TUYÊN TRUYỀN MIỆNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG

TUYÊN TRUYỀN MIỆNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG

 PHẦN THỨ NHẤT


I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

1. Khái niệm về tuyên truyền miệng

Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin cho rằng, công tác tư tưởng có 3 hình thái (có người gọi là ba bộ phận cấu thành), bao gồm: (1) Công tác lý luận(2) Công tác tuyên truyền và (3) Công tác cổ động. Công tác tuyên truyền là hoạt động có mục đích, được tiến hành với nhiều hình thức, phương tiện, trong đó có tuyên truyền miệng.

- Hiện nay, trên các sách báo và trong các công trình nghiên cứu đang có những quan niệm khác nhau về tuyên truyền miệng. Tuy nhiên, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền được tiến hành chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.

- Khái niệm trên đây khẳng định tuyên truyền miệng là một công cụ quan trọng của công tác tư tưởng với các đặc điểm nổi bật sau:

+ Tuyên truyền miệng thực hiện trong giao tiếp trực tiếp của người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Đây là điểm khác biệt cơ bản của tuyên truyền miệng so với các phương tiện thông tin đại chúng khác.

+ Tuyên truyền miệng chủ yếu được tiến hành bằng lời nói. Ngày nay, người làm tuyên truyền miệng có thể có thêm sự hỗ trợ của máy tính, màn hình, các chương trình trình chiếu..., nhưng phương tiện chủ yếu của họ vẫn là lời nói trực tiếp.

2. Vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng

a. Vị trí

Tuyên truyền miệng qua hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất của công tác tư tưởng.

Để tiến hành công tác tư tưởng, Đảng ta sử dụng nhiều kênh, nhiều công cụ và phương tiện tuyên truyền, như: hệ thống trường học, lớp học; các phương tiện thông tin đại chúng; các thiết chế văn hoá và hoạt động của chúng; sinh hoạt hội họp của các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên… Trong số các kênh trên, tuyên truyền miệng qua hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên được Đảng ta xác định là công cụ quan trọng hàng đầu nhằm tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách, truyền bá những chủ trương, quan điểm của Đảng, đưa tiếng nói của Đảng đến quần chúng nhân dân.

Thông báo 71 - TB/TW, ngày 07/6/1997 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII, đã khẳng định “mọi đảng viên đều có thể tiến hành tuyên truyền miệng ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng”, và: “Báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa tiếng nói của Đảng trực tiếp đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng”.

Chỉ thị số 17 - CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) nhấn mạnh: “Tuyên truyền miệng và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một mắt khâu quan trọng , trực tiếp nối liền Đảng, Nhà nước với nhân dân, Trung ương với địa phương và cơ sở để vừa đưa chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước đến với nhân dân, vừa nắm bắt, phản ánh trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư, nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.   

b. Vai trò

- Cùng với các công cụ, phương tiện công tác tư tưởng khác, tuyên truyền miệng góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó làm cho hệ tư tưởng của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.

- Tuyên truyền miệng là kênh thông tin chủ yếu và chính thống nhằm giáo dục, phổ biến, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông báo kịp thời, có định hướng các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng mà dư luận quan tâm. Nhờ đó mà tạo ra sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ các phong trào hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước...

- Tuyên truyền miệng qua giao tiếp trực tiếp với quần chúng nhân dân, nắm bắt được thực trạng nhận thức, tình hình tư tưởng, thái độ của nhân dân đối với chủ trương, đường lối, chính sách, nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích…. của họ. Vì vậy, tuyên truyền miệng ví như là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, Nhà nước với công dân, Trung ương, địa phương với cơ sở.

- Tuyên truyền miệng góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo lập và thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến; đấu tranh phê phán những hiện tượng tiêu cực, bài trừ các tệ nạn xã hội.

- Tuyên truyền miệng là phương tiện hiệu quả để đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, lệch lạc nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, sự nghiệp đổi mới, nền văn hóa; bảo vệ nhân dân; giữ vững ổn định chính trị trong điều kiện bùng nổ thông tin toàn cầu và hội nhập quốc tế.

- Tuyên truyền miệng có khả năng đưa được những thông tin nội bộ, những thông tin mà về lý do nào đó không thể hoặc không nên đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng đến các đối tượng cần tuyên truyền. Trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, tuyên truyền miệng còn góp phần định hướng thông tin, giải thích, phân tích cho quần chúng nhân dân hiểu rõ đâu là thông tin chính thức, chính thống, trên cơ sở đó định hướng dư luận xã hội, góp phần tạo ra sự thống nhất về chính trị - tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.

3. Những ưu thế và hạn chế của tuyên truyền miệng

a. Những ưu thế của tuyên truyền miệng

Là loại hình tuyên truyền trực tiếp, sử dụng lời nói làm phương tiện chủ yếu để chuyển tải thông tin, tuyên truyền miệng có những ưu thế sau:

- Ưu thế của ngôn ngữ nói

+ Ngôn ngữ nói mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội. Qua các công trình nghiên cứu cho thấy, hàng ngày có khoảng 2/3 lượng thông tin con người thu nhận được qua giao tiếp bằng lời nói trực tiếp. Bằng ngôn ngữ nói, cán bộ tuyên truyền có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống; giải thích cặn kẽ, nhắc đi nhắc lại để ghi nhớ... các khái niệm, phạm trù, qui luật, quan điểm tư tưởng... với từng đối tượng, kể cả đối tượng không biết chữ...

+ Lời nói có ưu thế là sử dụng linh hoạt, hiệu quả thông tin cao, có thể tác động mạnh mẽ vào tình cảm của con người, khơi dậy tính tích cực nhận thức của đối tượng, thúc đẩy quá trình hình thành niềm tin và cổ vũ hành động. Lời nói có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, do đó, tuyên truyền miệng ít tốn kém kinh phí, không cần nhiều đến phương tiện kỹ thuật phức tạp.

Chính vì vậy, nhà tuyên truyền Xô-Viết nổi tiếng M. Ka-li-nin, cho rằng “ngôn ngữ với cán bộ tuyên truyền - cổ động đó là tất cả”, còn Na-pô-lê-ông thì khẳng định “Lời nói có sức mạnh hơn mười vạn khẩu súng”.

- Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ

+ Trong tuyên truyền miệng, cán bộ tuyên truyền có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ (có tài liệu gọi là các yếu tố của hệ thống tiếp xúc cơ học) như tư thế, cử chỉ, điệu bộ, diện mạo… làm phương tiện biểu đạt thông tin và sắc thái tình cảm.

+ Những yếu tố phi ngôn ngữ này tác động vào kênh thị giác của người nghe, tăng cường sự chú ý của họ, do vậy mà thúc đẩy việc tiếp thu thông tin một cách tốt nhất.

+ Các yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ cho lời, làm tăng ý nghĩa của lời, biểu hiện xúc cảm, sắc thái tình cảm của người tuyên truyền với vấn đề tuyên truyền, do đó chúng góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng.

- Các ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp

+ Con người mang bản chất xã hội, nên giao tiếp trực tiếp giữa người với người là hoạt động không thể thay thế. Chính vì vậy mà dù hiện nay sách báo nhiều, các kênh thông tin rất đa dạng nhưng ngày ngày vẫn có hàng triệu học sinh đến trường nghe thầy giảng bài, hàng vạn người đến các hội trường, câu lạc bộ nghe các cán bộ tuyên truyền nói chuyện.

+ Khác với giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, sự giao tiếp trực tiếp của kênh tuyên truyền miệng dễ tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân mật, qua đó cán bộ tuyên truyền mang đến cho đối tượng không chỉ nội dung của lời nói mà còn mang lại cho họ tình cảm, niềm tin vào những điều mình nói.

+ Giao tiếp trực tiếp cho phép tác động đến đúng đối tượng. Nhờ nghiên cứu trước về đối tượng và nắm bắt thêm đặc điểm đối tượng thông qua giao tiếp trực tiếp, cán bộ tuyên truyền hiểu biết rõ nhu cầu, tâm trạng người nghe, trên cơ sở đó mà xác định nội dung và phương pháp tuyên truyền, để lời nói đi vào tâm hồn người nghe nhanh hơn.

+ Giao tiếp trực tiếp tạo điều kiện cho cán bộ tuyên truyền linh hoạt vận dụng cách nói trong những tình huống khác nhau trong quá trình trình bày bài nói, như điều chỉnh nội dung thông tin, phương pháp tuyên truyền cho phù hợp.

+ Giao tiếp trực tiếp cho phép chuyển từ độc thoại sang đối thoại. Người nghe có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình; được hỏi và được trả lời những vấn đề mà mình quan tâm, được trao đổi, tranh luận với nhau và với cán bộ tuyên truyền về những vấn đề còn chưa thống nhất…, do vậy làm tăng thêm hiệu quả tuyên truyền.

Tóm lại, giao tiếp trực tiếp tạo cho cán bộ tuyên truyền cũng như người nghe nhiều ưu thế mà người phát biểu trên truyền hình, đài phát thanh và khán thính giả của họ không thể có được.

b. Những hạn chế của tuyên truyền miệng

- Lời nói chỉ đi một chiều, không quay trở lại. Khi đã lỡ lời thì không thể lấy lại được nữa. Dù có cải chính, xin lỗi..., vẫn gây cho người nghe một ấn tượng nào đó. Vì vậy người nói cần thận trọng.

- Đối với người nghe, cũng do tính chất này của lời nói cần chú ý, nếu không lời của báo cáo viên đã đi qua, không thể nghe lại và không phải lúc nào cũng có điều kiện hỏi lại hoặc đối thoại...

- Phạm vi về không gian có giới hạn, do giới hạn tự nhiên của lời nói trực tiếp (dù đã có phương tiện khuếch đại) và khả năng tập hợp một số đông tại một địa điểm và thời điểm nhất định.

- Dễ chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh do tập trung đông người và ở các địa điểm khác nhau.       

II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

Xuất phát từ yêu cầu của công tác tuyên truyền miệng, các văn bản của Đảng xác định chức năng, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền miệng gồm:

1. Phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng

Cùng với các hình thức và phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng góp phần quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.

 2. Thông tin và định hướng thông tin

Tuyên truyền miệng là một kênh thông tin chính thống giữ vai trò chủ yếu trong việc thông báo, quán triệt các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế quan trọng mà dư luận đang quan tâm, qua đó định hướng thông tin cho người nghe.

 - Mặt khác, thông qua các hoạt động trên, công tác tuyên truyền miệng có điều kiện nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người nghe để phản ánh và kiến nghị với Đảng và Nhà nước bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt hơn đường lối, chủ trương, chính sách đã đề ra.

3. Giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng đi tới hành động

Tuyên truyền miệng có mục tiêu rất cơ bản là góp phần giáo dục và xây dựng những chuẩn mực về con người mới, nền văn hoá mới, cổ vũ và động viên các nhân tố mới trong xã hội. Tuyên truyền miệng có khả năng to lớn và có hiệu quả trong chức năng cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua.

4. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị của Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh chống các âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Tuyên truyền miệng là công cụ hữu hiệu để phê phán các nhận thức tư tưởng lạc hậu, lệch lạc, các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội.

 

PHẦN THỨ HAI

HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN,

TUYÊN TRUYỀN VIÊN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

------------

I. BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN LÀ ĐỘI NGŨ TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CÓ TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG

1. Sự cần thiết phải tổ chức, xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

a. Khái niệm báo cáo viên, tuyên truyền viên

- Báo cáo viên, tuyên truyền viên là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng trong tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan nhà nước và nhân dân dưới dự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ đảng và cơ quan nhà nước. Báo cáo viên được coi như là người phát ngôn, thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước.

Như vậy báo cáo viên, tuyên truyền viên là một lực lượng quan trọng trong công tác tuyên truyền, là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong đội ngũ tuyên truyền miệng, được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định và có tổ chức của cấp ủy.

- Báo cáo viên và tuyên truyền viên đều là người làm công tác tuyên truyền miệng, nhưng có vị trí và đặc điểm hoạt động khác nhau:

+ Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và ra quyết định công nhận, được tổ chức có hệ thống từ Trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, xã phường, thị trấn. Phương thức hoạt động chủ yếu của báo cáo viên là thuyết trình, diễn thuyết, nói chuyện trực tiếp theo chủ đề trước tập thể với nhiều người nghe.

+ Tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng được tổ chức ở cấp cơ sở, không có hệ thống dọc từ Trung ương. Về nguyên tắc, mọi cán bộ, đảng viên đều có nhiệm vụ làm tuyên truyền viên, vận động, cổ động, thuyết phục quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phương thức hoạt động chủ yếu của tuyên truyền viên là vận động trực tiếp từng người, từng nhóm trong sinh hoạt, lao động, công tác, học tập hàng ngày. Đây chính là sự khác biệt chủ yếu giữa báo cáo viên với tuyên truyền viên.

- Hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, trở thành lực lượng tuyên truyền miệng có tổ chức, có hệ thống từ Trung ương xuống tới đảng bộ, chi bộ cơ sở, tới tận cán bộ, đảng viên và nhân dân, thường xuyên gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.

b. Chức năng, nhiệm chủ yếu của báo cáo viên

Theo các quy định của Đảng, báo cáo viên có chức năng, nhiệm vụ sau:

- Cung cấp thông tin, bao gồm cả những thông tin có tính nội bộ, về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến, giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...

Phân tích, bình luận, làm rõ nội dung, ý nghĩa chính trị của các sự kiện, các nhiệm vụ. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có sức thuyết phục cao, báo cáo viên làm rõ bản chất các sự vật, hiện tượng, từ đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo chiều hướng, khả năng và triển vọng của tình hình, định hướng thông tin, nhất là những thông tin có tính chính trị cao.

- Từ định hướng thông tin, báo cáo viên động viên, cổ vũ, tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động đối với người nghe.

c. Sự cần thiết xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

Việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng xuất phát từ cơ sở thực tiễn và lý luận sau:

 - Xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền miệng nói riêng và đã sử dụng công tác tuyên truyền miệng như một phương thức hoạt động có hiệu quả, công cụ sắc bén để tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

 - Xuất phát từ những ưu thế đặc trưng của công tác tuyên truyền miệng, mà không có một hình thức và phương tiện nào có thể thay thế trong công tác tuyên truyền để khai thác, phát huy thế mạnh trong hiện tại và tương lai.

Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, không ngừng nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuyên truyền miệng góp phần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, đấu tranh chống lại chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch...

- Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc cần phải tăng cường định hướng thông tin trong điều kiện bùng nổ thông tin toàn cầu; tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp; quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn diện.

2. Vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

- Chỉ thị số 14 CT-TW, ngày 03/8/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV); Thông báo 71-TB/TW, ngày 07/6/1997 của Thường vụ Bộ Chính trị (khóa VIII), cũng như  Chỉ thị 17-CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư (khóa X) đều khẳng định: “Báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa tiếng nói của Đảng trực tiếp đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng”.

- Báo cáo viên, tuyên truyền viên không chỉ có nhiệm vụ thông tin thuần túy mà còn định hướng thông tin, tuyên truyền, vận động, góp phần định hướng suy nghĩ và hành động của mọi người theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thực hiện thông tin hai chiều "chiều xuống và chiều lên", nắm bắt và hướng dẫn dư luận xã hội. Vì vậy, báo cáo viên, tuyên truyền viên không chỉ là kênh thông tin quan trọng, mà còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân.

- Hoạt động của báo cáo viên và tuyên truyền viên góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhằm thực hiện "quyền được thông tin" và "dân chủ hóa" về thông tin trong Đảng và trong xã hội, góp phần tích cực trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chi, đảng bộ trong sạch, vững mạnh, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

- Báo cáo viên, tuyên truyền viên là chiến sỹ tiên phong đấu tranh phê phán các tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, cơ hội, chống các quan điểm sai trái, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, nhất là trên mặt trận tư tưởng, góp phần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 3. Yêu cầu đối với mỗi báo cáo viên, tuyên truyền viên

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới, ngày 10/11/2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Quyết định số 518 – QĐ/BTGTW, “về việc ban hành Quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng”.  Theo  Quyết định số 518 – QĐ/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải được lựa chọn, bồi dưỡng và rèn luyện theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, đó là hai yếu tố hợp thành mô hình nhân cách của một báo cáo viên, tuyên truyền viên.

a. Những tiêu chuẩn về phẩm chất

- Có lập trường quan điểm đúng đắn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp đổi mới của Đảng.

- Có tính đảng, tính chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn.

