nhiệm vụ của Đề án phải được đặt trong mối tương quan với các chiến lược, quy hoạch, đề án, kế hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, phát triển của từng ngành, lĩnh vực liên quan đã được ban hành trên địa bàn huyện Bác Ái.
- Việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Raglai, hướng tới xây dựng hình thành không gian văn hóa Raglai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 phải dựa trên cơ sở tôn trọng khách quan, không áp đặt tư duy chủ quan của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phải chắt lọc những cái hay, cái đẹp, cái bản sắc của giá trị văn hóa Raglai và phải phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.
- Để những mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án được thực hiện thành công, cần sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị ở huyện Bác Ái, sự đồng thuận của cộng đồng cư dân-trọng tâm là người Raglai, sự phối hợp một cách hệ thống và nhịp nhàng, hiệu quả của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể có liên quan đến những lĩnh vực mà Đề án đưa ra. Đối với địa phương các xã chủ động nghiên cứu xây dựng và triển khai Kế hoạch cũng như các nhiệm vụ giải pháp về bảo tồn các giá trị Văn hóa Raglai phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế tại từng địa phương.
- Để đủ nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án, cần tận dụng tối đa các nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, tỉnh và nguồn lực đầu tư ngoài xã hội.
- Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương thức quản lý xã hội trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ các địa phương khác, đồng thời nâng cao nhận thức và năng lực của địa phương, tham khảo các chuyên gia, nhà nghiên cứu và tạo sự chung tay từ các dòng họ, gia đình và cộng đồng dân tộc Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái.
3.2. Mục tiêu xây dựng Đề án
3.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nhận diện được những thành tựu và hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống của người Raglai ở huyện Bác Ái để làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp xây dựng không gian văn hóa Raglai ở huyện Bác Ái giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong mối tương quan kết nối văn hóa giữa huyện Bác Ái với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Đó cũng là những giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn, kế thừa có chọn lọc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Raglai gắn với phát triển các loại hình du lịch; ngăn chặn kịp thời những biến đổi văn hóa theo xu hướng ngoại sinh, làm mai một những thành tố cơ bản của văn hóa truyền thống Raglai; giúp văn hóa của người Raglai ở huyện Bác Ái tiếp nhận những giá trị văn hóa mới, hình thành nếp sống văn hóa, văn minh, hướng tới xây dựng cộng đồng dân tộc Raglai phát triển toàn diện, bền vững cả về đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới của đất nước.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
3.2.2.1. Giai đoạn 2025 – 2030
- Đánh giá được những kết quả cụ thể trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật chất truyền thống của người Raglai gồm: nhà sàn truyền thống, nghề thủ công truyền thống, hiện vật gắn với lịch sử văn hóa và lịch sử cách mạng của người Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái;
- Đánh giá được những kết quả cụ thể trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể truyền thống của người Raglai gồm: tín ngưỡng-tôn giáo, lễ hội truyền thống, âm nhạc dân gian, trang phục truyền thống trên địa bàn huyện Bác Ái;
- Định hình những giải pháp lớn có tính khả thi trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống Raglai trong mối tương quan phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Bác Ái mà trọng tâm là du lịch cộng đồng, quảng bá, xây dựng thương hiệu huyện Bác Ái.
- Xác định khối lượng công việc và lộ trì cụ thể để thực thi khối lượng công việc của Đề án “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Raglai gắn với xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2025 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050”
- Đưa mô hình điểm đã được đầu tư thí điểm tại địa phương đi vào hoạt động, tổ chức hoạt động bảo tồn, trưng bày biểu diễn và quảng bá văn hóa Raglai gắn với phát triển du lịch tại địa phương. (dự kiến Phước Bình – Phước Hòa – Phước Đại);
- Đưa ngày hội văn hóa Raglai vào tổ chức thường niên hàng năm tại Bác Ái, hướng tới đến năm 2030 có 02 di sản văn hóa truyền thống dân tộc Raglai tại Bác Ái được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa cấp Quốc gia.
3.2.2.2. Giai đoạn sau 2030 và tầm nhìn đến 2050
Đánh giá kết quả thực hiện của Đề án trong giai đoạn 2025-2030, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn, xác định được các thành tựu điển hình có thể được triển khai nhân rộng mô hình trên địa bàn Huyện; đề ra và thực hiện các giải pháp để đảm bảo những thành tựu của giai đoạn trước được phát huy mạnh mẽ hơn trong giai đoạn sau năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, những hạn chế của giai đoạn trước được từng bước khắc phục và không lập lại ở giai đoạn sau; đưa sự kiện Ngày hội văn hóa Raglai trở thành một sự kiện lớn ở cấp tỉnh và cấp quốc gia, được tổ chức theo định kỳ 2 năm một lần ở cấp Tỉnh và 3 năm 1 lần ở cấp quốc gia.
4. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
Nhiệm vụ thực hiện đề án được chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Đây là phần trọng tâm của đề án cần lấy ý kiến các ban ngành, hệ thống chính trị các cấp trong huyện Bác Ái
Nhiệm vụ được đề xuất từ nay đến năm 2030, chia thành các giai đoạn (2025 – 2026)- (2027-2028) – (2029-2030) và tầm nhìn đến 2045
Dự toán kinh phí chủ yếu giai đoạn từ nay đến năm 2030
Các nhiệm vụ của từng lĩnh vực được hình thành một mẫu bảng biểu thống nhất
Tổng kinh phí cho đề án từ nay đến năm 2030 là 59.580 tỷ đồng
4.1. Về văn hóa vật thể
4.1.1. Thiết kế, xây dựng nhà sàn truyền thống
4.1.1.1. Mục tiêu
Khôi phục và duy trì sự tồn tại lâu dài của hệ thống nhà sàn truyền thống của người Raglai ở huyện Bác Ái; hình thành thành tố quan trọng trong cấu trúc tổng thể của Không gian văn hóa Raglai ở Bác Ái; các nhà sản truyền thống trở thành một trong những không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng truyền thống của người Raglai để phục vụ khách du lịch với mô hình hình lịch cộng đồng.
4.1.1.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
a) Xây dựng nhà sàn cách tân vật liệu tại Trung tâm văn hóa, thể thao xã giai đoạn 2025 - 2030
- Hình thức thực hiện: Mỗi trung tâm Văn hóa xã có 01 nhà sàn truyền thống Raglai (09 xã sẽ có 09 nhà) dưới dạng cách tân vật liệu cứng để đảm bảo tính bền vững lâu dài trong quá trình sử dụng, nhưng vẫn mang đặc trưng kiến trúc văn hóa nhà sàn Raglai.
- Chức năng: sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; trưng bày các hiện vật liên quan đến lịch sử, văn hóa, nghề truyền thống, sản phẩm đặc thù địa phương.
- Kinh phí dự kiến: 300 triệu đồng/nhà x 9 nhà = 2.700 triệu đồng
c) Xây dựng nhà sàn phục vụ phát triển du lịch cộng đồng tại một số xã: Phước Bình, Phước Hòa và xây dựng kiến trúc nhà sàn thí điểm không gian văn hóa Raglai tại thôn Ma Lâm xã Phước Tân
Lấy kiến trúc nhà sàn truyền thống để triển khai đề án phát triển du lịch cộng đồng, vừa tạo sinh kế vừa gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Trong đó:
+ Xã Phước Bình: 36 căn (chương trình phát triển du lịch cộng đồng)
+ Xã Phước Hòa: 10 căn (chương trình phát triển du lịch cộng đồng)
+ Xã Phước Tân: 22 căn (chương trình chính sách đặc thù về xây gian văn hóa)
Kinh phí dự kiến: 5.500 triệu đồng (nguồn lực từ chương trình chính sách phát triển du lịch và cơ chế chính sách đặc thù đã được xác định)
d) Triển khai xây dựng tại Không gian Văn hóa Raglai trong khuôn viên nhà truyền thống Bác Ái, thực hiện trong giai đoạn 2025 – 2030
Xây dựng 09 mô hình nhà sàn truyền thống Raglai đại diện cho 9 xã tập trung tại khuôn viên nhà Truyền thống huyện dưới dạng cách tân vật liệu, đảm bảo kết cấu bền vững, tính sử dụng cao nhằm phục vụ tổ chức các sự kiện ngày lễ, ngày hội văn hóa cấp huyện, cấp tỉnh, mặt khác phục vụ công tác trưng bày, nghiên cứu văn hóa Raglai, tiến tới thành lập trung tâm nghiên cứu Văn hóa Raglai.
Kinh phí dự kiến: 2.700 triệu đồng
e) Phát triển nhà sàn theo tiêu chí số 09 về Nhà ở dân cư theo chuẩn nông thôn mới:
Triển khai áp dụng kiến trúc nhà sàn truyền thống Raglai dưới dạng cách tân vật liệu để đảm bảo kiên cố hóa đối với nhà ở của hộ dân; áp dụng mẫu nhà sàn đối với các chương trình, chính sách nhà ở dân cư trong thời gian tới trên toàn huyện Bác Ái.
Lấy kiến trúc nhà sàn và các nghi lễ truyền thống; nghệ thuật trình diễn dân gian; ẩm thực bản địa làm điểm nhấn của không gian văn hóa Raglai.
Bảng biểu 4.1.1.3 Nội dung, lộ trình thực hiện từ nay đến 2030, tầm nhìn đến 2045
- Giải pháp
+ Tạo cơ hội tham gia một cách rộng rãi, sâu sắc của cộng đồng người Raglai, nhất là những người có uy tín trong cộng đồng, người lớn tuổi có nhiều trí thức bản địa gắn với nhà sàn truyền thống để góp ý kiến về các mẫu thiết kế của nhà sàn, giám sát quá trình thi công và nghiệm thu các nhà sàn được xây dựng hoàn tất; trực tiếp sử dụng, quản lý và khai thác các nhà sàn được xây dựng để phục vụ du lịch cộng đồng; được hưởng lợi phần lớn doanh thu có được từ hoạt động du lịch mà các nhà sàn này là tài nguyên du lịch.
+ Bên cạnh Nhà nước cần có hỗ trợ tài chính để thực hiện các mục tiêu của dự án, thì huyện Bác Ái cũng tích cực kêu gọi đầu tư, tài trợ của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội để đa dạng nguồn tài chính, đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu của Đề án đúng tiến độ.
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các bên liên quan gồm: Đại diện của cộng đồng, đại diện cơ quan nhà nước, đại diện chủ đầu tư, nhà thầu, đại diện đơn vị tài trợ để giám sát xuyên suốt quá trình thi công và bàn giao công trình đến người sử dụng;
+ Sau khi hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng, khai thác, cần lập quỹ dự phòng để phục vụ cho việc bảo trì, bảo dưỡng để đảm bảo khai thác được lâu dài;
+ Kết hợp với các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh để xây dựng các tuyến du lịch cộng đồng, mà trong đó các nhà sàn truyền thống này trở điểm tham quan, chỗ ăn, nghỉ, vui chơi giải trí của du khách.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Họ là đối tượng trực tiếp tham gia thực hiện việc xây dựng nhà sàn truyền thống, có trách nhiệm đối ứng nguồn tài chính cùng với nguồn kinh phí của nhà nước hỗ trợ, kinh phí đầu tư của doanh nghiệp, kinh phí tài trợ để thực hiện có hiệu quả việc quản lý và khai thác các nhà sàn truyền thống; là chủ thể chính trong các chương trình quảng bá nhà sàn truyền thống như là một điểm đến du lịch tại địa phương; trực tiếp thực hiện quyền kiểm soát, quản lý, khai thác và sử dụng nhà sàn cho mục đích dân sinh và kinh tế du lịch.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với các bên liên quan để hoàn thành các thủ tục pháp lý, tham gia quán lý, giám sát quá trình thi công các nhà sàn truyền thống; trực tiếp quản lý quá trình khai thác các nhà sàn truyền thống đúng với chức năng và mục đích xây dựng; hàng quý, hàng năm và chu kỳ 5 năm thực hiện các báo cáo đánh giá kết quả quản lý và khai thác các nhà sàn truyền thống; phối hợp với Trung tâm Văn hóa huyện Bác Ái tổ chức các lớp tập huấn cho người Raglai trong việc phục vụ khách du lịch tại các nhà sàn; xây dựng kế hoạch và giám sát công tác bảo trì, bảo dưỡng các nhà sàn truyền thống.
Phòng Tài nguyên và Môi trường: Tham mưu cho UBND huyện xác định những khu vực được quy hoạch để xây dựng các nhà sản truyền thống phục vụ du lịch, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người Raglai đúng với những quy định hiện hành về quản lý đất đai, tài nguyên gắn với đất.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Hỗ trợ các địa phương cấp xã trong việc quảng bá, giới thiệu các Nhà sàn truyền thống như là một điểm đến tham quan, du lịch mang màu sắc văn hóa tộc người đặc thù ở huyện Bác Ái.
UBND các xã: Những xã được đầu tư xây dựng nhà sàn truyền thống cần phối hợp với đơn vị thực hiện Đề án và các bên liên quan khác trong việc quy hoạch địa điểm xây dựng, vận động người Raglai tại địa phương tích cực tham gia vào mọi hoạt động xây dựng, quản lý và khai thác nhà sàn; kịp thời báo cáo lên chính quyền cấp trên những vấn đề phát sinh trong quá trình vận hành, khai thác nhà sàn; phối hợp với người dân trực tiếp quản lý du khách tại các nhà sàn được đưa vào khai thác du lịch.
4.1.2. Nghề thủ công truyền thống
4.1.2.1. Mục tiêu
Bảo tồn được các nghề thủ công truyền thống của người Raglai theo hướng phát triển bền vững gắn với phát triển du lịch làng nghề. Nhiều người Raglai xem việc sản xuất và kinh doanh sản phẩm nghề truyền thống là sinh kế chính; hình thành được một không gian văn hóa làng nghề truyền thống mang bản sắc văn hóa Raglai và là một thành tố quan trọng trong cấu trúc tổng thể của Không gian văn hóa Raglai của huyện Bác Ái.
4.1.2.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.1.2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Vận động cộng đồng người Raglai, đặc biệt là những người có sự am hiểu sâu sắc và các nghề truyền thống của cộng đồng Raglai tham gia đóng góp ý kiến về các thiết kế không gian làng nghề truyền thống được khôi phục; thiết kế các mẫu sản phẩm mới để phục vụ nhu cầu của du khách, của thị trường; giám sát quá trình thi công và nghiệm thu các hạng mục công trình của không gian làng nghề được xây dựng hoàn tất; tham gia học nghề và trực tiếp thực hành sản xuất, kinh doanh, quản lý hàng hóa và được hưởng lợi từ làng nghề.
+ Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư bên cạnh nguồn từ ngân sách thông qua ban hành các chính sách kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp; vận động người dân tự đầu tư để sản xuất làng nghề; tích cực kêu gọi đầu tư, tài trợ của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội để đa dạng nguồn tài chính, đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu của Đề án đúng tiến độ.
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các bên liên quan gồm: Đại diện của cộng đồng người Raglai, đại diện cơ quan nhà nước, đại diện chủ đầu tư, nhà thầu, đại diện đơn vị tài trợ để giám sát xuyên suốt quá trình thi công và bàn giao những hạng mục công trình được xây dựng để hình thành các không gian làng nghề.
+ Cần lập quỹ dự phòng để phục vụ cho việc bảo trì, bảo dưỡng để đảm bảo làng nghề được khai thác được lâu dài.
+ Kết hợp với các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh để xây dựng các tuyến du lịch cộng đồng, mà trong đó các làng nghề truyền thống là điểm tham quan, chỗ ăn, nghỉ, vui chơi giải trí của du khách.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Là đối tượng trực tiếp tham gia thực hiện việc khôi phục và thực hành sản xuất các nghề truyền thống; là chủ thể chính trong các chương trình quảng bá sản phầm nghề và hình ảnh làng nghề như là một điểm đến du lịch-du lịch làng nghề; là chủ thể trực tiếp ký kết hợp tác với doanh nghiệp du lịch, các chủ thể thu mua và kinh doanh sản phẩm làng nghề; là chủ thể trực tiếp quản lý, khai thác, kinh doanh sàn phẩm của làng nghề.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với các bên liên quan để hoàn thành các thủ tục pháp lý, đấu thầu và tham gia quán lý, giám sát quá trình thi công xây dựng các không gian làng nghề truyền thống; trực tiếp phối hợp với đại diện của cộng đồng Raglai và các cơ quan chức năng để quản lý quá trình khai thác các làng nghề vào mục đích du lịch; hàng quý, hàng năm và chu kỳ 5 năm thực hiện các báo cáo đánh giá kết quả quản lý và khai thác các làng nghề truyền thống; phối hợp với Trung tâm Văn hóa huyện Bác Ái tổ chức các lớp tập huấn cho người Raglai trong việc phục vụ khách du lịch tại các làng nghề; xây dựng kế hoạch và giám sát công tác bảo trì, bảo dưỡng các hạng mục công trình trong không gian văn hóa làng nghề.
Phòng Tài nguyên và Môi trường: Tham mưu cho UBND huyện xác định những khu vực được quy hoạch để xây dựng và khôi phục các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch đúng với những quy định hiện hành về quản lý đất đai, tài nguyên gắn với đất.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Hỗ trợ các địa phương cấp xã và cộng đồng người Raglai có làng nghề trong việc quảng bá, giới thiệu các sản phầm nghề và hình ảnh làng nghề như là một điểm đến tham quan, du lịch mang màu sắc văn hóa tộc người đặc thù ở huyện Bác Ái.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Đưa mục tiêu phát triển kinh tế làng nghề vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện Bác Ái; hỗ trợ các bên liên quan, đặc biệt là cộng đồng gắn với làng nghề trong việc phát triển sản xuất; tham gia hội chợ, triển lãm và tổ chức các hoạt động gắn với làng nghề truyền thống.
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lồng ghép việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống vào các chương trình, dự án, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế nông thôn, chương trình xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao gắn với phát triển du lịch làng nghề trên địa bàn huyện.
UBND các xã có làng nghề truyền thống được khôi phục: Phối hợp với đơn vị thực hiện Đề án và các bên liên quan khác trong việc quy hoạch địa điểm xây dựng và khôi phục làng nghề; vận động người Raglai tại địa phương tích cực tham gia vào mọi hoạt động xây dựng, quản lý và khai thác các làng nghề vào mục đích du lịch; trực tiếp quản lý việc buôn bán kinh doanh sản phẩm của làng nghề, kịp thời báo cáo lên chính quyền cấp trên những vấn đề phát sinh trong quá trình vận hành, khai thác các làng nghề phục vụ du lịch; phối hợp với người dân trực tiếp quản lý du khách tại các làng nghề.
4.1.3. Sưu tầm hiện vật lịch sử văn hóa và lịch sử cách mạng
4.1.3.1. Mục tiêu
Góp phần bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa gắn với cộng đồng, những hiện vật gắn với lịch sử đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường của nhân dân Bác Ái nói chung, cộng đồng người Raglai nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ tổ quốc ở thế kỷ XX. Hình thành, bồi đắp và phát triển lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào bản sắc tộc người, ý thức chính trị sâu sắc trong đời sống tin thần của người dân, nhất là tầng lớp trẻ tuổi, học sinh, sinh viên trên địa bàn huyện Bác Ái.
4.1.3.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.1.3.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Kêu gọi người dân tham gia hiến tặng, bán lại hiện vật; cung cấp hình ảnh những hiện vật không còn tìm thấy trong nhân gian, cung cấp quy trình hoặc đóng góp để hoàn thiện quy trình chế tác truyền thống để phục dụng hiện vật; tham gia các chuyến đi sưu tầm hiện vật; trực tiếp tham gia quá trình phục chế hiện vật.
+ Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách địa phương, huyện Bác Ái cần tiếp cận và khai thác hiệu quả nguồn vốn tài trợ từ trung ương, các quỹ của quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa gắn với cộng đồng dân tộc thiểu số; vận động đầu tư của các doanh nghiệp du lịch đối với những hiện vật được phục chế có tiềm năng phục vụ du khách.
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các bên liên quan gồm: Đại diện của cộng đồng người Raglai, cơ quan nhà nước, các nhà khoa học, cựu chiến binh, đại diện đơn vị tài trợ để giám sát xuyên suốt quá trình sưu tầm và trùng tu hiện vật, nhất là những hiện vật cổ, gắn với đời sống văn hóa truyền thống của người Raglai.
+ Cần lập quỹ dự phòng để phục vụ cho việc bảo trì, bảo dưỡng các hiện vật đã được sưu tầm và trưng bày để đảm bảo việc khai thác lâu dài.
+ Số hóa tất cả những hiện vật đã được sưu tầm dưới nhiều định dạng khác nhau như hình ảnh, chữ viết, video.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Là chủ thể trực tiếp sản sinh ra các di sản văn hóa gắn với dân tộc Raglai, vì vậy, họ cần có ý thức tự nguyện tham gia và có thái độ tích cực trong việc sưu tầm và phục dựng các hiện vật gắn với bản sắc văn hóa của họ. Đồng thời, người Raglai cũng là chủ thể thực tiếp thực hành trên các hiện vật gắn với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật,…của tộc người mình.
Hội Cựu chiến binh: Tích cực hỗ trợ quá trình sưu tầm những hiện vật gắn với phong trao đấu tranh chống giặt cứu nước của nhân dân Bác Ái trong thế kỷ XX.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với các bên liên quan để hoàn thành các thủ tục pháp lý cho các cuộc sưu tầm hiện vật; trực tiếp tham gia và giám sát quá trình sưu tầm hiện vật; hàng quý, hàng năm thực hiện các báo cáo công tác sưu tầm và bảo quản hiện vật; phối hợp với Trung tâm Văn hóa huyện Bác Ái và các cơ quan chuyên môn về bảo tồn bảo tàng để tổ chức các lớp tập huấn cho người Raglai và những thành viên tham gia các cuộc sưu tầm về kỹ năng xử lý hiện vật, bảo quản hiện vật sưu tầm được;
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường thông tin đến người dân trong và ngoài địa bàn huyện Bác Ái về công tác sưu tâm hiện vật để mở rộng không gian sưu tầm hiện vật và gia tăng cơ hội phát hiện các hiện vật trong nhân gian; tổ chức việc quảng bá, giới thiệu các hiện vật có giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt để gia tăng sự quan tâm của công chúng và khách du lịch đến với huyện Bác Ái.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Tham vấn cho UBND sắp xếp các nguồn vốn đề đầu tư cho các cuộc sưu tầm và bảo quản hiện vật.
UBND các xã: Chỉ đạo các tổ chức như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến bình của Xã tích cực phối hợp với Đoàn khảo sát, sưu tầm hiện vật để rà soát, vận động người dân địa phương tham gia hỗ trợ quá trình sưu tầm hiện vật; tự nguyện hiến tặng, hoặc bán lại với mức giá vừa phải, tích cực cung cấp tài liệu, hình ảnh về hiện vật cần sưu tầm.
4.1.4. Xây dựng cổng chào
Không gian văn hóa yêu cầu có sự nhận diện đặc trưng văn hóa. Cổng chào là hình thức chào đón du khách đến một vùng đất có không gian văn hóa riêng. Tổ tư vấn đề xuất tổ chức thi tuyển thiết kế cổng chào và xây dựng cổng chào ở các điểm đường vào huyện và đường vào một số địa phương phát triển du lịch.
Số cổng chào: 5 cổng chào. Dự kiến
1/Điểm giáp ranh huyện Ninh Sơn vào Bác Ái (xã Phước Hòa)
2/Đường vào xã Phước Bình
3/Đường vào xã Phước Tân
4/Đường vào xã Phước Đại
5/Đường vào xã Phước Thắng (giáp ranh tỉnh Khánh Hòa)
Tổ chức thi tuyển thiết kế: 50 tr/đồng
Dự kiến kinh phí 300 triệu/1 cổng chào x 5= 1.500 triệu
Tổng kinh phí giai đoạn 2025 – 2030 = 1.550 triệu đồng
Lộ trình xây dựng năm 2025-2026: 1 cổng chào, Năm 2027 – 2028: 2 cổng chào. Năm 2029 – 2030; 2 cổng chào.
Nội dung công việc xây dựng cổng chào từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2050
Đơn vị tính: Triệu đồng
4.2. Về văn hóa phi vật thể
4.2.1. Về tín ngưỡng, tôn giáo
4.2.1.1. Mục tiêu
- Khảo sát, đánh giá sự biến đổi tín ngưỡng bản địa của người Raglai trong thời gian 20 năm trở lại đây thông qua sự biến đổi về nhận thức, niềm tin tín ngưỡng, tổ chức lễ hội truyền thống.
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tín ngưỡng của người Raglai, đảm bảo sự phát triển bền vững của văn hóa cộng đồng.
- Nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa dân tộc.
- Phát triển du lịch văn hóa dựa trên tín ngưỡng và phong tục tập quán của người Raglai.
- Đến năm 2030, hệ thống các nghi lễ, phong tục, và tín ngưỡng của người Raglai được phục dựng và bảo tồn một cách bền vững.
4.2.1.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2050
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chi tiết nội dung công việc:
(i) Khảo sát, đánh giá thực trạng tín ngưỡng, tôn giáo của người Raglai đến năm 2025
Thiết lập kế hoạch khảo sát đánh giá thực trạng tín ngưỡng, tôn giáo của người Raglai đến năm 2025 bao gồm:
- Nghiên cứu khoa học về tín ngưỡng tôn giáo Raglai, xuất bản các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng tôn giáo, lưu trữ các nghi lễ, phong tục tín ngưỡng của dân tộc Raglai thông qua các hình thức nhân học.
- Thực trạng tổ chức nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời. Thông qua đó điều tra, khảo sát lòng tin của người dân đối với tín ngưỡng truyền thống.
- Thường xuyên khảo sát tình hình người Raglai tham gia các hoạt động tôn giáo như tin lành, thiên chúa giáo, phật giáo và các tôn giáo khác
- Xây dựng báo cáo về tình hình tín ngưỡng và tôn giáo của người Raglai định kỳ 6 tháng, 1 năm.
(ii) Nghiên cứu, phục dựng và làm các nghi lễ truyền thống
Tập trung vào 4 nghi lễ sau:
- Lễ Ăn mừng lúa mới
- Lễ Đền ơn đáp nghĩa (Lễ Báo hiếu)
- Lễ Cưới truyền thống
- Lễ bỏ mả
- Tổ chức xây dựng phim tài liệu trong không gian trưng bày các hiện vật lễ hội truyền thống trong nhà và ngoài trời tại Nhà Truyền thống Bác Ái.
(iii) Gắn văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo với phát triển du lịch văn hóa tâm linh
- Xây dựng các tour du lịch văn hóa tín ngưỡng để giới thiệu cho du khách về các nghi lễ, phong tục của người Raglai.
- Kết hợp các nghi lễ tín ngưỡng với các hoạt động du lịch sinh thái, gắn kết với thiên nhiên tại các vùng núi rừng nơi người Raglai sinh sống.
- Tăng cường quảng bá văn hóa tín ngưỡng Raglai qua các phương tiện truyền thông đại chúng và các hội thảo văn hóa quốc tế.
(iv) Đào tạo, truyền dạy và nâng cao nhận thức cộng đồng
- Tổ chức các lớp truyền dạy văn hóa tín ngưỡng cho thế hệ trẻ thông qua vai trò của già làng, nghệ nhân dân gian.
- Phối hợp với các trường học tại địa phương để đưa văn hóa tín ngưỡng Raglai vào chương trình giảng dạy.
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa tín ngưỡng.
- Tạo cơ chế khuyến khích phát triển du lịch văn hóa bền vững kết hợp với bảo tồn văn hóa tín ngưỡng.
(v) Đối với công tác tôn giáo
Tiếp tục quán triệt và triển khai các văn bản chỉ đạo từ trung ương đến địa phương về công tác tôn giáo. Ngành văn hóa phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo huyện ủy Bác Ái từ góc độ tiếp cận văn hóa tín ngưỡng để vận động bà con Raglai duy trì các hoạt động tín ngưỡng bản địa của dân tộc mình. Trên cơ sở tuyên truyền quảng bá những nét đẹp về văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Raglai từ ngàn xưa để lại như duy trì niềm tin và tín ngưỡng, vào truyền thống đoàn kết, yêu thương nhau từ gia đình đến tộc họ, đến tình đoàn kết cộng đồng palei thông qua các hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc mình như duy trì tổ chức lễ hội gia đình và cộng đồng, phát huy nghệ thuật truyền thống cộng đồng như múa hát mã la, thổi khèn bẩu, hát dân ca, hát kể sử thi v.v… Đó là mục đích cũng là động lực để bảo tồn tín ngưỡng bản địa, truyền thống rất tốt đẹp của rừng núi ông bà xưa để lại.
4.2.1.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
(i) Tuyên truyền, quảng bá về tín ngưỡng truyền thống Raglai
Người Raglai có bề dày truyền thống tín ngưỡng bản địa rất phong phú và đa dạng, được hình thành và duy trì, phát triển từ nhiều nghìn năm qua, thể hiện ở hệ thống nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời và các áng sử thi vô cùng quý giá. Tuy nhiên, trong thời đại giao lưu, hội nhập văn hóa, trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo. Với công tác văn hóa, làm sao vừa bảo tồn được những yếu tố văn hóa truyền thống, vừa chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, các quy định tại địa phương; Như vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng, vừa thường xuyên tuyên truyền về cái hay, cái đẹp của tín ngưỡng bản địa Raglai gắn với đời sống tâm linh, gắn với lễ hội, gắn với sợi dây cố kết xã hội của các nghi lễ truyền thống tốt đẹp của ông bà nghìn năm vun đắp, để lại cho con cháu hôm nay.
(ii) Đầu tư nguồn lực
- Xây dựng các chính sách hỗ trợ tài chính cho các nghệ nhân, già làng trong việc phục dựng và tổ chức các nghi lễ truyền thống.
- Xây dựng kế hoạch tuyên truyền giáo dục về tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của ông bà nghìn năm xưa để lại. Giảm thiểu những hoạt động tôn giáo tín ngưỡng làm ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết, tình yêu thương từ gia đình, tộc họ đến cộng đồng palei và cả cộng đồng dân tộc Raglai
- Kêu gọi sự hỗ trợ từ các tổ chức văn hóa, các quỹ bảo tồn di sản và các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
(iii) Phối hợp giữa các cơ quan chức năng
- Sự phối hợp giữa các cơ quan văn hóa, giáo dục, du lịch của tỉnh Ninh Thuận và huyện Bác Ái trong việc thực hiện các chương trình bảo tồn.
Cụ thể: Phối hợp với Sở VH, TT & DL tổ chức các lễ hội truyền thống định kỳ các cấp từ cấp cơ sở, xã, huyện, tỉnh và cấp quốc gia.
Phối hợp với Sở KH & CN triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học về văn hóa Raglai, đưa ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào áp dụng trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của người Raglai.
- Tăng cường hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các viện nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước.
(iv) Tăng cường đầu tư hạ tầng
- Đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà văn hóa, Trung tâm sinh hoạt Cộng đồng để tạo điều kiện tổ chức các nghi lễ truyền thống. Trước mắt hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới (trong đó có 2 tiêu chí 6 và 16 liên quan đến hoạt động văn hóa).
- Phát triển hạ tầng du lịch phục vụ cho việc phát triển du lịch văn hóa tín ngưỡng. Tổ chức gắn kết với các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh đưa khách về mỗi khi có các nghi lễ tín ngưỡng diễn ra ở cơ sở. Khách du lịch rất thích khám phá các lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thật sự ở cơ sở, không phải là nghi lễ bị sân khấu hóa.
(v) Giám sát và đánh giá hiệu quả
- Thành lập ban giám sát để đánh giá hiệu quả của các hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa tín ngưỡng.
- Thường xuyên tổ chức các hội thảo, tọa đàm để đánh giá lại kết quả và điều chỉnh kế hoạch phù hợp.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Là chủ thể trực tiếp thực hành đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, do đó họ phải là đối tượng giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định cho kết quả cuối cùng cho công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống tín ngưỡng – tôn giáo. Vì vậy, để giữ gìn được những bản sắc văn hóa truyền thống vốn có trong lễ thức tín ngưỡng, cần có sự tham gia sâu sắc, xuyên suốt của đa số cộng đồng người Raglai.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với các bên liên quan, nhất là với những đại diện tiêu biểu của cộng đồng người Raglai để thực hiện các cuộc khảo sát thực tế, thu thập dữ liệu về quy trình lễ nghi, lời khấn, sinh hoạt gắn với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Raglai, đặc biệt là những nghi lễ gắn với các lễ hội truyền thống như Lễ bỏ mã, lễ cưới, lễ tạ ơn và lễ ăn mừng lúa mới.