- Có phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm cao; nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, khiêm tốn học hỏi, gương mẫu và có mối quan hệ tốt với mọi người.

b. Những tiêu chuẩn chủ yếu về năng lực

- Nắm vững lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có trình độ lý luận chính trị cao cấp đối với báo cáo viên cấp Trung ương, báo cáo viên cấp tỉnh; trình độ lý luận chính trị trung cấp đối với báo cáo viên cấp huyện, báo cáo viên cấp xã và tương đương, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

- Có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên đối với báo cáo viên Trung ương, báo cáo viên cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; có hiểu biết nhất định về các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học.

- Có hiểu biết thực tiễn, có năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin. Biết vận dụng tâm lý học, phương pháp sư phạm và nghiệp vụ tuyên truyền, nhất là tuyên truyền miệng trong hoạt động tuyên truyền.

Có khả năng diễn đạt rõ ràng các vấn đề nêu lên, phương pháp vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân. Có năng lực tự chủ, có khả năng giao tiếp, luôn chủ động trong quá trình đối thoại với người nghe, với cán bộ, đảng viên và nhân dân

Ngoài những tiêu chuẩn chủ yếu trên, báo cáo viên cần được lựa chọn và bồi dưỡng từ những người có năng khiếu, sở trường về tuyên truyền miệng, có ngoại hình tốt, nhất là các cơ quan chức năng có liên quan nhiều đến hiệu quả tuyên truyền miệng, như giọng nói, phong cách giao tiếp và diễn đạt.

c. Nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực của báo cáo viên, tuyên truyền viên

Do tính đặc thù của hoạt động tuyên truyền miệng, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

- Trước hết, cần rèn luyện bản lĩnh chính trị, sự nhạy bén chính trị để nói đúng quan điểm, đường lối của Đảng, không tùy tiện phát ngôn theo tùy hứng chủ quan; thận trọng, nhưng dám nói lên sự thật, nói đúng sự thật, bảo vệ chân lý một cách phù hợp.

Rèn luyện tinh thần độc lập suy nghĩ, có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình, sẵn sàng với công việc được giao. Báo cáo viên phải có lòng yêu nghề, coi tuyên truyền miệng như một nghề nghiệp, gắn bó, tâm huyết, trách nhiệm, niềm tin để truyền tâm huyết, niềm tin đến người nghe.

- Hoạt động của báo cáo viên là loại hình lao động trí tuệ tổng hợp, cần phải có sự cần cù, sâu sắc, khoa học, sáng tạo trong nghiên cứu, xử lý thông tin. Trong tuyên truyền miệng cần rèn luyện khả năng phân tích, phương pháp trình bày, nhất là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nói, biểu cảm; kế thừa, nhưng không bắt chước máy móc những phương pháp mà người khác đã trình bày.

- Báo cáo viên phải không ngừng học tập và tự rèn luyện. Thông qua hoạt động thực tiễn để nâng cao kiến thức và bồi dưỡng vốn sống thực tế. Báo cáo viên phải thường xuyên tự rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp và tổ chức một buổi tuyên truyền miệng qua tăng cường giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp và thâm nhập thực tế của ngành, địa phương.

- Báo cáo viên cần thường xuyên tham dự các hội nghị thông tin, lớp tập huấn, bồi dưỡng để được cung cấp thông tin mới, phương pháp nghiệp vụ, nhất là đối với những báo cáo viên mới tham gia công tác.

- Báo cáo viên cần phải có nhận thức, hiểu biết toàn diện, sâu rộng về kiến thức xã hội.

II. LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN

1. Vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền viên

Chỉ thị 14-CT/TW ghi rõ: “... các cấp ủy đảng cần lãnh đạo chặt chẽ về tổ chức và nội dung hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên..., trực tiếp bồi dưỡng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên, cho phép dự các hội nghị cần thiết..., tạo mọi điều kiện cho các đồng chí ấy hoạt động. Các đồng chí phụ trách các ngành có trách nhiệm thông báo cho báo cáo viên những vấn đề của ngành, giải đáp những thắc mắc cho cán bộ quần chúng về những vấn đề của ngành mình phụ trách theo yêu cầu của lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên...”.

Thông báo 71-TB/TW nhấn mạnh: “... phải tăng cường lãnh đạo và đổi mới có hiệu quả công tác tuyên truyền miệng, trong đó báo cáo viên là bộ phận quan trọng nhất".

Chỉ thị 17 – CT/TW đã khẳng định: “... Công tác tuyên truyền miệng là nhiệm vụ của toàn Đảng, vì vậy, cấp ủy các cấp từ Trung ương đến cơ sở, các đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh vực đề phải có trách nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng, trực tiếp tham gia tuyên truyền đường loois, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước” và “Các cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của ngành, cấp và đơn vị mình, phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, ưu thế của công tác tuyên truyền miệng trên mặt trận tư tưởng – văn hóa”.

Các văn bản chỉ đạo trên của Đảng đã chỉ rõ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền viên gồm:

- Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Đây là việc thực hiện quan điểm của Đảng các định báo cáo viên, tuyên truyền viên là đội ngũ tuyên truyền miệng có tổ chức của Đảng, do Đảng lựa chọn và quyết định, là công cụ quan trọng hàng đầu trong việc trực tiếp tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, truyền đạt quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng tới đảng viên và quần chúng nhân dân.

- Quán triệt, nâng cao nhận thức của tổ chức Đảng, trước hết là đồng chí bí thư, của cấp ủy và thủ trưởng cơ quan, đơn vị trực thuộc về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên đối với công tác giáo dục chính trị ngay trong nội bộ Đảng và trong nhân dân.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc xây dựng và ban hành quy chế hoạt động báo cáo viên của cấp ủy, trong đó quy định rõ vị trí quan trọng và chức năng, nhiệm vụ cụ thể, tiêu chuẩn, chế độ chính sách và quyền hạn của đội ngũ của báo viên của cấp ủy để báo cáo viên dựa vào những quy định thống nhất hoạt động.

- Quyết định thành lập đội ngũ báo cáo viên và công nhận báo cáo viên của cấp ủy (có sự bổ sung, điều chỉnh định kỳ). Chỉ đạo, định hướng những nội dung quan trọng về chương trình, kế hoạch đề tài. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và cấp mình cho đội ngũ báo cáo viên. Kiểm điểm, tổng kết rút kinh nghiệm về lãnh đạo của cấp uỷ với công tác báo cáo viên. Với các đảng bộ, chi bộ cơ sở, đồng chí bí thư, phó bí thư hoặc một đồng chí trong cấp ủy trực tiếp phụ trách công tác này.

2. Vai trò của Ban Tuyên giáo đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền viên

Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu giúp cấp ủy tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Nội dung bao gồm:

Tổ chức, xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên tuyền viên

Lựa chọn, đề xuất với cấp ủy ra quyết định công nhận thành lập và công nhân là báo cáo viên của cấp ủy cùng cấp.

+ Hệ thống báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ Trung ương đến các tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường và đảng bộ cơ sở; ở tất cả các tổ chức, ban ngành đoàn thể, các đảng ủy khối, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an), trong các hội quần chúng. Báo cáo viên các cấp do Ban Tuyên giáo tham mưu đề xuất và cấp uỷ cùng cấp ra quyết định công nhận.

+ Xây dựng đội ngũ báo cáo viên đủ về số lượng theo yêu cầu của nhiệm vụ tuyên truyền trong từng giai đoạn cách mạng. Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp. Ban Tuyên giáo đề xuất để cấp uỷ quyết định số lượng báo cáo viên, chú trọng chất lượng, không nhất thiết phải là cấp ủy viên mà lựa chọn những người có phẩm chất, có năng lực, đặc biệt là năng lực tuyên truyền miệng, có điều kiện và thời gian hoạt động. Thông thường, số lượng báo cáo viên cấp tỉnh, thành phố, đảng ủy trực thuộc Trung ương có từ 30 đến 50 người, cấp quận, huyện và tương đương có từ 30 - 40 người (mỗi xã, phường và đảng bộ cơ sở 1 người).

- Dựa trên Quy chế hoạt động của báo cáo viên do Trung ương ban hành, xây dựng và ban hành Quy chế hoạt động báo cáo viên của ngành, địa phương.

- Xây dựng và hướng dẫn hoạt động của đội ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở. Tuyên truyền viên có thể là quần chúng nhân dân, không là đảng viên, nhưng phải là người gương mẫu, tích cực, có phẩm chất, năng lực làm tuyên truyền viên.

- Dựa vào định hướng và những nội dung thông tin của cấp trên và căn cứ vào nhiệm vụ của ngành, địa phương, cơ sở xây dựng nội dung, chương trình kế hoạch đề tài hàng năm, 6 tháng và từng tháng để báo cáo với cấp ủy thông qua.

- Định kỳ tổ chức các hội nghị thông tin cho báo cáo viên để cung cấp thông tin và định hướng tuyên truyền cho báo cáo viên. Trong các hội nghị báo cáo viên chú trọng xử lý yêu cầu thông tin của báo cáo viên đến dự hội nghị và yêu cầu định hướng thông tin của cấp ủy để lựa chọn những người đến báo cáo các chuyên đề. Kết hợp vừa có thông tin miệng vừa có văn bản, tài liệu để báo cáo viên dựa vào đó thông tin kịp thời cho đảng bộ, chi bộ trong các kì sinh hoạt hàng tháng.

- Trực tiếp giúp cấp ủy chỉ đạo và quản lý hoạt động báo cáo viên, quan tâm đến cung cấp các trang thiết bị cho Trung tâm thông tin, Trung tâm giáo dục chính trị cấp tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện để tổ chức các hội nghị thông tin, các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tuyên tuyền miệng; các chế độ, chính sách với báo cáo viên.

Theo dõi kiểm tra hoạt động của báo cáo viên, nhất là trên địa bàn của cấp mình phụ trách; tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết, hội thi báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi; khen thưởng, động viên kịp thời các báo cáo viên có thành tích xuất sắc, rút kinh nghiệm và báo cáo với cấp ủy thay thế những báo cáo viên không hoàn thành nhiệm vụ, không thực sự hoạt động; kiến nghị với cấp ủy những vấn đề về nội dung hoạt động và sửa đổi bổ sung các quy định, chế độ, chính sách đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên.

III- HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN

1. Quá trình hình thành đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng

Công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng có từ rất sớm. Ngay trong quá trình thành lập và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác tuyên truyền miệng, coi đây là hình thức tuyên truyền chủ yếu để giác ngộ quần chúng nhân dân, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân đi theo cách mạng trong điều kiện hoạt động bí mật và chiến tranh.

Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (trước Cách mạng Tháng Tám), trong kháng chiến chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, công các tuyên truyền miệng là phương thức chủ yếu để đưa quan điểm, chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng tới quần chúng nhân dân. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng đã phát triển rộng khắp, góp phần tạo nên những phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”... Mặc dù điều kiện hoạt động còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng công tác tuyên truyền miệng được quan tâm đúng mức đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi chung của dân tộc.

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhằm khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên và công tác tuyên truyền miệng trong giai đoạn cách mạng mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV đã ban hành Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 3-8-1977 "Về tổ chức đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng". Thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW, trong hơn 30 năm qua, các cấp ủy đã luôn quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ Trung ương đến cơ sở. Ban Tuyên giáo các cấp được ủy nhiệm trực tiếp quản lý và tổ chức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cấp mình.

 - Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 7-6-1997, Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII đã ra Thông báo 71-TB/TW "Về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền miệng".

- Trước yêu cầu mới của hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kết 30 năm thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW và 10 năm thực hiện Thông báo 71-TB/TW của Thường vị Bộ Chính trị; ngày 15-10-2007 Ban Bí thư Trung ương khóa X đã ban hành Chỉ thị 17-CT/TW về "Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới".

Thực hiện các văn bản chỉ đạo trên đây của Đảng về đẩy mạnh công tác tuyên truyền miệng, đội ngũ đông đảo báo cáo viên, tuyên truyền viên hiện nay đang là những chiến sĩ xung kích, đi đầu trong công tác tư tưởng của Đảng, thực sự trở thành cầu nối gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

2. Hệ thống tổ chức và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên cấp ủy đảng trong giai đoạn hiện nay

a. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ BCV, TTV

Đội ngũ BCV, TTV được xây dựng, tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến cấp cơ sở cơ bản bảo đảm về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.

Thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW, hầu hết cấp ủy các cấp đã chú trọng, tập trung xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ BCV, TTV. Hằng năm và sau mỗi nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp, các cấp ủy đã tập trung rà soát, bổ sung, kiện toàn lực lượng BCV của cấp mình.

Nhìn chung, đội ngũ BCV, TTV đã được tổ chức bài bản, quy củ, chặt chẽ thành một hệ thống từ Trung ương tới cơ sở[1]với cơ cấu tương đối hợp lý[2] (Tính đến ngày 30/10/2017, cả nước có 344 BCV cấp Trung ương; 3.945 BCV cấp tỉnh và tương đương; 39.107 BCV cấp huyện và tương đương179.094 TTV ở cơ sở [3]).

Đại đa số BCV, TTV đảm bảo tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, có năng lực, kiến thức chuyên môn, hiểu biết nghiệp vụ TTM, trách nhiệm với công việc; đa số các đồng chí có bề dày kinh nghiệm, đã trải qua nhiều chức vụ lãnh đạo, công tác ở nhiều lĩnh vực (cấp ủy, chính quyền, đoàn thể). Trong xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ BCV đã xuất hiện nhiều địa phương có kinh nghiệm hay, cách làm mới, với những mô hình cụ thể phù hợp với đặc điểm, tình hình đặc thù của mìnhĐã tổ chức được đội ngũ BCV chuyên nghiệp, hằng tháng báo cáo theo nội dung, kế hoạch hoặc chuyên đề cụ thể ở các quân khu, khu vực như: Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, Đảng ủy khối các cơ quan Trung ươngThành ủy Đà Nẵng. Có nhiều sáng tạo trong tổ chức, xây dựng, lựa chọn đội ngũ BCV, như:  Nội, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Vĩnh Long, TP. Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Kiên GiangSóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bình Phước, Cà Mau, Bình Thuận... Mô hình lồng ghép BCV cấp xã với lực lượng TTV dân vận cấp xã (BCV tuyên vận): Lào Cai; Đảng ủy viên của xã và Bí thư chi bộ thôn là BCV, TTV: Thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.

Chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ BCV, TTV đã dần được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đa số BCV các cấp hoàn thành nhiệm vụ[4], đóng vai trò hạt nhân trong việc triển khai loại hình TTM. Ở cả ba cấp (Trung ương, tỉnh, huyện), số BCV đạt chất lượng khá, giỏi tương đối cao (từ 85% trở lên), không có BCV yếu kém[5].

Tuy nhiên, công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ BCV, TTV vẫn còn hạn chế, bất cập.

- Chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ BCV tuy đã được nâng lên, song đến nay vẫn chưa khắc phục được tình trạng: đội ngũ đông, nhưng chưa mạnh, còn lúng túng trong công tác tham mưu, thường bị động khi xử lý tình huống, nhất là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm mới phát sinh; năng lực nắm bắt, phân tích, dự báo về tình hình tư tưởng; năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng, nhất là lĩnh vực công tác TTM, vận động quần chúng còn hạn chế.

Do đội ngũ BCV không có sự đồng đều về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị giữa các vùng, miền, cũng như trên phạm vi toàn quốc nên chất lượng đội ngũ cũng rất khác nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động TTM. Hầu hết TTV cấp xã, phường chưa được đào tạo cơ bản về lý luận chính trị, về quản lý nhà nước và kỹ năng nghiệp vụ công tác tuyên giáo, nghiệp vụ BCV, TTV, do đó tính chuyên nghiệp, khả năng sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ còn yếu[6].

Mặc dù Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Quyết định số 518-QĐ/BTGTW, ngày 10/11/2011 quy định về tiêu chuẩn BCV; Hướng dẫn số 31-HD/BTGTW, ngày 30/12/2011 về xây dựng, kiện toàn đội ngũ BCV; tuy nhiên, việc triển khai, tổ chức thực hiện của cấp ủy, địa phương, bộ, ngành chưa sát với Quyết định và Hướng dẫn; vì thế, trong tổ chức xây dựng đội ngũ BCV còn thiếu thống nhất, số lượng BCV cùng cấp không đồng đều (mỗi tỉnh, huyện thực hiện một khác[7]).

- Chưa thực hiện theo đúng lộ trình xây dựng đội ngũ BCV cho từng đối tượng mà Thông báo Kết luận số 225-TB/TW, ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảngvề cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình tuyên truyền” đã đề ra.