Ban Dân vận (Huyện ủy): Tích cực vận động người Raglai tham gia các chương trình tập huấn, chương trình giáo dục để nâng cao ý thức tộc người, từ đó có tinh thần tích cực, trách nhiệm hơn trong việc giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống tín ngưỡng – tôn giáo.
Phòng Dân tộc: Tích cực phối hợp với Ban Dân vận, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện tuyên truyền đến người dân những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo – tín ngưỡng. Thông qua đó, cộng đồng người Raglai sẽ tự ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân trong việc thực hành đời sống tín ngưỡng – tôn giáo một cách hợp pháp. Ngoài ra, Phòng Dân tộc còn thực hiện chức năng báo cáo tình hình đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người dân Bác Ái nói chung, người Raglai nói riêng theo hàng quý, hàng năm theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường thực hiện các biện pháp thông tin – tuyên truyền những quy định của pháp luật về tín ngưỡng – tôn giáo; tăng cường tuyền thông, quảng bá những giá trị văn hóa đặc sắc gắn với đời sống tín ngưỡng – tôn giáo để thu hút khách du lịch đến với huyện Bác Ái.
4.2.2. Lễ hội truyền thống
4.2.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của giai đoạn này là tăng cường nhận thức của cộng đồng về vai trò quan trọng của các lễ hội trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Điều này không chỉ giúp nâng cao giá trị văn hóa mà còn khơi gợi niềm tự hào dân tộc trong lòng người dân. Đặc biệt, việc gắn kết các lễ hội truyền thống với phát triển du lịch văn hóa tại huyện Bác Ái sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, đồng thời lan tỏa giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc Raglai đến với du khách trong và ngoài nước.
4.2.2.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.2.2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Ban hành các văn bản pháp lý quy định rõ ràng về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa gắn với các lễ hội truyền thống của người Raglai.
+ Xây dựng và công bố danh mục các lễ hội truyền thống của người dân huyện Bác Ái được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tổ chức hàng năm, trong đó có các lễ hội truyền thống của người Raglai.
+ Thành lập Ban Tổ chức lễ hội truyền thống huyện Bác Ái. Đơn vị này sẽ chịu trách nhiệm chủ trì phối hợp với các bên liên quan để tổ chức các lễ hội truyền thống theo danh mục mà UBND huyện đã công bố.
+ Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng hệ thống các kiến thức, kỹ năng trong việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có lễ hội truyền thống, trọng tâm là các lễ hội của cộng đồng người Raglai.
+ Tổ chức các hoạt động tuyên truyền được lồng ghép vào các chương trình văn hóa nghệ thuật để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng người Raglai nói riêng, nhân dân huyện Bác Ái nói chung trong việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống qua lễ hội.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa nguồn kinh phí trong việc tổ chức các lễ hội truyền thống của người Raglai gắn với phát triển du lịch.
+ Mỗi lễ hội truyền thống của người Raglai như: Lễ cưới, Lễ bỏ mã, Lễ Đền ơn đáp nghĩa (Lễ Tạ ơn), Lễ mừng lúa mới cần xây dựng những chương trình cụ thể để phụ vụ khách du lịch trải nghiệm. Dưới đây là đề xuất một số hoạt động trải nghiệm cụ thể:
+ Gắn với Lễ mừng lúa mới: Tổ chức các tour trải nghiệm mùa gặt, học cách trồng lúa và chăm sóc lúa theo các tri thức bản địa của người Raglai, tham gia lễ hội; xây dựng các chương trình giao lưu văn hóa, trình diễn nhạc cụ dân gian, ẩm thực đặc sản của người Raglai trong lễ hội.
+ Gắn với Lễ bỏ mả: Tổ chức giới thiệu nghi lễ và văn hóa tín ngưỡng của người Raglai thông qua các tour tham quan và trải nghiệm thực tế, tạo không gian để du khách tham gia vào các hoạt động tâm linh, học hỏi và hiểu sâu về ý nghĩa của lễ bỏ mả, xây dựng các chương trình tìm hiểu về truyền thống mai táng và quan niệm về thế giới bên kia của người Raglai.
+ Gắn với Lễ cưới: Tổ chức cho du khách tham gia trải nghiệm các nghi thức, nghi lễ truyền thống trong Lễ cưới; mặc trang phục truyền thống của cô dâu, chú rể Raglai, cung cấp dịch vụ chụp ảnh cưới theo phong cách Raglai, tổ chức các buổi diễn văn nghệ và ẩm thực truyền thống trong lễ cưới.
+ Gắn với Lễ báo hiếu: Các tour du lịch cộng đồng để du khách tìm hiểu về văn hóa, nếp sống và những giá trị truyền thống gắn với gia đình của người Raglai; tổ chức các buổi gặp gỡ và giao lưu với người cao tuổi, tham gia các nghi thức Lễ báo hiếu cùng cộng đồng.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Là chủ thể trực tiếp thực hành Lễ bỏ mã, Lễ đền ơn đáp nghĩa, Lễ ăn mừng lúa mới và Lễ Cưới. Vì vậy, để giữ gìn được những bản sắc văn hóa truyền thống vốn có trong các lễ hội truyền thống này, rất cần có sự tham gia sâu sắc, xuyên suốt của đa số cộng đồng người Raglai. Mặt khác, cộng đồng người Raglai cần có đại diện và giữ vị trí quan trọng trong Ban Tổ chức Lễ hội truyền thống của huyện Bác Ái.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với những người uy tín trong cộng đồng người Raglai để xây dựng danh mục các lễ hội truyền thống của người Raglai cần được tổ chức định kỳ hàng năm để vừa phục vụ công tác bảo tồn, vừa phục vụ phát triển du lịch văn hóa tại địa phương.
Ban Dân vận (Huyện ủy): Tích cực vận động người Raglai tham gia thực hành, tổ chức các hoạt động lễ hội truyền thống.
Phòng Dân tộc: Tích cực phối hợp với Ban Dân vận, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện tuyên truyền đến người dân những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo tồn lễ hội truyền thống của dân tộc.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá những giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội truyền thống người Raglai để thu hút khách du lịch đến với huyện Bác Ái.
4.2.3. Âm nhạc dân gian
4.2.3.1. Mục tiêu
- Mục tiêu chung
+ Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật trình diễn dân gian của dân tộc Raglai, đặc biệt là hệ thống dân ca, dân nhạc và các loại nhạc cụ truyền thống gồm bộ gõ, bộ hơi, bộ dây. Góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Raglai, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ngày càng phong phú cho người dân ở huyện Bác Ái.
+ Phát huy bằng cách tôn vinh, quảng bá, ứng dụng công nghiệp văn hóa, tiến bộ khoa học công nghệ vào xây dựng các chương trình biểu diễn, trình diễn trong sinh hoạt, trong lễ hội và trong phục vụ du lịch.
- Mục tiêu cụ thể
+ Bảo tồn nghệ thuật âm nhạc cụ truyền thống: Khôi phục và bảo tồn các nhạc cụ truyền thống của người Raglai; nâng cao nhận thức và truyền dạy kỹ thuật chế tác nhạc cụ cho thế hệ trẻ, đảm bảo không bị mai một; truyền dạy các kỹ năng biểu diễn các loại hình nghệ thuật dân gian của dân tộc Raglai cho thế hệ trẻ.
+ Nghệ thuật dân gian gắn với phát triển du lịch văn hóa: Tổ chức các chương trình biểu diễn, sự kiện văn hóa, và giao lưu văn hóa để giới thiệu nghệ thuật Raglai ra cộng đồng trong và ngoài huyện Bác Ái; kết hợp phát triển du lịch văn hóa, thu hút du khách trong và ngoài nước đến trải nghiệm và tìm hiểu nghệ thuật dân gian Raglai; phát triển các sản phẩm văn hóa, du lịch dựa trên nghệ thuật trình diễn và sản xuất nhạc cụ truyền thống của người Raglai (biến nhạc cụ thành hàng hóa, vừa có giá trị sử dụng, vừa là hàng lưu niệm).
4.2.3.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Đơn vị tính: Triệu đồng
(Dự toán kinh phí tùy thuộc vào kế hoạch ngân sách của địa phương hàng năm)
Các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện:
(i) Sưu tầm nghiên cứu
Tiếp tục sưu tầm nghiên cứu, tập hợp tư liệu đã có và sưu tầm mới, xây dựng kế hoạch bảo tồn các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc cùng với hệ thống nhạc cụ truyền thống của người Raglai.
Đưa đoàn nghệ nhân dân gian Raglai huyện Bác Ái tham quan học hỏi và đưa một số nhạc cụ truyền thống và dân ca Raglai không còn ở huyện Bác Ái nhưng còn ở huyện Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa như các loại sáo, khèn, đàn bầu lồ ô, trống, một số làn điệu dân ca.
- Sưu tầm tài liệu: Tổ chức Đoàn nghệ nhân đi nghiên cứu nhạc cụ Raglai ở các địa phương khác có người Raglai ở trong và ngoài tỉnh, tìm kiếm, ghi chép, và hệ thống hóa các bài hát, điệu múa, nhạc cụ dân gian.
- Sưu tầm, mua sắm bổ sung nhạc cụ dân tộc trong dân phục vụ trưng bày, giới thiệu tại Nhà Truyền thống Bác Ái: Mua 2 bộ đàn đá, đủ các bộ trong hệ thống nhạc cụ dân gian Raglai ở trong và ngoài huyện, trong và ngoài tỉnh.
- Nghiên cứu học thuật: Phối hợp với các nhà nghiên cứu dân tộc học, âm nhạc học để phân tích và đánh giá giá trị của từng làn điệu, nhạc cụ.
- Ghi âm và quay phim: Ghi chép các màn trình diễn âm nhạc dân gian để lưu giữ và phục vụ công tác nghiên cứu, truyền dạy.
- Đơn vị thực hiện: Phòng Văn hóa Thông tin và Trung tâm Văn hóa Thông tin, thể thao huyện Bác Ái.
- Nguồn kinh phí: Nguồn kinh phí sự nghiệp và các chương trình mục tiêu về văn hóa
(ii) Truyền dạy
- Củng cố đội ngũ nghệ nhân: Thường xuyên củng cố đội ngũ nghệ nhân – bổ sung, đưa lớp trẻ vào danh sách nghệ nhân, tạo dựng đội ngũ kế thừa
- Tổ chức các lớp học thường xuyên tại cơ sở nhằm truyền dạy nhạc cụ và các làn điệu dân gian cho thế hệ trẻ. Thôn nào, xã nào không có nghệ nhân thì mời nghệ nhân các xã khác đến dạy
- Mở lớp truyền dạy
+ Mở các lớp truyền dạy chế tác, sử dụng, quảng bá và đưa các nhạc cụ và thị trường tiêu thụ sản phẩm du lịch. Đi giao lưu, học hỏi, tập huấn ở các địa phương Raglai khác.
Bộ gõ: Bảo tồn và phục hồi các nhạc cụ: Như Mã-la (char), Trống (saggơr), Chiêng núm (chiek), Trống đất (saggơr tanah), Chiêng là – a (chiek pa – or), Lục lạc chùm.
Bộ hơi: Phát triển thêm các loại kèn và sáo: Kèn bầu sarakel, kèn bầu kupoăt, kèn sừng gadet, sáo 6 lỗ loại lớn (taleăk) và loại nhỏ (talakung), sáo 1 lỗ (kok t’re), sáo dài (kawau).
Bộ dây: Phục dựng các loại đàn dây: Đàn Chapi, đàn kéo 1 dây hoặc 2 dây (kanhi), đàn môi búng a (wach) và đàn môi giật (radik).
Đào tạo nghệ nhân chế tác các loại nhạc cụ truyền thống Raglai theo kỹ thuật và chất liệu gốc, có phát triển theo hướng dẫn của các nhạc sĩ chuyên nghiệp.
- Xây dựng chương trình giáo dục trong trường học: Đưa các làn điệu và nhạc cụ dân gian vào chương trình học tại các trường tiểu học ở huyện Bác Ái.
+ Biên soạn tài liệu học tập về nhạc cụ và nghệ thuật trình diễn dân gian Raglai.
+ Tạo các video hướng dẫn học chơi nhạc cụ và trình diễn các tiết mục nghệ thuật truyền thống.
- Khuyến khích sáng tạo, phát triển: Hỗ trợ các nghệ sĩ trẻ sáng tạo, biến tấu các làn điệu và nhạc cụ truyền thống theo phong cách hiện đại nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng.
+ Đơn vị thực hiện: Phòng Văn hóa và Thông tin, Trung tâm văn hóa thể thao và truyền thanh huyện, UBND các xã.
+ Người thực hiện: Các nghệ nhân đã được công nhận
+ Tiến độ thực hiện (có bảng biểu phụ lục)
(iii) Chế tác nhạc cụ truyền thống
- Biến chế tác nhạc cụ thành nghề truyền thống
+ Tổ chức các lớp dạy nghề chế tác nhạc cụ truyền thống.
+ Phát triển chế tác nhạc cụ thành nghề thủ công truyền thống.
+ Sưu tầm đá và chế tác các bộ đàn đá
- Tổ chức các cuộc thi chế tác nhạc cụ truyền thống trong khuôn khổ các ngày hội văn hóa Raglai định kỳ và đột xuất.
(iv) Tổ chức các cuộc thi âm nhạc dân gian Raglai
- Tổ chức các cuộc thi sáng tác chủ đề đất nước con người Raglai huyện Bác Ái trên các làn điệu dân ca Raglai (Hội đồng nghệ thuật cần am hiểu các làn điệu dân ca Raglai, tránh tình trạng lời thì Raglai nhưng nhạc không phải Raglai).
- Thi sáng tác hòa tấu nhạc cụ Raglai
- Nghiên cứu khuếch đại âm thanh đàn Chapi và đàn môi trong biểu diễn nhằm làm phong phú hơn âm nhạc dân gian Raglai (theo hướng công nghiệp văn hóa).
(v) Tổ chức trình diễn và quảng bá âm nhạc dân gian Raglai
- Xây dựng chương trình biểu diễn nghệ thuật:
+ Phối hợp với các cơ quan văn hóa và giáo dục tổ chức các buổi biểu diễn định kỳ.
+ Khuyến khích và hỗ trợ các nhóm nghệ thuật dân gian tổ chức biểu diễn trong và ngoài huyện Bác Ái.
- Giao lưu văn hóa: Tổ chức các chương trình giao lưu giữa cộng đồng Raglai với các dân tộc khác, qua đó quảng bá và bảo tồn văn hóa âm nhạc dân gian.
- Tham gia các sự kiện văn hóa cấp tỉnh, quốc gia: Đưa các tiết mục âm nhạc dân gian Raglai tham gia biểu diễn trong các lễ hội lớn, sự kiện văn hóa của tỉnh và quốc gia. (theo kế hoạch tại mục bảo tồn lễ hội truyền thống).
- Quảng bá trên các phương tiện truyền thông:
+ Sử dụng các kênh truyền thông hiện đại như mạng xã hội, truyền hình, và các trang web để giới thiệu các hoạt động văn hóa và nghệ thuật của người Raglai.
+ Khuyến khích các trường học trong huyện Bác Ái tổ chức các hoạt động ngoại khóa tìm hiểu về văn hóa truyền thống.
(vi) Trưng bày giới thiệu, maketing sản phẩm nhạc cụ truyền thống
- Thiết lập khu vực trưng bày nhạc cụ truyền thống tại các cơ sở văn hóa, bảo tàng địa phương. Đào tạo hướng dẫn viên am hiểu về văn hóa truyền thống Raglai
- Xây dựng video clip giới thiệu về âm nhạc dân gian và hệ thống nhạc cụ Raglai.
- Tổ chức cho các nghệ nhân đưa các nhạc cụ truyền thống đi tham gia các hội chợ triển lãm và hội chợ du lịch các cấp.
Lộ trình thực hiện
- Giai đoạn 1 (2024-2025):
+ Khảo sát và thống kê nghệ nhân, nghệ thuật truyền thống.
+ Mở các lớp truyền dạy chế tác và biểu diễn nhạc cụ.
- Giai đoạn 2 (2026-2027):
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa như nhà trưng bày nhạc cụ, điểm diễn xướng dân gian.
+ Tổ chức các chương trình giao lưu, biểu diễn nghệ thuật thường niên.
- Giai đoạn 3 (2028-2030):
+ Đẩy mạnh quảng bá du lịch văn hóa dựa trên nghệ thuật dân gian Raglai.
+ Tổ chức các sự kiện văn hóa quốc tế giới thiệu nghệ thuật Raglai.