Chưa xây dựng được bộ tiêu chí có tính khoa học để đánh giá thực chất hiệu quả hoạt động của đội ngũ BCV. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ BCV chưa đáp ứng được nhu cầuCông tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW, trong đó có hoạt động của đội ngũ BCV còn bất cập, chưa được quan tâm đúng mức, thiếu thường xuyên, chưa thực chất, mang tính hình thức.

- Một số cấp ủy chưa quan tâm đúng mức tới đội ngũ BCV cấp xã. Hiện nay, do tốc độ đô thị hóa nhanh, số lượng dân cư của mỗi xã, phường, thị trấn có thể tới hơn chục ngàn người; Tuy nhiên, Hướng dẫn liên ban số 06-HD/BTCTW-BTGTWngày 15/8/2011 giữa Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với báo cáo viên các cấp và Hướng dẫn số 31-HD/BTGTW, ngày 30/12/2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương về xây dựng, kiện toàn đội ngũ BCV không có quy định riêng về đội ngũ BCV cấp xã “mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có số lượng bảo đảm mỗi xã, phường có 01 BCV và 05 BCV cho các cơ quan quận, huyện, thị xã”.

b. Việc thực hiện công tác tuyên truyền miệng

 + Công tác TTM có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức tiến hành và nâng cao về chất lượng

Qua 10 năm thực hiện Chỉ thị, công tác TTM đã được tổ chức thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, với nhiều cách làm hay, như: tổ chức các hội nghị trực tiếp, trực tuyến, thông qua các buổi sinh hoạt của chi bộ, tổ chức chính trị - xã hội, các buổi họp tổ dân phố, các hoạt động sân khấu hóa, các báo cáo chuyên đề.

- Hội nghị BCV do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức trong thời gian qua, nhìn chung đã đáp ứng tốt 03 tiêu chí: (1) Nội dung thiết thực, kịp thời và phù hợp với đối tượng người nghe; (2) Bảo đảm sự cân đối giữa nội dung cơ bản, chiến lược và tính thời sự; (3) Nội dung có tính định hướng, đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội chính trị và phản động[8].

Ban tuyên giáo cấp tỉnh, huyện tập trung đổi mới nội dung, hình thức, nhằm nâng cao chất lượng hội nghị BCV cấp mình. Đồng thời, chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình và tổ chức hội nghị BCV định kỳ hàng tháng để cung cấp thông tin về tình hình chính trị, thời sự, kết hợp giao ban nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội và định hướng dư luận xã hội; giúp đội ngũ BCV, TTV làm tốt chức năng cầu nối, bảo đảm cho thông tin định hướng thông suốt xuống cơ sở[9]. Nhiều tỉnh, thành phố duy trì hình thức tổ chức hội nghị BCV luân phiên tại các địa phương thành nền nếp[10], có nhiều sáng kiến nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng cho đội ngũ BCV, TTV như tổ chức hội thi BCV giỏi về tuyên truyền nghị quyết đại hội đảng các cấp[11], về các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh[12]... Thông qua đó, giúp đội ngũ BCV, TTV học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phương pháp, kỹ năng và nghiệp vụ về công tác TTM, hoạt động BCV. Bên cạnh đó, đội ngũ BCV, TTV các cấp cũng tích cực nghiên cứu, thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác TTM, như đổi mới nội dung chuyên đề bài nói; xây dựng đề cương theo nhóm vấn đề, phù hợp với từng đối tượng; đổi mới hình thức, phương pháp, áp dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền, nâng cao chất lượng thông tin, tư liệu, qua đó, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, qua trao đổi, đối thoại, đội ngũ BCV đã từng bước thực hiện tốt việc nắm bắt, phân tích, xử lý thông tin, tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo xử lý, giải quyết các vấn đề bức xúc, góp phần giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.

- Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Tuyên giáo các cấp đã biên soạn hàng trăm ngàn tài liệu tuyên truyền với nội dung phong phú, đa dạng để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền về kết quả xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, công tác đối ngoại, công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, các mô hình, cách làm hay, tấm gương điển hình tiêu biểu trong thực hiện nghị quyết của Đảng, trong phát triển sản xuất kinh doanh, gương “người tốt, việc tốt”; thông tin, định hướng tư tưởng các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế tới cán bộ, đảng viên và nhân dân; tuyên truyền đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, làm rõ, ngăn chặn các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Khi phát sinh những vấn đề nhạy cảm, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm, hoặc những tình huống liên quan đến an ninh trật tự xã hội, bên cạnh việc tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng, chi bộ đảng, tổ, hội đoàn thể; ở nhiều nơi, nhất là những địa bàn trọng điểm, đội ngũ BCV, TTV của hệ thống chính trị địa phương đã tập trung xuống khu công nghiệp, khu dân cư, nhà trọ tổ chức tuyên truyền để công nhân, sinh viên, quần chúng nhân dân hiểu rõ bản chất sự việc, đồng thuận với cách giải quyết của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương, qua đó, kịp thời ổn định tình hình, giữ vững an ninh chính trị. Đồng thời, qua hoạt động tuyên truyền miệng, các BCV, TTV đã quan tâm nắm bắt, phản ánh trung thực tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền; gắn truyền đạt với đối thoại, trao đổi, truyền tải trực tiếp những thông tin nội bộ cần thiết phục vụ công tác tư tưởng đối với tất cả các đối tượng một cách linh hoạt.

+ Đã có nhiều cố gắng trong đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp thông tin, tư liệu và bồi dưỡng nghiệp vụ về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của đội ngũ BCV, TTV

Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên tổ chức và duy trì các hoạt động phục vụ đội ngũ BCV các cấp và TTV, như: Định kỳ, hằng tháng cung cấp thông tin định hướng cho đội ngũ BCV cấp Trung ương và BCV cấp tỉnh, thành phố thông qua tổ chức Hội nghị BCV Trung ương; tổ chức xuất bản Tạp chí BCV; cung cấp thông tin tư liệu cho đội ngũ BCV các cấp và đội ngũ TTV trong cả nước; phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy và một số huyện ủy tổ chức tập huấn về nghiệp vụ TTM cho đội ngũ BCV, TTV[13]. Từ nguồn thông tin và định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ươngBan tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin định hướng cho BCV thuộc phạm vi quản lý của mình, đồng thời tích cực tổ chức tập huấn cho đội ngũ BCV cùng cấp và cấp dưới.

- Nhìn chungchất lượng của các ấn phẩm, tài liệu ngày càng được nâng cao theo hướng nội dung bảo đảm tính cân đối, ngắn gọn, đủ thông tin, rõ định hướng[14]đáp ứng được nhu cầu của đội ngũ BCV; công tác tập huấn từng bước được đổi mới, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng và tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị[15].

Tuy nhiên, việc đổi mới nội dung, phương thức TTM còn khá chậm, hiệu quả còn thấp. Nội dung tuyên truyền mới chủ yếu tập trung vào chủ đề thời sự; nhiều khi chưa thực sự chú trọng những vấn đề cơ bản, chiến lược; chưa lý giải thấu đáo một số tâm trạng xã hội cũng như những khuynh hướng tư tưởng mới nảy sinh, thậm chí còn có biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận và xã hội quan tâm. Nội dung đấu tranh, phản bác các thông tin xấu độc chưa sắc bén, còn nặng về lý luận chung chung, tính thuyết phục chưa cao. Một số thông tin định hướng tư tưởng còn chậm, nhất là những vấn đề nhạy cảm mới phát sinh.

Phương pháp tuyên truyền cơ bản vẫn  độc thoại, một chiều, áp đặt từ trên xuống nên chưa khơi gợi và thu nhận được nhiều ý kiến phản biện tâm huyết và trách nhiệm, cũng như chưa nắm sát được những diễn biến tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên. Khi tiến hành TTM chưa vận dụng linh hoạt phương pháp, kỹ năng, nghiệp vụ TTM để lôi cuốn, hấp dẫn người nghe. Tính chủ động trong lựa chọn các hình thức tổ chức hội nghị chưa cao, có lúc, có thời điểm chưa phù hợp, chưa triệt để sử dụng các hình thức có lợi thế hiện nay như: trực tuyến, mạng twitter, facebook để truyền tải, chia sẻ thông tin. Một số địa phương chưa tạo thành nền nếp tổ chức hội nghị BCV theo định kỳ quy định[16].

Một số cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tích cực tham gia tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản bác các thông tin sai trái trong quần chúng nhân dân. Thậm chí đã xuất hiện một vài cán bộ, đảng viên phát tán những thông tin, quan điểm sai trái, lệch lạc.

Một số cấp ủy chưa thực sự coi công tác TTM là một tiêu chuẩn để đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng công tác của các cấp ủy, tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất chính trị của mỗi đảng viên.

Không ít cơ quan, tổ chức đảng chưa thực hiện nghiêm túc Quyết định số 340-QĐ/TW, ngày 03/12/2010 của Ban Bí thư về Quy chế cung cấp thông tin phục vụ công tác TTM của Đảng; chưa thực hiện nghiêm túc việc cử người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; nhất là, khi xảy ra những vấn đề phức tạp, nhạy cảm thuộc lĩnh vực, địa bàn trực tiếp quản lý.

c. Việc trang bị phương tiện hoạt động, phối hợp với các cơ quan chức năng trong tham mưu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

Cấp ủy các cấp đã có sự phối hợp với các cơ quan chức năng quan tâm, từng bước nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật theo hướng hiện đại nhằm bảo đảm cho hoạt động TTM được thông suốt và hiệu quả[17]. Nhiều phương tiện hiện đại đã được trang bị và sử dụng có hiệu quả, như: máy tính xách tay, máy chiếu, máy ghi âm, máy ảnh kỹ thuật số, hệ thống âm thanh hiện đại… góp phần tích cực thúc đẩy việc đổi mới phương pháp, hình thức TTM và nâng cao trình độ, kỹ năng của đội ngũ BCV, TTV. Nhiều nơi có chính sách hỗ trợ thêm cho hoạt động TTM trong điều kiện nguồn lực, kinh phí cho phép của địa phương.

- Thực hiện Hướng dẫn liên ban số 06-HD/BTCTW-BTGTW, ngày 15/8/2011 giữa Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với BCV các cấp, việc chi trả phụ cấp trách nhiệm cho BCV các cấp thực hiện đúng quy định[18]. Một số địa phương có cách làm sáng tạo, vận dụng linh hoạt mức trợ cấp cho BCV, TTV[19] và có chế độ hỗ trợ, động viên đội ngũ BCVTTV cấp xã[20]. Tuy nhiên, chế độ thù lao bồi dưỡng cho BCV hiện nay theo Thông tư số 139/2010/TT-BTC, ngày 21/9/2010 của Bộ Tài chính về quy định khung, mức chi trả thù lao cho BCV còn thấp, chưa tương xứng với công sức đóng góp của BCV.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN HIỆN NAY

Trong những năm tới, tình hình thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, mau lẹ, khó lường. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu cực đoan, thiên tai, dịch bệnh, năng lượng, nguồn nước, an ninh phi truyền thống, an ninh tài chính, đặc biệt là an ninh mạng, cùng với đó là tình trạng tranh chấp biên giới, biển, đảo, tài nguyên, các loại xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai, can thiệp, lật đổ… diễn ra gay gắt ở nhiều nơi. Mặt khác, sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, internet, mạng xã hội sẽ tác động mạnh mẽ hơn đến nhận thức, hành vi của con người và sự phát triển của xã hội.

Trong nước, sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh và bền vững ngày càng đi vào chiều sâu, bên cạnh thuận lợi, sẽ xuất hiện những khó khăn, phức tạp mới; trong đó, đáng chú ý là sự cạnh tranh, bùng nổ của hệ thống thông tin, truyền thông toàn cầu, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động với âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Trước tình hình đó, loại hình TTM với ưu thế riêng biệt sẽ tiếp tục phát huy tính hiệu quả trong thông tin định hướng và dẫn dắt dư luận xã hội[21]. Nguồn thông tin từ TTM luôn là thông tin được cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tin cậy. Nhu cầu trao đổi, đối thoại trong sinh hoạt chính trị, tư tưởng tạo đồng thuận trong xã hội là đòi hỏi khách quan trong tình hình hiện nay. Chính vì vậyĐảng ta luôn nhấn mạnh: Tiếp tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác TTM, hoạt động của đội ngũ BCVTTV, xác định đây là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất. Trong những năm gần đây, thực tiễn đã minh chứng, để giải quyết các tồn tại vướng mắc trong cuộc sống, nhất là liên quan đến một số vụ việc phức tạp, nhạy cảm thì chỉ có thông qua công tác TTM và hoạt động đối thoại trực tiếp mới có thể giải quyết được.

1. Phương hướng

Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, nhất là đồng chí bí thư, người đứng đầu cơ quan, đơn vị; của mỗi cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác TTM.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác TTM, nhất là công tác TTM ở cấp cơ sở; hoạt động của đội ngũ BCV, TTV. Tập trung xây dựng, kiện toàn đội ngũ BCV, TTV có chất lượng, khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị theo hướng hiện đại nhằm hỗ trợ tối đa cho hoạt động TTM. Xây dựng chế độ thù lao phù hợp với tính đặc thù nghề nghiệp của BCV, TTV.

2. Các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản

Để tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hộigóp phần quan trọng vào việc ngăn chặn, đẩy lùi các thông tin xấu độc, đưa thông tin tích cực trở thành dòng chủ đạo, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau đây:

a. Nâng cao nhận thức của các chủ thể tuyên truyền miệng

Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của công tác TTM, từ đó nâng cao trách nhiệm, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường kiểm tra, giám sát để phát huy thế mạnh, hiệu quả của loại hình TTM trong tình hình mới.

+ Tiếp tục xác định TTM là nhiệm vụ, là kênh thông tin quan trọng; góp phần vào việc truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kịp thời định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.

+ Tạo sự chuyển biến, nhất quán trong nhận thức về công tác TTM, xem đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là cấp uỷ các cấp và đồng chí bí thư cấp uỷ, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia, đóng góp của tất cả đảng viên, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ BCV, TTV. Các cấp uỷ đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt công tác lãnh đạo xây dựng, quản lý, chỉ đạo hoạt động của đội ngũ BCV, TTV của ngành, cấp và đơn vị mình.

+ Ban Tuyên giáo các cấp cần nhận thức sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ thuộc lĩnh vực TTM, thực hiện tốt các giải pháp nâng cao chất lượng tham mưu, giúp cấp ủy tổ chức thực hiện tốt công tác TTM, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ BCV, TTV.

Đội ngũ BCV, TTV cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình; tự học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, thực hiện tốt vai trò là cầu nối, đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.

bTiếp tục đổi mới về nội dung và phương pháp tuyên truyền miệng

Đổi mới về nội dung:

Xuất phát từ yêu cầu giáo dục toàn diện (bao gồm giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học) cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, cần xây dựng nội dung TTM toàn diện, đa dạng, phong phú. Trước mắt, đổi mới theo hướng cân đối giữa nội dung mang tính cơ bản, chiến lược và nội dung có tính thời sự, “nóng”, “nhạy cảmLựa chọn, xây dựng nội dung các chuyên đề chuyên sâu phù hợp với chủ đích tuyên truyền và nhu cầu của đối tượng.

Đổi mới về phương pháp:

Đẩy mạnh thông tin hai chiều thông qua trao đổi, đối thoại, giải đápChủ động truyền đạt nội dung theo chủ đích, rõ tính định hướng; đồng thời, lắng nghe, nắm bắt tình hình tư tưởng, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời phản ánh và đề xuất giải pháp với cấp ủy.

Sử dụng linh hoạt các hình thức trong TTM, như: thông báo nhanh, báo cáo chuyên đề, giới thiệu nghị quyết, chính sách, pháp luật, thông tin thời sự, tổng thuật các sự kiện (có bình luận), báo cáo điển hình, gương người tốt việc tốt. Kịp thời cung cấp thông tin cho đội ngũ BCV bằng nhiều hình thức phù hợp trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua hội nghị BCV.

c. Mở rộng sự lan tỏa và khắc phục sự chậm trễ về thông tin chính thống ở cơ sở

- Các cấp ủy cần chủ động và tích cực hơn nữa trong viêc lựa chọn hình thức hội nghị BCV trực tuyếnChỉ tổ chức hội nghị BCV trực tiếp khi nội dung thông tin là những vấn đề có tính bí mật nội bộ và “nhạy cảm”, với đối tượng hẹp, có tính đặc thù. Dựa vào tiện ích của khoa học, công nghệ, internet, mạng xã hội có thể hình thành các nhóm: “nhóm BCV Trung ương”, “nhóm BCV cấp tỉnh” hoặc “nhóm BCV cấp huyện”… và thông qua mạng xã hội, các nhóm này nhanh chóng tiếp nhận và lan tỏa các thông tin chỉ đạo, định hướng.

- Ở tuyến huyện: hằng tháng, Ban Tuyên giáo cấp huyện chủ trì, phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị tổ chức hội nghị cung cấp thông tin tình hình chính trị, thời sự, định hướng dư luận xã hội cho cán bộ chủ chốt của huyện, xã và bí thư chi bộ thôn, bản (nơi có điều kiện).

- Đối với tuyến cơ sở: đẩy mạnh công tác TTM, cần duy trì và thực hiện nghiêm quy định về hội nghị cung cấp thông tin thông qua đội ngũ BCV cấp huyện phụ trách địa bàn[22] và lực lượng TTV cơ sởBí thư các chi bộ thực hiện nghiêm túc việc thông tin định hướng về tình hình quốc tế, trong nước có tính thời sự cho toàn thể đảng viên của chi bộ, vào kỳ sinh hoạt chi bộ hằng tháng.

- Khi xuất hiện những vấn đề quan trọng, phức tạp “nhạy cảm” được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, Ban Tuyên giáo Trung ương cần nhanh chóng tổ chức Hội nghị BCV (đột xuất) hoặc xây dựng nội dung thông tin ngắn gọn, rõ tính định hướng và thông qua mạng LAN, mạng xã hội và facebook (nhóm những người hoạt động BCV) để thông tin cho đội ngũ BCV Trung ương; từ đó, tiếp tục lan tỏa rộng ra đội ngũ BCV cấp tỉnh, huyện và đội ngũ TTV ở cơ sở.

- Tăng cường cung cấp thông tin có tính định hướng cho các nhóm đối tượng đặc thù(1) Đội ngũ cábộ chủ chốt các cấp, cán bộ hưu trí, già làng, trưởng bản và một số nhóm đối tượng đặc thù dễ nằm ngoài sự tác động của công tác tư tưởng, như: một bộ phận thanh niên, sinh viên; trí thức; phần đông công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam ở nước ngoài. (2) Những người còn có ý kiến khác do định kiến, thiếu thông tin hoặc bất mãn với cấp ủy, chính quyền cần định kỳ hoặc đột xuất tổ chức trao đổi, đối thoại để tìm tiếng nói chung và từng bước chuyển hóa nhận thức của họ; riêng đối tượng cực đoan cần xây dựng kế hoạch đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái một cách thuyết phục, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn.

d. Tiếp tục rà soát, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

Thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản tổ chức bộ máy, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ BCV, TTVTổ chức đội ngũ BCV theo hướng giảm về số lượng, tăng về chất lượng, hợp lý về thành phần và cơ cấucó kiến thức chuyên môn sâu, rộng, có khả năng truyền thụ hiệu quả, tạo được hiệu ứng tích cực, tạo sự tin tưởng cao đối với người nghe.

Tập trung rà soát bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động của đội ngũ BCV, đặc biệt coi trọng việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá (về nhận thức, về thái độ, về hành vi)[23], kết hợp sự theo dõ, nhận xét của cấp ủy để làm cơ sở xem xét, thay thế những BCV không hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ. Đối với đội ngũ BCV, TTV cấp xã cần có sự quy định, điều chỉnh về số lượng phù hợp với quy mô, tính chất đặc thù và đặc điểm vùng, miền để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn ở cơ sở.

 - Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin đặc biệt đối với đội ngũ BCV, cho phép đội ngũ BCV được tiếp cận thông tin nội bộ do thường trực cấp ủy cùng cấp cung cấp, nhất là những thông tin phục vụ công tác đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc.

- Nâng cao chất lượng và tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ BCV, TTV; trong đó, chú trọng việc cập nhật kiến thức mới, các kỹ năng, cách giải quyết các tình huống trong hoạt động TTM.

- BCV, TTV không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Trong thực hiện nhiệm vụ cần thể hiện rõ trách nhiệm và nghĩa vụ là người phát ngôn của cấp ủy, luôn nêu cao bản lĩnh chính trị, lý tưởng sống, giữ vững kỷ luật trong nói và viết; đồng thời, đề cao dân chủ, tăng cường đối thoại, cầu thị lắng nghe và giải đáp một cách thuyết phục, dựa trên những tri thức khoa học và kinh nghiệm của thực tiễn.

eTăng cường đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, rà soát bổ sung chính sách đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

Tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại, đồng bộ, phục vụ công tác TTM như: Hội trường, hệ thống âm thanh, ánh sáng, máy chiếu, máy tính và các phương tiện khác. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, độ bảo mật cao, bảo đảm việc kết nối trực tuyến thông suốt từ Trung ương tới tuyến huyện, nơi có điều kiện thì kết nối đến tuyến xã. Đồng thời, rà soát bổ sung chính sách đãi ngộ cho BCV, TTV cấp xã (phường, thị trấn) tương xứng với cống hiến và đóng góp của đội ngũ.

gChú trọng công tác kiểm tra, đôn đốc, định kỳ sơ, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện công tác TTM

Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ công tác TTM từ Trung ương tới cơ sở; kịp thời phát hiện, động viên những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác TTM, đồng thời nhắc nhở, phê bình những đơn vị làm không hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện nghiêm túc công tác sơ, tổng kết theo định kỳ (hoặc đột xuất theo yêu cầu), trên cơ sở đó kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác TTM đối với các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

 

PHẦN THỨ BA

 KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

 

Theo Từ điển tiếng Việt, kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn. Từ khái niệm trên có thể hiểu, kỹ năng tuyên truyền miệng là khả năng vận dụng các kiến thức về lĩnh vực này trong thực tiễn tuyên truyền, thuyết phục người nghe bằng lời nói trực tiếp. Đó là một loạt những kỹ năng liên quan đến quá trình chuẩn bị và thực hiện hoạt động tuyên truyền miệng. Do vậy, người đi tuyên truyền cần rèn  luyện các kỹ năng cơ bản sau:

- Kỹ năng tìm hiểu đối tượng, không gian, thời gian tuyên truyền miệng.

- Kỹ năng lựa chọn nội dung tuyên truyền miệng.

- Kỹ năng lựa chọn, nghiên cứu và xử lý tài liệu.

- Kỹ năng xây dựng đề cương tuyên truyền miệng.

- Kỹ năng lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ, văn phong.

- Kỹ năng tiến hành phát biểu khi thực hiện đối thoại với người nghe, điều khiển sự chú ý và trả lời câu hỏi.

I. KỸ NĂNG TÌM HIỂU ĐỐI TƯỢNG, KHÔNG GIAN, THỜI GIAN TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

1. Tìm hiểu đối tượng

Tìm hiểu đối tượng thực chất và chủ yếu là tìm hiểu yêu cầu và đặc điểm người nghe. Muốn cho bài nói thành công, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải xác định rõ đối tượng mà cán bộ tuyên truyền tác động đến. Tìm hiểu yêu cầu và đặc điểm đối tượng tuyên truyên truyền là nhiệm vụ đầu tiên cần thực hiện khi chuẩn bị một buổi tuyên truyền miệng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ tuyên truyền, nhà văn, nhà báo, phải xác định rõ đối tượng tuyên truyền của mình khi viết, khi nói, nếu không thì “... cũng như cố ý không muốn người ta nghe, không muốn cho người ta xem". Người viết: “Công tác tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào? Đó là những vấn đề các chú phải tự hỏi và tự trả lời. Chứ không phải ngồi chờ trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm”[24].

- Nội dung tìm hiểu đối tượng gồm:

+ Nghiên cứu, đặc điểm về mặt xã hội của đối tượng, gồm giai cấp, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác...

+ Nghiên cứu các đặc điểm về tư tưởng và tâm lý - xã hội của đối tượng, gồm quan điểm, chính kiến, động cơ, khuôn mẫu tư duy, tâm trạng, trạng thái thể chất...

+ Nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu thông tin; thái độ của người nghe đối với nguồn thông tin và nội dung thông tin; con đường, cách thoả mãn thông tin của đối tượng.

Với mỗi đối tượng cụ thể, khi nghiên cứu cần chú ý đến tâm thế chung của họ. Có tâm thế bị động, tâm thế chủ động, tâm thế khẳng định và tâm thế phủ định.

Tâm thế chủ động thể hiện sự nhiệt tình, mong muốn của người nghe.

Tâm thế bị động là sự chưa sẵn sàng của người nghe, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, họ đi nghe vì nghĩa vụ chứ không do có nhu cầu.

Tâm thế khẳng định thể hiện niềm tin sẵn có của người nghe.

Tâm thế phủ định thể hiện những định kiến có sẵn, thái độ phản ứng, phủ nhận của người nghe với những điều mình sẽ tuyên truyền.

Trên cơ sở nắm được tâm thế của người nghe, báo cáo viên lựa chọn nội dung, cách thức tuyên truyền cho phù hợp để đem lại hiệu quả cao cho buổi tuyên truyền miệng.

- Về nhóm đối tượng có nhu cầu khác nhau:

Trong thực tế, rất ít buổi tuyên truyền miệng được dành cho một loại đối tượng thuần nhất (trừ các lớp học, đơn vị quân đội, công an). Thông thường cán bộ tuyên truyền phải tiếp xúc cùng một lúc với nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một cơ sở, cùng một môi trường công tác.

Ví dụ, trong một đảng bộ doanh nghiệp, tuy người nghe đều là cán bộ, đảng viên nhưng trình độ học vấn, công việc của mỗi người khác nhau, phần đông là công nhân trực tiếp sản xuất, số còn lại là cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật… Trong một cơ quan nghiên cứu vừa có các nhà khoa học, cán bộ quản lý, nhưng cũng có đảng viên làm tạp vụ, lao công…

Trong các trường hợp đó, báo cáo viên phải tìm cho được những điểm chung trong những người nghe để lựa chọn nội dung và phương pháp thích hợp, chuẩn bị để chỗ nào cần nói sâu, nói kỹ, chỗ nào cần lướt. Đương nhiên một bài tuyên truyền miệng không thể dễ dàng thoả mãn mọi đối tượng, nhưng cần đáp ứng yêu cầu của số đông và ở mức nhận thức “trung bình” trở lên.

- Phương pháp cơ bản để tìm hiểu đối tượng:

Đối với những đối tượng mới, lần đầu tiên đến thực hiện tuyên truyền miệng, báo cáo viên cần quan tâm tìm hiểu kỹ yêu cầu và đặc điểm đối tượng với các nội dung như trên. Việc tìm hiểu có thể dựa trên 3 cách:

+ Tìm hiểu qua tổ chức, cá nhân người đến “đặt hàng”, yêu cầu nói, qua đó nắm những thông tin chung về đối tượng.

+ Tìm hiểu qua những báo cáo viên đã trình bày một lần với đối tượng đó để nắm rõ hơn nhu cầu thông tin và tâm thế chung của người nghe.

+ Dựa trên kinh nghiệm của mình và qua quan sát nhanh tại chỗ khi tiếp xúc với đối tượng để xác định.

2. Tìm hiểu không gian, thời gian diễn ra buổi tuyên truyền miệng

a. Tìm hiểu không gian buổi tuyên truyền miệng

- Không gian diễn ra buổi tuyên truyền miệng có vai trò quan trọng nhất định đến kết quả của hoạt động tuyên truyền. Do hoạt động tuyên truyền miệng là hoạt động tập thể với các giao tiếp trực tiếp, nên các yếu tố ngoại cảnh có tác động không nhỏ đến người nói và người nghe.

 - Khi tìm hiểu không gian của buổi tuyên truyền miệng, báo cáo viên cần chú ý để biết trước những trường hợp sau đây:

+ Địa điểm diễn ra buổi tuyên truyền miệng: trong phòng hay ngoài trời; phòng họp nhỏ hay lớn và số lượng người nghe.

+ Điều kiện của buổi tuyên truyền miệng với người nghe: có ghế ngồi, có quạt, có điều hòa nhiệt độ...

+ Điều kiện của buổi tuyên truyền miệng với người nói: có bàn, bục, có micro (có dây hoặc không dây), có máy tính, đèn chiếu...

- Báo cáo viên tìm hiểu các điều trên đây qua người “đặt hàng” để có thể chủ động nắm được những thông tin cơ bản về không gian buổi tuyên truyền miệng. Cũng có thể biết được những điều trên qua các kênh thông tin khác, như hỏi các báo cáo viên đã có lần đến báo cáo với các cơ quan, đơn vị trên...

b. Xác định thời gian diễn ra buổi tuyên truyền miệng

 - Thời gian buổi tuyên truyền miệng cũng có tác động đến kết quả của hoạt động tuyên truyền, nên báo cáo viên cần chủ động chuẩn bị trước. Thông thường vào buổi sáng người nghe tỉnh táo, tiếp thu thông tin tốt hơn; đầu giờ chiều người nghe thường mệt mỏi; buổi tối hay bị phân tán... Trong mỗi hoàn cảnh đòi hỏi người tuyên truyền miệng phải quan tâm đến việc sắp xếp nội dung bài nói và phương pháp trình bày, diễn đạt sinh động, phù hợp để phát huy hoặc khắc phục trạng thái tinh thần, tâm lý trên của đối tượng.

- Thời gian nói chuyện dài hay ngắn cũng tác động đến người nghe. Nói chung, trong một buổi tuyên truyền miệng không nên kéo dài quá trưa, quá tối, dù người tổ chức có yêu cầu. Nếu buổi tuyên truyền miệng kéo dài đến trên 2 giờ nhất thiết phải cho nghỉ giải lao. Trong trường hợp điều kiện để nghỉ giải lao không thuận tiện, có thể để nghỉ “giải lao tại chỗ” bằng tổ chức hoạt động của người nghe (hát tập thể hoặc đơn ca, song ca...), hoặc của người nói (dành nhiều thời gian hơn cho kể chuyện minh họa hoặc kể các chuyện có chủ đề xa hơn với vấn đề đang nói).

- Ngoài ra, báo cáo viên cũng chuẩn bị sẵn sàng cách xử lý khi thời gian buổi tuyên truyền miệng bị điều chỉnh theo yêu cầu của người tổ chức. Ví dụ, khi đến nơi, thời gian bắt đầu bị chậm (rất hay xẩy ra); người tổ chức đề nghị cho nghỉ sớm, xin thời gian để triển khai công việc của cơ quan... Người báo cáo viên chủ động chuẩn bị để có cách xử lý phù hợp.

II. KỸ NĂNG LỰA CHỌN NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

Về nguyên tắc, tuyên truyền miệng có thể đề cập đến mọi vấn đề của đời sống xã hội, như: Những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng, đối ngoại; những vấn đề lý luận, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; các sự kiện đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội... Tuy nhiên, để đạt mục đích tuyên truyền đặt ra, tạo khả năng thu hút sự chú ý của người nghe, khi lựa chọn nội dung tuyên truyền miệng, cần chú ý đến các đặc trưng sau:

1. Phải mang đến cho người nghe những thông tin mới

Trong lý thuyết giao tiếp, người ta ví quá trình trao đổi thông tin với hình tượng hai bình thông nhau chứa tin. Mỗi một bình chứa tin là một vai giao tiếp. Quá trình giao tiếp, trao đổi thông tin là quá trình mở chiếc van giữa hai bình để tin từ bình này (người nói) chảy sang bình kia (người nghe). Nếu tin của hai bình ngang nhau tức là hết điều để nói, quá trình trao đổi thông tin trên thực tế không diễn ra nữa. Để quá trình giao tiếp, trao đổi thông tim diễn ra liên tục, giữa người nói và người nghe phải có độ chênh lệch về thông tin, về sự hiểu biết xung quanh nội dung đang đề cập đến. Độ chênh lệch về thông tin, về sự hiểu biết đó chính là cái mới của nội dung tuyên truyền miệngSinh thời, Bác Hồ thường căn dặn các nhà báo, các cán bộ tuyên truyền rằng, nếu không có gì để nói, để viết thì chớ nói, chớ viết.

Cái mới của nội dung tuyên truyền tạo khả năng thu hút sự chú ý của người nghe, thuyết phục, cảm hoá họ, khẳng định những quan điểm cần tuyên truyền và phê phán các quan điểm sai trái, phản diện.