Nguồn kinh phí:
+ Từ ngân sách địa phương và ngân sách trung ương hỗ trợ chương trình bảo tồn văn hóa.
+ Huy động sự đóng góp từ các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các dự án phát triển du lịch văn hóa.
Phân bổ kinh phí:
+ 50% kinh phí dùng cho việc bảo tồn và chế tác nhạc cụ truyền thống.
+ 30% kinh phí dùng cho các hoạt động truyền dạy, tổ chức các khóa học nghệ thuật.
+ 20% cho quảng bá, tổ chức lễ hội và phát triển du lịch.
4.2.3.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Đề xuất chính sách hỗ trợ từ nhà nước: Đề xuất các chương trình tài trợ, các chính sách bảo tồn văn hóa dân tộc. Hỗ trợ các nhóm, đội văn nghệ dân gian cơ sở: Tạo điều kiện thuận lợi về không gian biểu diễn và hỗ trợ về tài chính cho các nhóm nghệ thuật dân gian Raglai ở cơ sở.
+ Phát triển du lịch văn hóa dựa trên nghệ thuật dân gian Raglai: (i) Xây dựng các tour du lịch trải nghiệm văn hóa, trong đó du khách có thể học chơi nhạc cụ truyền thống và tham gia biểu diễn nghệ thuật dân gian. (ii) Thiết kế các sản phẩm lưu niệm từ nhạc cụ truyền thống như mô hình Khèn Bầu, Đàn Chapi nhỏ gọn. (iii) Xây dựng lễ hội âm nhạc dân gian Raglai hàng năm, thu hút sự tham gia của các nghệ sĩ trong và ngoài địa phương, giới thiệu rộng rãi văn hóa dân tộc Raglai đến du khách.
+ Hợp tác với các tổ chức văn hóa: Liên kết với các Trung tâm văn hóa, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế nhằm tăng cường nguồn lực.
+ Vận động sự tham gia của cộng đồng: Khuyến khích sự tham gia và đóng góp của người dân địa phương trong việc bảo tồn văn hóa dân gian. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ với các nghệ nhân địa phương, đồng thời thúc đẩy vai trò của cộng đồng trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa.
+ Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo giáo viên âm nhạc và nghệ thuật dân gian chuyên biệt để có thể tiếp tục truyền dạy và phổ biến nghệ thuật Raglai.
- Tổ chức thực hiện
UBND huyện: Chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động về bảo tồn nghệ thuật truyền thống dân tộc Raglai, trong đó có âm nhạc; chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ cho các ngành các cấp nghiên cứu, tổ chức thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản nêu trên.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Tham mưu cho UBND huyện kế hoạch thực hiện đề án bảo tồn và phát huy âm nhạc dân gian Raglai từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045; gắn các nhiệm vụ bảo tồn và phát huy âm nhạc truyền thống Raglai với việc tổ chức các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội và các lễ hội truyền thống Raglai của huyện theo định kỳ.
Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh: Tổ chức tuyên truyền, quảng bá, maketing nhạc cụ truyền thống Raglai; tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng bá, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ nêu trên của đề án.
Các ban ngành chức năng và UBND các xã: Nghiên cứu tham mưu, tổ chức thực hiện. Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc cần kịp thời báo cáo cấp trên để điều chỉnh cho phù hợp.
4.2.4. Trang phục truyền thống
4.2.4.1. Mục tiêu
Dân tộc Raglai hiện nay cư trú trên địa bàn các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Tuy nhiên, huyện Bác Ái là huyện có đông đồng bào Raglai nhất và gần như là huyện thuần Raglai. Vì vậy, những yếu tố văn hóa truyền thống còn đậm đặc nhất, trong đó có trang phục truyền thống. Trong ngày 11/12/2024, Sở VHTTDL tỉnh Bình Thuận có tổ chức hội thảo về bảo tồn và phát huy trang phục các dân tộc miền núi tỉnh Bình Thuận, trong đó chủ yếu là dân tộc Raglai. Hầu hết các đại biểu đều nhất trí – đồng thuận cao trong việc lấy trang phục truyền thống Nam và Nữ của người Raglai huyện Bác Ái làm trang phục mẫu (vì huyện Bác Ái là nơi đã diễn ra nhiều hội thảo và cung cấp tư liệu đầy đủ nhất về trang phục Raglai qua các nghiên cứu của Nguyễn Hải Liên, Phan Quốc Anh và Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận.
Bảo tồn lâu dài các mẫu trang phục truyền thống cả nam và nữ người Raglai; đưa những biểu đạt văn hóa trang phục truyền thống vào các mẫu trang phục hiện đại; gia tăng mức độ sử dụng trang phục truyền thống trong đời sống xã hội của người Raglai trong những dịp lễ, tết, hội hè và trong môi trường học đường.
4.2.4.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.2.4.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp cho những nghệ nhân tiêu biểu, người lưu giữ, truyền dạy thực hành may trang phục truyền thống của người Raglai ở huyện Bác Ái; tổ chức biểu dương, tôn vinh các nghệ nhân phù hợp với điều kiện của địa phương.
+ Tiếp tục duy trì việc hỗ trợ, tài trợ cho các chương trình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của người thiểu số, trong đó có người Raglai.
+ Tạo ra những cơ hội, môi trường để người Raglai mặc trang phục truyền thống với niềm tự hào dân tộc sâu sắc như: phát triển du lịch văn hóa, tổ chức các lễ hội truyền thống.
+ Tích hợp nội dung trình diễn trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số trong các chương trình biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, trình diễn thời trang cấp huyện, cấp tỉnh.
+ Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, số hóa các bộ trang phục gốc truyền thống của đồng bào Raglai; áp dụng thành tựu công nghệ 4.0 để xây dựng bảo tàng số trang phục truyền thống các dân tộc trong tỉnh, trong dó có trang phục đồng bào Raglai...
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Để giữ gìn được trang phục truyền thống thì trước hết và trên hết chính cộng đồng người Raglai phải chủ động, tích cực sử dụng trang phục truyền thống trong đời sống của mình, nhất là trong các dịp lễ, tết, hội hè, đi học.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh, Ban Dân vận và Phòng Dân tộc huyện Bác Ái tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cộng đồng người Raglai về vai trò, vị trí của mình trong việc bảo tồn văn hóa trang phục truyền thống.
Ban Dân vận (Huyện ủy), Phòng Dân tộc: Tích cực hỗ trợ Phòng Văn hóa và Thông huyện Bác Ái và các bên liên quan khác để vận động người Raglai tích cực sử dụng trang phục truyền thống trong đời sống.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá những giá trị văn hóa trang phục đặc sắc của người Raglai để thu hút khách du lịch đến với huyện Bác Ái, mở rộng thị trường tiêu thụ trang phục và phụ kiện gắn với trang phục truyền thống của người Raglai.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Hỗ trợ cộng đồng người Raglai trong việc tiếp cận và ký kết hợp tác sản xuất trang phục truyền thống; tham gia hội chợ trưng bày sản phẩm trang phục truyền thống.
4.3. Nghiên cứu khoa học
4.3.1. Mục tiêu
Nhận diện được thực trạng biến đổi nghệ thuật trình diễn truyền thống, văn hóa ứng xử của người Raglai trong đời sống xã hội ngày nay, từ đó có cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp này cho hậu thế.
Giữ gìn sự tồn tại lâu bền những giá trị văn hóa giàu bản sắc tộc người của cộng đồng Raglai để hậu thế có thể nhận biết đầy đủ, chính xác. Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn hướng đến mục tiêu là đưa ra những giải pháp bảo tồn di sản văn hóa Ragali gắn với phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.
4.3.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.3.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Tăng cường trao đổi thông tin về việc nộp hồ sơ đấu thầu nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh giữa Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Bác Ái và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Thuận.
+ Tăng cường phối hợp giữa UBND huyện Bác Ái, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Thuận và các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn để thẩm định hồ sơ thuyết minh đấu thầu đề tài các nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh, huyện.
+ UBND Tỉnh Ninh Thuận, UBND huyện Bác Ái đưa các đề xuất nhiệm vụ khoa học trên vào danh mục các công trình, đề tài khoa học được sử dụng ngân sách để thực hiện. Đồng thời, những cơ quan này cũng sắp xếp nguồn tài chính để kịp thời triển khai thực hiện.
- Tổ chức thực hiện
UBND tỉnh Ninh Thuận: Phê duyệt các đề xuất đề tài khoa học cấp tỉnh.
UBND Huyện Bác Ái: Đề xuất các đề tài khoa học cấp tỉnh; phê duyệt các đề tài khoa học cấp huyện
Phòng VH & TT huyện Bác Ái: Chủ trì phối hợp lập đề cương cho các đề tài khoa học cấp tỉnh; đề xuất các đề tài khoa học cấp huyện.
Đơn vị chủ trì đề tài: Được xác định thông qua đấu thầu theo quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầy dự án chi từ ngân sách nhà nước.
PGS. TS. Phan Quốc Anh: Cố vấn lập đề cương cho đề tài khoa học cấp tỉnh: Sự biến đổi nghệ thuật trình diễn truyền thống Raglai của huyện Bác Ái từ ngày tái lập huyện đến nay; và đề tài cấp huyện: Nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản sách: “Văn hóa truyền thống dân tộc Raglai - 55 năm truyền thống và biến đổi”.
TS. Nguyễn Trần Bảo Trinh (Trường Đại học Thái Bình Dương): Cố vấn lập đề cương cho đề tài khoa học cấp tỉnh: Sự biến đổi văn hóa ứng xử của người Raglai của huyện Bác Ái từ ngày thành lập đến nay.
TS. Vũ Diệu Trung-Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam: Cố vấn lập đề cương cho đề tài khoa học cấp tỉnh: Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng văn hóa truyền thống Raglai huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận; và đề tài cấp huyện: Nghiên cứu, xuất bản công trình “Bảo tồn và phát huy Văn hóa Raglai trong phát triển bền vững huyện Bác Ái”.
4.4. Phát huy văn hóa trong phát triển du lịch
4.4.1. Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng
4.4.1.1. Mục tiêu
Khai thác hiệu quả các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn gắn với người Raglai trên địa bàn các xã: Phước Bình, Phước Hòa, Phước Tân, Phước Thắng và Phước Thành. Góp phần bảo tồn di sản văn hóa của người Raglai theo hướng bền vững, sinh động hơn thông qua gắn với phát triển du lịch. Đồng thời, đây cũng là phương thức chuyển đổi và xây dựng sinh kế mới cho người Raglai trên cơ sở khai thác chính những tài nguyên nhân văn của cộng đồng họ. Bên cạnh đó, phát triển du lịch cộng đồng ở huyện Bác Ái cũng là góp phần vào quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà chính quyền huyện Bác Ái đã đề ra trong giai đoạn tới.
4.4.1.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.4.1.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Các sản phẩm du lịch phải được xây dựng từ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể do chính dân tộc Raglai sản sinh và nuôi dưỡng trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc này ở huyện Bác Ái. Những giá trị đó bao gồm các văn hóa cư trú, tri thức canh tác nông nghiệp, phương thức sinh kế, y học, ẩm thực; lễ hội truyền thống, tín ngưỡng, nghệ thuật, văn nghệ dân gian, … của cộng đồng người Raglai.
+ Các dịch vụ du lịch phải do chính cộng đồng người Raglai trực tiếp cung cấp đến du khách và trực tiếp quản lý dưới sự hỗ trợ, tư vấn của các bên liên quan. Điều này có nghĩa cộng đồng người Raglai là chủ thể có trách nghiệm, nghĩa vụ chính trong việc xây dựng các phương án, giải pháp và huy động các nguồn lực cần thiết để kiểm soát quá trình kinh doanh dịch vụ du lịch của cộng đồng. Họ cũng là chủ thể có quyền đưa ra quyết định về bản sắc văn hóa trong quá trình xây dựng, phát triển và quảng bá sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc giảm nhẹ vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như sự tương tác và ảnh hưởng mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân sự đến sự tồn tại, phát triển của các mô hình du lịch cộng đồng tại huyện Bác Ái. Mặt khác, do đặc thù xuất phát điểm về tư duy làm kinh tế du lịch của cộng đồng người Raglai chưa cao, do đó, quá trình “làm chủ” này của họ cũng cần được thực hiện theo một lộ trình nhất định gắn với sự hỗ trợ của nhiều bên liên quan.
+ Những lợi ích có được từ kinh doanh du lịch cộng đồng phải do chính cộng đồng đó được hưởng (phần lớn). Những lợi ích này gồm lợi ích về kinh tế (giải quyết việc làm, tăng thu nhập), và lợi ích về văn hóa (nâng cao tính hiệu quả trong bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống). Thực tế cho thấy, một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến thành công của các mô hình kinh doanh dịch vụ du lịch là mức độ phù hợp trong việc phân chia lợi ích mà mô hình đó tạo ra. Du lịch cộng đồng đòi hỏi sự gắn kết, tương tác và hỗ trợ của cả cộng đồng trong việc quản lý, khai thác những tài nguyên du lịch chung của cộng đồng. Vì lẽ đó, cộng đồng người Raglai tham gia cung cấp dịch vụ du lịch cộng đồng được hưởng phần lớn những lợi ích được tạo ra từ hoạt động dịch vụ du lịch này là điều hợp lý.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Cộng đồng địa phương là đối tượng trực tiếp tham gia thực hiện phát triển du lịch cộng đồng, có trách nhiệm đối ứng nguồn lực cùng với nguồn kinh phí của nhà nước hỗ trợ, triển khai có hiệu quả các sản phẩm du lịch; đồng thới là lực lượng chính trong quảng bá du lịch tại địa phương. Thực hiện quyền kiểm soát, quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ rừng và nhất là việc giữ gìn phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống để phục vụ phát triển du lịch.
Phòng Văn hóa và Thông tin:
- Căn cứ vào nội dung công việc mà xây dựng Kế hoạch hàng năm trình UBND huyện phê duyệt để triển khai thực hiện.
- Phối hợp với các phòng chuyên môn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các ban, ngành, liên quan trong việc tổ chức các nội dung công việc; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong hoạt động du lịch cộng đồng; thường xuyên tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm để tổ chức thực hiện có hiệu quả.
- Phối hợp với Ban quản lý Vườn Quốc gia Phước Bình xây dựng triển khai thực hiện tốt Quyết định số 459/QĐ ngày 31/12/2020 và Quyết định số 460/QĐ-UBND ngày 30/12/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt Phương án quản lý rừng bền vững và Đề án du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại Vườn Quốc gia Phước Bình.
- Xây dựng Kế hoạch và tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm cho cán bộ, người dân về làm du lịch cộng đồng; tập huấn, bồi dưỡng cho người dân những kiến thức, quy định của pháp luật về hoạt động du lịch cộng đồng.
- Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các nội dung hoạt động, tổng hợp báo cáo UBND huyện về kết quả thực hiện hàng năm.
- Chủ trì, phối hợp với UBND các xã đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch, thu hút dự án đầu tư, vận động các tổ chức, các doanh nghiệp du lịch hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng tại Huyện.
- Tổng hợp dự toán kinh phí hàng năm đề xuất UBND tỉnh và ngân sách huyện triển khai thực hiện theo kế hoạch.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá các sản phẩm, điểm đến du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện Bác Ái để thu hút khách du lịch; phối hợp với các đơn vị trên địa bàn huyện thực hiện các tuyên truyền về giữ gìn vệ sinh cảnh quan du lịch; vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo vệ sự đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia Phước Bình.
Công an huyện: Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo đối tượng, thành phần khách du lịch đến với huyện Bác Ái không có sự hiện diện của những thành phần phản động, chống phá nhà nước, hoặc những thành phần cố tình phá rối trật tự nơi công cộng.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Lồng ghép nội dung về phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện vào các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của huyện; tìm giải pháp về nguồn lực để triển khai thực hiện. Hàng năm, tham mưu UBND thẩm định bố trí kinh phí triển khai các hoạt động.
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Thực hiện lồng ghép thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, chương trình nông thôn mới gắn với phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện.
Phòng Tài nguyên và Môi trường: Tham mưu UBND huyện về cắm mốc, khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử (Bẫy đá Pinăng Tắc; quần thể di tích núi Tà Năng) nhằm hướng tới đầu tư khai thác phục vụ du lịch cộng đồng.