Trong tuyên truyền miệng, cái mới không chỉ được hiểu là cái chưa hề được đối tượng biết đến mà có thể là một phương pháp tiếp cận mới, một cách trình bày mới, độc đáo, một nhận định đánh giá mới về cái đã biết. Để tạo ra cái mới cho nội dung tuyên truyền miệng, người cán bộ tuyên truyền cần thường xuyên tích luỹ tư liệu mới; tìm tòi, sáng tạo cách trình bày, tiếp cận mới đối với vấn đề; rèn luyện năng lực bình luận, đánh giá thông tin; tích cực nghiên cứu thực tế, lăn lộn trong phong trào cách mạng của quần chúng để phát hiện, nắm bắt cái mới, tổng kết các kinh nghiệm hay từ thực tiễn cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Phải thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông tín của một loại đối tượng cụ thể

Nội dung tuyên truyền miệng do mục đích của công tác giáo dục tư tưởng và nhu cầu thoả mãn thông tin của đối tượng quy định. Nhu cầu thông tin của đối tượng lại xuất hiện do nhu cầu của hoạt động nhận thức (nghe để biết), hoặc của hoạt động thực tiễn (nghe để biết và để làm). Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn mà ở công chúng xuất hiện nhu cầu thông tin và đòi hỏi được đáp ứng.

Hoạt động thực tiễn của công chúng lại rất đa dạng, do đó nhu cầu thông tin của từng đối tượng công chúng cũng khác nhau. Không thể chọn một nội dung để nói cho các đối tượng khác nhau. Nội dung tuyên truyền miệng bao giờ cũng hướng tới một đối tượng, một nhóm người nghe cụ thể, xác định. Cho nên, phân loại đối tượng, nắm vững mục đích công tác giáo dục tư tưởng và nhu cầu thông tin, sự hứng thú của từng đối tương đối với nội dung thông tin, kích thích và đáp ứng nhu cầu ấy vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công tác tuyên truyền miệng.

Trong trường hợp ở công chúng chưa xuất hiện nhu cầu thông tin về một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng vấn đề đó lại được đặt ra do yêu cầu giáo dục tư tưởng thì cần chủ động hưởng dẫn, khêu gợi, kích thích sự quan tâm ở họChỉ khi nào ở người nghe xuất hiện nhu cầu thông tin và đòi hỏi được đáp ứng thì khi đó ở họ mới xuất hiện tâm thế, thái độ chủ động sẵn sàng tiếp nhận, chủ động nhằm thoả mãn nhu cầu đó (tìm tài liệu để đọc, đến hội trường nghe nói chuyện và chú ý lắng nghe...).

 3. Phải mang tính thời sự, tính cấp thiết, phản ánh những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống

 Giá trị và sức lôi cuốn người nghe, ý nghĩa giáo dục tư tưởng và chỉ đạo hành động của nội dung tuyên truyền miệng được nâng cao rõ rệt khi chọn đúng thời điểm đưa tin, thời điểm tổ chức buổi nói chuyện. Nếu buổi nói chuyện được tổ chức đúng thời điểm thì sức thu hút của nó đối với người nghe càng lớn, vì đó là một điều kiện giúp con người hành động có hiệu quả. Nếu triển khai kế hoạch tuyên truyền chậm, thông tin thiếu tính thời sự thì hiệu quả tác động kém, sức hấp dẫn bị hạn chế.

Để đáp ứng yêu cầu này, một mặt cần nắm vững chương trình, kế hoạch tuyên truyền của cấp uỷ hoặc cấp trên đề ra; mặt khác, bằng bản tính chính trị, sự nhạy cảm và tính năng động nghề nghiệp, cán bộ tuyên truyền có thể chọn một trong số những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách nhất, những sự kiện có tiếng vang lớn, đang kích thích sự quan tâm của đông đảo quần chúng làm chủ đề cho nội dung tuyên truyền. Những vấn đề và sự kiện như vậy thường có sức mạnh thông tin, cổ vũ cao, tác động sâu sắc đến ý thức và hành vi của con người.

Hướng vào phản ánh những vấn đề bức xúc trong phong trào cách mạng của quần chúng, các điển hình tiên tiến trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; phát hiện, giải đáp kịp thời, có sức thuyết phục những vấn đề do thực tiễn cuộc sống sinh động đang đặt ra là một trong những cách thức nâng cao tính cấp thiết, tính thời sự của nội dung tuyên truyền miệng.

4. Phải đảm bảo tính tư tưởng và tính chiến đấu

Bài nói của cán bộ tuyên truyền có mục đích tư tưởng rất rõ rệt. Mục đích tư tưởng này do chức năng của công tác tuyên truyền đặt ra và là đặc trưng cơ bản nhất trong hoạt động nghề nghiệp của cán bộ tuyên truyền. Khi nói trước công chúng cán bộ tuyên truyền thực hiện chức năng của nhà tư tưởng bằng công cụ lời nói, bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nội dung tuyên truyền miệng dù về đề tài gì, trước đối tượng công chúng nào cũng đặt ra không chỉ mục đích thông tin mà quan trọng hơn là mục đích tác động về mặt tư tưởng nhằm hình thành mềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của con người. Cho nên, nội dung tuyên truyền miệng không chỉ đạt tới yêu cầu cung cấp thông tin đa dạng, nhiều chiều, hấp dẫn, mà quan trọng hơn là đạt tới yêu cầu định hướng thông tin. Nội dung tuyên truyền miệng không chỉ nhằm cung cấp thông tin về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về những sự kiện quan trọng trong nước và trên thế giới mà quan trọng hơn là qua thông tin đó định hướng nhận thức, giáo dục tư tưởng, quán triệt quan điểm và hướng dẫn hành động của quần chúng.

Tính tư tưởng, tính chiến đấu đòi hỏi cán bộ tuyên truyền khi thông tin về những quan điểm khác nhau phải có chính kiến rõ ràng, phân tính theo lập trường, quan điểm của Đảng; khi nêu các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu, các tư tưởng xa lạ, đối lập phải tỏ rõ thái độ phê phán kiên quyết, triệt để, tránh gây hoài nghi, hoang mang, làm giảm lòng tin của công chúng bởi cái gọi là “thông tin nhiều chiều” thiếu cơ sở khoa học.

Căn cứ vào kế hoạch, đề tài tuyên truyền của cấp uỷ, những đặc trưng trên, thực tế tình hình tư tưởng xã hội, đặc điểm đổi tượng, cán bộ làm công tác tuyên truyền cần lựa chọn nội dung tuyên truyền miệng cho phù hợp.

III. KỸ NĂNG LỰA CHỌN, NGHIÊN CỨU XỬ LÝ TÀI LIỆU

Lựa chọn, thu thập tài liệu, nghiên cứu và xử lý tài liệu là một nhiệm vụ quan trọng vì nó là cơ sở để lựa  chọn nội dung tuyên truyền và là yếu tố tạo ra chất lượng cho một buổi nói chuyện.

1. Chọn nguồn tài liệu

Nguồn tài liệu quan trọng nhất mà cán bộ tuyên truyền thường xuyên sử dụng là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đây vừa là nội dung, vừa là cơ sở lý luận - tư tưởng của nội dung tuyên truyền. Người làm công tác tuyên truyền miệng phải có kiến thức vững chắc và hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, để trên cơ sở đó đánh giá, phân tích các sự kiện, hiện tượng.

- Các loại từ điển (Từ điển tiếng Việt, Từ điển triết học. Từ điển kinh tế…), tài liệu thống kê... là nguồn tài liệu chủ yếu để tra cứu các khái niệm, khai thác số liệu cho bài nói.

- Các sách chuyên khảo phù hợp là nguồn tài liệu rất quan trọng. Qua các tài liệu này có thể thu thập khối lượng lớn kiến thức hệ thống, sâu sắc về nội dung tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền chuyên đề.

- Các báo, tạp chí chính trị - xã hội, tạp chí chuyên ngành cũng là một nguồn tài liệu. Tạp chí cung cấp những thông tin khái quát, mang tính lý luận, nhưng tính thời sự ít hơn so với báo. Cần chư ý rằng, một tờ báo có thể cung cấp thông tin về những sự việc, sự kiện nhiều người đã biết. Tuy nhiên, cán bộ tuyên truyền cần thông qua các sự việc, sự kiện đó để phân tích, rút ra ý nghĩa chính trị, tư tưởng nằm sâu trong cái diễn ra hàng ngày mà ai cũng biết ấy. Cho nên, cần lưu trữ báo và tạp chí, lên thư mục hoặc cắt ra những bài báo và ghi rõ nguồn gốc xuất xứ của chúng.

- Sổ tay tuyên truyền, sổ tay báo cáo viên là những tài liệu hướng dẫn nội dung, nghiệp vụ tuyên truyền và một số tư liệu chung cần thiết cho cán bộ tuyên truyền rất thiết thực, bổ ích..

- Các bản tin nội bộ, đặc biệt là thông tin được cung cấp thông qua các hội nghị báo cáo viên định kỳ là nguồn thông tin trực tiếp mà dựa vào đó báo cáo viên tuyên truyền viên xây dựng nội dung bài nói.

- Ngoài ra, có thể sử dụng các băng ghi âm, các băng hình phù hợp, các báo cáo tình hình của cơ sở, các ghi chép qua nghiên cứu thực tế tham quan các điển hình tiên tiến, các di tích lịch sử - văn hoá …

- Các tác phẩm văn học để khai thác hình tượng văn học, câu nói, câu thơ liên quan, làm nổi bật ý của bài nói chuyện.

Muốn có nguồn tài liệu phong phú, cần tuân theo chỉ dẫn sau đây của Bác Hồ:

“Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là:

1. Nghe: Lắng nghe các cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu mà viết.

2. Hỏi: Hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những tình hình khắp nơi.

3. Thấy: Mình phải đi đến xem xét mà thấy.

4. Xem: Xem báo chí, sách vở. Xem báo chí trong nước, xem báo chí nước ngoài.

5. Ghi: Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã học được thì chép lấy để dùng và viết. Có khi xem mấy tờ báo chỉ được một tài liệu thôi. Tìm tài liệu cũng như những công tác khác phải chịu khó.

Có khi xem tờ báo này có vấn đề này, xem tờ báo khác có vấn đề khác, rồi góp hai ba vấn đề, hai ba con số làm thành một tài liệu mà viết.

Muốn có nhiều tài liệu thì phái xem cho rộng”. [25]

2. Đọc và nghiên cứu tài liệu

Đọc tài liệu

 Thoạt đầu nên đọc lướt qua mục lục, lời chú giải (nếu có) của từng tài liệu cũng như của  tất cả các tài liệu đã thu nhận được để trên cơ sở đó hình thành quan niệm về nội dung, kết cấu bài nói. Sau đó đọc kỹ, tìm cái mới có phân tích, suy nghĩ, lựa chọn. Có thể đọc cả tài liệu phản diện để hiểu nội dung và cách xuyên tạc của các thế lực xấu, xây dựng lập luận phê phán sát với nội dung, có hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu của bài phát biểu, tuyên truyền miệng.

Ghi chép

Tùy theo kinh nghiệm của mỗi người để ghi chép sao cho đạt được mục tiêu: Hệ thống, dễ đọc, dễ tìm…ghi tóm  tắt những điều đã đọc được, có thể ghi thêm lời bình luận ra lề, hoặc bổ sung thêm những số liệu, ý kiến nhận xét khác... khi tài liệu cô đọng hoặc trừu tượng.

Khi cần giữ lại ý kiến của tác giả một cách hoàn chỉnh, có thể trích nguyên văn từng câu, từng đoạn và chú giải xuất xứ của đoạn trích (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm, nơi xuất bản, năm xuất bản, lần xuất bản, số trang). Đoạn trích phải lấy từ tài liệu gốc hoặc tra cứu lại từ tài liệu gốc, không trích dẫn từ tài liệu của người khác.

Trong lúc đọc tài liệu, có thể ghi được rất nhiều nhưng nói chung chỉ nên ghi lại nhũng chỗ hay nhất, những khái niệm, những tư liệu chính xác, cần thiết nhất, tư liệu mới có liên quan đến chủ đề tuyên truyền.

Có thể ghi vào sổ tay hoặc ghi trên phích. Khi ghi chép nên ghi trên một mặt giấy, hoặc trang ghi chừa lề rộng để lấy chỗ để có thể ghi thêm những vấn đề mới, thông tin mới hoặc ý kiến bình luận của mình.

Phích được làm bằng giấy cứng, kích thước thông thường khoảng 8cm x 12,5cm, đựng vào hộp hoặc phong bì. Việc ghi phích có nhiều ưu điểmgiúp cho người ghi khảo cứu dễ dàng, thuận tiện nhờ việc phân loại chúng theo hệ thống các vấn đề.

Tuy nhiên, hiện nay hình thức ghi “phich” ít người sử dụng, nhất là lớp trẻ, thay vào đó là lập các thư mục trên máy tính cá nhân và tạo ra các file dữ liệu về các nhóm vấn đề cần nghiên cứu, tham khảo, giúp cá nhân dễ tra cứu và sử dụng khi cần thiết.

Như vậy, có rất nhiều phương pháp nghiên cứu tài liệu. Lựa chọn phương pháp nào thì sẽ tùy thuộc vào thói quen, kinh nghiệm của mỗi cá nhân.

3. Một số chú ý khi sử dụng tài liệu

Báo cáo viên cần chú ý đến các loại tài liệu sau:

- Các tài liệu lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đây là cơ sở lý luận để người báo cáo viên lý giải các vấn đề thực tiễn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến các chủ trương, chính sách mới. Phải có kiến thức, lý luận vững chắc, hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để trên cơ sở đó đánh giá, phân tích các sự kiện, hiện tượng được đề cập trong bài nói.

- Các loại từ điển, số liệu thống kê chính thức của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, giúp tra cứu các khái niệm, khai thác số liệu liên quan đến các vấn đề trong bài nói.

- Các báo cáo háng tháng, quý (ví dụ báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, hàng quý đã đăng công khai trên báo chí và phát trên mạng); báo cáo sơ kết, tổng kết của các cấp, các ngành...

- Các tạp chí nghiên cứu, báo chí, sách báo chuyên khảo phù hợp với nội dung tuyên truyền; Sổ tay tuyên truyền, sổ tay báo cáo viên... Đây là những tài liệu cung cấp nội dung và nghiệp vụ tuyên truyền rất thiết thực, bổ ích.

- Các bản tin nội bộ, tài liệu tham khảo (dùng cho báo cáo viên), thông tin được cung cấp qua hội nghị báo cáo viên định kỳ... ; ngoài ra có thể sử dụng các băng ghi âm, ghi hình do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp; các thông tin thu được nhờ nghiên cứu, tham quan thực tế các điển hình tiên tiến và các di tích lịch sử - văn hoá...

 Các tài liệu trên đều là các văn bản, tài liệu chính thống. Đương nhiên, người tuyên truyền miệng có thể sử dụng cả tài liệu của nước ngoài, của các thế lực xấu, thù địch, để tìm hiểu quan điểm và lập luận của họ, để phê phán. Nhưng phải thận trọng để không trở thành “kẻ tuyên truyền không công” cho địch. Khi sử dụng những nguồn tài liệu nói trên phải theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và chịu trách nhiệm về việc phát ngôn của mình. Cán bộ tuyên truyền giỏi phải là người có vốn tri thức phong phú, vừa rộng, vừa sâu. Muốn vậy phải có ý thức tự tích luỹ thường xuyên, liên tục, bằng nhiều cách khác nhau.

- Sau khi đọc, ghi chép, tiến hành lựa chọn những tư liệu mới nhất, có giá trị nhất, dự kiến có khả năng thu hút người nghe nhất đưa vào đề cương bài nói.

- Chọn và sắp xếp tư liệu theo trình tự lôgíc để hình thành đề cương.

- Chỉ sử dụng những tư liệu rõ ràng, chính xác. Không dùng những tư liệu chưa rõ về quan điểm tư tưởng, thiếu chính xác vế mặt khoa học. Cần tuân thủ nguyên tắc về chất lượng thông tin trong giao tiếp: Không nói điều mà mình chưa tin là đúng và những điều không đủ bằng chứng.

Trước khi sử dụng bất kỳ tư liệu nào đều phải xem xét nó bằng “lăng kính” của người cán bộ tư tưởng. Đó là sở nhạy cảm về tư tưởng, là bản lĩnh chính trị, là trách nhiệm người cán bộ trước Đảng, trách nhiệm công dân. Tuyệt đối không được để lộ bí mật của Nhà nước. Khi sử dụng các tài liệu mật, thông tin nội bộ cần xác định rõ vấn đề nào không được nói, hoặc chỉ được nói đến đối tượng nào. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, mỗi báo cáo viên khi đi tuyên truyền miệng, nhất thiết phải định hướng thông tin theo quan điểm của Đảng.