Phòng Kinh tế - Hạ tầng: Hỗ trợ các địa phương trong việc quảng bá, giới thiệu và xây dựng thương hiệu các sản phẩm đặc thù, hàng nông sản, đặc biệt là sản phẩm OCOP của địa phương, hướng các sản phẩm gắn với phát triển du lịch. Rà soát quy hoạch và hoàn chỉnh quy hoạch các điểm dân cư nông thôn, nhất là đối với các thôn nằm trong quy hoạch phát triển du lịch cộng đồng.
UBDN các xã:
- Trên cơ sở đề án chung của UBND huyện, hàng năm khảo sát những địa điểm có tiềm năng lợi thế phát triển du lịch cộng đồng, đề xuất bổ sung vào đề án chung của huyện.
- Chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, nhân dân các thôn làm tốt công tác tuyên truyền nội dung chương trình phát triển du lịch cộng đồng; xây dựng kế hoạch của địa phương mình trình UBND huyện xem xét thực hiện.
- Riêng đối với UBND các xã như Phước Bình, Phước Hòa: khảo sát đề xuất bổ sung nội dung phát triển du lịch cộng đồng vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại địa phương; xây dựng kế hoạch triển khai mở rộng mô hình phát triển du lịch cộng đồng sau khi UBND huyện phê duyệt ban hành đề án.
- UBND xã ra Quyết định thành lập tổ quản lý, vận hành, các tổ dịch vụ du lịch cộng đồng, khai thác có hiệu quả đảm bảo theo mục tiêu của đề án.
Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện và các Đoàn thể: Phối hợp vời cấp ủy chính quyền địa phương Mặt trận - Đoàn thể xã tổ chức tuyên truyền sâu rộng về phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương để nhân dân biết tham gia hưởng ứng. Nâng cao vai trò trách nhiệm, ý thức cộng đồng của khu dân cư để tạo sự đồng thuận cao, đưa du lịch Bác Ái phát triển.
Vườn Quốc gia Phước Bình và các đơn vị chủ rừng đóng trên địa bàn huyện: Trên cơ sở Đề án của UBND huyện có kế hoạch chi tiết của đơn vị, phối hợp với các ngành của huyện và UBND các xã làm tốt công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển du lịch công cộng; hoàn thiện về cơ sở hạ tầng du lịch; đảm bảo các điều kiện vật chất phụ vụ khai thác du lịch tại lâm phần thuộc đơn vị quản lý. Phối hợp với địa phương xây dựng hình thành tuyến Tuor du lịch sinh thái – cộng đồng tại Phước Bình, đồng thời có kế hoạch hỗ trợ địa phương trong công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch cộng đồng; giúp địa phương hình thành nên các tổ, đội làm dịch vụ du lịch nhất là tổ hướng dẫn viên du lịch sinh thái.
4.4.2. Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa ẩm thực dân tộc Raglai
4.4.2.1. Tổng quan về văn hóa ẩm thực truyền thống Raglai
Văn hóa ẩm thực của người Raglai mang đậm dấu ấn núi rừng, vừa phong phú vừa độc đáo, phản ánh sự hòa hợp của họ với môi trường sống xung quanh. Trong lịch sử phát triển của mình, người Raglai ở Ninh Thuận sống chủ yếu bằng nông nghiệp tự cung tự cấp, săn bắt, hái lượm và chăn nuôi. Họ trồng lúa rẫy và bắp, nhưng bắp là lương thực chính do dễ trồng trong khí hậu khô hạn. Văn hóa ẩm thực Raglai phong phú với các món từ gạo, bắp, khoai, lá rừng và các loại thịt. Món canh rất phổ biến, nấu từ lá rừng và rau. Ngày nay, do thú rừng khan hiếm, họ chuyển sang chăn nuôi gia cầm và chịu ảnh hưởng trong cách chế biến từ người Chăm và Kinh [Phan Quốc Anh, 2010, tr.193 – 212].
Sản phẩm nông nghiệp và lương thực: Người Raglai sinh sống chủ yếu nhờ nương rẫy, với cây trồng chính là lúa rẫy và bắp. Do đặc điểm khí hậu khô hạn, bắp trở thành nguồn lương thực quan trọng. Bên cạnh đó, họ trồng các loại rau màu như khoai mì, đậu, bí, và các loại trái cây (mít, chuối, khóm) để đáp ứng nhu cầu hằng ngày.
Săn bắt, hái lượm, chăn nuôi gia súc, gia cầm: Trước đây, các hoạt động săn bắt thú rừng, cá suối...Tuy nhiên ngày nay, nguồn tài nguyên này đã suy giảm do rừng bị tàn phá. Người Raglai hiện chuyển sang chăn nuôi heo, trâu, bò, gà, vịt để thay thế nguồn thịt. Các hoạt động hái lượm cây rừng như lá bép, lá para nhau, và các loại củ như củ do, củ mài cũng góp phần phong phú hóa bữa ăn của họ.
Chế biến thực phẩm:
+ Gạo, bắp, khoai, và các loại rau quả: Ngày xưa, người Raglai thường nấu cơm độn với bắp và các loại củ để tiết kiệm gạo. Các loại khoai rừng hoặc có độc tố đều được sơ chế kỹ lưỡng trước khi sử dụng.
+ Canh và món ăn từ lá cây: Canh là món phổ biến, được chế biến từ các loại lá rừng, hoa quả, và rau trồng. Có ba loại canh chính: canh lỏng, canh đặc, và canh chua.
+ Cá và thịt: Do sống ở vùng núi, họ chỉ sử dụng cá nước ngọt. Thịt thú rừng trước đây được chế biến đa dạng nhưng nay chủ yếu là thịt gia cầm và gia súc.
Chế biến bánh và đồ uống:
+ Các loại bánh: Bánh tét, bánh đúc, bánh nướng ống lồ ồ được làm từ bột khoai, hạt kê, hoặc cao lương, chịu ảnh hưởng từ người Chăm và người Kinh.
+ Nước uống và rượu cần: Ngày xưa, người Raglai uống nước suối. Nhưng ngày nay đã thực hiện ăn chín, uống sôi hoặc nước lá cây như lá chaneh để chữa bệnh. Rượu cần là thức uống không thể thiếu trong sinh hoạt và lễ hội, được làm từ bắp, bo bo, cao lương, và khoai mì.
4.4.2.2. Mục tiêu
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống của dân tộc Raglai tại huyện Bác Ái, tạo nền tảng vững chắc cho sự nhận diện văn hóa của người Raglai.
- Tăng cường quảng bá văn hóa ẩm thực Raglai gắn với phát triển du lịch văn hóa tại Ninh Thuận, tạo ra các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo, thu hút du khách.thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương, góp phần nâng cao đời sống kinh tế và văn hóa cho cộng đồng người Raglai.
- Nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của văn hóa ẩm thực, từ đó góp phần gìn giữ và phát triển nét đẹp văn hóa truyền thống.
4.4.2.3. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Cụ thể các nhiệm vụ từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 là:
i) Khảo sát, nghiên cứu và đánh giá thực trạng văn hóa ẩm thực Raglai
- Thực hiện đề tài nghiên cứu về ẩm thực Raglai (cấp huyện)
+ Thu thập tư liệu, hình ảnh, tài liệu về các món ăn truyền thống, phong tục, lễ hội ẩm thực của người Raglai.
+ Phỏng vấn chuyên gia, nghệ nhân ẩm thực, người dân địa phương về văn hóa ẩm thực Raglai.
+ Đánh giá tiềm năng phát triển văn hóa ẩm thực Raglai trong bối cảnh phát triển du lịch văn hóa.
+ Sản phẩm Báo cáo tổng hợp đề tài Ẩm thực Raglai ở huyện Bác Ái
- Xây dựng bộ tư liệu về văn hóa ẩm thực Raglai
+ Sưu tầm, hệ thống hóa và lưu trữ các món ăn, thức uống truyền thống của người Raglai; tạo thành bộ tư liệu đa dạng về văn hóa ẩm thực của dân tộc này.
+ Tạo lập dữ liệu kỹ thuật số về văn hóa ẩm thực Raglai (gồm video, ảnh và bài viết).
+ Sản phẩm: 01 bộ phim về văn hóa ẩm thực Raglai 30 – 40 phút (chuyên nghiệp), lưu giữ tư liệu và quảng bá trên các nền tảng mạng xã hội
ii) Xây dựng mô hình du lịch gắn kết với văn hóa ẩm thực Raglai
- Thiết kế các tour du lịch ẩm thực tại huyện Bác Ái: với các hoạt động trải nghiệm văn hóa ẩm thực như nấu ăn truyền thống, thưởng thức các món ăn đặc trưng; phối hợp với các khu du lịch sinh thái, làng văn hóa để tạo không gian trải nghiệm ẩm thực Raglai (năm 2025- 2026 tại xã Phước Bình).
- Quảng bá và xúc tiến thương mại
+ Tổ chức các sự kiện, lễ hội ẩm thực thường niên, giới thiệu văn hóa ẩm thực Raglai đến với du khách.
+ Xúc tiến thương mại và hợp tác với các đơn vị kinh doanh du lịch để đưa các món ăn Raglai vào các tour du lịch và sự kiện lớn.
+ Phát triển nội dung số trên các nền tảng truyền thông xã hội, tạo video, bài viết quảng bá về văn hóa ẩm thực Raglai.
- Đào tạo đầu bếp chế biến văn hóa ẩm thực Raglai
+ Đào tạo, hỗ trợ nghề nghiệp cho người dân trong việc chế biến và phục vụ các món ăn truyền thống.
+ Nâng cao năng lực cho các cán bộ văn hóa, hướng dẫn viên du lịch và người dân địa phương trong việc quảng bá văn hóa ẩm thực Raglai
iii) Tổ chức ngày hội văn hóa ẩm thực gắn với lễ hội văn hóa Raglai hàng năm và tổ chức định kỳ tại khu du lịch xã Phước Bình và Nhà truyền thống Bác Ái (TTVH huyện).
iv) Lộ trình thực hiện
- Giai đoạn 2025 - 2026: Khảo sát, thu thập và lưu trữ tư liệu văn hóa ẩm thực, xây dựng bộ tư liệu văn hóa ẩm thực Raglai.
- Giai đoạn 2027 - 2028: Triển khai các chương trình du lịch trải nghiệm ẩm thực, đào tạo nguồn nhân lực.
- Giai đoạn 2029 - 2030: Mở rộng mô hình du lịch văn hóa gắn với ẩm thực Raglai, phát triển thương hiệu và quảng bá rộng rãi.
4.4.2.4. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Hỗ trợ chính sách từ cấp chính quyền trong công tác bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch.
+ Tăng cường hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh để tổ chức các tour du lịch văn hóa.
+ Kêu gọi đầu tư và tài trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực du lịch văn hóa.
- Tổ chức thực hiện:
Cộng đồng người Raglai: Tích cực, chủ động phối hợp với Phòng Văn hóa – Thông tin huyện, Trung tâm y tế huyện Bác Ái và Trạm xá tại các xã trên địa bàn huyện để xây dựng danh mục các món ăn, thức uống đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ khách du lịch.
Phòng Văn hóa và Thông tin:
+ Chủ trì phối hợp với cộng đồng người Raglai xây dựng danh mục các món ăn truyền thống, những món ăn mang đậm bản sắc văn hóa địa phương để phục vụ du khách.
+ Phối hợp với Trung tâm y tế huyện, các trạm xá ở xã và Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh huyện tổ chức các đợt tuyên truyền về giữ gìn vệ sinh, an toàn thực phẩm trong quá trình chế biến và cung cấp món ăn đến thực khách.
+ Phối hợp với Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh huyện tổ chức các lớp dạy, thực hành chế biến các món ăn, thức uống thể hiện văn hóa ẩm thực truyền thống của người Raglai nói riêng, gắn với đặc điểm sinh cảnh của vùng Bác Ái nói chung.
+ Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các nội dung hoạt động, tổng hợp báo cáo UBND huyện về kết quả thực hiện hàng năm.
Trung tâm y tế huyện Bác Ái và Trạm xá tại các xã: phối hợp với Phòng Văn hóa – Thông tin huyện và người dân địa phương để xây dựng danh mục các món ăn, thức uống đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để cung cấp cho thực khách; thường xuyên thực hiện kiểm tra, giám sát về vấn đề an toàn thực phẩm đối với các hộ gia đình, cơ sở kinh doanh ẩm thực phục vụ khách du lịch.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá các món ăn, thức uống đặc sắc của người Raglai nói riêng, nhân dân huyện Bác Ái nói chung để thu hút khách du lịch; phối hợp với các đơn vị trên địa bàn huyện thực hiện các tuyên truyền về giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo vệ sự đa dạng sinh học của Vườn quốc gia Phước Bình.
UBND các xã: Tăng cường giám sát và phối hợp với các cơ quan chức năng để kiểm tra hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống trên địa bàn xã đảm bảo an toàn thực phẩm phục vụ khách du lịch.
Vườn Quốc gia Phước Bình và các đơn vị chủ rừng đóng trên địa bàn huyện: Phối hợp với người dân địa phương, các doanh nghiệp du lịch trong việc tổ chức cho khách du lịch các chuyến trải nghiệm hái rau rừng; khai thác các tài nguyên rừng để chế biến thành các món ăn đặc sản phục vụ khách du lịch, nhất là các loại rau rừng. Nhưng quá trình này phải được thực hiện một cách hợp pháp, đảm bảo không gây tổn hại đến sự đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia Phước Bình.
4.4.3. Tổ chức lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai
4.4.3.1. Mục tiêu
Mở ra không gian và cơ hội để cộng đồng người Raglai trên địa bàn huyện Bác Ái thực hành các biểu đạt văn hóa truyền thống của mình như tín ngưỡng, nghi lễ, trang phục, chế tác nhạc cụ, biểu diễn văn nghệ dân gian,... Từng bước xây dựng trở thành những sự kiện văn hóa, thể thao có khả năng thu hút khách du lịch. Khai thác những sự kiện được tổ chức như là các công cụ để truyền thông quảng bá những tài nguyên văn hóa và thiên nhiên hiếm có của huyện Bác Ái đến với du khách, các nhà đầu tư du lịch.
4.4.3.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.4.3.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng tổ chức sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch theo hướng kinh tế du lịch để xây dựng lực lượng nhân sự phục vụ công tác tổ chức sự kiện ngay tại địa phương.
+ Xây dựng được mạng lưới đối tác ngoài nhà nước để tài trợ, bảo trợ tài chính, truyền thông cho các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai.
+ Huy động sự tham gia đông đảo của cộng đồng người Raglai trong các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai. Họ và bản sắc văn hóa của họ cần trở thành nhân tố - nhân vật chính trong các sự kiện này để tạo ra sự khác biệt trong các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai.
+ Huy động sự tham gia các các doanh nghiệp, những đạo diễn chuyên tổ chức các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch để tham gia tư vấn, làm đạo diễn hoặc tổng đạo diễn các sự kiện này.
+ Huy động sự tham gia của các kênh truyền thông báo chí trong và ngoài tỉnh Ninh Thuận để bảo trợ thông tin, hỗ trợ hoạt động truyền thông, quảng bá về các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai.
+ Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch, lữ hành trong và ngoài địa bàn tỉnh Ninh Thuận để kết hợp đưa các sự kiện lễ hội này vào chương trình tour du lịch để bán cho khách hàng.
- Tổ chức thực hiện
UNBD Huyện: Bố trí, sắp xếp nguồn vốn hàng năm để có kinh phí tổ chức những sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai cấp huyện; chỉ đạo các phòng, ban chức năng của huyện tích cực hỗ trợ, phối hợp với nhau một cách đồng bộ, thông suốt để đảm bảo các sự kiện này được tổ chức thành công từ khâu xây dựng kế hoạch đến khi sự kiện diễn ra.
Cộng đồng người Raglai: Chủ động, tích cực tham gia vào các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai với nhiều vị trí, vai trò khác nhau-nhưng dù vai trò vị trí nào thì cũng cần phát huy tư thế là chủ nhân của các giá trị văn hóa Raglai; tích cực quảng bá bản sắc văn hóa tộc người Raglai đến với đông đảo du khách gần xa.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với các phòng chuyên môn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các ban, ngành, liên quan trong việc tổ chức các nội dung công việc; tổng hợp dự toán kinh phí hàng năm đề xuất UBND tỉnh và ngân sách huyện triển khai thực hiện theo kế hoạch; chủ trì và phối hợp để tổ chức các hoạt động truyền thông, quảng bá cho sự kiện.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai đến với đông đảo công chúng bằng nhiều phương thức sáng tạo khác nhau.