Sử dụng tài liệu là một kỹ năng, phụ thuộc vào năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của cán bộ tuyên truyền miệng. Cùng một lượng tài liệu như nhau, ai dày công và sáng tạo hơn sẽ có bài nói chuyện chất lượng cao hơn.

 IV. KỸ NĂNG XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

Đề cương tuyên truyền miệng là văn bản mà dựa vào đó người tuyên truyền tiến hành buổi nói chuyện trước công chúng. Đề cương tuyên truyền miệng cần đạt tới các yêu cầu sau:

 Phải thể hiện mục đích tuyên truyền. Đề cương là sự cụ thể hoá, quán triệt mục đích tuyên truyền trong các phần, các mục, các luận điểm, luận cứ, luận chứng của bài nói.

Phải chứa đựng, bao hàm nội dung tuyên truyền một cách lôgíc.

Cần xây dựng nhiều phương án của đề cương, từ đó chọn phương án tối ưu. Phương án tối ưu là phương án đạt mục đích tuyên truyền và phù hợp với một đối tượng công chúng cụ thể, xác định.

Quá trình xây dựng đề cương có thể thay đổi, bổ sung, hoàn thiện dần từ thấp lên cao, từ đề cương sơ bộ đến đề cương chi tiết. Đối với những vấn đề quan trọng, phát biểu trước những đối tượng có trình độ cao, có sự hiểu biết và giầu kinh nghiệm thực tiễn, đề cương cần được chuẩn bị với các số liệu thật chính xác, có giá trị cao. Càng chi tiết càng tốt.

Tuyên truyền miệng có nhiều thể loại: Bài nói chuyện thời sự, báo cáo chuyên đề, báo cáo nhanh hoặc giới thiệu về nghị quyết của các cấp uỷ đảng, kể chuyện người tốt việc tốt, gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, diễn văn đọc trong các cuộc mít tinh... Mỗi thể loại trên đều có kết cấu đề cương riêng. Tuy nhiên, khái quát lại, đề cương được kết cấu bởi ba phần, gồm: Phần mở đầu, phần chính và phần kết luận. Mỗi phần có chức năng riêng, yêu cầu riêng, phương pháp xây dựng và thể hiện riêng.

1. Phần mở đầu

Phần mở đầu có các chức năng như:

Làm phần nhập đề cho chủ đề tuyên truyền. Đồng thời là phương tiện giao tiếp với người nghe nhằm kích thích sự hứng thú của người nghe với nội dung tuyên truyền.

Phần này tuy ngắn, nhưng rất quan trọng đối với các nội dung tuyên truyền có tính trừu tượng, đối với đối tượng mới tiếp xúc lần đầu, với đối tượng là thanh niên, sinh viên. 

Yêu cầu đối với lời mở đầu:

Phải tự nhiên và gắn với các phần khác trong bố cục toàn bài cả về nội dung và phong cách ngôn ngữ.

Ngắn gọn, độc đáo và hấp dẫn đối với người nghe.

Các cách mở đầu và cấu trúc phần mở đầu:

Cách mở đầu rất đa dạng, phong phú nhưng có thể khái quát thành hai cách mở đầu chủ yếu: Mở đầu trực tiếp và mở đầu gián tiếp:

Mớ đầu trực tiếp là cách mở đầu bằng việc giới thiệu thẳng với người nghe vấn đề sẽ trình bày để người nghe tiếp cận ngay. Cách mở đầu này ngắn gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận và thích hợp với nhũng bài phát biểu ngắn. với đối tượng đã tương đối quen thuộc… Mở đầu trực tiếp được cấu trúc bởi hai phần: Nêu vấn đề và giới hạn phạm vi vấn đề (hay chuyển vấn đề).

+ Nêu vấn đề là trình bày một ý tưởng, một quan niệm tổng quát có liên quan trực tiếp đến chu đề tuyên truyền để dọn đường cho việc trình bày phần chính tiếp theo.

+ Giới hạn phạm vi vấn đề là thông báo cho người nghe biết trong bài nói có mấy phần, bàn đến những vấn đề gì.

- Mở đầu gián tiếp là cách mở đầu không đi thẳng ngay vào vấn đề mà chỉ nêu vấn đề sau khi đã dấn ra một ý kiến khác có liên quan, gần gũi vời vấn đề ấy nhằm chuẩn bị bối cảnh, dọn đường cho vấn đề xuất hiện. Cách mở đầu này dễ tạo cho bài nói sự sinh động hấp dẫn đối với người nghe, làm cho người nghe nhanh chóng thay đổi quan điểm vốn có, chấp nhận quan điểm của người tuyên truyền.

-  Mở đầu gián tiếp được cấu trúc bởi ba phần: Dẫn dắt vấn đề, nêu vấn đề và giới hạn phạm vi vấn đề. Tuỳ theo cách dần dắt vấn đề, hay là cách chuyển từ phần dẫn dắt ván đề sang phần nêu vấn đề mà hình thành.

Các phương pháp mở đầu gián tiếp sau:

Nếu dẫn dắt vấn đề được bắt đầu từ một cải riêng để đi đến nêu vấn đề là một cái chung ta có phương pháp quy nạp.

Nếu dẫn dắt vấn đề bắt đầu từ một cái chung để đi đến nêu vấn đề là một cái riêng ta có phương pháp diễn dịch.

Nếu dẫn dắt vấn đề bảng cách lấy một ý khác tương tự để làm rõ hơn cho việc nêu vấn đề ở phần tiếp theo ta có phương pháp tương đồng.

Nếu dẫn dắt vấn đề bằng cách lấy một ý khác trái ngược để đối chiếu, so sánh với vấn đề sẽ nêu ra ta có phương pháp tương phản.

Trong thực tế công tác tuyên truyền miệng, ngoài các cách mở đầu theo tính "kinh điển" trên, người ta còn có thể sử dụng hàng loạt các phương pháp mở đầu khác, tự do hơn, miễn là chúng đáp ứng được các yêu cầu như đã nêu trên.

Ngoài ra, trong phần mở đầu dù trực tiếp hay gián tiếp, nên có thêm phần giới thiệu thời gian nói chuyện (đến mấy giờ), phương thức tiến hành (có nghỉ giải lao hay không, nghỉ mấy lần, có trả lời các câu hỏi và tổ chức đối thoại với người nghe hay không...).

2. Phần chính của bài nói

Đây là phần dài nhất, quan trọng nhất, quyết định chất lượng của bài nói, là phần thể hiện và phát triển nội dung tuyên truyền một cách toàn diện, theo yêu cầu đặt ra. Nếu như chức năng, đặc trưng của phần mở đầu là thu hút sự chú ý của người nghe ngay từ đầu thì chức năng đặc trưng của phần chính là lôi cuốn người nghe, kích thích sự hứng thú, định hướng tư tưởng, phát triển tư duy của họ bằng chính sự phát triển phong phú của nội dung và lôgíc của sự trình bày. Khi chuẩn bị phần chính của bài nói cần đạt tới các yêu cầu:

- Bố cục chặt chẽ, được trình bày, lập luận theo những quy tắc, phương pháp nhất định. Phần chính được bố cục thành các luận điểm hay các mục (mục lớn tương ứng với luận điểm cấp một, mục nhỏ tương ứng với luận điểm cấp hai). Các luận điểm phải được làm sáng tỏ bởi các luận cứ. Giữa các luận điểm hay các phần, các mục phải có đoạn chuyển tiếp làm cho bài nói có tính liên tục và giúp người nghe chủ động chuyển sang tiếp thu những mục, những luận điểm tiếp theo.

- Tư liệu, cứ liệu dùng để chứng minh, làm sáng tỏ luận điểm cần được sắp xếp một cách lôgíc theo phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp loại suy hoặc phương pháp nêu vấn đề. Mỗi luận điểm, mỗi phần, mỗi mục có thể trình bày theo một trong các phương pháp trên. Việc chọn phương pháp trình bày, sắp xếp tư liệu nào là do nội dung bài nói, đặc điểm người nghe và hoàn cảnh cụ thể của buổi tuyên truyền miệng quy đinh.

- Tính xác định, tính nhất quán và tính có luận chứng. Nhìn chung, quá trình trong ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội đã hình thành những mối quan hệ lôgíc nhất định. Nếu lôgíc bài nói phù hợp với lôgíc trong tư duy, ý thức người nghe thì bài nói sẽ trở nên dễ hiểu, dễ thuyết phục. Chính vì vậy, khi thiết lập đề cương bài nói, hình thành các luận điểm, các phần, các mục phải vận dụng các quy luật lôgíc (quy luật đồng nhất, quy luật mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba, quy luật có lý do đầy đủ). Việc vận dụng các quy luật này trong khi lập luận, trình bày, kết cấu đề cương sẽ đảm bảo cho bài nói có tính rõ ràng, chính xác (tính xác định), tính nhất quán và tính có luận chứng.

- Tính tâm lý, tính sư phạm. Khi xây dựng phần chính cua bài nói và trình bày, lập luận nội dung, ngoài việc vận dụng các quy luật của lôgíc hình thức cần vận dụng các quy luật của tâm lý học tuyên truyền như: Quy luật hình thành và biến đổi của tâm thế, quy luật đồng hoá và tương phản của ý thức, quy luật đứng đầu trong niềm tin, quy luật về sự tác động của cái mới…

Chẳng hạn, có thể vận dụng quy luật đứng đầu trong niềm tin do nhà bác học Hêvlanđơ tìm ra năm 1926 để sắp xếp thứ tự trình bày các vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành tâm thế, niềm tin của đối tượng. Nội dung của quy luật này có thể tóm tắt lại là: Những tác động đầu và cuối của hiện thực khách quan đến con người thường để lại những dấu ấn sâu sắc. Cho nên, khi xây dựng đề cương phần chính bài nói, các vấn đề quan trọng của nội dung cần kết cấu phần đầu hoặc phần cuối của bài.

Đề cương phần chính bài nói còn được sắp xếp theo yêu cầu của phương pháp sư phạm: Trình bày từ cái đơn giản, đã biết đến cái phức tạp, cái chưa biết và nêu bật được những luận điểm quan trọng nhất của bài.

3. Phần kết luận

- Kết luận là phần không thể thiếu của cấu trúc một bài nói, nó có các chức năng đặc trưng sau:

Tổng kết những vấn đề đã nói.

Củng cố và làm tăng ấn tượng về nội dung tuyên truyền.

Đặt ra trước người nghe những nhiệm vụ nhất định và kêu gọi họ đi đến hành động. Kết luận phải ngắn gọn, giàu cảm xúc nhưng tự nhiên, không giả tạo và được sử dụng để kết thúc bài nói.

- Những cách kết luận chủ yếu và cấu trúc của nó là:

Giống như mở đầu, kết luận có nhiều phương pháp khác nhau. Đó là các phương pháp: Mở rộng, ứng dụng, phê phán, tương ứng… Dù phương pháp nào thì kết luận cũng được cấu trúc bởi hai phần:

Phần đầu gọi là phần tóm tắt, hay toát yếu, tóm lược các vấn đề trình bày trong phần chính. Phần này giống nhau cho mọi phương pháp.

+ Phần hai là phần mở rộng và mang đặc trưng của phương pháp. Nếu phần hai mang ý nghĩa mở rộng vấn đề ta có kết luận kiểu mở rộng, nếu mang ý nghĩa phê phán ta có kết luận kiểu phê phán, nếu mang ý nghĩa vận dụng ta có kết luận kiểu ứng dụng, v.v..

Có thể còn nhiều loại kết luận khác. Tuy nhiên, nếu buổi nói chuyện đã đầy đủ và thấy rằng không cần phải tổng kết, thời gian nói chuyện đã hết thì tốt nhất nên nói: Đến đây cho phép tôi kết thúc bài phát biểu, xin  cám ơn các đồng chí.

Vào đề và kết luận cho buổi nói chuyện là một kỹ xảo, một thủ thuật - thủ thuật gây hấp dẫn, lôi cuốn, gây ấn tượng đối với người nghe. Việc tìm tòi các thủ thuật này là yêu cầu sáng tạo của mỗi cán bộ tuyên truyền.

 

V. KỸ NĂNG LỰA CHỌN, SỬ DỤNG NGÔN NGỮ, VĂN PHONG

Ngôn ngữ là công cụ quan trọng đảm bảo cho cán bộ tuyên truyền thực hiện mục đích của hoạt động tuyên truyền miệng. Bằng ngôn ngữ, cán bộ tuyên  truyền chuyển tải thông tin, thúc đẩy sự chú ý và sự suy nghĩ của người nghe, điều khiển, điều chỉnh hoạt động nhận thức của đối tượng và cổ vũ họ đi tới những hành động tích cực. Ngôn ngữ tuyên truyền miệng có các đặc trưng sau:

1. Tính hội thoại

- Tuyên truyền miệng có đặc trưng là sự giao tiếp trực tiếp giữa người nói và người nghe thể hiện cả trong độc thoại và đối thoại. Cho nên, một đặc điểm văn phong quan trọng của tuyên truyền miệng là tính hội thoại, tính sinh động, phong phú của lời nói. Những biểu hiện của tính hội thoại là sử dụng từ vựng và câu cú hội thoại, sự đơn giản của cấu trúc câu và không tuân theo những quy tắc ngữ pháp nghiêm ngặt như văn viết.

Biểu hiện đầu tiên của tính hội thoại trong văn phong tuyên truyền miệng là việc sử dụng câu ngắn, câu không phức tạp (câu đơn). Do đặc điểm tâm, sinh lý của việc tri giác thông tin bằng thính giác, một mệnh đề càng dài thì càng khó ghi nhớ. Sử dụng câu ngắn, câu đơn sẽ làm cho người nghe dễ nhớ, dễ hiểu vấn đề và không ảnh hưởng đến việc thở lấy hơi của người nói.

Ngoài ra, việc sử dụng câu ngắn, câu nhiều mệnh đề kế tiếp nhau có thể trở thành phương tiện văn phong làm cho bài nói sôi nổi, có kịch tính, trên cơ sở đó thu hút sự chú ý của người nghe.

Khi đặt câu, những thông tin quan trọng không nên đặt ở đầu câu và cuối câu. Do đặc điểm của sự chú ý, nếu đặt những thông tin quan trọng ngay ở đầu câu, thì khi bắt đầu nói người nghe có thể chưa chú ý, thông tin bị thất lạc, cho nên chỉ đưa thông tin vào câu sau 3 - 4 từ đầu tiên. Cũng không nên đặt thông tin quan trọng ở cuối câu vì nghe đến cuối câu, thính giả có thể đã giảm thiểu sự chú ý, thông tin cũng có thể bị thất lạc Cũng do điều này, mà khi đặt câu, không bắt đầu bằng một mệnh đề phụ quá dài.

- Sử dụng cấu trúc liên kết. Nhờ việc sử dụng cấu trúc này mà diễn giả có thể làm nổi bật, nhấn mạnh một vấn đề nào đó, thực hiện sự ngắt hơi hoặc xuống giọng để tạo ra cảm giác thoải mái, ngẫu hứng. Sự liên kết thường được sử dụng với liên từ: “và”, “còn”, “nhưng”, “song”, “hơn nữa” và các trợ từ: “mặc dù”, “chẳng lẽ”, “thậm chí”!, “thật vậy”,...

 2. Tính chính xác

Tính chính xác của ngôn ngữ là sự phù hợp giữa tư tưởng muốn trình bày và từ ngữ, thuật ngữ được chọn để diễn đạt tư tưởng đó. Tính chính xác đảm bảo cho lời nói truyền đạt chính xác nội dung khách quan của vấn đề, sự việc, sự kiện được đề cập trong bài phát biểu, tuyên truyền miệng. Tính chính xác của lời nói trong tuyên truyền miệng bao gồm:

- Sự chính xác về phát âm (không phát âm sai, lẫn lộn giữa l và n, giữa ch và tr, giữa r và gi, giữa s và x...)

- Sự chính xác về từ, các từ được dùng phải rõ nghĩa, đơn nghĩa, tránh dùng từ đa nghĩa, diễn đạt mập mờ, nước đôi, không rõ ràng.

- Sự chính xác về câu bao hàm cả sự chính xác về ngữ pháp (đặt câu đúng) và chính xác về ngữ nghĩa, tránh đặt những câu tối nghĩa.

- Sự chính xác của lời nói còn được biểu hiện ở việc chọn từ ngữ phù hợp với đề tài, với trình độ người nghe và bối cảnh giao tiếp.

3. Tính phổ thông

Tính phổ thông của lời nói trong tuyên truyền miệng thể hiện ở việc chọn từ, cách diễn đạt rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ chung, phổ biến của một nhóm đối tượng công chúng, là biết "phiên dịch" ngôn ngữ hàn lâm, ngôn ngữ chuyên gia sang ngôn ngữ của công chúng rộng rãi.

Tính phổ thông của lời nói đảm bảo cho thính giả hiểu được, tiếp thu được những vấn đề phức tạp, thu hút người nghe hướng vào tiếp nhận những tư tưởng mới của người tuyên truyền.

Tính phổ thông, sự đơn giản, dễ hiểu của lời nói, của cách trình bày không có nghĩa là dung tục hoá các khái niệm khoa học, là làm nghèo nàn nội dung bài nói. Sự đơn giản của diễn ngôn, sự dễ hiểu của cách trình bày và sự phong phú, tính khoa học của nội dung không mâu thuẫn với nhau. Trong vấn đề này việc cụ thể hoá các khái niệm trừu tượng, việc lấy các thí dụ minh hoạ, sử dụng đoạn miêu tả rất có hiệu quả.

Tính phổ thông của lời nói đòi hỏi cán bộ tuyên truyền hạn chế việc sử dụng các thổ ngữ, từ địa phương, các thuật ngữ có tính nghề nghiệp, chuyên dụng. Không lạm dụng từ nước ngoài, mặc dù sự hiện diện của một số từ nước ngoài trong ngôn ngữ của một dân tộc là một thực tế khách quan do những quy luật của quá trình phát triển ngôn ngữ và giao lưu văn hoá.

Trong những điều kiện cần thiết chúng ta có thể sử dụng các từ nước ngoài nhất là các từ Hán - Việt, để biểu đạt chính xác nội dung tư tưởng, nhưng không lạm dụng và tốt nhất vẫn là chọn dùng những từ có trong vốn từ vựng của người nghe. Sử dụng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, vốn gần gũi với đông đảo nhân dân để trình bày, diễn đạt, giải thích các khái niệm mới, trừu tượng cũng là cách phổ thông hoá lời nói của bài phát biểu, tuyên truyền miệng.

4. Tính truyền cảm

Tính truyền cảm là đặc trưng riêng có của ngôn ngữ nói. Việc khai thác, vận dụng đặc trưng này sẽ đem lại thành công cho bài nói. Một bài nói có chất lượng là bài nói vận dụng tốt các phương tiện lôgíc và phương tiện cảm xúc - thẩm mỹ. Nhờ yếu tố truyền cảm của lời nói mà người nghe bỏ qua những thông tin nhiễu khác như tiếng ồn, các tác động của môi trường, sự nóng nực, tập trung chú ý để tiếp thu những từ thức mới, tích cực, chủ động nâng cao nhận thức của mình về những điều tưởng như đã biết, thích thú trong việc tiếp nhận thông tin. Chính vì vậy mà V.I. Lê nin đã nói: Không có sự xúc cảm của con người thì xưa nay không có, và không thể có sự tìm tòi chân lý.

Để tạo ra tính truyền cảm cho bài nói, có thể sử dụng các biện pháp tu từ ngừ âm: Các ẩn dụ, so sánh, các từ láy điệp ngữ,... và các biện pháp tu từ cú pháp: Câu ẩn chủ ngừ, câu hỏi tu từ, câu đối chọi, câu có bổ ngữ đứng ở trước, câu đảo đối, câu có thành phần giải thích… Đồng thời có thể sử dụng các yếu tố cận ngôn ngữ như ngữ điệu, trường độ, cao độ của tiếng nói, sự ngừng giọng... và kết hợp chúng với các yếu tố phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt...

VI. KỸ NĂNG PHÁT BIỂU, ĐIỀU KHIỂN SỰ CHÚ Ý, TRẢ LỜI CÂU HỎI, BAO QUÁT HỘI TRƯỜNG VÀ KẾT THÚC BUỔI NÓI CHUYỆN

1. Kỹ năng khi thực hành phát biểu

Trong quá trình phát biểu, cán bộ tuyên truyền thực hiện sự tác động đến người nghe chủ yếu thông qua hai kênh: Kênh ngôn ngữ và kênh phi ngôn ngữ. Mối quan hệ ngược người nghe - cán bộ tuyên truyền  cũng được thực hiện bằng hai kênh này.

- Kênh ngôn ngữ (có tài liệu gọi là cận ngôn ngữ, tức là những yếu tố đi liền với ngôn ngữ). Thuộc về kênh này có thể sử dụng các yếu tố như ngữ điệu, cường độ, âm lượng, nhịp độ lời nói và sự ngừng giọng... để tạo nên sự hấp dẫn cho bài nói.

+ Ngữ điệu của lời nói phải phong phú biến hoá, có sự vận động của âm thanh, tránh cách nói đều đều, đơn điệu, buồn tẻ.

+ Cường độ của lời nói to hay nho cần phù hợp với khuôn khổ kích thước hội trường, số lượng và đặc điểm người nghe. Cần điều chỉnh cường độ lời nói đủ để người ngồi xa nhất có thể nghe được.

+ Nhịp độ lời nói, nói nhanh hay nói chậm do nội dung bài nói, tình huống và không gian giao tiếp, khả năng hoạt động của tư duy và sự chú ý của người nghe quy định. Việc tăng nhịp độ lời nói làm cho quá trình tiếp thu thông tin diễn ra nhanh, nhưng nếu tăng đến một giới hạn nào đó, lượng thông tin cung cấp trong một đơn vị thời gian sẽ cao hơn khả năng của trí nhớ, khả năng tri giác thông tin của não giảm xuống. Cho nên, nhịp độ lời nói cần vừa phải. Thông thường, khi trình bày bài nói, nhịp độ chậm hơn đọc khoảng 1/5 lần.

 Ngừng giọng cũng là một yếu tố của kỹ năng sử dụng kênh ngôn ngữ trong tuyên truyền miệng. Việc sử dụng kỹ năng ngừng giọng là để nhấn mạnh tầm quan trọng, tạo ra sự tập trung chú ý của người nghe đối với một vấn đề nào đó. Chính vì vậy mà thời điểm ngừng giọng được chọn là ở những chỗ có ý quan trọng, còn độ dài ngừng giọng phụ thuộc vào cảm xúc cua người nói và ý muốn tạo ra sự chú ý ở ngươi nghe.

- Kênh phi ngôn ngữ (có tài liệu gọi là kênh tiếp xúc cơ học hay các yếu tố về hành vi). Thuộc về kênh này có các yếu tố như tư thế sự vận động và cử chỉ, nét mặt, và nụ cười. Chúng là những yếu tố được quy định bởi phong cách và thói quen cá nhân. Hình thành kỹ năng này đòi hỏi phải có sự tập luyện công phu và kiên trì.

- Đứng trước công chúng phải tự nhiên linh hoạt. Trong suốt buổi nói chuyện nên có vài lần thay đổi tư thế để người nghe không cảm thấy mệt mỏi nhưng cũng không nên thay đổi tư thế quá nhiều.

Cử chỉ và diện mạo phải phù hợp với ngữ điệu của lời nói và cảm xúc, với sự vận động của tư duy và tình cảm. Nét mặt, nụ cười, ánh mắt có thể truyền đạt hàng loạt các cảm xúc, niềm vui hay nỗi buồn, sự kiên quyết hay nhân nhượng, sự khẳng định hay nghi vấn... mà nhờ nó người nói thể hiện được thái độ tình cảm của mình về vấn đề đang nói và qua đó tạo được lòng tin và sự lôi cuốn người nghe.

Các yếu tố trên đây tác động lên thị giác của người nghe và có tác dụng nâng cao hiệu quả tri giác thông tin của họ. Chúng còn được kết hợp phù hợp với tính chất, nội dung thông tin và với các yếu tố ngôn ngữ để nâng cao chất lượng tuyên truyền miệng.

2. Một số kỹ năng thu hút sự chú ý và gây ấn tượng đối với người nghe khi thực hiện tuyên truyền miệng

Một bài phát biểu tuyên truyền miệng có nội dung mới, thiết thực, mang tính thời sự, được trình bày theo lôgic chặt chẽ, ngôn ngữ chính xác, phổ thông và có tính biểu cảm. Trong quá trình trình bày, có thể sử dụng các kỹ năng, các thủ thuật sau để tạo sự chú ý và gây ấn tượng ở người nghe đối với nội dung bài nói:

- Tăng hàm lượng thông tin bằng cách xử lý tốt lượng dư thừa của ngôn ngữ diễn đạt.

  - Tăng sức hấp dẫn của thông tin bằng cách sử dụng yếu tố bất ngờ, cách trình bày độc đáo.

  - Sử dụng một số biện pháp ngôn ngữ như: Dùng từ láy, ẩn dụ, câu đảo đổi, câu đối chọi... và các biện pháp tu từ ngữ âm như: Biện pháp hòa đối thanh điệu, biện pháp lặp số lượng âm tiết, lặp vần, biện pháp tạo nhịp điệu...

  - Trình bày cái cụ thể xen kẽ cái trừu tượng, trình bày sự kiện xen kẽ các khái niệm, phạm trù quy luật.

  - Nắm vững nghệ thuật sử dụng các con số. Có thể sử dụng kỹ năng để làm cho một số nhỏ thành số lớn hoặc ngược lại làm cho một số lớn thành số nhỏ; hoặc so sánh s đó với số khác để làm bật ý nghĩa chính trị, tư tưởng, xã hội của con số đang sử dụng.

  - Phát biểu theo kiểu ngẫu hứng, thoát ly đề cương.

  - Nêu dồn dập các sự kiện.

  - Thu hút bằng cử chỉ, điệu bộ và sự nhiệt tình.

3. Kỹ năng khôi phục và tăng cường sự chú ý

Trong quá trình trình bày, do những nguyên nhân nào đó, sự chú ý của người nghe có thể bị giảm. Trong trường hợp đó, cán bộ tuyên truyền phải biết  phát hiện  nhờ việc quan sát thái độ và cử chỉ của người nghe và  chủ động tìm cách khắc phục.

Dựa trên những quy luật tâm sinh lý, người ta đưa ra một số kỹ xảo, thủ thuật sau mà người tuyên truyền có thể áp dụng để khôi phục và tăng cường sự chú ý:

- Cử chỉ, vận động và sự kết hợp chúng với các thủ thuật khác. Chẳng hạn, có thể rời bục giảng tiến gần về phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục nói.

- Thủ thuật âm thanh: Nói to lên hoặc ngược lại, nói nhỏ đi, gần như nói khẽ, nói thầm.

- Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, băng ghi hình... và kết hợp sử dụng các phượng tiện đó với phương tiện ngôn ngữ.

- Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời.

- Hài hước: Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp gây cười như: Chơi chữ, nói lái, kỹ thuật tương phản hoặc kể mốt câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi phục trở lại sự chú ý.

Nhà sư phạm Nga Usinxki có nói: Chú ý là cánh cửa mà qua đó tất cả những gì của thế giới bên ngoài đi vào tâm hồn con người. Cho nên, trong quá trình phát biểu, cán bộ tuyên truyền phải có kỹ năng tạo ra sự chú ý ở người nghe và duy trì, giữ gìn sự bền vững của nó trong suốt thời gian buổi nói chuyện.

4. Kỹ năng tra lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại

 Trong tuyên truyền miệng chúng ta không chỉ thực hiện các phương pháp độc thoại, mà còn thực hiện các phương pháp đối thoại như toạ đàm, trao đổi, thảo luận, hỏi - đáp.

Trong các phương pháp đối thoại thì hỏi - đáp (người nghe hỏi và cán bộ, tuyên truyền trả lời) là phương pháp được sử dụng nhiều hơn cả. Do đó, việc trả lời các câu hỏi cua người nghe là công việc bình thường của cán bộ tuyên truyền, nhất là trong điều kiện dân chủ hoá và tăng cường các phương pháp đối thoại với quần chúng. Cán bộ tuyên truyền cần thiết phải trả lời câu hỏi của quần chúng và tạo điều kiện, giành thời gian trong mỗi lần nói chuyện để họ được hỏi về những vấn đề mà họ quan tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích chưa rõ.

Quá trình trả lời câu hỏi của người nghe cần chú ý một số đặc điểm sau:

- Quan hệ giao tiếp thay đổi từ độc thoại (nói một mình) sang đối thoại (trao đổi giữa hai hay nhiều ngườivới nhau), hơn nữa, người tuyên truyền đang đối thoại không phải với một người mà là đại diện của cả tập thể người nghe, do đó phải tuyệt đối tôn trọng và chú ý lắng nghe ý kiến của người hỏi.

- Có nhiều câu hỏi khó, bất ngờ nhưng yêu cầu phải trả lời ngay. Nếu trả lời đúng, chính xác, đáp ứng nhu cầu của công chúng thì rất tốt, uy tín của cán bộ tuyên truyền được đề cao; nhưng ngược lại, nếu trả lời sai, nhất là sai kiến thức cơ bản, phổ thông thì rất nguy hại. Vì vậy, nên thận trọng khi trả lời. Nếu cần, có thể đề nghị người hỏi nhắc lại câu hỏi để có thêm thời gian chuẩn bị phương án trả lời trong đầu.

- Khi trả lời, không chỉ riêng người hỏi nghe mà tất cả mọi người cùng nghe. Do đó, trả lời cũng có yêu cầu cao về nội dung, về cách lập luận, về kỹ năng và phong cách sử dụng ngôn ngữ...

Các kỹ năng cần thiết khi trả lời câu hỏi:

- Trả lời rõ ràng, đúng, trúng yêu cầu của câu hỏi.

- Lập luận có cơ sở khoa học, có căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật lôgíc và phương pháp chứng minh, lời nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ giao tiếp.

- Có thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người ghe tự trả lời câu hỏi của mình thông qua việc tra lời câu hỏi gợi ý của cán bộ tuyên truyền.

- Có thể trả lời ngay hoặc hẹn vào một thời điểm khác (cuối giờ, cuối buổi, hoặc sang ngày khác nếu còn tiếp tục nói chuyện) để có thêm thời gian chuẩn bị trả lời. Nếu xét thấy khó trả lời thì tìm cách nói để người hỏi thoải mái, thông cảm. Không nên trả lời những vấn đề mà thấy mình chưa nắm vững.

- Nếu người nghe đưa ra nhiều câu hỏi quá thì có thể tìm cách hạn chế bớt phạm vi vấn đề của các câu hỏi.

Đối với ít số người (có người nước ngoài) có thái độ châm chọc, đặt những câu hỏi thiếu tế nhị, vu cáo, thăm dò... thì tuỳ trường hợp mà chọn cách trả lời thích hợp.

Nếu do họ thiếu hiểu biết về vấn đề của chúng ta thì cần trả lời, giải thích về vấn đề đó, tuyên truyền để họ hiểu về chúng ta hơn.

Nếu họ hỏi với thái độ châm chọc, khiêu khích, thiếu tế nhị... thì cần lập luận để bác bỏ, đồng thời tiếp tục giải thích để họ và mọi người hiểu đúng về vấn đề. Dù thế nào thì trên diễn đàn phải giữ thái độ điềm tĩnh, có văn hoá, tuyệt đối tránh bị kích động. Thái độ bình tĩnh, lịch sự, tôn trọng tập thể sẽ được sự ủng hộ, đồng tình của số đông trong hội trường.

- Đối với những câu hỏi liên quan đến các lợi ích quốc gia, nếu không có trách nhiệm trả lời thì có thể từc chối hoặc chỉ dẫn người hỏi tìm gặp những người có trách nhiệm để nhận sự trả lời, không tự ý trả lời tuỳ tiện những vấn đề này.

Trả lời câu hỏi trong đối thoại trực tiếp là việc khó, nhưng có hiệu quả cao Do đó, người cán bộ, tuyên truyền phải thường xuyên tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, vươn tới sự hiểu biết đa ngành, sâu sắc về văn hóa chung, có trình độ cao về văn hoá đối thoại.

5. Kỹ năng bao quát và quản lý các hoạt động trong hội trường

- Khi trình bày bài nói, báo cáo viên phải thường xuyên bao quát hội trường, quản lý buổi tuyên truyền miệng, theo dõi người nghe tiếp thu bài nói của mình đến đâu để chủ động điều chỉnh nội dung và phương pháp trình bày. Phải duy trì trật tự trong hội trường vì lợi ích của số đông. Việc quản lý buổi bài tuyên truyền miệng yêu cầu báo cáo viên phải luôn luôn làm chủ mọi tình huống để đảm bảo buổi nói chuyện kết thúc có kết quả.