Công an huyện: Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an ninh trật tự trước – trong và sau khi các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai kết thúc.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Lồng ghép kế hoạch tổ chức các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn huyện vào các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của huyện; tham mưu UBND bố trí kinh phí để tổ chức các sự kiện này.
Phòng Tài nguyên và Môi trường: Tham mưu UBND huyện các phương án cần thiết để đảm bảo các sự kiện được tổ chức tạo ra các thách thức, rủi ro cho môi trường, đặc biệt là Vườn Quốc gia Phước Bình.
Phòng Kinh tế - Hạ tầng: Tham mưu cho UBND huyện trong việc tổ chức các cuộc triển lãm, gian hàng trưng bày nông sản, hàng hóa văn hóa mang tính đặc thù của người dân huyện Bác Ái trong các sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai.
UBDN các xã: Phối hợp với các bên liên quan để xây dựng các tuyến-điểm du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa phục vụ du khách trong mỗi dịp sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai diễn ra; vận đồng người dân tham gia mở gian hàng trưng bày và bán các sản phẩm đặc thù của địa phương tại các sự kiện.
Vườn Quốc gia Phước Bình và các đơn vị chủ rừng đóng trên địa bàn huyện: Phối hợp với các bên liên quan để xây dựng tour tuyến du lịch sinh thái – mạo hiểm kết hợp du lịch cộng đồng trong mỗi dịp sự kiện lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch Raglai diễn ra.
4.4.4. Đầu tư xây dựng không gian văn hóa Raglai tại khuôn viên nhà truyền thống huyện và Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh
4.4.4.1. Mục tiêu
Hình thành một khu vực trong diện tích giới hạn nhưng thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc và trung thực những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái. Đây là cơ sở để hình thành Trung tâm văn hóa dân tộc Raglai ở quy mô lớn hơn trong tương lai. Không gian văn hóa Raglai được xây dựng tại đây trở thành điểm tham quan hấp dẫn, thu hút nhiều khách du lịch, đồng thời là nơi giáo dục truyền thống văn hóa tộc người cho nhân dân huyện Bác Ái.
4.4.4.2. Nội dung công việc từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
4.4.4.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Giải pháp
+ Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng tổ chức, quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa, thuyết minh du lịch tại Không gian văn hóa Raglai cho cán bộ văn hóa và người Raglai.
+ Phối hợp với các địa phương ngoài tỉnh Ninh Thuận có người Raglai sinh sống tham gia đóng góp hiện vật gắn với văn hóa Raglai để trưng bày.
+ Xây dựng mạng lưới đối tác ngoài nhà nước để bảo trợ hoạt động truyền thông cho Không gian văn hóa Raglai.
+ Huy động sự tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm của những người có uy tín trong cộng đồng người Raglai trong quá trình thiết kế, xây dựng, thu thập tài liệu, hiện vật trưng bày, vận hành và khai thác Không gian. Xây dựng hình ảnh người Raglai với những màu sắc văn hóa của họ là nhân vật trung tâm nhất của Không gian.
+ Huy động sự tham gia các các doanh nghiệp du lịch trong việc đầu tư và một số hạng mục công trình, sản phẩm du lịch được tích hợp trong Không gian văn hóa Raglai; đưa Không gian văn hóa Raglai vào chương trình tour du lịch để bán cho khách hàng.
- Tổ chức thực hiện
Cộng đồng người Raglai: Đề cử một số đại diện tiêu biểu, có uy tín của cộng đồng tham gia quá trình thiết kế, xây dựng và vận hành khai thác Không gian văn hóa Raglai; tức cực đóng góp sức người, sức của, hiện vật để Không gian này mang đậm bản sắc văn hóa tộc người Raglai.
Phòng Văn hóa và Thông tin:
- Phối hợp với các phòng chuyên môn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận, các nhà nghiên cứu, đại diện của cộng đồng Raglai trong và ngoài tỉnh Ninh Thuận trong việc thu thập hiện vật, phục dựng hiện vật để đưa vào Không gian văn hóa Raglai.
- Chủ trì và phối hợp với các bên liên quan trong việc thiết kế không gian và triển khai thi công trên thực tế; trực tiếp cùng với đại diện cộng đồng Raglai tham gia đánh giá bản thiết kế không gian, quản lý, vận hành và khai thác Không gian; phối hợp với Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh huyện xây dựng các hoạt động dịch vụ văn hóa để phục vụ du khách tại Không gian này.
- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị truyền thông, Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh huyện Bác Ái để đẩy mạnh hoạt động truyền thông, quảng bá về Không gian này để thu hút khách du lịch.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình hoạt động khi được các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.
Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh: Tăng cường hoạt động tuyền thông, quảng bá Không gian văn hóa Raglai đến với khách du lịch; chủ trì tổ chức các hoạt động giáo dục nghệ thuật truyền thống, văn hóa bản địa của người Raglai tại Không gian này.
Công an huyện: Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an ninh trật tự đối với Không gian này, nhất là vào những dịp Lễ hội, tết, sự kiện văn hóa có đông người đến tham quan.
Phòng Tài chính – Kế hoạch: Tham mưu cho UBND huyện về khai thác các nguồn tài chính để xây dựng Không gian văn hóa Raglai.
Phòng Tài nguyên và Môi trường: Tham mưu UBND huyện xây dựng và triển khai các biện pháp phù hợp để đảm bảo vấn đề vệ sinh môi trường tại Không gian văn hóa Raglai.
Phòng Kinh tế - Hạ tầng: Tham mưu cho UBND huyện trong việc tổ chức các cuộc triển lãm, gian hàng trưng bày nông sản, hàng hóa văn hóa mang tính đặc thù văn hóa tại Không gian văn hóa Raglai.
UBDN các xã: Vận đồng người Raglai tham gia mở gian hàng trưng bày, bán các sản phẩm, hàng hóa gắn với văn hóa Raglai tại Không gian này.
4.4.5. Số hóa tư liệu văn hóa truyền thống Raglai, thực hiện truyền thông quảng bá văn hóa Raglai trong phát triển du lịch
4.4.5.1. Số hóa tư liệu văn hóa truyền thống Raglai
Mục đích, ý nghĩa: Xây dựng nền tảng số hóa, quảng bá văn hóa Raglai trong du lịch và xây dựng nhận diện thương hiệu văn hóa Raglai. Lưu trữ lâu bền, an toàn các giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai; thuận tiện và hiệu quả trong việc phổ biến những giá trị, bản sắc văn hóa đó trên các nền tảng công nghệ hiện đại, đặc biệt là internet.
Các loại hình văn hóa cần số hóa:
+ Văn hóa vật thể: Văn hóa ẩm thực (Làm phim tư liệu), văn hóa trang phục, văn hóa ở, nhà sàn; nhạc cụ truyền thống.
+ Văn hóa phi vật thể:
- Sử thi, ngôn ngữ, chữ viết, văn học dân gian
- Nghệ thuật trình diễn Mã la, Khèn bầu, Đàn đá, Sagơr (lớn, nhỏ), dân ca, dân vũ
- Tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội truyền thống (Tập trung 04 lễ hội: Bỏ mã, Ăn mừng lúa mới, Đền ơn đáp nghĩa và Lễ cưới)
- Nghề thủ công truyền thống
Phương pháp thực hiện số hóa:
- Thu thập tư liệu: Qua phỏng vấn, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, dựng MV
- Ứng dụng công nghệ trong số hóa: Công nghệ 3D, lưu trữ đám mây, xây dựng hệ thống dữ liệu văn hóa trực tuyến.
4.4.5.2. Truyền thông quảng bá văn hóa Raglai trong phát triển du lịch
Mục đích, ý nghĩa: Thông tin quảng bá có hiệu quả, chuyên nghiệp về văn hóa truyền thống dân tộc Raglai, về sự hấp dẫn đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch rừng, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa gắn với văn hóa truyền thống, cảnh quan văn hóa của người Raglai. Đề cao tầm quan trọng của truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng và thu hút du khách.
Những nhiệm vụ và phương pháp truyền thông:
- Xây dựng nội dung phong phú, hấp dẫn: Tạo câu chuyện, chia sẻ trải nghiệm văn hóa, giới thiệu các nhân vật Raglai tiêu biểu.
- Đa dạng kênh truyền thông: Sử dụng mạng xã hội (Tiktok, Youtube, Facebook,…), blog, website du lịch và các nền tảng trực tuyến mới khác.
- Tổ chức sự kiện quảng bá văn hóa: Các lễ hội văn hóa Raglai, hội chợ, triển lãm.
- Tăng cường liên kết truyền thông giữa các bên liên quan: Nhà nước, doanh nghiệp du lịch, cộng đồng Raglai.
Nội dung công việc về số hóa tư liệu và truyền thông quảng bá văn hóa Raglai từ nay đến năm 2030:
4.4.5. Xây dựng nhận diện thương hiệu du lịch văn hóa Raglai huyện Bác Ái
4.4.5.1. Mục đích, ý nghĩa:
Mục đích: Xây dựng một thương hiệu du lịch văn hóa Raglai của huyện Bác Ái, tạo ra một dấu ấn đặc biệt trong lòng du khách, từ đó góp phần phát triển du lịch bền vững và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Ý nghĩa: Huyện Bác Ái sẽ có một thương hiệu du lịch văn hóa riêng cho Raglai trong phát triển du lịch bền vững.
4.4.5.2. Công việc cụ thể
Để xây dựng nhận diện thương hiệu du lịch văn hóa Raglai của huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận, cần thực hiện các công việc sau:
(i) Nghiên cứu và xác định các giá trị cốt lõi của văn hóa Raglai
- Xây dựng biểu tượng và thông điệp đặc trưng; xác định đặc trưng văn hóa độc đáo của Raglai: Tìm hiểu các yếu tố đặc sắc trong văn hóa Raglai như lễ hội, trang phục, nhạc cụ, ngôn ngữ, ẩm thực, kiến trúc nhà sàn,…
- Nghiên cứu lịch sử và ý nghĩa văn hóa: Hiểu rõ lịch sử hình thành và giá trị của các nghi thức, phong tục tập quán để làm nổi bật các giá trị này trong nhận diện thương hiệu.
- Các yếu tố tạo dựng thương hiệu văn hóa Raglai: Biểu tượng và hình ảnh đặc trưng: Trang phục, kiến trúc nhà sàn, nhạc cụ truyền thống; giá trị cốt lõi của văn hóa Raglai: Bản sắc, sự gắn bó cộng đồng, lối sống gắn kết với thiên nhiên.
- Các bước xây dựng thương hiệu văn hóa Raglai:
+ Xây dựng biểu tượng và thông điệp đặc trưng.
+ Thiết kế các sản phẩm du lịch đặc trưng: Các tour du lịch khám phá làng Raglai, tham gia các lễ hội, trải nghiệm nghề thủ công, ẩm thực truyền thống.
+ Quảng bá nhận diện thương hiệu qua các kênh truyền thông.
ii) Xây dựng hình ảnh biểu tượng và logo đại diện cho văn hóa Raglai
- Thiết kế biểu tượng (logo) văn hóa: Logo nên chứa đựng các yếu tố đặc trưng của Raglai như hình ảnh nhạc cụ (đàn Chapi, trống), trang phục truyền thống, hoa văn bản địa.
- Lựa chọn màu sắc chủ đạo: Màu sắc nên lấy cảm hứng từ thiên nhiên và văn hóa Raglai, như màu nâu đất, xanh rừng núi, màu đỏ hoặc vàng từ trang phục và hoa văn.
- Tạo câu chuyện thương hiệu: Xây dựng một câu chuyện xúc động, có chiều sâu văn hóa để giới thiệu về biểu tượng và ý nghĩa của thương hiệu.
iii) Thiết kế các sản phẩm quảng bá văn hóa
- Sản phẩm lưu niệm: Phát triển các sản phẩm lưu niệm đặc trưng như áo thổ cẩm Raglai, đồ trang sức thủ công, nhạc cụ, tranh dân gian.
- Ấn phẩm truyền thông: Thiết kế sách, tờ gấp, tờ rơi, catalog, video giới thiệu đặc trưng văn hóa Raglai.
- Xây dựng nội dung số: Tạo các bài viết, video, hình ảnh giới thiệu văn hóa Raglai trên các nền tảng mạng xã hội, website du lịch.
iv) Phát triển các hoạt động trải nghiệm văn hóa Raglai cho du khách
- Tổ chức tour du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa: Mời khách du lịch tham gia các hoạt động truyền thống của Raglai như làm đồ thủ công, chế tác nhạc cụ, tham gia lễ hội truyền thống.
- Tạo ra các sự kiện văn hóa thường niên: Lễ hội Raglai có thể tổ chức hàng năm với các tiết mục âm nhạc, múa truyền thống, và các trò chơi dân gian để quảng bá thương hiệu văn hóa.
- Tích hợp trải nghiệm ẩm thực: Tổ chức các buổi trải nghiệm ẩm thực dân tộc để du khách thưởng thức món ăn đặc sản của Raglai như cơm lam, các món từ cá, rau rừng.
v) Sử dụng truyền thông đa kênh để quảng bá thương hiệu
- Xây dựng website và kênh truyền thông xã hội: Cập nhật thông tin văn hóa Raglai trên website du lịch và các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, YouTube.
- Phát hành nội dung qua video và blog: Các bài viết và video về văn hóa Raglai nên có phụ đề tiếng Anh để dễ dàng tiếp cận du khách quốc tế.
- Hợp tác với các blogger, vlogger, youtuber, tiktoker du lịch: Mời các nhà sáng tạo nội dung nổi tiếng đến trải nghiệm văn hóa và chia sẻ trên các kênh của họ.
vi) Đào tạo người dân và nâng cao ý thức cộng đồng
- Tập huấn cho người dân: Cách đón tiếp, giới thiệu văn hóa một cách chuyên nghiệp, đồng thời giữ gìn bản sắc truyền thống.
- Xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên bản địa: Đào tạo những người trẻ trong cộng đồng Raglai để trở thành hướng dẫn viên du lịch, hiểu rõ và tự hào về văn hóa của mình.
- Khuyến khích nghệ nhân và cộng đồng sáng tạo: Hỗ trợ các nghệ nhân Raglai trong việc phục hồi và truyền dạy kỹ năng truyền thống cho thế hệ trẻ, từ đó phát triển và giữ gìn di sản văn hóa.
vii) Hợp tác với các tổ chức văn hóa và cơ quan du lịch
- Liên kết với các tổ chức văn hóa, bảo tàng: Trưng bày các hiện vật, hình ảnh và video về văn hóa Raglai tại các bảo tàng hoặc trung tâm văn hóa lớn.
- Tạo quan hệ đối tác với doanh nghiệp du lịch: Phối hợp với các công ty du lịch để đưa sản phẩm du lịch văn hóa Raglai vào các tour tuyến.
- Tham gia các hội chợ và triển lãm du lịch: Giới thiệu thương hiệu văn hóa Raglai tại các sự kiện trong nước và quốc tế.
viii) Đánh giá và điều chỉnh chiến lược
- Thu thập phản hồi từ du khách: Tìm hiểu cảm nhận của du khách về các sản phẩm, hoạt động văn hóa để cải thiện và hoàn thiện thương hiệu.
- Điều chỉnh kế hoạch theo nhu cầu thị trường: Nâng cấp các sản phẩm, dịch vụ văn hóa theo xu hướng và nhu cầu thực tế của du khách.
- Báo cáo và đánh giá hiệu quả hàng năm: Thường xuyên đánh giá kết quả hoạt động truyền thông và quảng bá để điều chỉnh chiến lược phù hợp.
Giải pháp thực hiện:
- Nâng cao năng lực cộng đồng trong bảo tồn và truyền bá văn hóa: Tổ chức đào tạo, tăng cường nhận thức cho người dân địa phương.
- Phát triển phương thức hợp tác công – tư (PPP): Khuyến khích đầu tư từ các tổ chức, doanh nghiệp, kết nối với các tổ chức văn hóa, du lịch.
- Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quản lý và quảng bá văn hóa: Xây dựng ứng dụng di động, website quảng bá văn hóa Raglai.
Tổ chức thực hiện:
UBND huyện: Ra văn bản chỉ đạo hiện hữu và ban hành văn bản chỉ đạo mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Căn cứ và từng nội dung để phân công các ngành chức năng và toàn hệ thống chính trị.
Phòng Văn hóa và Thông tin: Tham mưu kế hoạch cho UBND huyện tổ chức đặt hàng các nhiệm vụ nêu trên, tổ chức đấu thầu thực hiện theo lộ trình.
Bảng biểu nhiệm vụ xây dựng nhận diện thương hiệu du lịch văn hóa Raglai huyện Bác Ái
(Toàn bộ nội dung trong bảng này có thể được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu trọn gói)
Bảo tồn tiếng nói, chữ viết Raglai
4.4.6.1. Mục đích
Tiếng nói, chữ viết là cốt lõi bản sắc văn hóa của một dân tộc. Để bảo tồn được bản sắc văn hóa Raglai, cần phải bảo tồn được tiếng nói, chữ viết Raglai. Bộ chữ viết Raglai đã được nghiên cứu và phổ biến từ đề tài nghiên cứu khoa học của Sở KH&CN tỉnh Ninh Thuận. Nhưng đến nay đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần phải nghiên cứu bổ sung. Việc dạy và học tiếng nói chữ viết Raglai cũng còn những hạn chế. Vì vậy, đề án này cũng đề xuất một số công việc như sau:
4.4.6.2. Nội dung công việc cụ thể
(i) Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện bộ chữ viết Raglai (đề tài nghiên cứu cấp huyện hoặc cấp tỉnh) dự kiến 1.500 triệu đồng
(ii) Triển khai dạy tiếng nói, chữ viết Raglai cấp tiểu học phổ cập giáo dục
(iii) Dịch và xuất bản song ngữ một số tác phẩm ca dao, dân ca, tục ngữ, câu đố
BẢNG BIỂU CÔNG VIỆC BẢO TỒN TIẾNG NÓI, CHỮ VIẾT RAGLAI
Nội dung công việc
Đơn vị tính: Triệu đồng (Tổng cộng 2.500 triệu đồng)
5. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
5.1. Tăng cường sự quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai xây dựng và thực hiện đề án
Đây là Đề án không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa, kinh tế mà còn có những ý nghĩa sâu sắc về chính trị, xã hội. Hơn nữa, để thực hiện thành công, hiệu quả các nhiệm vụ, mục tiêu của Đề án đòi hỏi sự hợp tác đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị của huyện Bác Ái. Do đó, giải pháp trước tiên cần thực hiện đó là Huyện ủy, HĐND và UBND cần tăng cường sự quản lý, lãnh chỉ đạo sâu sát, thường xuyên đối với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu của Đề án. Việc quản lý, lãnh chỉ đạo này cần được cụ thể hóa bằng những chỉ thị hành chính cụ thể.
Quá trình quản lý, lãnh chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Đề án còn được thể hiện qua việc yêu cầu các phòng ban chức năng liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Đề án này làm báo cáo định kỳ quý, 6 tháng, năm; 5 năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, tổ chức các buổi thảo luận chuyên đề liên quan đến Đề án trong suốt chu trình thực hiện Đề án cũng là một cách thức để Huyện ủy, HĐND, UBND Huyện Bác Ái tăng cường sự quản lý, lãnh chỉ đạo.
5.2. Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong cán bộ và nhân dân huyện Bác Ái
Cần thống nhất quan điểm rằng: Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc nói chung, của cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái nói riêng là sự nghiệp lớn lao, phức tạp, trường kỳ và là trách nhiệm, nghĩa vụ chung của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể nhân dân huyện Bác Ái. Có như vậy mới có thể huy động được sức mạnh của toàn hệ thống chính trị và nhân dân của huyện Bác Ái hướng đến mục tiêu chung là giữ gìn sự tồn tại bền vững của những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó bản sắc văn hóa của cộng đồng người Raglai là một thành tố hữu cơ không thể tách rời.
Vì lẽ trên, để những nhiệm vụ, mục tiêu của Đề án được thực thi mang lại những hiệu quả thực chất trong thực tiễn, cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống chính trị và nhân dân của huyện Bác Ái về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, nhất là đối với các dân tộc thiểu số.
Nội dung, hình thức và mức độ thực hiện công tác tuyên truyền này được thiết kế phù hợp cho từng nhóm đối tượng khác nhau nhưng phải hướng đến tính hiệu quả cuối cùng. Trong đó, nội dung tuyên truyền cần tập trung các nhóm vấn đề sau:
- Chủ trương của Đảng, chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc nói chung, và dân tộc thiểu số nói riêng.
- Vai trò, ý nghĩa của việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong mối tương quan với lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
- Những thách thức, rủi ro do đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội mới tạo ra đối với sự tồn tại bền vững của các giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có các dân tộc thiểu số.
- Vai trò của cộng đồng sản sinh ra di sản với sự nghiệp bảo tồn và phát huy những giá trị của di sản văn hóa trong xã hội đương đại.
Về hình thức tuyên truyền: Cần thiết kế hình thức tuyên truyền phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận các kênh truyền thông đại chúng của các nhóm đối tượng cần tuyên truyền. Trong đó, đối với cộng đồng người Raglai, cần đặc biệt lưu tâm đến ngôn ngữ, chữ viết được thể hiện trong nội dung tuyên truyền cũng như khai thác triệt để và hiệu quả hình thức tuyên truyền trực quan sinh động, hạn chế các hình thức tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng, nhất là qua Internet.
Về mức độ tuyên truyền: cần thực hiện thường xuyên theo chu kỳ năm và trường kỳ trong suốt chu trình thực hiện các mục tiêu của Đề án. Điều này để đảm bảo người dân không hoặc lâu quên những nội dung cần tuyên truyền.
5.3. Vận dụng cơ chế đặc thù, các chính sách đầu tư cho lĩnh vực bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số của các Bộ, Ngành Trung ương và UBND tỉnh Ninh Thuận
Để có thể triển khai thành công những nhiệm vụ, mục tiêu của Đề án này, huyện Bác Ái cần vận dụng và khai thác hiệu quả các cơ chế đặc thù, các chính sách đầu tư cho lĩnh vực bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số từ cấp Trung ương đến địa phương. Những chính sách này được thể hiện trong các văn bản dưới đây:
- Luật Di sản văn hóa năm 2001 và sửa đổi, bổ sung năm 2009;
- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
- Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 09/6/2014 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;
- Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc;
- Nghị quyết Số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/11/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo;
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc;
- Nghị định số 39/2024/NĐ-CP ngày 16/4/2024 của Chính phủ quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong các danh sách của UNESCO và danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;
- Quyết định số 1909/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/11/2021 về Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030;
- Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030;
- Quyết định số 209/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 18/01/2019 về việc phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay";
- Quyết định số 2774/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 02/10/2020 về việc tổ chức tuyên truyền, quảng bá và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch;
- Quyết định số 2621/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 09/9/2024 về Phê duyệt kế hoạch hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số thuộc chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
- Quyết định số 555 /QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận ngày 03/10/ 2021 về Ngân sách tỉnh hỗ trợ địa phương;
- Quyết định số 51/2022/QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận ngày 04/9/2022 về ngân sách tỉnh hỗ trợ địa phương;
- Quyết định số 3574/QĐ-UBND ngày 16/8/2022 của UBND tỉnh Ninh Thuận về ngân sách nhà nước thuộc CTMTQG phát triển kinh tế -xã hội vùng đổng bào dân tộc, miền núi;
- Quyết định số 753/QĐ-UBND ngày 31/12/2022 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc Ban hành Chương trình phát triển du lịch Ninh Thuận trở thành ngành kinh tế mũi nhọn giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030;
- Chỉ thị 14-CT/TU ngày 15/6/2016 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn tỉnh;
- Quyết định số 84/2014/QĐ-UBND ngày 17/11/2014 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận;
- Quyết định 507/QĐ-UBND ngày 05/12/2016 của UBND tỉnh Ninh Thuận về việc phân cấp trực tiếp quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh; Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận;
- Quyết định số 555/QĐ-UBND của UBND tỉnh Ninh Thuận về Phê duyệt Đề án Phát triển du lịch Ninh Thuận giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 năm 2023;
- Nghị quyết số 152/NQ-HĐND ngày 18/12/2019 của HĐND huyện Bác Ái về việc Phê chuẩn Đề án Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn huyện giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030;
- Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 30/11/2022 của Ban Chấp hành đảng bộ huyện khóa XIV về phát triển du lịch trên địa bàn huyện Bác Ái giai đoạn 2022 –2025, định hướng đến năm 2030.
5.4. Quy hoạch về phát triển văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn huyện gắn với bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
Hiện nay, huyện Bác Ái đã xây dựng các Đề án sau:
- Đề án Phát triển du lịch trên địa bàn huyện Bác Ái gia đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030 được UBND huyện thông qua năm 2023 theo Quyết định số 1471/ QĐ-UBND ngày 17/8/2023.
- Đề án Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn huyện giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030, được phe duyệt năm 2019 theo Nghị quyết số 152/NQ-HĐND ngày 18/12/2019 của HĐND huyện Bác Ái.
Như vậy, huyện Bác ái chưa có quy hoạch phát triển văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn huyện một cách tổng thể. Do đó, trong thời gian tới, UBND Huyện cần chỉ đạo Phòng Văn hóa và Thông tin huyện phối hợp với các đơn vị chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước để triển khai xây dựng Quy hoạch này. Trong đó, yêu cầu đặt ra của Quy hoạch này là cần có nội dung mục tiêu danh riêng cho vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của người dân Bác Ái, trong đó cần ưu tiên đối với nhóm dân tộc thiểu số như người Raglai. Xem nội dung này là một thành tố quan trọng trong cấu trúc tổng thể của Bản Quy hoạch. Mặt khác, khi xây dựng Quy hoạch về phát triển văn hóa, thể thao, du lịch của huyện Bác Ái, một vấn đề cần được quan tâm khác nữa là tiếp cận công tác bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc ở huyện Bác Ái từ góc độ nhấn mạnh vai trò của cộng đồng, xem lợi ích lâu dài và bền vững của cộng đồng-nhất là nhóm thiểu số như Raglai là mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của mọi nội dung quy hoạch.
5.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trên địa bàn huyện Bác Ái gồm 03 nhóm: 1-Nhóm cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đang công tác trong ngành văn hóa từ cấp huyện xuống cấp xã, thị trấn; 2-Nhóm những già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng người thiếu số Raglai; 3-Cộng đồng người dân Raglai. Với mỗi nhóm, cần nâng cao chất lượng ở những khía cạnh cụ thể như sau:
- Đối với nhóm cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đang công tác trong ngành văn hóa từ cấp huyện xuống cấp xã, thị trấn: cần nâng cao năng lực hiểu biết thấu đáo, chính xác và đầy đủ những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc, nhất là đối với dân tộc thiểu số. Đồng thời, cần nâng cao kỹ năng thuyết trình, nói trước đám đông; năng lực tổ chức các sự kiện văn hóa văn nghệ, TDTT lồng ghép nội dung tuyên truyền. Bên cạnh đó, việc tạo điều kiện về cơ chế, chính sách để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành văn hóa huyện Bác Ái đi học tập để nâng cao trình độ phù hợp với vị trí công tác, vị trí được quy hoạch cũng là cách thức cần được thực hiện để nâng cao chất lượng đội ngũ này.
- Nhóm những già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng người thiếu số Raglai: Cần nâng cao năng lực truyền dạy những tri thức về sinh kế, văn nghệ dân gian, ẩm thực, nghề truyền thống,…cho thế hệ trẻ để có lực lượng kế thừa; nâng cao năng lực sử dụng quyền lực mềm của bản thân, phong tục tập quán của cộng đồng Raglai để tác động đến thế hệ trẻ về ý thức, trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong môi trường xã hội đương đại.
- Cộng đồng người dân Raglai: Khuyến khích người Raglai, nhất là thế hệ trẻ tích cực, chủ động học hỏi, tiếp nhận những tri thức, những giá trị văn hóa truyền thống của tổ tiên để lại; tích cực học tập để hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông, sau đó học tập nâng cao trình độ chuyên môn ở các bậc học giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học.
5.6. Truyền thông, quảng bá và thúc đẩy giao lưu hội nhập văn hóa
Hiện nay, bảo tồn di sản văn hóa theo hướng “động” đang là quan điểm được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước ủng hộ và triển khai phố biến. Quan điểm này nhấn mạnh rằng các giá trị văn hóa truyền thống cần có “sự sống” và “sức sống” riêng trong từng môi trường văn hóa, xã hội cụ thể. Do đó, khi bảo tồn những giá trị di sản văn hóa, cần phải đặt những di sản đó trong môi trường xã hội sinh động cụ thể thay vì “đóng hộp và cất giữ vào bảo tàng” vốn phổ biến trước kia.
Quan điểm trên giải thích rằng vì sao cần thực hiện giải pháp truyền thống, quảng báo bản sắc văn hóa, sản phẩm du lịch cộng đồng của Huyện Bác Ái mà Đề án này đặt ra. Để việc truyền thông, quảng bá và thúc đẩy giao lưu hội nhập văn hóa của cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái hiệu quả gắn với quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án, cần lưu tâm đến những cách làm cụ thể sau:
- Khai thác hiệu quả trang điện tử của các cơ quan công quyền trên địa bàn huyện Bác Ái; có cơ chế hỗ trợ cho những trang mạng xã hội đang hoạt động có nội dung giới thiệu văn hóa và con người huyện Bác Ái.
- Kịp thời xây dựng và đưa vào sử dụng các kênh truyền thông chính thức về di sản văn hóa, du lịch cộng đồng của huyện Bác Ái như: Youtube, Tik Tok, fanpage. Bên cạnh đó, mời các tiktoker, youtuber có lượng người theo dõi đông và các nhà sáng tạo nội dung truyền thông mạng xã hội có tiếng để thực hiện các hoạt động truyền thông, quảng bá bản sắc văn hóa, du lịch cộng đồng ở huyện Bác Ái.
- Công bố khoa học trên các diễn đàn khoa học như tọa đàm, hội nghị, hội thảo về lĩnh vực văn hóa, du lịch;
- Đầu tư nguồn lực để xây dựng dự án nâng cấp sự kiện “Ngày hội văn hóa Raglai” lên tầm cấp quốc gia và tổ chức thực hiện theo định kỳ 2 năm 1 lần. Sử dụng sự kiện này như là một công cụ truyền thông, quảng bá cho những bản sắc văn hóa Raglai và du lịch cộng đồng ở huyện Bác Ái.
5.7. Nhóm giải pháp về đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo an toàn xã hội về hoạt động văn hóa, du lịch cộng đồng
Khi những nội dung công việc, mục tiêu nhiệm vụ của Đề án được triển khai trong thực tiễn và mang lại những thành quả cụ thể, dường như một hệ lụy có tính chất tất yếu đó là sự xáo trộn môi trường, làm thay đổi đời sống văn hóa – xã hội của cộng đồng cư dân Raglai. Đặc biệt nhất là khi du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng phát triển, một lượng lớn du khách sẽ đến tham quan, nghỉ ngơi và khám phá huyện Bác Ái từ tài nguyên tự nhiên đến tài nguyên nhana văn. Tất cả thực tế đó sẽ đặt ra những thách thức về an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong đời sống của nhân dân. Về phía du khách, chắc chắn rằng tâm lý của mọi du khách đều mong muốn có những chuyến đi
Do đó, lực lượng công an nhân dân, lực lượng phòng cháy chữa cháy, Trung tâm Y tế huyện, trạm y tế xã, các đơn vị cứu hộ, cứu nạn khẩn cấp của Huyện Bác Ái tích cực phối hợp với các bên liên quan, chủ động điều phối nguồn nhân lực, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trong tư thế sẵn sàng hành động để kịp thời xử lý tình huống thực tế về an ninh trật tự, an toàn xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, các tình huống nguy hiểm đe dọa đến tính mạng của người dân tại cộng đồng và du khách, qua đó đảm bảo an toàn, sự an tâm cho cộng đồng và cho du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng, thưởng ngọn.
Bên cạnh đó, lực lượng công an nhân dân, y tế, phòng cháy chữa cháy,… của huyện Bác Ái cần phối hợp với lực lượng địa phương để tổ chức các đợt tập huấn nghiệp vụ cho người dân để họ có thể chủ động và kịp thời xử lý sơ bộ các tình huống về cháy nổ, tai nạn, bạo động, các hành vi chống phá nhà nước, quấy rối trật tự công cộng của những đối tượng xấu đã trà trộn vào cộng đồng từ các đoàn du khách bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn cho chính bản thân cộng đồng và du khách.
5.8. Nhóm giải pháp về xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao, sử dụng ngân sách các Sở Ngành liên quan trong triển khai thực hiện đề án
Để thực hiện hiệu quả và triệt để các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án này cần một nguồn vốn rất lớn. Đối với một huyện còn nhiều khó khăn như huyện Bác Ái thì việc có được nguồn tiền từ ngân sách đủ để triển khai thực hiện Đề án là một thử thách khá lớn. Do đó, thúc đẩy xã hội hóa trong từng mục tiêu-nhiệm vụ hoạt động là rất cần thiết. Dưới đây là một số gợi ý cho vấn đề này:
- Huyện cần nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, nhất là Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, được Quốc hội khóa 14 thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2017; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) được Quốc hội khóa 14 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2020 để triển xây dựng các đề án, chính sách thu hút đầu tư tư nhân trong lĩnh vực du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn để phát triển du lịch địa phương;
- Huyện cũng cần nghiên cứu những chính sách ưu đãi dành cho các địa phương thuộc diện theo Nghị quyết Số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/11/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo để đề ra các chính sách ưu đãi về thuế, về vốn đầu tư cho các doanh nghiệp để kêu gọi đầu tư đến với huyện Bác Ái.
- Khai thác hiệu quả hơn những chính sách xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu đối với các huyện miền núi, nhiều dân tộc thiểu số như Bác Ái cũng sẽ là cơ hội để Huyện đề xuất ra các chính sách xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
- Huyện cần chuẩn bị tâm thế để đón đầu gọi tài chính rất lớn cho chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa trong giai đoạn tới mà Trung ương đang xem xét và phê duyệt. Có thể nói, với những thông số ban đầu về tài chính của cho chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa được công bố, cững như quyết tâm chính trị cao độ của chính quyền Trung ương, Chương trình mục tiêu quốc gia này sẽ mở ra rất nhiều cơ hội để các địa phương còn nhiều khó khăn như huyện Bác Ái thực hiện các chính sách xã hội hóa để thu hút nguồn tài chính từ ngoài ngân sách.
6. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
UBND huyện là cơ quan chủ trì Đề án phối hợp Sở VH, TT & DL và các sở ngành liên quan của tỉnh để tổ chức quán triệt chỉ đạo triển khai thực hiện.
1. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện căn cứ vào nội dung Đề án, hàng năm chủ trì tham mưu UBND huyện xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể, chi tiết đối với các danh mục, lộ trình thực hiện Đề án. Có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức đôn đốc, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cho các ngành và UBND các xã triển khai nội dung, nhiệm vụ được phân công trong Đề án. Đồng thời tổng hợp kinh phí, gửi phòng Tài chính – Kế hoạch trình UBND huyện cân đối nguồn lực phê duyệt hàng năm.
2. Phòng Tài chính - Kế hoạch có trách nhiệm phân bổ kinh phí theo kế hoạch thực hiện Đề án được duyệt hàng năm.
3. Phòng Nội vụ căn cứ nội dung Đề án được phê duyệt, tham mưu giải pháp tổ chức các lớp đào tạo nguồn nhân lực nòng cốt cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa trên địa bàn huyện, đặc biệt là cán bộ tại địa phương.
4. Phòng Dân tộc phối hợp với phòng Văn hóa và Thông tin rà soát đề xuất nguồn lực từ các chương trình dự án của chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030 để vận dụng nguồn lực tập trung triển khai thực hiện đề án.
5. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với phòng Văn hóa và Thông tin và các đơn vị liên quan lồng ghép kế hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa DTTS trên địa bàn huyện Bác Ái đến năm 2030 vào chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
6. Phòng Kinh tế - Hạ tầng trên cơ sở Đề án được phê duyệt, tham mưu UBND huyện đưa một số nội dung của đề án vào quy hoạch chung về phát triển kinh tế - xã hội của huyện và quy hoạch chi tiết của các xã; có kế hoạch hỗ trợ khôi phục phát triển các nghề truyền thống tại các xã (như nghề đan lát; nấu rượu cần,v.v. gắn với phát triển dịch vụ du lịch).
7. Phòng Giáo dục và Đào tạo căn cứ vào Đề án, chủ động xây dựng kế hoạch đưa nội dung bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc Raglai vào trong chương trình giáo dục trên địa bàn huyện. Trong đó tập trung chú trọng một số lĩnh vực cụ thể như: tổ chức truyền dạy nhạc cụ Mã La; phổ biến trang phục, các nghi lễ, trình diễn nghệ thuật dân gian phổ biến trong các trường học; có chương trình giới thiệu cho học sinh các bậc học về lịch sử, văn hóa con người Bác Ái thông qua các buổi ngoại khóa.
8. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, tổ chức các lớp đào tạo nghề sát với thực tế ở địa phương, tạo động lực để người dân tự chủ.
9. Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền Thanh huyện xây dựng chuyên mục bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa DTTS trên địa bàn huyện phát trên loa phát thanh của huyện. Hướng dẫn nghiệp vụ cho trạm truyền thanh cấp xã xây dựng các chương trình tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS trên địa bàn huyện phát trên hệ thống loa truyền thanh các xã.
Xây dựng kế hoạch cụ thể đề xuất UBND huyện tổ chức điền giã, sưu tầm hiện vật bổ sung cho nhà Truyền thống huyện và tạo tiền đề thành lập trung tâm nghiên cứu Văn hóa Raglai. Xây dựng phương án cụ thể vận hành, khai thác đưa vào sử dụng sau khi đầu tư mở rộng xây dựng không gian văn hóa Raglai tại khuôn viên trung tâm Văn hóa, thể thao và Truyền thanh huyện.
10. Đề nghị Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Huyện đoàn phối hợp với cấp ủy chính quyền địa phương Mặt trận - Đoàn thể xã tổ chức tuyên truyền sâu rộng về Đề án xây dựng không gian văn hóa Raglai trên địa bàn huyện để nhân dân biết tham gia hưởng ứng. Tham gia cùng với các ngành, cấp ủy chính quyền các xã trong quá trình xây dựng, thẩm định các chương trình liên quan đến bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn huyện.
11. Đề nghị Ban Tuyên giáo Huyện ủy tham gia với các ngành chuyên môn của huyện tổ chức hướng dẫn, thẩm định nội dung kế hoạch triển khai hàng năm về những nội dung của Đề án. Phổ biến trong đội ngũ báo cáo viên của huyện về nội dung Đề án, qua đó hỗ trợ việc tuyên truyền bảo tồn, phát huy văn hóa DTTS trên địa bàn huyện, góp phần thực hiện thắng lợi Đề án.
12. UBND các xã căn cứ vào Đề án của UBND huyện và hướng dẫn của các ngành chuyên môn của huyện chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết triển khai các nội dung tại địa phương mình đảm bảo theo đúng lộ trình Đề án. Huy động và cân đối các nguồn lực trong xã hội vận dụng hỗ trợ thực hiện Đề án, đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn hưởng ứng tích cực việc tham gia triển khai Đề án. Hàng năm báo cáo tình hình kết quả triển khai Đề án gửi về UBND huyện.
7. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
- Đề nghị UBND tỉnh xem xét nguồn vốn để hỗ trợ địa phương triển khai thực hiện đề án về danh mục, nguồn lực sẽ có báo cáo đề xuất trình UBND tỉnh và các sở ngành cụ thể; chỉ đạo các sở ngành liên quan phối hợp, hỗ trợ huyện trong quá trình thực hiện Đề án.
- Đề nghị Huyện ủy chỉ đạo các Tổ chức cơ sở đảng, Mặt trận các đoàn thể từ huyện đến cơ sở tập trung công tác phối hợp, tuyên truyền, hưởng ứng thực hiện Đề án; xác định đây là đề án mang tính chiến lược chuyên sâu đối với công tác bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Raglai nói riêng trên địa bàn huyện trong thời gian tới..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
Hà Anh (2012), Hỏi-Đáp chính sách dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc.
Phan Quốc Anh (2006), “Lễ hội ăn lúa mới và Tết năm mới của người Raglai”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, tr. 32 – 36.
Phan Quốc Anh (2006), Văn hóa Raglai những gì còn lại. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Phan Quốc Anh (2008), “Mã la: Nhạc cụ độc đáo của người Raglai”, Tạp chí Văn nghệ Dân tộc, số 5 (153), tr. 27 – 28.
Phan Quốc Anh (2010), Văn hóa Raglai, Nxb Khoa học xã hội.
Võ Quang Trọng Bảo (2010), Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, Nxb Hà Nội.
Phan Xuân Biên và các cộng sự (1998), Văn hóa và xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
Chamaliaq Riya Tiẻng, Trần Kiêm Hoàng (2011), Tri thức dân gian của người Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Chính phủ (2008), Nghị quyết Số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/11/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
Lê Khắc Cường và các cộng sự (2011), Truyện cổ Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Nguyễn Trắc Dĩ (1970), Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Bộ Phát triển sắc tộc.
Đảng bộ Huyện Bác Ái (2022), Nghị quyết số 08/2022 của BCH Đảng bộ huyện Bác Ái khóa XIV: Phát triển du lịch trên địa bàn huyện giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.
Đặng Hoàng Giang (2019), Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (2019), Biến đổi kinh tế, xã hội, văn hóa của người Raglai ở Ninh Thuận, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Đà Lạt.
Nguyễn Văn Hạnh (2014), Sự biến đổi lối sống của dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái tỉnh Ninh Thuận trong quá trình đổi mới hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH KHXH&NV TP. HCM.
Nguyễn Hoàng (2010), Định hướng phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đến năm 2020, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
Trần Kiêm Hoàng, Chamaliag Rija Tiẻng (2010), Yếu tố biển trầm tích trong văn hóa Raglai, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trần Kiêm Hoàng (2011), Tri thức dân gian của người Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Trần Kiêm Hoàng (2016), Văn hóa mẫu hệ trong sử thi Raglai ở Khánh Hòa, Nxb Hội Nhà văn.
Nguyễn Thị Thu Hương (2007), Văn hóa quản lý xã hội ở cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái – Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH KHXH&NV TP. HCM.
Đình Hy (2001), “Về trang phục truyền thống của phụ nữ Raglai”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9 (207), tr. 46 – 47.
Đình Hy (2006), “Nhạc cụ Mã la trong đời sống tinh thần dân tộc Raglai”- Thông báo Văn hóa dân gian năm 2005, Tạp chí Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 521 – 527.
Huyện Ủy huyện Bác Ái (2024), Báo cáo tình hình công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm, phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm năm 2024.
Huyện Ủy huyện Bác Ái (2024), Báo cáo của Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các Dân tộc thiểu số huyện Bác Ái lần thứ IV năm 2024.
Huyện Ủy huyện Bác Ái (2024), Báo cáo số 459 ngày 21/5/2024 về Những vấn đề phát sinh phức tạp trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo thời gian qua.
Bùi Thanh Hương, Nguyễn Đức Hoa Cương (2007), Nghiên cứu các mô hình du lịch cộng đồng ở Việt Nam, công trình nghiên cứu khoa học được tài trợ bởi Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV, Trường Đại học Hà Nội.
Ngô Văn Lệ (2010), Văn hóa tộc người truyền thống và biến đổi, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.
Hải Liên (2001), Trang phục cổ truyền Raglai, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hải Liên (2010), Lễ tang của người Raglai cực Nam Trung bộ, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Hải Liên (2010), Pô Anai Tang - Di tích, lễ hội của người Raglai, Nxb Dân trí.
Hải Liên (2011), Văn hóa gia tộc Raglai góc nhìn từ nghệ nhân, Nxb Khoa học Xã hội.
Hải Liên, Sử Văn Ngọc (2010), Hát – kể truyện cổ Raglai, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hải Liên, Hữu Ích (2014), Văn hóa phi vật thể Raglai, những gì chúng ta còn ít biết đến, Nxb Văn hóa Thông tin.
Trương Văn Món (2002), “Rừng Thần của người Raglai”, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 48, tr. 9 – 11.
Sử Văn Ngọc (2010), “Lễ hội Pô Anai Tang của tộc người Raglai thôn Uk Dalam”, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 7 (197), tr.3 – 5.
Phan Đăng Nhật (2003), Luật tục Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Nguyễn Thị Ngọc Nghĩa, Lương Văn Dũng (2022), Điều tra tài nguyên cây thuốc theo tri thức bản địa của người Raglai ở huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận, Đề tài khoa học Trường Đại học Đà Lạt.
Quốc hội Khóa 14 (2017), Luật số 09/2017/QH14: Luật Du lịch.
Sakaya (2003), “Nghề thủ công truyền thống của người Raglai ở Ninh Thuận”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 65 – 68.
Sakaya (2014), “Sự biến đổi văn hóa và tôn giáo của người Raglai ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5 (131), tr.107 – 113.
Sakaya (chủ biên) (2018), Sử thi Raglai: Chàng Kei Kamaow và Cei Balaok Li-U, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.
Nguyễn Thế Sang (1995), “Vài nét về dân ca Raglai”, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 2, tr.12 – 13.
Nguyễn Thế Sang (1996), “Trang phục cổ của dân tộc Raglai”, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 9, tr.19 – 20.
Nguyễn Thế Sang (2011), Luật tục và công cuộc phát triển kinh tế – xã hội Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
Nguyễn Thế Sang (2014), Nghi lễ vòng đời người vòng đời cây lúa của người Raglai, Nxb Văn hóa – Thông tin.
Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Hồ Phong (2020), Quản trị dịch vụ văn hoá, Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM.
Tổng Cục thống kê Việt Nam (1979), Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Thanh, Hồ Sỹ Lập (2017), “Văn hóa hôn nhân ở tộc người Raglai”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 (113), tr.59 – 65.
Trần Ngọc Thêm (2014), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng (Tái bản có sửa chữa), Nxb. Văn hóa – Văn nghệ TP. HCM.
Nguyễn Thịnh (2012), Di sản văn hóa Việt Nam - Bản sắc và những vấn đề về quản lý, bảo tồn, Nxb Xây dựng.
Nguyễn Tuấn Triết (1991), Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á (2023), Những vấn đề văn hóa và ngôn ngữ Raglai, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.
UNESCO (2005), Công ước bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa.
UBND Huyện Bác Ái (2000), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Bác Ái - 20 năm một chặng đường.
UBND Huyện Bác Ái (2022), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
UBND Huyện Bác Ái (2023), Báo cáo về tình hình triển khai công tác bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hoá của dân tộc trên địa bàn huyện gắn với hình thành không gian văn hóa Raglai tại Bác Ái.
UBND huyện Bác Ái (2023), Đề án Phát triển du lịch trên địa bàn huyện Bác Ái gia đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030.
UBND huyện Bác Ái (2024), Báo cáo Kết quả triển khai thực hiện các chính sách dân tộc giai đoạn 2016 - 6/2024 và đề xuất xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2026 - 2030.
UBND huyện Bác Ái (2024), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số huyện Bác Ái lần thứ IV – Năm 2024.
UBND tỉnh Ninh Thuận (2023), Quyết định số 555 về Phê duyệt Đề án Phát triển du lịch Ninh Thuận giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Văn phòng Quốc hội (2013), Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH: Luật Di sản văn hóa.
Hoàng Văn Việt, Đời sống sản xuất vật chất của người Raglai tại xã Phước Đại, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận trong bối cảnh đô thị hóa, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.
Viện Dân tộc học (2002), Người Raglai, Tư liệu Viện Dân tộc học, Hà Nội, Việt Nam.
Nguyễn Xuân Vinh (Chủ nhiệm) (2013), Xây dựng mô hình trình diễn quản lý và phát triển bền vững du lịch sinh thái gắn với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên có sự tham gia của cộng đồng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh (Ninh Thuận).
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2013), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia TP.HCM.
B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Brien, J.M. (1893), De Quy Nhon en Cochinchine. Explorations dans Le Binh Thuan (Sud Annam), Schreider, F.H. Hanoi.
Brière, M. (1889), Notice Sur les Mois du Binh Thuan et du Khanh Hoa, Excursions et Reconnaissances (t. XIV), No 32. Saigon.
Toh Goda (2008), Urbanization and Formation of Ethnicity in SouthEast Asia. Nxb New Day, Philippines.
C. TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ
Thành Nhân (2020), “Nghi thức rước y trang của người Chăm và người Raglay trong Lễ hội Katê: Biểu hiện tình đoàn kết keo sơn giữa hai dân tộc”, Tạp chí Dân tộc và phát triển, Truy cập ngày 30/04/2023 tại https://baodantoc.vn/nghi-thuc-ruoc-y-trang-cua-nguoi-cham-va-nguoi-raglay-trong-le-hoi-kate-bieu-hien-tinh-doan-ket-keo-son-giua-hai-dan-toc-1604067823899.htm.
Phụ lục