- Trong quá trình nghe báo cáo, người nghe có thể mệt mỏi do tác động khách quan (thời tiết, tiếng ồn...). Khi phát hiện thấy hiện tượng đó, báo cáo viên cần sử dụng một số thủ thuật để thay đổi không khí trong hội trường, tạo sự chú ý của người nghe như: thay đổi âm điệu, ngữ điệu, dùng các phương tiện trực quan (nếu có), kể các câu chuyện vui và dùng các thủ pháp gây cười, tạo không khí sôi nổi...Thậm chí có thể cho nghỉ giải lao đột xuất nếu có sự cố nào đó.

- Nếu có một bộ phận người nghe thiếu tập trung, báo cáo viên cần nhanh chóng xác định nguyên nhân. Nếu nguyên nhân từ phương pháp trình bày, báo cáo viên phải kịp thời điều chỉnh cách nói. Nếu có biểu hiện không đồng tình, phản ứng với quan điểm của mình, báo cáo viên tìm cách "hoà hoãn" và sau đó tìm hiểu nguyên nhân, nêu vấn đề để người nghe đối thoại, tạo sự đồng thuận.

6. Kỹ năng kết thúc bài nói chuyện

Đây là phần tổng kết bài nói chuyện và toàn bộ buổi tuyên truyền miệng. Yêu cầu đặt ra là phải để lại “dư âm, ấn tượng” của bài nói. Vì vậy, báo cáo viên có thể kết thúc bài nói bằng nhiều cách: hệ thống toàn bộ bài nói một cách ngắn gọn, khái quát hoặc chốt lại những vấn đề cơ bản nhất của nội dung đã truyền đạt. Trên cơ sở đó rút ra kết luận định hướng tư tưởng, kêu gọi, cổ vũ người nghe hành động.

Chú ý, thời điểm này có thể người nghe đặt thêm câu hỏi, báo cáo viên cần căn cứ vào nội dung câu hỏi và quỹ thời gian để trả lời hoặc xin trả lời riêng.

Thông thường, cần kết thúc bài nói chuyện sớm hơn thời gian ấn định khoảng 5-7 phút, tuyệt đối không nên kéo dài, quá giờ, dù chỉ là 1-2 phút sẽ gây ức chế về tâm lý người nghe.

Trước khi rời diễn đàn, báo cáo viên cần cảm ơn người nghe đã theo dõi, cổ vũ; xin lỗi những sơ suất (nếu có), chúc sức khoẻ, tạm biệt và hẹn gặp lại người nghe trong các nội dung tuyên truyền mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tuyên truyền vĩ đại và là tấm gương mẫu mực về công tác tuyên truyền miệng. Người yêu cầu "tất cả cán bộ, đảng viên, hễ những người tiếp xúc với quần chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì vậy, "ai cũng phải học nói, nhất là học nói cho quần chúng hiểu".

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập phong cách tuyên truyền Hồ Chí Minh, người báo cáo viên cần ra sức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, thường xuyên học tập trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, tích luỹ kinh nghiệm thực tế để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng viết và nói, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền được cấp uỷ giao cho.

Trên đây là những kỹ năng cơ bản nhất trong công tác tuyên truyền miệng. Ngoài những kỹ năng này, trong công tác  tuyên truyền miệng còn có các kỹ năng khác, như kỹ năng làm chủ lời nói trong phát biểu, kỹ năng bắt đầu bài nói chuyện, kỹ năng nắm bắt thông tin phản hồi, kỹ năng thảo luận, tranh luận…

Trong công tác tư tưởng, mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi chức trách, nhiệm vụ đều có một trình độ kỹ năng tương ứng. Kỹ năng tuyên truyền miệng, kỹ năng thuyết phục con người là một trong số nhiều kỹ năng cần có của người cán bộ tư tưởng, văn hóa ở bất cứ thời điểm nào, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy các biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bịa đặt bóp méo tình hình, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

Kỹ năng tuyên truyền miệng cùng với kiến thức và kỹ xảo là ba yếu tố hình thành sự thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ của cán bô tuyên truyền. Kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tuyên truyền miệng có quan hệ với nhau. Nắm vững nội dung kiến thức là tiền đề, điều kiện để hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Kỹ năng, kỹ xảo phát triển đến trình độ cao sẽ góp phần củng cố kiến thức, đặt ra yêu cầu nâng cao kiến thức. Thiếu một trong ba yếu tố nói trên hoặc thiếu sự kết hợp giữa chúng trong rèn luyện thì không thể đạt tới sự tinh thông về nghiệp vụ tuyên truyền miệng./.

TS.  Phạm Văn Hiến

 



[1] Theo thống kê, có 43.386 BCV cấp Trung ương, tỉnhhuyện và 179.094 BCV, TTV cơ sở.

[2] BCV cấp Trung ương có tỷ lệ Thường trực (TT) là 16%, Thường vụ (TV) là 22%, Phó Trưởng ban (PTB) là 56%, Trưởng phòng và chuyên viên (TP, CV) là 6%.

BCV cấp tỉnh: TT (6%), TV (17%), PTB (65%), TP, CV (12%).

BCV cấp huyện: TT (8,3%), TV (13,7%), PTB (62,7%), TP, CV (15,3%) ,

TTV cấp xã: TT (9%), TV (11%), PTB (52%), chuyên viên, nhân viên (28%)

Tỷ lệ BCV là nữ: Cấp Trung ương: 10%; cấp tỉnh: 15%; cấp huyện: 11,6%; cấp xã: 26%.

Tỷ lệ BCV người dân tộc thiểu số: Cấp Trung ương: 5%; cấp tỉnh: 15%; cấp huyện: 11,4%; cấp xã: 16%.

Tỷ lệ về độ tuổi của BCV: Cấp Trung ương: từ 31- 45 chiếm tỷ lệ 15%, trên 45 (85%)cấp tỉnh: dưới 30 (3%), từ 31- 45 (36%), trên 45 (61%)cấp huyện: dưới 30 (37,5%), từ 31- 45 (26,5%), trên 45 (35,9%)cấp xã: dưới 30: 9%, từ 31- 45: 41%, trên 45: 50%.

[3]Đội ngũ TTV được hình thành từ sau Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 3/8/1977 của Ban Bí thư về việc tổ chức đội ngũ BCV và TTV của Đảng. BCV cấp xã được thành lập theo Quy chế số 09-QC/TTVH, ngày 17/11/2005 của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương về hoạt động BCV và Quyết định số 518-QĐ/BTGTW, ngày 10/11/2011 về việc ban hành Quy chế hoạt động BCV của Đảng. Đơn vị có số BCV, TTV cao nhất là Hà Nội (14.436 người); đơn vị có số lượng BCV, TTV thấp nhất là Đảng ủy khối cơ quan Trung ương (153 người), Thái Bình (286 người).

[4] Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu DLXH (tháng 9/2016) và kết quả khảo sát của Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáoVề số buổi thực hiện TTM/tháng của một BCV: Cấp Trung ương, có 56% thực hiện từ 1-2 buổi; 31% thực hiện từ 3-4 buổi và 13%  thực hiện buổi trở lênCấp tỉnh, có 68% thực hiện từ 1-2 buổi ; 22% từ 3-4 buổi và 9% từ buổi trở lên. Cấp huyện 81,8% thực hiện từ 1-2 buổi; 11,7% thực hiện từ 3-4 buổi; 4,2% thực hiện 5 kỳ trở lênCấp xãcó 70% thực hiện từ 1-2 buổi; 20% thực hiện 3-4 buổi; 6% thực hiện 5 kỳ trở lên/tháng và 2% không hoạt động.

[5] Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu DLXH (tháng 9/2016) và kết quả khảo sát của Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáoBCV cấp Trung ương đạt mức “Tốt và khá” là 96%; BCV cấp tỉnh đạt mức “Tốt và khá” là 92%; BCV cấp huyện đạt mức “Tốt và khá” là 80%; BCV cấp xã đạt mức “Tốt và khá” là 55%. Trong đó, đạt loại Giỏi” tập trung chủ yếu  BCV cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố; đạt loại “Khá” tập trung ở cấp quận, huyện; đạt “Trung bình” chủ yếu ở cấp xã, phường (36%).

[6] TTV cấp xã: tuổi dưới 30: 9%, từ 31- 45: 41%, trên 45: 50%; Chức vụ Đảng, chính quyền: TT (9%), TV (11%), PTB (52%), chuyên viên, nhân viên (24%)Trình độ học vấn: Đại học trở lên: 38%, Cao đẳng, trung cấp: 32%, Sơ cấp, THPT: 30%; Trình độ lý luận chính trị: c nhân, cao cấp: 10%, Trung cấp 48%, Sơ cấp: 42%. Chất lượng BCV, TTV: Khá giỏi 63%, Trung bình 36%, yếu kém 1%.

[7] BCV cấp tỉnh, tương đương: Hà Nội 360; Thái Nguyên 77, Quảng Ninh 70; Quảng Ngãi 14; Phú Thọ 19. BCV cấp huyện, tương đương (Hà Nội: 1.427; Đảng ủy khối cơ quan Trung ương 122; Hưng Yên: 133).

[8] Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu DLXH, Ban Tuyên giáo Trung ương (tháng 9/2017).

[9] Tại Ninh Bình: 100% Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh, Khối Cơ quan tỉnh đã duy trì và tổ chức có hiệu quả hội nghị BCV cấp huyện và tương đương đnh kỳ 1 lần/tháng. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đã tổ chức cung cấp thông tin thời sự định kỳ 1 tháng/lần, với thời lượng 30-45 phút, lồng ghép vào hội nghị giao ban triển khai nhiệm vụ của đảng ủy. Tại các buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ hàng tháng, chi ủy dành 20-40 phút để thường trực cấp ủy thông báo tình hình thời sự và văn bản, chính sách mới.

Tại Lào Cai: Hội nghị BCV cấp cơ sở được tổ chức định kỳ hng tháng. Tỉnh ủy quy định: Hội nghị BCV cấp tỉnh tổ chức sau Hội nghị BCV Trung ương 5 ngày; cấp huyện tổ chức sau cấp tỉnh 5 ngày và cấp xã tổ chức sau cấp huyện không quá 10 ngày.

[10] Tỉnh Thái Nguyên xây dựng kế hoạch tổ chức hội nghị BCV luân phiên giữa các huyện, thị, cơ quan đoàn thể trong tỉnh ở hầu hết các kỳ hội nghị ngay từ đầu năm. TP. Hà Nội, Sơn La, Nam Định, Kiên Giang, Thanh Hóa… duy trì hình thức tổ chức hội nghị BCV luân phiên từ nhiều năm nay, với nhiều cách làm sáng tạo, phù hợp điều kiện của địa phương. 

[11] Tổ chức nhiều hội thi BCV giỏi về tuyên truyền nghị quyết đại hội đảng các cấp: Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa, TP. Hà Nội, Tuyên Quang,Vĩnh Long, Quảng Nam, Bình Định, TP. Hồ Chí Minh...

[12] Đồng Nai, Ninh Bình, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Quân đội, Công an, Hải Dương, TP. Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang

[13] Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo đã phối hợp Ban Tuyên giáo các ủy, thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương để tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ TTM: Hà Nội, Phú Thọ, Sơn La, Nam Định, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Thuận, Đăk Lăk, Gia Lai, Hậu Giang, Cà Mau, Bộ Công an, Học viện CTQGHCM...

[14] Các ấn phẩm, tài liệu: Tạp chí BCV; Thông tin chuyên đề; Sổ tay BCV; bản tin Thông báo nội bộ...  (nội dung cũng bảo đảm tính cân đối như Hi nghị BCV).

[15] Công tác tập huấn bồi dưỡng: Sau mỗi kỳ đại hội đảng các cấp và theo nhu cầu của các địa phương, đơn vị, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tổ chức các đợt tập huấn về nghiệp vụ TTM cho các đồng chí BCV. Nội dung tập huấn thiết thực, sát thực tiễn, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp của đội ngũ BCV, TTV và cán bộ làm công tác tuyên giáo ở các cấp uỷ đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Riêng sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho 328 đồng chí lãnh đạo Ban tuyên giáo cấp tỉnh. Việc tổ chức các lớp tập huấn đảm bảo đúng hướng dẫn, quy trình, quy chế và thời gian quy định; bảo đảm chặt chẽ, chu đáo, tiết kiệm, hiệu quả.

[16] Kết quả khảo sát của Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy, một số tỉnh chưa duy trì đủ 12 hội nghị/năm; Hội nghị BCV cấp huyện, thị xã còn nhiều bất cập: Có đơn vị giao cho Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện chủ trì; nhiều huyện 3 tháng tổ chức 01 kỳ, cá biệt có huyện 6 tháng, 9 tháng tổ chức 01 kỳ; chương trình Hội nghị cấp huyện nhiều đơn vị không có nội dung định hướng công tác tuyên truyền; thông tin thời sự không đảm bảo được tính thống nhất từ Trung ương tới địa phương; chất lượng thông tin hạn chế.

[17] Tỉnh Bắc Ninh, Tiền Giang đu tư trang thiết bị cho tất cả các xã trong tỉnh: phòng họp, máy chiếu, màn hình rộng, âm thanh... phục vụ Hội nghị BCV trực tuyến.

Tỉnh Đồng Nai trang bị phương tiện tổ chức hội nghị BCV đến hầu hết các huyện, một số nơi trang bị đến cấp xã. Tỉnh Gia Lai trang bị cơ sở vật chất để thường xuyên tổ chức hội nghị BCV trực tuyến đến cấp huyện.

[18] Cấp Trung ương chi trả 6 tháng/1 kỳ; cấp tỉnh, cấp huyện chi trả 03 tháng/kỳ.

[19] Tỉnh Thanh Hóa: hỗ trợ tiền đi lại cho đại biểu dự hội nghị báo cáo viên 30.000đ - 50.000đ/buổi. Huyện Như Thanh (Thanh Hóa) trích ngân sách chi trả chế độ phụ cấp 0,2% lương cơ bản cho 10 BCV do huyện bổ sung tăng thêm ngoài quy định. Huyện Mường La, (tỉnh Sơn La) chi trả thù lao mức 500.000đ/buổi cho BCV cấp huyện, 1.000.000đ/buổi cho BCV cấp tỉnh.

[20] Một số huyện tại tỉnh Lai Châu, Quảng Nam... thực hiện hỗ trợ, chi tiền xăng xe cho đội ngũ BCV, TTV cấp xã.

[21] Báo cáo Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu DLXH, Ban Tuyên giáo Trung ương (tháng 10/2017) cho thấy, nguồn thông tin chủ yếu mà cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thường tiếp nhận từ các phương tiện truyền thông đại chúng (báo, đài truyền thanh, đài truyền hình), chiếm 79%; mạng internet (báo điện tử hoặc các trang web, mạng xã hội), chiếm 66%; thông tin từ TTM chiếm từ 37% đến 62%. Tuy nhiên, mức độ “rất tin tưởng” của người dân vào loại hình TTM lại cao nhất: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị (83%); Bí thư Chi bộ Đảng (cơ quan, tổ dân phố) (82%); Hội nghị tuyên truyền vận động do xã/thị trấn tổ chức (70%). Trong khi đó, chỉ có (15%) người dân “rất tin tưởng” những thông tin từ mạng internet (báo điện tử hoặc các trang web, mạng xã hội) và có tới 72% người dân “tin có mức độ vào loại hình thông tin này.

[22] Kinh nghiệm hầu hết các tỉnh sử dụng đội ngũ BCV cấp huyện làm nhiệm vụ ở cấp xã, có nơi cơ cấu đồng chí bí thư đảng ủy cấp xã là BCV cấp huyện. Kinh nghiệm tại thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã giao nhiệm vụ các đồng chí đảng ủy viên cấp xã là BCV, TTV cấp thôn, bản.

[23] Tiêu chí về nhận thức: Mức độ đánh giá sự hài lòng của người thụ hưởng thông tin về độ hấp dẫn, mức cập nhật, tính toàn diện của nội dung tuyên truyền; về tính khoa học, sự phong phú và sinh động trong phương pháp tuyên truyền.

Tiêu chí về thái độBiểu hiện mức độ quan tâm của đối tượng tuyên truyền đối với các vấn đề, sự kiện (quan tâm hay thờ ơ); phản ứng tích cực hay tiêu cực về những thông tin mà BCV tuyền đạt (tuyệt đối tin tưởng, tin có mức độ; đồng tình hay chưa đồng tình).

Tiêu chí về hành viMức độ thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị của cá nhân và tập thể.

[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001, tập 11, tr 128.

[25] Hồ Chí Minh: Về công tác tư tưởng, Nxb, Sự Thật, Hà Nội, 1985, trang 189.

Nguồn sưu tầm.

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn