Sách VĂN HÓA RAGLAI


Tác giả: Phan Quốc Anh. Nxb Khoa học xã hội 2010. Trích dẫn theo đúng quy địnhMỞ ĐẦUĐặt vấn đề: Raglai là một tộc người thiểu số sinh sống ở sườn đông cuối dãy Trường Sơn các tỉnh cực Nam Trung bộ gồm các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Người Raglai cư trú đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (trên 50%). Địa bàn cư trú của người Raglai là vùng khu VI anh hùng. 


Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân Raglai đã sát cánh cùng các dân tộc anh em tham gia tích cực và có những đóng góp vô cùng to lớn vào thắng lợi của cả nước. Vùng cư trú của tộc người Raglai là vùng khô nóng, khí hậu khắc nghiệt, ít mưa, thừa nắng nên đời sống kinh tế của bà con còn gặp nhiều khó khăn. Nếu chỉ nhìn về mặt hình thức từ trang phục, nhà cửa, nương rẫy, làng bản v.v...rất dễ ngộ nhận rằng văn hóa truyền thống của tộc người Raglai hoặc nghèo nàn, hoặc đã bị mai một, hòa tan với văn hóa dân tộc khác quá nhiều, không còn gì để nghiên cứu và không mấy hấp dẫn các nhà nhân học. Cũng có lẽ vì vậy nên trong hai dân tộc có dân tộc khá đông ở vùng văn hóa này, văn hóa tộc người Chăm luôn được quan tâm nghiên cứu với hàng chục nghìn công trình, bài viết, trong khi những công trình, bài viết về văn hóa Raglai có thể đếm trên đầu ngón tay. Nhưng qua thực hiện công trình này, chúng tôi thấy rằng, về chiều sâu văn hóa, tộc người Raglai đang lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, là kho tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu văn hóa các tộc người trong nhóm ngôn ngữ Nam đảo nói riêng và các tộc người Đông Nam Á nói chung. Có những giá trị văn hóa, về hình thức có thể biến thiên, nhưng về chiều sâu nội dung tương đối bền vững.


Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, quá trình đô thị hoá nhanh với việc xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, định canh, định cư, quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa v.v… đang đẩy nhanh tiến độ biến đổi toàn diện cả về hình thức lẫn nội dung văn hóa truyền thống. Đối với tộc người Raglai cũng vậy, những giá trị văn hóa được vun đắp từ nghìn đời nay, tưởng chừng như bền vững nhất đang trong giai đoạn có tốc độ mai một nhanh chóng nhất. Trong đó có những giá trị đang dần dần biến mất hẳn, không bao giờ có thể lấy lại được nữa.
Vì vậy, việc điều tra thực trạng các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng tộc người Raglai là vấn đề cấp thiết, đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nắm bắt những số liệu cụ thể về từng lĩnh vực để có chính sách nghiên cứu, bảo tồn và phát huy.
Với chủ trương đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhận thấy, đồng hành với sự phát triển là sự mai một văn hóa truyền thống. Vì vậy Chính phủ đã có chương trình “Bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam”. Để triển khai chương trình đó, Bộ VHTT và một số địa phương đã tiến hành thực hiện các đề tài điều tra thực trạng văn hóa các dân tộc. Ninh Thuận là tỉnh đa dân tộc, trong đó có 2 dân tộc có số dân đông nhất nước và đang lưu giữ kho tàng di sản văn hóa phong phú là dân tộc Chăm và dân tộc Raglai. Trong đó, với nhiều nguyên nhân, tốc độ mai một của văn hóa Raglai đang diễn ra rất nhanh chóng. Vì lẽ đó, việc điều tra, thống kê cái gì đã mất, cái gì còn lại, còn lại bao nhiêu là việc làm cần thiết và cấp bách.
Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể do tộc người Raglai cư trú ở vùng núi cao, điều kiện giao thông, đi lại trước đây rất khó khăn nên so với các tộc người khác nên văn hóa tộc người Raglai ít được các nhà khoa học quan tâm đầu tư nghiên cứu. Cho đến nay mới chỉ có một số bài viết và một số công trình nghiên cứu về tộc người Raglai của Mag Mod, Nguyễn Tuấn Triết, Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp v.v…nhưng mới chỉ mang tính chất nhận diện, giới thiệu. Năm 1991, Nguyễn Tuấn Triết xuất bản cuốn “Người Raglai ở Việt Nam”[1]; Năm 1998, các tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện, Nguyễn Văn Huệ ở Viện KHXH tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản công trình “Văn hóa & Xã hội người Raglai ở Việt Nam”[2]; Năm 2001, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hải Liên xuất bản cuốn “Trang phục cổ truyền Raglai”[3]; Năm 2003, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia dưới sự chủ biên của GS.TS Phan Đăng Nhật đã cho xuất bản công trình Luật tục Chăm và Luật tục Raglai[4]. Ngoài ra có một số bài viết rải rác đăng trên các tạp chí khoa học. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về tộc người Raglai chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu khái quát các lĩnh vực chung, chưa có những công trình chuyên sâu và chưa có tính chất điều tra, kiểm kê kho tàng văn hóa phi vật thể dân tộc Raglai, để từ đó hoạch định kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn và phát huy kho tàng văn hóa truyền thống của tộc người này.
Những năm gần đây, trong chương trình sưu tầm, biên dịch xuất bản sử thi các dân tộc Tây Nguyên, có một số sử thi Raglai đã và đang chuẩn bị xuất bản. Đây là những tư liệu quý giá để các nhà khoa học ngược dòng quá khứ đi tìm những nét văn hóa truyền thống của người Raglai. Hy vọng rằng, hàng nghìn trang sử thi Raglai sắp được biên dịch, xuất bản sẽ là kho tư liệu về quý giá về văn hóa truyền thống của người Raglai.
Từ lịch sử vấn đề nghiên cứu nêu trên, trong công trình này một mặt chúng tôi không đề cập đến những lĩnh vực đã có các tác giả nghiên cứu như: Trang phục truyền thống, luật tục, mặt khác cũng kế thừa có chọn lọc những thành tựu của những nghiên cứu đã có.
Phương pháp nghiên cứu
Với tên gọi: “Văn hóa Raglai, những gì còn lại”, đây là công trình điều tra, kiểm kê, đánh giá một cách toàn diện về những gì đã có, đang có, đã mất của kho tàng văn hóa truyền thống tộc người Raglai. Với sự mong muốn đạt kết quả tốt, chúng tôi tập hợp những nhà nghiên cứu tâm huyết với văn hóa truyền thống tộc người Raglai ở địa phương đi điền dã, sưu tầm tư liệu như Nguyễn Hải Liên, Đình Hy, Sử Văn Ngọc, Thập Liên Trưởng, Văn Món, Lê Xuân Lợi, Nguyễn Tuấn Triết, Phú Văn Hẳn. Công trình này sử dụng phương pháp điền dã, điều tra, kiểm kê toàn diện ở tất cả 14 xã, 78 thôn có người Raglai sinh sống trên toàn tỉnh Ninh Thuận , kết hợp với phương pháp thống kê, chuyên khảo, đối chiếu, so sánh.
Tính chất của công trình này chỉ như là một sụ điều tra, thống kê kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận, tỉnh có số người Raglai đang sinh sống đông nhất nước. Bên cạnh đó, công trình cũng đi sâu một số lĩnh vực trong kho tàng văn hóa truyền thống mà chưa có công trình nào đề cập đến.
Tính chất của công trình này chỉ như là một sụ điều tra, thống kê kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận, tỉnh có số người Raglai đang sinh sống đông nhất nước. Bên cạnh đó, công trình cũng đi sâu phân tích một số lĩnh vực trong kho tàng văn hóa truyền thống mà chưa có công trình nào đề cập đến.
Về phiên âm và sử dụng ký tự. Đây là một vấn đề khá phức tạp vì xưa nay người Raglai chưa có chữ viết. Năm 1996, Hội đồng khoa học tỉnh Khánh Hòa nghiệm thu đề tài “sưu tầm, nghiên cứu xây dựng chữ viết tiếng Raglai” do Trần Vũ, Chamaleq Tiếng và Nguyễn Thế Sang thực hiện. Từ năm 2000 đến năm 2004, Sở Khoa học công nghệ tỉnh Ninh Thuận đã hợp đồng với Viện Ngôn ngữ học tiến hành công trình khoa học xây dựng chữ viết Raglai và sách dạy chữ viết Raglai. Tuy nhiên, cả hai công trình đều chưa xây dựng được từ điển Raglai mà mới chỉ dừng lại ở vài nghìn từ thông dụng. Vì vậy, trong công trình này, chúng tôi chủ yếu sử dụng ký tự Raglai theo công trình của Viện ngôn ngữ, kết hợp với một số ký tự của công trình chữ viết Raglai tỉnh Khánh Hòa.
Mục đích công trình
Mục đích của công trình này là tổng điều tra, kiểm kê một số lĩnh vực di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai ở tỉnh Ninh Thuận, làm căn cứ khoa học để xây dựng kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của người Raglai; Xây dựng cơ sở dữ liệu làm căn cứ để các cơ quan Đảng, các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan chức năng hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội vùng đồng bào Raglai.
Kết quả nghiên cứu là một bản kiểm kê tư liệu thực tế, đánh giá thực trạng văn hóa truyền thống dân tộc Raglai ở Ninh Thuận, còn gì, mất gì? xu thế, khả năng triển vọng về số phận các giá trị văn hóa phi vật thể Raglai trong quá trình hội nhập và đô thị hoá hiện nay. Từ đó có những đề xuất cho các ngành chức năng kế hoạch nghiên cứu tiếp theo, cần nghiên cứu đề tài nào trước, đề tài nào sau? Trong thời gian bao lâu?
Nội dung công trình
Nội dung chủ yếu của công trình này là tổng hợp kết quả điều tra, kiểm kê, thống kê, lên danh mục các loại hình văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Tổng hợp, phân loại các nhóm tư liệu văn hóa truyền thống để từ đó đề xuất kế hoạch cấp bách, ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong chương trình bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của tộc người Raglai, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nghiên cứu, xuất bản và phổ biến những tư liệu về các lĩnh vực văn hóa truyền thống dân tộc Raglai.




[1] Nguyễn Tuấn Triết, Người Raglai ở Việt Nam, Nxb KHXH, 1991.
[2] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ, Văn hóa Xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1998.
[3] Hải Liên, Trang phục cổ truyền Raglai, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
[4] Luật tục Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2003.
Phần thứ nhất
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Chương I

            NGƯỜI RAGLAI Ở NINH THUẬN

1. Sơ lược về quá trình tộc người
 Raglai là một trong năm tộc người thuộc ngữ hệ Malayo - Polinésien (Nam đảo) ở Việt Nam. Tên tộc người này được các tài liệu phiên âm và dùng các ký tự khác nhau như: Raglai, Radlai, Oranglai, Roglai, Rắclây.v.v… Người Raglai cư trú ở vùng núi cao, dọc triền đông cuối dãy Trường Sơn ở các tỉnh cực nam Trung bộ. Điều kiện giao thông, đi lại vùng này rất khó khăn nên văn hóa truyền thống của người Raglai chưa được nghiên cứu nhiều. Người Raglai lại chưa có chữ viết nên tư liệu thành văn cổ hầu như không có. Những tài liệu nghiên cứu về văn hóa Raglai của các nhà khoa học trong và ngoài nước rất ít, có thể nói là ít nhất trong 5 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinésien ở Việt Nam[1].
Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất nguồn gốc tộc người của các cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinésien ở Việt Nam (Chăm, Raglai, Chu Ru, Êđê, Giarai). Có hai luận thuyết đáng chú ý. Một luận thuyết cho rằng các tộc người này đều có nguồn gốc hải đảo Đông Nam Á  (những giả thuyết này dùng những căn cứ như: hình thuyền trên kagor nhà mồ trong lễ bỏ mả, lễ ăn trâu và một số tư liệu chứng minh họ có nguồn gốc văn hóa biển)[2]. Các nhà khoa học Nga cũng cho rằng các dân tộc Nam đảo di cư từ các đảo vùng biển nam Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Luận thuyết thứ hai cho rằng các dân tộc đều di cư theo đường bộ từ nam Trung Quốc, qua Việt Nam, Lào rồi từ đó di cư ra hải đảo. Gần đây, có ý kiến cho rằng, do trước đây các đảo Đông Nam Á  đều “dính” với đất liền, các dân tộc Đông Nam Á  đều ở đất liền. Qua quá trình tạo sơn, các hải đảo “tách” ra, trôi xa dần đất liền. Một bộ phận dân cư “trôi” theo, trở thành các cư dân hải đảo ngày nay. Tóm lại, lịch sử quá trình tộc người của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo - Polinésienở Việt Nam (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê đê, Giarai) vẫn mới chỉ dừng lại ở một vài giả thuyết. Nhưng rõ ràng, các dân tộc trong một nhóm ngôn ngữ (có thể không phải cùng một nguồn gốc chủng tộc) nhưng chắc chắn phải có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong lịch sử tồn tại và phát triển. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa người Raglai với người Chăm, người Churu, Rai, Giarai, Ê đê.
Trong mối quan hệ lịch sử tộc người của người Raglai ở Ninh Thuận và Bình Thuận, đáng chú ý là mối quan hệ giữa người Raglai với người Churu và người Chăm.
Mối quan hệ với người Churu: Người Raglai ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều cho rằng, trước kia, người Raglai chỉ cư trú ở vùng phía tây nam Khánh Hoà, sau đó di cư dần về phía nam. Địa bàn ngày nay người Raglai đang sinh sống ở Ninh Thuận và Bình thuận là địa bàn cư trú trước đây của người Churu. Vì vậy, giữa văn hóa người Raglai và người Churu có nhiều nét tương đồng.
Mối quan hệ với người Chăm: Hiện nay đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về mối quan hệ Chăm – Raglai. Trong phần Mở đầu của công trình “Luật tục Chăm và luật tục Raglai”, nhóm biên soạn cũng đã phân tích khá sâu, khá dài về các ý kiến khác nhau về mối quan hệ này. Chung quy lại là có hai quan điểm chính. Một là quan điểm của Nguyễn Tuấn Triết trong công trình người Raglai ở Việt Nam, theo đó, “Người Raglai và người Chăm có mối quan hệ gần gũi, cùng nhóm ngữ hệ, nhưng phát triển độc lập với nhau”[3]. Hai là quan điểm của nhóm tác giả trong công trình “Văn hóa xã hội người Raglai ở Việt Nam”, cho rằng người Raglai và người Chăm có mối quan hệ gần gũi nhất, gắn bó hữu cơ, lâu dài, toàn diện, ở vị trí tiếp nối và có quan hệ hai chiều. Người Raglai là một tộc người trong thành phần cư dân của Chămpa cổ đại...”[4]. Các tác giả của công trình này đã chứng minh luận điểm của mình bằng khối lượng các tư liệu văn hóa truyền thống như tục ngữ, thơ ca, phong tục tập quán, lễ hội, ngôn ngữ, nông nghiệp, thủy lợi, chăn nuôi.
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, các dân tộc trong cùng nhóm ngữ hệ thường có cùng nguồn gốc tộc người. Thực ra, theo chúng tôi, ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh nhỏ trong nghiên cứu nguồn gốc tộc người. Bởi vì, ngôn ngữ vẫn là cái có rất muộn trong quá trình hình thành các tộc người. Hai tộc người sống cận cư, cộng cư sẽ phải ảnh hưởng ngôn ngữ lẫn nhau và thường là ngôn ngữ tộc người đa số (chủ thể) sẽ là ngôn ngữ được sử dụng nhiều hơn, dần dần lấn át và làm mất đi ngôn ngữ của dân tộc thiểu số hơn.
Theo một số nhà nghiên cứu, vương quốc và những tiểu quốc Chăm Pa xưa có những thời kỳ là quốc gia thống nhất đa dân tộc, bao gồm một số các dân tộc sống ở vùng núi phía tây[5]. Nếu vậy, tất yếu có sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá lẫn nhau. Hơn nữa, giữa người Chăm và người Raglai vốn là một dân tộc cùng ngữ hệ, có rất nhiều nét tương đồng về văn hoá, thậm chí về các nguồn gốc của các giả thuyết tô tem giáo với thị tộc Cau (Pi năng) và thị tộc Dừa (Li - u) của người Chăm liên quan đến tộc họ còn lưu giữ đến hôm nay ở người Raglai. Hàng năm, vào dịp lễ hội Katê, người Chăm vẫn mang cờ hoa võng lọng lên vùng rừng núi của người Raglai làm lễ đón nhận y trang của các vị vua - thần Chăm về các đền tháp Chăm tế lễ. Trong kho tàng văn hoá dân gian Chăm có nhiều tư liệu nói đến mối quan hệ Chăm - Raglai, đều cho rằng Chăm với “Raglai là anh em, Raglai là con út của vua". Người Chăm còn gọi người Raglai là “Chăm núi". Người Chăm và người Raglai được coi như là anh/chị em của nhau: “Chap sa ai Raglai adơi” (Chăm là chị, Raglai là em) hay “Chap ai Raglai adơi” (Chăm là anh, Raglai là em). Người Raglai ở Phước Hà ngày nay vẫn giữ y trang của Pô Inư Nưgar, người Raglai ở Tà Dương vẫn giữ y trang của Pô Klongirai và cứ mỗi năm đến lễ hội Ka tê, người Chăm phải cho người lên rước về để làm lễ. Với quan niệm rằng người Raglai là “em út”, theo chế độ mẫu hệ thì người em út là người thừa kế, nuôi dưỡng cha mẹ và giữ “chiết a tâu”[6] của tộc họ, gia đình. Nếu giả thuyết này là đúng (Raglai và Chăm có chung nguồn gốc tộc người), sẽ phải xem xét lại định hướng nghiên cứu văn hoá cổ đại Chăm Pa, bởi ngoài giả thuyết là chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh, người Chăm còn có một bộ phận dân tộc gốc rễ đang lưu giữ lớp văn hoá cổ đại Chăm, không chịu ảnh hưởng của các tôn giáo Ấn Độ. Phải chăng đó là văn hoá “phi Hoa, phi Ấn” còn dáng dấp văn hoá nguyên thuỷ mà chúng ta gọi là văn hoá truyền thống của người Raglai hôm nay?
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, hiện nay đang tồn tại hai cách phân vùng văn hóa Raglai như sau:
Cách phân vùng thứ nhất chủ yếu dựa theo địa giới hành chính: Nhóm Raglai bắc có nhiều nét khác biệt là nhóm Raglai ở hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh ở tỉnh Khánh Hòa, nhóm Raglai nam là nhóm Raglai còn lại ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Đây là cách phân vùng của một số tác giả nghiên cứu về tộc người Raglai như J. Shrock, V. Cobbey, L. Lee. Mở đầu là cuốn sách viết về các dân tộc ít người ở miền nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1966, đã chia tộc người Raglai làm hai nhóm: Raglai bắc và Raglai nam, nhưng sự phân biệt ấy chỉ có ý nghĩa về mặt địa lý đơn thuần.
Cách phân vùng thứ hai là cách phân vùng theo độ đậm nhạt của văn hóa truyền thống. Cách phân vùng này lấy Quốc lộ 27 làm ranh giới. Từ phía bắc quốc lộ 27 trở ra Khánh Hòa là nhóm Raglai bắc bao gồm bà con Raglai ở 2 huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa và các huyện Thuận Bắc, Bác Ái ở Ninh Thuận. Từ phía nam Quốc Lộ 27 trở vào đến Bình Thuận là nhóm Raglai nam bao gồm bà con Raglai ở các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước của tỉnh Ninh Thuận, ở huyện Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc của tỉnh Bình Thuận, một số làng Raglai ở Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng[7].
Theo chúng tôi, cách phân vùng thứ hai là hợp lý hơn cả. Bởi vì qua quá trình điều tra nghiên cứu cho thấy, văn hoá truyền thống của người Raglai ở khu vực phía bắc (lấy quốc lộ 27 làm mốc phân chia), so với văn hoá truyền thống của người Raglai khu vực phía nam, ngoài những nét tương đồng chung, cũng có những sự biến đổi dẫn đến mức độ đậm nhạt và sự khác biệt tương đối rõ nét. Tuy nhiên, sự phân chia ấy cũng chỉ là một sự quy ước. Ngay trong một tiểu vùng, một huyện hay một xã, cũng đã có những nhiều nét tương đồng và dị biệt về văn hóa truyền thống rồi. Những tương đồng và dị biệt ấy thể hiện từ ngôn ngữ, các làn điệu dân ca, truyện cổ, sử thi cho đến phong tục tập quán, sự biến đổi họ, tên v.v…
2. Dân số, địa bàn cư trú
Dân tộc Raglai cư trú khá tập trung, sinh sống tương đối độc lập ở các triền núi phía tây thuộc 3 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và ở huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng, trong đó tập trung đông nhất là ở tỉnh Ninh Thuận (trên 50%). Sự biến đổi qua các đợt điều tra dân số như sau:
Số liệu điều tra dân số năm 1979: 57.484 người
Số liệu điều tra dân số năm 1989: 71.696 người
Số liệu điều tra dân số năm 1995: 72.365 người
Theo số liệu của nhóm tác giả công trình “Văn hóa xã hội của người Raglai ở Việt Nam” xuất bản năm 1998 thì dân số Raglai có 84.716 người phân bổ như sau:
- Ở Khánh Hoà có 29.750 người ((Khánh Vĩnh 10.190 người, Khánh Sơn 10.104 người, Cam Ranh 7.381 người, Diên Khánh 1.491 người, Ninh Hoà 690 người).
- Ở Bình Thuận có khoảng 9.560 người, sinh sống ở các huyện Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình
- Ở Lâm Đồng có gần 1.000 người Raglai, tập trung ở xá Bảo Thuận, huyện Di linh.
- Ở Ninh Thuận có 44.406 người, trong đó tập trung ở huyện Ninh Sơn (bao gồm cả huyện Bác ái ngày nay) là 24.574 người, huyện Ninh Hải là 16.215 người.
Kết quả điều tra dân số Raglai do nhóm thực hiện công trình này năm 2003, ở Ninh Thuận có 50.381 người, cư trú ở 78 thôn trên 24 xã thuộc 4 huyện trong tỉnh Ninh Thuận, được phân bố như sau:
- Huyện Bác Ái: 17.572 người Raglai, cư trú ở 9 xã, 33 thôn
- Huyện Ninh Sơn:  9.901 người Raglai, cư trú ở 6 xã, 15 thôn
- Huyện Ninh Hải: 18.760 người Raglai, cư trú ở 6 xã, 22 thôn
- Huyện Ninh Phước: 4.148 người, cư trú ở 3 xã, 8 thôn
Toàn tỉnh: 57.442 người. Cụ thể như sau:
Bảng biểu A1. Dân số Raglai toàn tỉnh Ninh Thuận
Bảng biểu A2: Dân số Raglai ở Huyện Bác Ái[8]
Bảng biểu A3: Dân số các thôn Raglai ở Huyện Ninh Sơn
Bảng biểu A4: Dân số Raglai ở Huyện Ninh Hải
Bảng biểu A5: Dân số Raglai ở Huyện Ninh Phước
Như vậy, nếu so sánh với số liệu 44.406 người năm 1995 với số liệu 50.381 người năm 2003, ta thấy qua 8 năm (1995 - 2003), dân số Raglai ở Ninh Thuận tăng 5.975 người, bằng 13% (trong 8 năm), tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,6%/năm.
3. Vài nét về văn hóa truyền thống
Người Raglai mang đầy đủ trên mình những yếu tố văn hoá truyền thống của các dân tộc trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo. Do cư trú trên miền rẻo cao, giao thông đi lại khó khăn nên văn hoá Raglai chưa được nghiên cứu nhiều, tư liệu về văn hoá truyền thống rất ít so với các dân tộc cùng ngữ hệ. Cũng bởi cư trú ở phía đông vùng rừng núi nam dãy Trường Sơn, qua bước đầu tìm hiểu văn hoá truyền thống, nhất là nghiên cứu kho tàng chuyện cổ, chuyện kể, sử thi, các phong tục tập quán như lễ bỏ mả, lễ ăn đầu lúa, quan niệm về vũ trụ, thần linh, hệ thống nhạc cụ v.v… chúng tôi thấy có đủ căn cứ để xếp dân tộc Raglai vào khu vực các dân tộc Nam Tây Nguyên. Bởi từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên mới chỉ tập trung nghiên cứu các dân tộc ít người như Ba Na, Ê Đê, Gia rai v.v…ở Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Nông.
Là một dân tộc ở miền rừng núi, sống du canh du cư với nền kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp, cũng như các dân tộc thiểu số vùng cao khác, người Raglai từ bao đời nay đã hình thành nên cho mình một nền văn hoá riêng gắn với điều kiện môi sinh của cư dân nông nghiệp nương rẫy Nam Trung Bộ. Nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, người Raglai vẫn mang trên mình những tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước (biểu hiện qua hệ thống nghi lễ cầu mùa, lễ ăn đầu lúa, lễ mừng lúa mới và các phong tục tập quán khác) những tàn tích của cư dân hải đảo (như hình kagor trong lễ bỏ mả). Người Raglai cũng đã giao lưu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc khác, đặc biệt là mối quan hệ tộc người và văn hoá tộc người giữa người Chăm và người Raglai hiện nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.
4. Sự giao lưu, biến đổi văn hóa
4.1. Sự giao lưu văn hoá trong thời kỳ chiến tranh cách mạng.
Địa bàn rừng núi nơi người Raglai cư trú chính là chiến khu kháng chiến (khu VI) của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Dân tộc Raglai đã từng sản sinh ra những người con anh hùng lực lượng vũ trang như: Pi Năng Tắc, Pi Năng Thạnh, Chamaleq Châu và hàng chục bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hàng trăm thương binh liệt sỹ đã hy sinh cho công cuộc kháng chiến. Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ, người Raglai đã đồng cam cộng khổ với đội ngũ cán bộ kháng chiến của Khu VI anh hùng, góp phần to lớn vào sự thành công thắng lợi giải phóng đất nước. Trong giai đoạn này, văn hoá kháng chiến với phong trào chống mê tín dị đoan, chống những phong tục cúng kính bị coi là lạc hậu lên cao, người Raglai cũng đã bỏ đi một số lễ hội và một số phong tục cúng kính. Lúc bấy giờ, phong trào văn nghệ quần chúng được các đơn vị kháng chiến triển khai, bên cạnh những tiết mục mang màu sắc văn hoá truyền thống Raglai, xuất hiện rất nhiều những lời ca điệu múa mang từ những vùng quê xa xôi vào. Cho đến hôm nay, khi đi sưu tầm văn nghệ dân gian Raglai, chúng tôi vẫn được xem rất nhiều những điệu múa kháng chiến mang từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa vào như “Vui sản xuất”, “Vui mùa gặt”, múa “Gậy tiền” của các dân tộc ít người miền núi phía bắc, những bài hát như “Đường cày đảm đang”, “Chắc tay súng, vững tay cày” và một số làm điệu dân ca các dân tộc miền núi phía bắc v.v…đã ăn sâu trong tiềm thức người Raglai. Bên cạnh đó, hầu hết đồng bào Raglai đã quên trang phục truyền thống của mình. Trang phục phụ nữ Raglai hiện nay ảnh hưởng của trang phục phụ nữ Chăm như váy, khăn thổ cẩm. Đối với đàn ông thì mặc trang phục của người Kinh, quấn khăn Chăm, đa số là trang phục bộ đội cũ. Các cơ quan chức năng như Sở Văn hóa thông tin, Hội Văn nghệ dân gian, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số mở ra các hội thảo, xây dựng các công trình nghiên cứu trang phục Raglai và phục hồi một số trang phục nhưng xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
4.2. Sự giao lưu, biến đổi trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau ngày giải phóng, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách văn hóa dân tộc, nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến. Nhưng cho đến nay, do điều kiện địa lý, khí hậu khắc nghiệt và với nhiều nguyên nhân khác, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của người Raglai vẫn còn gặp những khó khăn nhất định.
Năm 2005, cơ sở hạ tầng vùng đồng bào Raglai cư trú đã cơ bản hoàn thiện, 100% các xã có người Raglai sinh sống đã có đầy đủ cơ sở điện, đường, trường trạm, hầu hết đã phủ sóng phát thanh truyền hình, đã cơ bản hoàn thành chương trình định canh định cư cho toàn bộ vùng đồng bào Raglai. Nhà nước và chính quyền địa phương thực hiện rất nhiều những chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của bà con Raglai ngày càng được cải thiện rõ rệt. Huyện mới Bác Ái mới được tái lập đầu năm 2001, toàn huyện có 9 xã với trên 95% là người dân tộc Raglai, sống theo từng palơi rải rác dọc theo con đường quốc lộ 27B được xây dựng. Năm 2005, Nhà nước đầu tư những công trình thủy lợi lớn ở vùng đồng bào Raglai như công trình hồ thủy lợi Sông Trâu ở xã Phước Chiến, huyện Ninh Hải, hồ thủy lợi Sông Sắt ở xã Phước Thành, Phước Thắng, huyện Bác Ái với dung tích hàng trăm triệu m3. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng cao Ninh Thuận. Nhưng bên cạnh đó, ở đây cũng đang diễn ra quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh. Người Raglai nhanh chóng tiếp thu những yếu tố văn hoá mới đang ồ ạt đến và dần xa rời yếu tố văn hóa cổ truyền. Những người làm công tác văn hoá cần có nghĩa vụ sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, níu kéo lại sự ra đi của những giá trị văn hoá truyền thống quý giá được hình thành từ ngàn đời nay của người Raglai.
4.3. Nguy cơ mai một văn hoá truyền thống tộc người Raglai trong quá trình hoà nhập, phát triển
4.3.1. Sự biến đổi xã hội từ việc thay đổi môi trường sống
Quá trình phát triển, hoà nhập, đô thị hoá đã đưa rất nhiều những yếu tố, thành tố văn hóa mới vào và trực tiếp làm biến đổi văn hoá tộc người Raglai. Đó là các yếu tố: chính sách định canh định cư đưa bà con về các khu “phố núi” với những dãy nhà xây trệt, với cơ sở hạ tầng được xây dựng hiện đại: điện, nước sạch nông thôn (nước tự chảy), trường học, trạm xá, bưu điện văn hoá xã, hệ thống truyền thanh, hệ thống nghe nhìn với nhiều chương trình truyền hình phong phú, trong đó có những chương trình phát thanh truyền hình bằng tiếng Raglai; đường quốc lộ chạy qua hứa hẹn sự phát triển kinh tế thương mại và du lịch. Nhiều chương trình kinh tế đã được triển khai, phát sinh thêm nghề chăn nuôi bò, dê, tập canh tác trên ruộng lúa nước, các chương trình mục tiêu ưu đãi từ chính sách dân tộc miền núi của Đảng và Nhà nước v.v…
Sau khi định canh định cư, đưa bà con đến khu vực cư trú và canh tác mới lạ, (từ làng trên núi trở thành làng ven núi), một số palơi được định cư ở dưới bằng (thành làng đồng bằng) và sản xuất lúa nước, bà con Raglai hầu hết chưa quen những tập quán và các kỹ thuật thâm canh loại lúa này nên năng suất không cao. Trung tâm khuyến nông các cấp và các ngành chức năng đang cố gắng giúp bà con đổi mới phương thức canh tác nhưng đây là một việc khó. Để thay đổi một tập quán canh tác du canh du cư tồn tại hàng bao đời nay là cả một việc không đơn giản. Cần có phương pháp tập huấn, tuyên truyền sao cho dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của bà con.
Những nhân tố trên đây ít nhiều đã thúc đẩy quá trình biến đổi văn hoá tộc người Raglai trong quá trình hoà nhập, phát triển. Nhưng bên cạnh đó, nó cũng là những yếu tố làm mai một hoặc biến đổi văn hóa truyền thống. Chúng ta đều hiểu rằng, mọi xã hội, mọi vùng, mọi dân tộc trên thế giới đều hướng đến sự phát triển, nâng cao mức sống cho người dân. Nhưng việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc phải đồng hành với sự phát triển mới là sự phát triển bền vững. Bởi vì, những giá trị văn hóa truyền thống được hình thành và đúc kết từ bao đời nay, nếu đã ra đi thì không bao giờ có thể lấy lại được. Ngược lại, nếu những yếu tố văn hóa xưa cũ, không còn phù hợp với thời đại mà lại níu kéo sự phát triển, cũng cần nghiên cứu, loại bỏ.
4.3.2.  Sự biến đổi cấu trúc xã hội truyền thống
Cấu trúc xã hội truyền thống của người Raglai được hình thành từ lâu đời. Đó là cấu trúc theo khu vực cư trú cơ sở mà người Raglai gọi là palơi (buôn, làng), nhỏ hơn là bur, ở đó hiện hữu bền vững những tộc họ gắn kết với nhau theo chế độ mẫu hệ. Trong mỗi palơi hay bur bao gồm không nhiều các tộc họ, mỗi tộc họ lại có một câu chuyện cổ về sự tích của dòng họ mình. Điển hình là các dòng họ: Pi năng (cây cau), Chamaleq hay Mấu (dây máu) v.v…nhưng tên của người Raglai đa số đã bị Việt hoá. Ví dụ như: Chamaleq Thị Loan. Pi năng Thị Hoa, Katơr  Thân, Bo Xuân Ngấm, Mấu Thị Bích v.v…
Những năm gần đây, quá trình phát triển, giao lưu đã xuất hiện nhiều hơn sự kết hôn giữa người Raglai với người các dân tộc khác, kéo theo sự biến đổi phong tục tập quán của chế độ mẫu hệ truyền thống, biểu hiện trong những việc như khai sinh, đăng ký họ, tên, vấn đề thừa kế tài sản đất đai. Đây là một vấn đề nhạy cảm, các nhà quản lý cần phải nghiên cứu kỹ để xử lý, vừa phù hợp với pháp luật, vừa phù hợp với luật tục của bà con dân tộc đã hình thành từ bao đời nay, vốn là một thói quen tiềm ẩn của các gen di truyền văn hóa.
Với việc tái lập huyện Bác Ái, xây dựng khu huyện lỵ mới, xây dựng đường quốc lộ đi xuyên qua các palơi Raglai, nhiều dân tộc khác sẽ đến định cư hai bên đường Quốc lộ. Đặc biệt là tại huyện lỵ Bác Ái đang xây dựng và các khu trọng điểm kinh tế, du lịch, tất yếu sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, kèm theo đó là sự biến đổi văn hoá tộc người.
Khác với các dân tộc vùng Tây Nguyên, người Raglai không có già làng, không có nhà rông để sinh hoạt chung mà trong đó, vai trò già làng là quan trọng. Người Raglai gắn kết với nhau chủ yếu bằng tộc họ và vai trò trưởng họ được đề cao. Trưởng họ của người Raglai, do sự chi phối của chế độ mẫu hệ nên phải là nữ. Người trưởng họ có quyền quyết định những công việc lớn của dòng họ, quyết định các nghi lễ của dòng họ. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hoá, vai trò người trưởng họ ngày càng bị lu mờ. Dân làng chủ yếu tập hợp dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp hành chính và trực tiếp là người trưởng thôn do dân bầu ra.
Đa số các nghi lễ truyền thống của người Raglai đã và đang dần mất đi. Cho đến nay, người Raglai không còn có tết năm mới cho riêng mình, một số người ăn tết theo người Việt. Mặc dù, qua bước đầu nghiên cứu, xưa kia, người Raglai cũng có lễ hội “ăn lúa mới” là nghi lễ lớn nhất đón năm mới theo hệ thống lịch lễ hội của các cư dân Đông Nam Á khác. Về tính chất và thời điểm rất gần với lễ hội đầu năm Rija Nưgar của người Chăm, tết Chon chơ Nam thmay của người Kh’me, tết của Bunpimay của Lào, lễ Soong Kran của người Thái Lan, lễ Thagyagin của người Myanma v.v…Những lễ nghi có tính Shaman giáo đang dần mất đi, chỉ còn một vài gia đình tổ chức các nghi lễ nhỏ trong phạm vi dòng tộc hay trong nôi bộ một gia đình. Các hình thức shaman trong cúng chữa bệnh đã gần như mất hẳn trong vùng đồng bào Raglai.
Những nghề thủ công truyền thống xa xưa cũng đang mất dần trong trí nhớ người Raglai. Ngoài một số thôn duy trì được nghề rèn, còn lại hầu hết những nghề truyền thống khác đều đã mất. Có hay không nghề dệt vải của người Raglai. Câu hỏi này vẫn còn bỏ ngỏ. Gần đây, trong quá trình thực hiện dự án điều tra, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên, trong sử thi Udai – Ujai và Uya – Yuhea của người Raglai có mô tả đến nghề dệt của người Raglai nhưng đó cũng chưa hẳn là căn cứ để kết luận là người Raglai có nghề dệt hay không? Hoặc có thể đã tồn tại nghề dệt xa xưa nhưng do không phát triển nên ngày nay đã mất.
Một mất mát lớn nữa trong quá trình phát triển là, cùng với chính sách định canh định cư, các làng Raglai cổ không còn tồn tại. Người Raglai đã dần bỏ nhà sàn đặc trưng của mình và làm những căn nhà ở trệt, lợp tôn hoặc ngói. Chỉ còn vài chiếc nhà sàn nho nhỏ đựng bắp, lúa, khoai. Nhà sàn dài đã biến mất.
Tuy nhiên, dù đã và đang quá trình đô thị hoá mãnh liệt, về hình thức có thể đã có nhiều thay đổi, nhưng về cơ bản, nội dung các giá trị văn hoá truyền thống Raglai, nhất là văn hóa phi vật thể vẫn tồn tại khá bền vững. Chiếc “bình” có thể đã thay mới, nhưng trong chiếc bình ấy vẫn là rượu cũ. Rượu cần Raglai vẫn đầy chất men say, đầy hương vị của một tộc người đã âm thầm vượt qua mọi thử thách để lưu giữ vốn văn hóa truyền thống của mình. Nhưng rõ ràng, mối đe dọa đến sự tồn vong văn hóa truyền thống tộc người trong giai đoạn này là có thật.
5. Những giá trị văn hoá cần sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
5.1. Người Raglai vẫn duy trì được chế độ mẫu hệ. Đây là một trong những rường cột cơ bản để gìn giữ, níu kéo được văn hoá dân tộc truyền thống Raglai. Hiện nay, người Raglai vẫn giữ được những phong tục gắn với chế độ mẫu hệ như trong hôn nhân gia đình (tục cưới chồng, ở rể, con theo họ mẹ), trong quyền thừa kế (con gái út được quyền thừa kế). Tuy nhiên, luật hôn nhân gia đình là chung cho cả nước. Vì vậy, có nhiều điểm không phù hợp với văn hoá các dân tộc thiểu số, nhất là những dân tộc vẫn đang duy trì hoặc vẫn còn một số tập tục của chế độ mẫu hệ. Đặc biệt, một số nghi lễ truyền thống như đám cưới, đám tang, lễ bỏ mả sau đám tang vẫn duy trì được những phong tục tập quán truyền thống.
5.2. Ngôn ngữ Raglai là một trong những rường cột để bảo tồn văn hóa. Nhờ bảo tồn được ngôn ngữ riêng mà người Raglai đang lưu giữ được kho tàng truyện cổ dân gian, chuyện kể, sử thi, tục ngữ, thành ngữ, câu đố dân gian hết sức phong phú và đa dạng. Bộ chữ viết Raglai đang được gấp rút hoàn thành để đưa vào phổ biến và sử dụng là một trong những biện pháp quan trọng để bảo tồn văn hóa Raglai.
Nhưng, như chúng tôi đã phân tích và cảnh báo nhiều năm nay, kho tàng văn hoá truyền thống Raglai đang mất đi từng ngày, đòi hỏi các cơ quan có trách nhiệm phải có kế hoạch trong chương trình mục tiêu điều tra, sưu tầm văn hoá phi vật thể cấp bách.
5.3. Kho tàng âm nhạc dân gian, hệ thống các bài hát lễ, hát cúng mang tính shaman giáo cùng với hệ thống nhạc cụ dân gian, dân tộc Raglai vẫn còn khá phong phú như mã la, cồng chiêng, đàn đá, các loại khèn bầu, kèn môi, các loại trống, sáo v.v.. Điều đáng lo ngại là những nghệ nhân sản xuất và biết sử dụng ngày càng ít đi. Lớp trẻ Raglai đã và đang làm quen với âm nhạc hiện đại, đặc biệt là tiếp cận rất nhanh với những dòng nhạc có tính chất kích động, có thể là do tính “lửa Tây Nguyên” còn đọng trong tố chất âm nhạc Raglai, là gen di truyền âm nhạc trong dòng máu tộc người. Những đêm lễ hội bỏ mả, thay vì đánh mã la, uống rượu cần thì ngày nay, đa số thanh thiếu niên lại uống rượu đế, nhảy theo nhạc disco.
5.4. Một yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ gìn sắc thái văn hoá truyền thống Raglai, đó chính là bản tính, đặc tính, những phẩm chất tốt đẹp như sự chân thành, trung thực, sống có nghĩa tình, cần cù, chịu thương chịu khó, sống hết mình, một lòng theo Đảng, theo cách mạng của người Raglai. Ngoài ra, khi đi điền dã, thực địa, tâm sự với người Raglai, chúng tôi thấy người Raglai có những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, quan niệm cõi sống, cõi chết, về hồn vía, hồn linh và có một hệ thống thần linh khá phong phú. Những giá trị văn hoá phi vật thể ấy khó lòng mờ phai trong đời sống tâm linh người Raglai, cần có những công trình nghiên cứu đầy đủ và nghiêm túc để có thể hiểu sâu hơn về một tộc người, làm căn cứ để hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.




[1] Nhiều tác giả. “Văn hóa & xã hội người Raglai ở Việt Nam”. Nxb KHXH, 1998, tr. 1.
[2] Trong một lần tiếp xúc với GS Tol Goda - Trường Đại học Kobe – nhân dịp đến Việt Nam nghiên cứu về sự biến đổi xã hội truyền thống Raglai ở Ninh Thuận, GS chưa nhất trí với luận cứ nói trên, vì có thể hình thuyền trên Kagor trên nhà mồ trong lễ bỏ mả có thể chỉ là biểu tượng của mặt trăng.

[3] Nguyễn Tuấn Triết: Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 1991, tr 28,29,30,37.
[4] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ, Văn hóa Xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1998.
[5] Theo chúng tôi, đây cũng vẫn chỉ là những giả thiết.
[6] Một loại giỏ được đan bằng mây, nơi cất giữ những đồ quý giá, gia truyền của gia đình, tộc họ, thường được treo nơi trang trọng.
[7] Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại tỉnh Ninh Thuận cũng lấy quốc lộ 27 để phân chia địa giới hành chính các huyện Bác Ái, Anh Dũng, Bác Ái đông và Bác Ái tây.
[8] Số liệu trên do nhóm điều tra văn hóa thống kê năm 2003. Đến nay, dân số trên địa bàn huyện Bác Ái đã biến động nhiều, nhất là sau khi tái lập huyện Bác ái và hoàn thành con đường quốc lộ 27B. Theo số liệu chúng tôi nắm được, dân số huyện Bác sí đến tháng 6/2006 đã tăng lên 21.290 người. Số hộ các dân tộc khác lên trung tâm huyện ngày càng nhiều.
Chương II
VĂN HÓA LÀNG, TỘC HỌ VÀ GIA ĐÌNH

1. Văn hóa làng
Để điều tra, nghiên cứu về một tộc người, phương pháp thường được áp dụng là nghiên cứu văn hóa tộc họ, văn hóa gia đình và văn hóa làng (palơi). Đó là mối quan hệ xã hội được hình thành từ xa xưa và là mối dây liên kết giữa người với người, hình thành nên phong tục tập quán, lễ hội và các hình thức văn hóa cộng đồng khác. Do nhiều nguyên nhân, đặc điểm văn hóa palơi của người Raglai ở Ninh Thuận khác với văn hóa palơi của các dân tộc trong cùng nhóm ngữ hệ, khác với văn hóa buôn, làng các dân tộc thuộc các tỉnh Tây Nguyên. Người Raglai không có nhà rông, nhà gươl mà chỉ có nhà sàn (sàk), người Raglai không có “già làng” mà chỉ có tộc trưởng. Thay thế cho vai trò “già làng” là những người tộc trưởng (nữ) có uy tín trong một nhóm cộng đồng dân cư.
Hiện nay vẫn đang tồn tại nhiều cách phiên âm chữ palơi (làng, buôn) trong các tộc người thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam: palây, palei, palay, palơi. Cách phiên âm chữ này của 2 công trình chữ viết Raglai của Khánh Hòa và Ninh Thuận đều là Palơi.
Ngày xưa, người Raglai sống du canh, du cư. Để tiện cho việc canh tác nương rẫy nên rẫy ở đâu, người ở đó. Người Raglai dựng nhà sàn gần những khu rẫy chính, nhiều khi chỉ vài chục gia đình hình thành nên chòm, xóm (bur), những bur lớn thì gọi là palơi. Mối quan hệ của các thành viên trong bur hay palơi chi phối bởi dòng tộc. Từ đây hình thành nên văn hóa cộng đồng palơi, hình thành nên văn hóa truyền thống, phong tục tập quán, lễ hội và kho tàng văn hóa phi vật thể của cả dân tộc còn tồn tại đến ngày nay.
So với vài chục năm trước, văn hóa palơi của người Raglai đã có nhiều biến đổi. Hơn nửa thế kỷ qua, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một số làng Raglai đã phải trải qua quá trình dồn dân lập ấp, thành lập những khu trù mật của Mỹ, nguỵ như vùng Tầm Ngân, (huyện Ninh Sơn), Tà Dương (huyện Ninh Phước), vùng Bà Râu (huyện Ninh Hải). Ở một số vùng, không chịu bị dồn ép, bà con Raglai đã xé lẻ palơi thành ra nhiều chòm dân cư để thuận lợi cho việc vừa sản xuất, vừa kháng chiến. Vì vậy, các nhóm cư dân luôn bị biến động, xáo trộn, làm cho văn hóa palơi của người Raglai cũng chịu nhiều ảnh hưởng, mất dần đi văn hóa cộng đồng truyền thống.
Những năm gần đây, quá trình thực hiện chính sách định canh định cư cũng ít nhiều làm ảnh hưởng đến văn hóa cộng đồng palơi. Sự phân cấp hành chính thôn và xã đã dần thay thế cho khái niệm văn hóa palơi, bur. Một xã bây giờ có nhiều thôn mới. Mỗi thôn mới là sự hợp nhất của nhiều “mảnh vỡ” của văn hóa palơi xưa kia, hầu hết các palơi hay bur đều mang những danh từ chung mới là thôn, xóm như xóm Mới, xóm Ú, thôn Maty v.v…Ví dụ: palơi Yo biến thành xóm Mới, Patơu Klâu boh gọi là thôn “Đá ba cái” v.v…
Hiện nay, nếu so sánh một “thôn” mới với một “palơi” xưa đã có nhiều khác biệt, nhất là với ý nghĩa văn hóa. Từ “palơi” vẫn còn nhưng không còn mang ý nghĩa là “làng” truyền thống Raglai xưa kia và nó không còn giữ đúng vị trí là cơ sở trong việc bảo tồn nét văn hóa cộng đồng truyền thống nữa. Qua quá trình điền dã, nghiên cứu, chúng tôi thấy cơ sở để lưu giữ văn hóa cộng đồng truyền thống của người Raglai chính là văn hóa dòng họ và chế độ mẫu hệ. Vì vậy, dù văn hóa “palơi” truyền thống đã có nhiều biến đổi về hình thức, nhưng trong những thôn mới, sự gắn kết cộng đồng cổ truyền vẫn là văn hóa dòng họ. Có thể thấy rằng, sự gắn kết cộng đồng thông qua mối quan hệ dòng họ thể hiện bằng trật tự trên dưới, sự “chỉ huy, phục tùng” của thế hệ trước đối với thế hệ sau theo các quy định của chế độ mẫu hệ. Những mối quan hệ đó lại được gắn kết, bổ sung thường xuyên thông qua các hình thức nghi lễ, lễ hội truyền thống.
Theo sự phân chia hành chính mới năm 2004, toàn tỉnh Ninh Thuận có 04 huyện, 24 xã, 78 thôn có người Raglai sinh sống. Hầu hết ở các thôn này là người Raglai, tỷ lệ người Raglai chiếm 98%[1].
Bảng A6. Số thôn Raglai ở Ninh Thuận (24 xã, 78 thôn)
                                                               Đơn vị tính: Người

Bảng biểu A8: Số thôn huyện Ninh Sơn (6 xã, 15 thôn)
Đơn vị tính: Người
Bảng biểu A9: Số thôn ở huyện Ninh Hải (6 xã, 22 thôn)
Đơn vị tính: Người

Bảng biểu A10: Số thôn huyện Ninh Phước (3 xã, 8 thôn)
Đơn vị tính: Người
2. Văn hóa tộc họ
Qua quá trình điền dã ở vùng Ninh Thuận, người Raglai có hai cách gọi “tộc họ” chủ yếu. Một là pơtìa (pơtian, pơtiắt), có nghĩa là “bụng”, “ruột thịt”. Hai là “gậu” (gầuq), theo ngôn ngữ Malyo – Polinedi có nghĩa là cùng “một bụng”, người Chăm gọi là “ghôn, gút”. Người cùng một tộc họ, người Raglai gọi là “gầup patiat” (họ hàng).
   Hiện nay, khi đến vùng đồng bào Raglai ở Ninh Thuận, chúng tôi gặp nhiều dòng họ có tên gọi khác nhau. Nhiều nhất là các họ: Pi năng, Chamaleq, Katơr, Pupor, Patau asah, Tạ Yên, Cau, Cao, Đá mài, Bobo, Mấu, Mạo, Mang v.v…Trong các họ trên, chỉ có các họ Pi năng, Katơr, Chamaleq, Pupor, Patau asah là những tên gọi dòng họ “gốc” xa xưa của người Raglai. Còn những họ khác đều bị ảnh hưởng theo sự giải nghĩa của tiếng Việt, dần dần thành tên gọi chính thức của dòng họ (đăng ký hộ khẩu, khai lí lịch). Ví dụ: họ Cau là từ Pi năng mà ra vì “cau” là “Pi năng – tiếng Raglai” dịch ra tiếng Việt, Katơr là “bo bo” (một loại cây lương thực), họ Mấu, họ Mạo là từ Chamaleq (dây máu - một loại dây rừng có nước đỏ như máu), Pupor có nghĩa là “tro bếp”, Patau asah có nghĩa là “đá mài” (họ Đá mài), họ Tạ Yên là từ chữ Ta - ing mà ra v.v…
   Tất cả các họ trên đây của người Raglai đều xuất phát từ những truyền thuyết, ngày nay còn lưu truyền ở tất cả các vùng đồng bào Raglai ở Nam Trung Bộ.
2.1. Truyền thuyết về nguồn gốc các tộc họ
Truyện kể rằng: Sau một trận lũ lụt khủng khiếp, mọi người đều chết hết, chỉ còn lại hai anh em nhà nọ nhờ trốn được vào trong một cái trống nên sống sót. Hai đứa trẻ này được ông Misiriq và bà Pila cứu sống và nuôi dưỡng. Hai ông bà còn tổ chức lễ cúng hiến tế cầu trời xin cho hai người được lấy nhau. Con cái họ sinh ra đều mang cùng một họ. Con đàn cháu đống sinh ra ngày một nhiều và đều cùng mang một họ. Nếu cứ như thế mãi thì người trong cùng một họ lại lấy nhau. Thần sẽ trừng phạt, gây nắng nóng, khô hạn, mất mùa, dịch bệnh và đói kém. Sống trong tâm trạng lo lắng đó, ai cũng sợ nhưng không biết làm sao. Một hôm, nhân vị thần Sấm Sét (Karăm) đi vắng. Do sự tò mò, hai đứa cháu của vị thần Sấm Sét đã tạo ra dông tố và một trận sấm chớp kinh hoàng. Mọi người hoảng loạn lo tìm nơi lẩn trốn. Khi thần Sấm Sét trở về liền làm cho trời quang mây tạnh, tìm mãi không thấy người nào cả, bèn gọi, hỏi mọi người đang trốn ở đâu? Người thì báo là đang trốn ở trong bếp, người dính đầy tro bếp (Pupor), người thì báo là chui ở bụi cây dây máu (Chamaleq), người thì báo là trốn dưới gốc cây cau (Pi năng), người thì trốn trong hốc đá (Patau asah), người thì báo trốn ở bụi bo bo (Katơr). Thấy vậy, thần Karăm mới phán rằng: Các người chỉ có một họ, đáng bị trừng phạt. Kể từ nay, ai đã trốn ở nơi nào thì lấy tên ở nơi đó làm họ của mình. Những người trong cùng một họ từ nay không được lấy nhau nữa, nếu không sẽ bị trừng phạt nặng nề. Từ đó, con đàn cháu đống của hai anh em thoát chết trong trận hồng thuỷ kia đã được chia ra nhiều dòng họ. Những người chui vào tro bếp thì lấy họ Pupor (tro bếp), những người chui trong bụi dây máu thì lấy họ Chamaleq, những người chui trong bụi bo bo thì lấy họ Katơr, chui trong hốc đá mài lấy họ Patau asah (đá mài), người trốn ở gốc cây cau mang họ Pi năng.
Truyền thuyết trên đây hiện còn phổ biến khắp vùng đồng bào Raglai và ai cũng có thể kể lại được. Hiện nay chỉ có vùng người Raglai ở Khánh Vĩnh và Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hoà là còn giữ đúng tên gọi (họ) theo tiếng Raglai, còn ở vùng Ninh Thuận có xu thế Việt hóa nghĩa của từ “họ”. Đã có những tên gọi dòng họ được dịch nghĩa ra tiếng Việt như Mấu (Chamaleq - dâu máu , gọi chệch thành họ Mấu), Cao (Pi năng - cau, gọi chệch thành họ Cao), Bo bo (pupor), Đá mài (Patau asah), Ia Meo thành Mạo v.v.... Điều khá thú vị là ở vùng người Raglai Ninh Thuận, vừa tồn tại tên gọi họ theo tiếng Raglai, vừa tồn tại họ theo tiếng Việt (đồng nghĩa). Ví dụ: vừa có bà Mấu Thị Bích Phanh – nguyên phó chủ tịch UBND huyện Bác Ái, vừa có anh Chamaleq Tiếp, bí thư huyện uỷ Bác Ái; vừa có anh Cao Phai, phó chủ tịch UBND huyện Ninh Sơn, vừa có anh hùng LLVT Pi năng Tắc, Pi năng Thạnh, vừa có anh Katơr Tân, Phó chủ tịch UBND huyện Bác Ái, vừa có anh Bo bo Ngấm, phụ trách làng văn hoá Phước Thành v.v…Có hiện tượng này, vì ở vùng Khánh Hoà, người Raglai ít có dịp giao lưu với văn hóa người Việt hơn ở vùng Ninh - Bình Thuận. Có vùng, cả palơi đều bỏ họ cũ, dùng những họ mới như họ Mang, họ Da.
Ở vùng Ma nới, huyện Ninh Sơn có sự liên quan tên các địa danh với tên các tộc họ như Uk – Dalâm, Kamau, Ya lũk, Ya Tuk…Năm 2002, khi đi thực hiện công trình, nhóm nghiên cứu đã được một bà tộc trưởng Paxây Thị Cai (67 tuổi - bị khiếm thị), ở thôn Uk Dalâm, người đang giữ một tảng quặng sắt – là báu vật của dòng họ sắt (Paxây) - kể về nguồn gốc của họ Paxây. Người Raglai mang họ Sắt là do chính tổ tiên của dòng họ đã tìm ra sắt. Ở vùng này, người mang họ sắt (Paxây) không được lấy người mang họ Patau asah. Theo lời kể của ông Patau asah Joai thì ngày xưa, xưa lắm rồi, ở một chân núi nọ, có một chàng trai giỏi giang, may mắn lấy được hai chị em một nhà kia. Hai chị em đều rất xinh đẹp, nhưng cô em có phần xinh đẹp hơn. Hồi đó người Raglai chưa có họ, chỉ có tên. Tình cờ trong lúc đào bới ở rẫy, chàng trai nọ lấy được nhiều tảng quặng sắt, đem về nung thử và nhờ sự tài giỏi, chàng đã làm ra được nhiều công cụ bằng sắt như dao, rựa, ní, rìu v.v…cho bà con trong vùng sản xuất nương rẫy. Tin đồn bay xa, nhiều người ở các vùng khác tìm đến, đổi trâu, đổi bò, heo lấy sắt. Trong số đó có một chàng trai lực lưỡng, tuấn tú. Chàng trai này phải lòng cô em. Dần dần hai người có tình ý với nhau và muốn lập gia đình một cách vụng trộm. Một đêm, không biết cô em vô tình hay cố ý, đã mang theo một tảng đá mài rìu, trốn đi với chàng trai nọ. Họ về làng của chàng trai, nhưng do bị dân làng phản đối, họ không được sống ở làng mà phải đưa nhau ra ở một triền núi khác, không được làng chia rẫy để làm ăn. Nhờ mua được quặng sắt, lại sẵn có tảng đá mài mang theo, hai người làm ra được nhiều công cụ lao động và khai khẩn rẫy mới. Chẳng bao lâu, họ trở nên có nhiều lúa bắp. Dân làng tìm đến mua dao, rựa, ní. Họ vui vẻ giúp đỡ. Thấy hai người ăn ở hiền lành, lại có công với làng nên dân làng xóa đi những lỗi lầm của họ và cho họ được giao tiếp với bà con trong làng. Ở làng cũ phía bên kia núi, hai vợ chồng người chị làm ăn cũng phát đạt, họ sinh con đẻ cái đều đặt cho họ Paxây (sắt) để nhớ ơn các yà (thần linh) đã cho họ tìm ra sắt. Phía bên này núi, hai vợ chồng người em cũng làm ăn phát đạt, sinh con cháu đầy đàn. Và để nhớ ngày trốn anh, trốn chị, bỏ làng ra đi có mang theo tảng đá mài, họ liền lấy Đá mài (Patau Asah) đặt họ cho con cháu. Hai họ ở hai triền núi ngày càng đông, tuy mang tên gọi họ khác nhau nhưng vì gốc rễ là hai chị em ruột, vì vậy, cho đến bây giờ, hai họ Paxây và Patau Asah không được lấy nhau[2].
2.2. Sự phân bố các tộc họ 
Qua điều tra, tên gọi tộc họ và sự phân bố tộc họ của người Raglai đã có biến đổi rất nhiều. Đa phần những họ gốc của còn tập trung chủ yếu ở vùng Raglai bắc, càng về phía nam, sự biến đổi tộc họ càng rõ nét, thể hiện qua các bảng thống kê (xin xem các bảng điều tra, thống kê từ B1 đến B8 về sự phân bố các dòng họ ở các thôn, xã)).
Qua các bảng thống kê về các dòng họ Raglai dưới đây, có thể thấy ở phía Raglai bắc (huyện Bác Ái và huyện Ninh Hải) tỷ lệ các dòng họ Chamaleq, Pi năng, Katơr, Patau asah, Pupur rất cao, hầu như làng nào cũng còn những dòng họ này.
2.2.1. Phân bố tộc họ ở huyện Bác Ái
Qua bảng thống kê B1, dòng họ ở 33 thôn thuộc 9 xã của huyện Bác Ái được phân bố từ cao xuống thấp như sau:
Họ Chamaleq có ở 30 thôn, 9 xã
Họ Katơr có ở 28 thôn, 9 xã
Họ Pi năng có ở 27 thôn, 9 xã
Họ Pupur có ở 17 thôn, 8 xã
Họ Patau asha có ở 15 thôn, 8 xã
Họ Kaza có ở 9 thôn, 4 xã
Còn lại các họ như Bilao: 5 thôn, 4 xã; Họ Adơk: 3 thôn, 3 xã; Họ Tà yên: 2 thôn, 2 xã; Họ Pulăk và họ Harik, mỗi họ chỉ có ở 1 thôn.
2.2.2 Phân bố tộc họ ở huyện Ninh Sơn
Qua bảng thống kê B2, dòng họ ở 6 xã, 15 thôn huyện Ninh Sơn được phân bố như sau:
Họ Chamaleq có ở 2 thôn thuộc 1 xã Ma Nới
Họ Katơr có ở 3 thôn thuộc 1 xã Ma Nới
Họ Pi năng có ở 3 thôn thuộc 1 xã Ma nới
Họ Pupur có ở 3 thôn thuộc 1 xã Ma Nới
Họ Patau asha có ở 4 thôn, 3 xã (Ma Nới, Lâm Sơn, Mỹ Sơn
Họ Kaza có ở 1 thôn thuộc xã Ma Nới
Còn lại các họ như Mang có ở 2 thôn thuộc xã Nhơn Sơn, Họ Kamau, Kaho có ở thôn Kamau (Tànôi) thuộc xã Ma Nới. Ngoài ra ở huyện Ninh Sơn có các họ rất ít như họ Ia U ở thôn Tầm Ngân xã Lâm Sơn, thôn Trà Giang thuộc xã Lương Sơn, họ Mahi, Tathia và Pari nhong, Bà râu ở xã Ma Nới. Nhìn chung, các dòng họ xa xưa của người Raglai tập trung nhiều ở xã Ma Nới. Đây cũng là xã có các thôn còn lưu giữ được nhiều kho tàng văn hóa truyền thống Raglai.

Bảng B2 - THỐNG KÊ CÁC TỘC HỌ HUYỆN NINH SƠN
Huyện:    Ninh Sơn, 6 xã, 15 thôn
2.2.3 Phân bố tộc họ ở huyện Ninh Hải
Qua bảng thống kê B3, dòng họ ở 6 xã, 22 thôn ở huyện Ninh Hải được phân bố như sau:
Họ Chamaleq có ở 17 thôn, 5 xã
Họ Pi năng có ở 15 thôn, 5 xã
Họ Katơr có ở 13 thôn, 4 xã
Họ Pupur có ở 7 thôn, 3 xã
Họ Patau asha có ở 13 thôn, 4 xã
Họ Kaza có ở 2 thôn, 2 xã
Một số họ như họ Mang tập trnng ở thôn Xóm Bằng, xã Phương Hải, họ Tala ở thôn Kiền Kiền 2, xã Lợi Hải, họ Chơrao ở thôn Ba Râu 1, Bà Râu 2 xã Lợi Hải, họ Taing (Tà yên) ở thôn Suối Đá, Lợi Hải.
Bảng B3 - THỐNG KÊ CÁC TỘC HỌ HUYỆN NINH HẢI
Huyện:    Ninh Hải, 6 xã, 22 thôn
2.2.4 Phân bố tộc họ ở huyện Ninh Phước
Qua bảng thống kê B4, ở huyện Ninh Phước chỉ có 8 thôn Raglai thuộc 3 xã. Trong đó tập trung dòng họ truyền thống ở xã Phước Hà, chủ yếu là họ Tà Yên và Chamaleq. Họ Tà Yên ở thôn Là A và Trà Nô, họ Chamaleq ở thôn Rồ Ôn.
Người Raglai ở xã Phước Sơn chủ yếu mang họ Mang, ở thôn Tà Dương xã Phước Thái có họ Pimong. Ngoài ra còn có những dòng họ như Bà Râu, Ba Rắc ở thôn Giá, Ta thia ở thôn Rồ Ôn, họ Trà Văn ở thôn Trà Nô đều ở xã Phước Hà.

Bảng B4 - THỐNG KÊ CÁC TỘC HỌ HUYỆN NINH PHƯỚC
Huyện:    Ninh Phước, 3 xã, 8 thôn
Qua phân tích các bảng thống kê các dòng họ Raglai trên toàn tỉnh, có thể thấy: hầu hết ở 9 xã thuộc huyện Bác ái đều có họ Chamaleq, Pi năng và Katơr. Ngoài 3 dòng họ trên, dòng họ Patau asah tập trung nhiều ở các thôn Suối Khô, Suối Rớ, Núi Rây thuộc xã Phước Chính, ở thôn Chà Panh, Tà Lọt thuộc xã Phước Hoà, thôn Suối Rua, Đá Bàn, Trà Co I, Trà Co II thuộc xã Phước Tiến, thôn Suối Lở, Ma Nai thuộc xã Phước Thành, thôn Ma Oai, Hala Hạ, xã Phước Thắng và thôn Rã Giữa thuộc Phước Trung. Dòng họ Pupur tập trung nhiều ở các thôn Bạc Ray I, Bạc Ray II, Hành Rạc I, Hành Rạc II thuộc xã Phước Bình, ở thôn Suối Rớ, Núi Rây thuộc xã Phước Chính, thôn Chà Panh, Tà lọt của xã Phước Hoà v.v... Dòng họ Kazá có ở các thôn Suối Khô, Suối Rớ, Núi Rây của xã Phước Chính, thôn Tà Lú của xã Phước Đại, thôn Trà Co I, Trà Co II xã Phước Tiến; ở thôn Ma Oai, Hala Hạ xã Phước Thắng; thôn Tham Dú, xã Phước Trung.
Ở Huyện Ninh Hải, cũng như ở Bác Ái, 5 xã có người Raglai đều mang 5 dòng họ chính là Chamaleq, Pi năng, Katơr, Patau asah, Pupur (có hầu hết ở 22 thôn của 5 xã). Ngoài ra còn có một số họ như Kazá ở thôn Đá Liệt, xã Phước Kháng, thôn Bà Râu I, xã Lợi Hải, họ Ia Mưsik ở thôn Bà Râu I, II và thôn Ấn Đạt, xã Lợi Hải, họ Ta La ở thôn Kiền Kiền II (xem bảng thống kê B3 và B7).
Ngược lại, ở các xã Raglai nam (huyện Ninh Sơn và huyện Ninh Phước) tỉ lệ 5 dòng họ chính rất thấp (trừ xã Manới - huyện Ninh Sơn).
Ở huyện Ninh Sơn, họ Chamaleq chủ yếu ở thôn xóm Mới và thôn Hà Dài, xã Ma Nới; họ Pi năng và Katơr ở thôn Gia Hoa, xóm Mới, Hà Dài, xã Ma Nới; họ Patau asah ở thôn Tân Bình, thôn Gòn ở xã Lâm Sơn, xóm Ú, Ma Nới và thôn Mỹ Hiệp, xã Mỹ Sơn; họ Mang ở thôn Đắc Nhơn và Lương Cang, xã Nhơn Sơn, họ PariNhong ở xóm Ú và Kamau, xã Ma nới v.v…
Ở Huyện Ninh Phước, họ Chamaleq chỉ còn ở thôn Rồ Ôn, xã Phước Hà; họ Patau asah chỉ còn ở thôn Giá, còn lại chủ yếu là họ Tà Yên (Ta ing) ở các thôn Là A và Trà Nô. Ở xã Phước Sơn và Phước Vinh, người Raglai tập trung ở các thôn Phước Thiện, Ninh Quý và Liên Sơn và chủ yếu là họ Mang v.v…
Như vậy, càng về phía nam, các dòng họ truyền thống Raglai càng có chiều hướng biến đổi. Ở hai huyện Ninh Sơn và Ninh Phước, những dòng họ truyền thống chỉ còn tập trung chủ yếu ở hai xã: xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn và xã Phước Hà, huyện Ninh Phước.
Vấn đề sự biến đổi và phân bố các tộc họ Raglai diễn ra cùng quá trình di dân (chủ yếu là thiên nam), quá trình dồn dân lập ấp của chế độ cũ và quá trình kết hôn giữa các vùng, các tộc họ. Sự không thống nhất giữa các vùng, các dòng họ về việc con lấy họ cha hay họ mẹ cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự biến đổi tộc họ người Raglai


3.Văn hóa gia đình
3.1. Cơ cấu gia đình truyền thống
Gia đình là cơ sở, là tế bào trong mọi xã hội. Văn hóa gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Gia đình là nơi vừa lưu giữ, vừa truyền dạy văn hóa tộc người cho các thế hệ. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc thường lấy văn hóa gia đình làm tâm điểm nghiên cứu, bởi cấu trúc gia đình, hôn nhân, sự thừa kế, mối quan hệ huyết thống v.v…phản ánh khá đầy đủ văn hóa tộc người.
Dân tộc Raglai cũng như các dân tộc thiểu số khác, có những đặc trưng riêng về văn hóa gia đình. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình chuyên khảo sâu nào về văn hóa gia đình Raglai, mới chỉ có một vài công trình nêu khái quát về hôn nhân, gia đình Raglai như TS Nguyễn Tuấn Triết với công trình “Người Raglai ở Việt Nam”; Tập thể tác giả của Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh[3] (Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện, Nguyễn Văn Huệ) với công trình “Văn hóa & Xã hội người Raglai ở Việt Nam”. Trong những công trình này, các tác giả đã nêu một số nét về vấn đề hôn nhân, gia đình Raglai nhưng chưa đi sâu nghiên cứu như một công trình khoa học chuyên biệt.
Với một công trình mang tính chất điều tra, thống kê thực trạng văn hóa truyền thống Raglai, chúng tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu về văn hóa gia đình Raglai mà chỉ dừng ở mức độ “điều tra”, phản ánh những nét chính của văn hóa gia đình, nhằm mục đích gợi mở các vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn về đề tài này.
Bao trùm lên văn hóa gia đình của tộc người Raglai là sự chi phối của chế độ mẫu hệ. Cũng như các dân tộc thuộc nhóm ngữ hệ Malayo - Polinésien khác ở Việt Nam, người Raglai duy trì khá bền vững mô hình gia đình mẫu hệ (đại gia đình và tiểu gia đình)[4]. Đặc điểm này chi phối đậm nét văn hóa gia đình tộc người Raglai từ quy mô, cấu trúc nhà ở, vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình, vấn đề luật tục, thừa kế v.v…
Với truyền thống sinh sống du canh du cư, các gia đình Raglai quần tụ trong những palơi ở những triền núi cao (cách 500 - 600m so với mặt biển), phát nương làm rẫy vài vụ lại chuyển sang nơi khác. Tuy vậy, các palơi Raglai được xây dựng tương đối ổn định, chỉ có nương rẫy là du canh. Trong mỗi palơi có một vài tộc họ sinh sống. Có thể phân chia gia đình Raglai làm hai loại: Gia đình lớn và gia đình nhỏ. Gia đình lớn là gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống trong một chiếc nhà sàn dài (Boh sang, Pơh boh). Ở đó, người có quyền hành quyết định là người phụ nữ lớn tuổi nhất (muk sang, muk akor găup - trưởng tộc). Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, ở tiểu vùng Raglai bắc (phía bắc đường quốc lộ 27b - thuộc huyện Bác Ái), nhà sàn dài xưa kia không ngăn thành những buồng riêng mà chỉ có những ranh giới ước lệ. Còn ở phía Raglai nam (phía nam đường quốc lộ 27, thuộc các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước), còn một số nhà sàn dài (sang tah) được ngăn thành từng buồng riêng cho từng gia đình nhỏ (gia đình các chị em gái hay còn gọi là gia đình tế bào, số buồng thể hiện số gia đình nhỏ, số lượng chị em gái đã xây dựng gia đình). Nhà sàn dài được chia ra làm nhiều ngăn với nhiều gia đình tế bào cùng sinh sống là mô hình gia đình truyền thống của các tộc người cùng nhóm ngôn ngữ Nam Đảo hiện đang sinh sống ở các vùng miền núi các tỉnh miền Trung, Tây nguyên như Gia Rai, Ê đê. Tuy nhiên, mô hình gia đình lớn của người Raglai không hoàn toàn giống như nhà sàn dài của người Ê Đê mà từ một nhà sàn nhỏ (pơh sataq), mỗi người con gái khi cưới chồng về lại “nối” thêm một gian, dần dần, nhà sàn đó cứ dài mãi ra, nhìn ngoài như một nhà sàn dài nhưng thực chất đó là những nhà sàn nhỏ dính liền nhau của nhiều hộ gia đình nhỏ trong một gia đình mẫu hệ lớn.
Đa số trong mỗi nhà sàn nhỏ đều có một ngăn dùng để làm bếp, xung quanh bếp thường có các ché rượu cần, treo các công cụ lao động, săn bắn như cuốc, vá, ná v.v... Một góc khác được treo các bộ mã la, chiêng, trống, khèn bầu. Phía trên bếp có một giàn tre, các sản vật thu hoạch được như bắp, thịt khô đều được treo hoặc để trên đó, với khói và bồ hóng, những sản vật đó được bảo quản tốt hơn. Trong mỗi gia đình Raglai, những công cụ sản xuất nhỏ như gùi, ná, vá v.v… được coi là tài sản cá nhân từng gia đình, có trách nhiệm mua sắm, sử dụng và bảo quản. Còn những đồ vật lớn và có giá trị như ché, chum, vại, mã la, chiêng, trống v.v…là tài sản chung của các gia đình sống trong nhà sàn dài đó. Những bộ mã la (thường là 4, 6, 9 hoặc 12 chiếc), trống, chiêng là những tài sản một mặt có giá trị cao, một mặt theo người Raglai là có chứa đựng những yếu tố thiêng. Vì vậy, mỗi khi sử dụng đều phải được người có quyền hành cao nhất (muk sang) đồng ý và phải làm lễ cúng mới được lấy xuống.
Về sản xuất, gia đình lớn thường có chung một khu rẫy canh tác, trong đó mỗi gia đình nhỏ có một khu đất riêng. Cũng có khi mỗi gia đình nhỏ (gia đình tế bào) có những rẫy riêng tuỳ theo điều kiện của từng khu vực rẫy. Ở các rẫy của gia đình nhỏ đều có chòi rẫy (pơh sataq) và các nhà sàn nhỏ làm kho (sang tông) chứa các sản vật thu hoạch được như lúa, bắp v.v…Qua khảo sát ở một số gia đình, quan niệm chung, riêng trong các gia đình nhỏ trong một gia đình lớn không rõ ràng, đa phần là dùng chung, khi hết lúa bắp, những cặp vợ chồng trong một gia đình có thể lấy lúa bắp của các cặp vợ chồng anh chị em hay của cha mẹ để ăn một cách tự nhiên.
3.2. Cơ cấu gia đình hiện nay
Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, nhất là trong quá trình định canh định cư, đã thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế văn hóa xã hội vùng đồng bào Raglai. Nhưng bên cạnh đó, song hành với sự phát triển, những nét văn hóa gia đình truyền thống cũng ít nhiều bị mai một.
Ngày nay, loại nhà sàn dài đã và đang dần mất đi. Ở các palơi chỉ còn rải rác những chiếc nhà sàn nhỏ bốn mái, thậm chí rất nhỏ. Hiện nay, đa số các gia đình Raglai đều đã làm nhà trệt, xây gạch hoặc trát tường đất, mái lợp tôn hoặc lợp tranh và chia thành các gia đình nhỏ. Đó chính là nguyên nhân thay đổi về quy mô cơ cấu của văn hóa gia đình Raglai.
Tuy nhiên, dù quy mô cấu trúc có thay đổi, nhưng truyền thống mẫu hệ và các truyền thống dân tộc, phong tục tập quán trong gia đình Raglai về cơ bản vẫn giữ được những yếu tố truyền thống. Dù trong gia đình lớn hay nhỏ, người có quyền quyết định trong việc giải quyết các vấn đề trong gia đình, thậm chí của tộc họ, vẫn thuộc về người phụ nữ. Trong gia đình, người phụ nữ lớn tuổi nhất giữ quyền tối cao, thường là bà nội hoặc mẹ (ngoại theo cách gọi của người Việt), trong một tộc họ, người phụ nữ lớn tuổi nhất và có vai vế lớn nhất là bà trưởng tộc (Akok găup) có quyền quyết định những công việc chung của tộc họ và của các chi họ như các nghi lễ truyền thống của dòng họ, thậm chí những nghi lễ của cộng đồng palơi. Tuy nhiên, do phân công lao động, những công việc nặng nhọc đều do người đàn ông đảm trách, phụ nữ lo sinh nở và chăm lo giáo dục con cái, trỉa hạt, nhổ cỏ, chăn nuôi và các công việc bếp núc, nội trợ. Tuy người phụ nữ có vai trò quyết định trong gia đình, nhưng khi giải quyết các việc lớn đều hỏi ý kiến của anh cả hoặc em trai của mình mặc dù những người này có thể đã theo làm rể bên nhà vợ. Vì vậy, mặc dù theo chế độ mẫu hệ, nhưng những người cậu (anh trai hoặc em trai)[5] giữ một vai trò quan trọng. Những nghi lễ lớn của tộc họ hoặc của gia đình, mặc dù do người phụ nữ quyết định, nhưng thường phải do người anh trai cả chỉ huy và là người nắm rõ các phong tục tập quán, các quy tắc, quy trình của các nghi thức hành lễ và cũng là người cùng với thầy cúng, có khi là trực tiếp cúng khấn thần linh trong các nghi lễ.
   Trước đây, theo các tác giả nghiên cứu về tộc người Raglai, người Raglai sống theo cấu trúc gia đình lớn (nhiều thế hệ và các cặp vợ chồng, con cái cháu chắt đều sống trong một nhà sàn dài giống như người Giarai và Ê Đê - cùng nhóm ngữ hệ), con cái sinh ra đều lấy họ mẹ và tuân thủ mọi nguyên tắc của chế độ mẫu hệ. Người con gái, đa số là con gái út được hưởng quyền thừa kế[6]
   3.3. Vấn đề hôn nhân
   3.3.1. Một vài quy định trong hôn nhân
   Hôn nhân của người Raglai tuân thủ theo chế độ mẫu hệ và từ xa xưa đã được điều chỉnh bằng luật tục và tín ngưỡng. Người Raglai cho đến nay vẫn duy trì ngoại hôn theo dòng họ mẹ. Người cùng huyết thống, tính theo dòng họ mẹ dù xa mấy đời cũng không được kết hôn. Xã hội Raglai ngày nay vẫn tự giác tuân thủ khá nghiêm ngặt những quy định từ xa xưa. Những người thuộc một họ hoặc nhánh họ (cùng nhánh họ Chamaleq hay cùng nhánh họ Pupor, Katơr, Pi năng v.v…) không được lấy nhau. Nếu lấy thì bị khép vào tội loạn luân, là tội nặng nhất (arih) và phải chịu hình phạt nghiêm khắc và theo quan niệm của người Raglai, nếu một người trong họ hoặc trong palơi vị phạm arih, sẽ bị yàng trừng phạt nặng nề, gây nên các tai họa như hạn hán, mất mùa, dịch bệnh. Muốn tránh bị trừng phạt, gia đình phải làm một lễ cúng và phải nộp heo trắng hoặc gà trắng. Theo các cụ già kể, trước kia, nếu ai phạm tội loạn luân, bị phạt úp mặt xuống đá, đánh bằng roi rất nặng lên mông, lưng, bắp chân trước sự chứng kiến của dân làng. Nếu tái diễn sẽ bị đuổi khỏi làng. Có vùng, người phạm tội loạn luân, khi bị bắt cả đôi trai gái phải vào chuồng heo và vục miệng xuống ăn cám heo, vì cho rằng chỉ có loài súc vật như con heo, con chó mới quan hệ tình dục bừa bãi. Người Raglai rất sợ khi trong tộc họ hoặc trong palơi có người phạm tội loạn luân, vì sẽ bị yàng trừng phạt cả cộng đồng.
Tuy luật tục quy định như vậy, nhưng trong thực tế ít có trường hợp nào xảy ra vì việc duy trì ngoại hôn dòng họ được thực hiện nghiêm ngặt. Một phần là do giữ gìn thanh danh truyền thống tộc họ, một phần vì sợ bị thần linh trừng phạt. Khi đi điền dã ở các thôn Ma hoa, Phước Đại, hỏi về việc người Raglai có hay vi phạm tội loạn luân hay không? Chúng tôi đều được trả lời là không. Thậm chí việc quan hệ tình dục lung tung của những đôi trai gái khác dòng họ tiền hôn nhân, khi chưa cưới cũng hiếm xảy ra. Nếu có thì bắt buộc phải tổ chức lễ cưới và phải nộp phạt để làm lễ cúng. Nét văn hóa phổ biến của các dân tộc thiểu số miền núi, trong đó có dân tộc Raglai, thường coi tình dục là cái thiêng, có sự giám sát của thần linh, ai nghe theo lời ma quỷ xúi dục làm bậy sẽ bị thần linh trừng phạt. Vì vậy, đa phần người Raglai tuân thủ theo những luật tục bất thành văn đã hình thành từ xa xưa, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ở đây, chúng ta thấy sức mạnh của tín ngưỡng, niềm tin vào sức mạnh của thần linh vô hình đã là sự điều chỉnh có hiệu quả cho sự duy trì đạo đức xã hội truyền thống của người Raglai, nhiều khi có hiệu quả hơn pháp luật. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, với sự xâm nhập của nhiều luồng văn hóa khác nhau, những phong tục tập quán truyền thống đó đang dần dần bị mất đi. Quan hệ tình dục tiền hôn nhân xảy ra ngày càng nhiều và đang phải điều chỉnh bằng pháp luật hiện hành.
   Tuổi hôn nhân của người Raglai khá sớm là phổ biến. Thường thì người con trai lớn tuổi hơn so với vợ. Con gái Raglai thường lấy chồng và có con sớm (14 - 15 tuổi). Ngày nay, khi đến vùng đồng bào Raglai, chúng ta vẫn có thể thấy nhiều em gái tuổi vị thành niên nhưng đã con bồng con bế. Ở vùng sâu vùng xa, hiện tượng nam nữ thanh niên lấy chồng sớm vẫn xảy ra, vì vậy không thể đăng ký kết hôn theo luật định với chính quyền nên rất khó xử lý.
Ngoài ra, đa số các gia đình Raglai đều sinh đông con, do tâm lý truyền thống xưa kia là sinh ở chòi ngoài rừng, sinh nở sớm khi chưa đủ tuổi thành niên, chưa đủ sức khoẻ, chưa đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm làm mẹ, kinh tế khó khăn nên người mẹ không đủ sức khoẻ khi sinh con. Vì vậy, tỷ lệ tử vong khi sinh nở khá cao, đa số trẻ em suy dinh dưỡng, cộng với tâm lý muốn đông con, vừa nối dòng dõi, vừa tăng lao động nên sinh nhiều con. Theo kết quả điều tra của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Ninh Thuận năm 2001, Phụ nữ Raglai ở lứa tuổi 40 trở lên bình quân có 5 đến 7 con, ở tuổi 39 trở xuống bình quân 3 đến 5 con. Tại xã Phước Chính, phụ nữ Raglai trên 45 tuổi bình quân có 6 đến 7 con. Như vậy, có thể thấy, mặc dù chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình đã được triển khai sâu rộng và có hiệu quả, nhưng vùng đồng bào Raglai, tỷ lệ sinh đông con vẫn cao[7].
             Việc tìm hiểu, yêu đương của thanh niên nam nữ khi đến tuổi thành hôn ngày nay đã khác xưa nhiều. Theo các cụ già, nhất là ở vùng Raglai Bắc, cách đây vài chục năm (từ những năm của thập kỷ 60, 70) vẫn còn tục “ngủ thảo”. Thông qua ngủ thảo, các thanh niên nam nữ có dịp tìm hiểu nhau. Ngày nay, tục ngủ thảo đã mất. Thanh niên nam nữ tìm hiểu yêu đương nhau thông qua lao động sản xuất, trong các dịp lễ hội hoặc các đêm sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt đoàn thanh niên v.v…Tuy duy trì chế độ mẫu hệ, nhưng quyền quyết định đi đến hôn nhân hay không đa phần vẫn là do người con trai chủ động ngỏ lời. Nếu hai bên tâm đầu ý hợp, sẽ về báo với gia đình cha mẹ hai bên biết. Quyền quyết định cuối cùng, cho lấy nhau hay không là do cha mẹ hai bên quyết định. Cha mẹ hai bên sẽ nhờ anh hoặc em trai hỏi các bậc cao niên xem có vi phạm về các nguyên tắc ngoại hôn dòng họ hay không? Kế đến mới xem xét về các tiêu chuẩn khác như về ngoại hình, sức khỏe, tính nết v.v…
   Từ xa xưa, người Raglai đã duy trì chế độ một vợ một chồng và được mọi người tuân thủ. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp đa thê (ít có trường hợp đa phu), đa phần là do người vợ cả không có con hoặc ốm yếu, bệnh tật, tuy nhiên cũng có những trường hợp do người đàn ông thích lấy hai vợ, cũng có nhiều trường hợp lấy luôn em gái vợ.
   3.3.2. Vấn đề ly hôn
Trong xã hội truyền thống, ly hôn trong vùng đồng bào Raglai rất ít xảy ra. Nếu giữa hai vợ chồng có sự trục trặc, hai gia đình có thể bàn bạc, tìm cách hoà giải những bất đồng và tìm cách giải quyết. Nếu không thể hoà giải thì phải nhờ đến sự phân xử của dòng họ và của palơi. Ngày nay, ngoài sự chi phối của luật tục, các cặp vợ chồng còn phải chịu sự chi phối bởi luật hôn nhân gia đình của nhà nước. Tuy nhiên, ở vùng sâu vùng xa, còn nhiều cặp vợ chồng lấy nhau không đăng ký kết hôn với chính quyền địa phương nên khi ly hôn, chính quyền điạ phương khó có căn cứ để phân xử. Đa số các cuộc hôn nhân và ly hôn chịu sự chi phối của luật tục là chủ yếu. Khi phân xử, những người gây ra nguyên nhân ly hôn phải chịu nộp các lễ vật của làng như mã la, chiêng, ché và phải bù đắp tiền làm lễ cưới. Con cái đa phần để lại cho người mẹ theo nguyên tắc của chế độ mẫu hệ. Sau khi li hôn, người con trai trở về nhà mẹ đẻ, không được mang theo của cải (nếu người chồng là nguyên nhân dẫn đến li hôn), còn nếu nguyên nhân li hôn là do người vợ, thì người chồng có thể được phân chia một ít tài sản (ít nhiều do hội đồng palơi quyết định, thường thì được chia rất ít). Như vậy, luật tục Raglai với chế độ mẫu hệ vô hình chung đã tự nó bảo vệ người phụ nữ. Tuy nhiên, luật tục lại không quy định người cha sau khi ly hôn phải có trách nhiệm nuôi con cái cho đến tuổi trưởng thành như luật hôn nhân gia đình quy định, trong khi đa số người phụ nữ Raglai đều đông con cái, đây là một gánh nặng cho người phụ nữ.
   3.3.3. Vấn đề thừa kế
Theo luật tục của người Raglai, với chế độ mẫu hệ, từ xưa cho đến nay, quyền thừa kế tài sản gia đình là người con gái út. Tất cả nhà cửa, tài sản có trong gia đình như sản vật nông nghiệp, công cụ lao động, nương rẫy v.v… khi cha mẹ chết đi đều trao quyền thừa kế cho người con gái út. Nhưng trong thực tế, nếu các tiểu gia đình (gia đình các chị em gái) đã ra ở riêng hoặc còn ở chung trong nhà sàn dài đều được chia của, nhưng những tài sản có giá trị như nhà cửa, nương rẫy dành cho người con gái út nhiều hơn.
   3.3.4. Vấn đề hôn nhân khác dân tộc
   Người Raglai xưa nay duy trì chế độ hôn nhân đồng dân tộc. Do điều kiện sinh sống ở vùng rừng núi, hiện tượng kết hôn với người khác dân tộc rất ít diễn ra. Nhưng vài chục năm trở lại đây, nhất là sau khi thành lập mới huyện Bác ái và khi con đường quốc lộ 27B được mở ra, nhiều hộ dân tộc Kinh, Chăm và các dân tộc khác đã lên định cư ở vùng Bác ái, Ninh Sơn và đã có nhiều trường hợp người Raglai kết hôn với người khác dân tộc. Vấn đề khai sinh, con cái mang họ gì đang là một vấn đề gây lúng túng cho các cấp chính quyền. Người Raglai theo chế độ mẫu hệ nên con cái khi sinh ra đều lấy họ mẹ. Nhưng chính quyền các cấp thường lúng túng trong việc này vì vừa phải duy trì theo luật hôn nhân gia đình (con cái sinh ra lấy họ cha), vừa phải tôn trọng truyền thống văn hóa gia đình, tộc họ của người Raglai. Vì vậy, hầu hết các cấp chính quyền và các cơ quan thực thi pháp luật đa số là để bà con tự lựa chọn, có thể lấy họ theo cha hoặc theo mẹ. Qua khảo sát cho thấy, đa số tâm lý các gia đình lấy người khác dân tộc đều muốn lấy họ của dân tộc Raglai, và ghi vào hồ sơ khai sinh là dân tộc Raglai, vừa được hưởng các quyền lợi ưu tiên cho các dân tộc thiểu số, vừa giữ được những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai.
Quyền thừa kế ở các gia đình kết hôn khác dân tộc đa số được duy trì theo chế độ mẫu hệ, nhất là những trường hợp kết hôn với người dân tộc Chăm (một dân tộc theo chế độ mẫu hệ). Tuy nhiên không bắt buộc theo luật tục bất thành văn như xưa nữa. Quyền quyết định là do cha mẹ, những người chủ gia đình sẽ quyết đinh phân chia tài sản cho các con.
Qua điều tra khảo sát chúng tôi thấy, một mặt cần duy trì những nét văn hóa truyền thống thể hiện trong luật tục về hôn nhân gia đình của người Raglai, mặt khác khi triển khai luật hôn nhân gia đình của nhà nước đến với vùng đồng bào dân tộc Raglai nói riêng và với vùng đồng bào thiểu số có truyền thống văn hóa nói chung, cần có sự nghiên cứu và áp dụng sao cho phù hợp, để vừa duy trì được luật pháp chung cho cả quốc gia, vừa giữ gìn được phong tục tập quán truyền thống, là một trong những rường cột quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Trong luật tục về hôn nhân gia đình, nhiều khi là những quy định bất thành văn nhưng lại rất có giá trị để duy trì sự ổn định và đạo đức xã hội, ví dụ như những quy định xử phạt và quan niệm về sự trừng phạt của thần linh khi phạm tội loạn luân của dân tộc Raglai. Nhưng mặt khác, cần phổ biến và thực hiện tốt những quy định về tuổi kết hôn, thực hiện tốt các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình bởi vì hiện tượng tảo hôn và đông con đang còn xảy ra phổ biến ở vùng đồng bào Raglai. Hậu quả của hiện tượng này dẫn đến việc suy thoái chất lượng dân số vùng Raglai. Đa số trẻ em bị suy dinh dưỡng, èo ọt, nhiều phụ nữ ngày càng ốm yếu, nhỏ thấp do sinh nở sớm và nhiều, trong khi điều kiện kinh tế, vật chất, chăm sóc y tế vùng đồng bào Raglai còn gặp nhiều khó khăn. Đó là chưa kể đến tệ nạn uống rượu của thanh niên, thói quen hút thuốc lá của phụ nữ Raglai v.v…tất cả những hạn chế đó dẫn đến tình trạng suy thoái tộc người, làm giảm nhanh chóng chất lượng dân số cả về thể lực lẫn trí lực.
Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế văn hóa xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi nói chung, vùng đồng bào Raglai nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tỉnh Ninh Thuận đã làm được rất nhiều, các mặt đời sống vật chất và tinh thần của người Raglai đã được nâng cao rõ rệt. Đặc biệt là đã xây dựng tương đối hoàn thiện cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, phủ sóng phát thanh truyền hình, hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ngành Văn hóa thông tin đã có rất nhiều cố gắng để vừa nghiên cứu bảo tồn, vừa phát huy bản sắc văn hóa tộc người Raglai. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là quá trình đô thị hoá ở huyện lỵ Bác ái và các xã dọc hai bên đường quốc lộ 27B, văn hóa khác đã du nhập vào cộng đồng người Raglai ở đây rất nhanh, làm thay đổi những sắc thái văn hóa truyền thống. Trong khi đó, những yếu tố lạc hậu chưa thực sự được loại bỏ hẳn mà đang trỗi dậy như nạn tảo hôn, đông con vẫn còn tồn tại.
Vì vậy, cần có những chương trình, kế hoạch về kinh tế, y tế, văn hóa cấp bách để nâng cao nhận thức và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện tốt các chương trình xoá đói giảm nghèo, nâng cao sức khoẻ, giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng cao chất lượng dân số, tăng thể lực, trí lực cho đồng bào Raglai.




[1] Khi chúng tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này, sự phân chia hành chính đã có sự thay đổi qua việc thành lập huyện Thuận Bắc trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Ninh Hải bằng Nghị định số 84/2005/NĐ CP về việc thành lập huyện Thuận Bắc. Theo đó, khi thành lập, đơn vị hành chính của huyện Thuận Bắc bao gồm 6 xã: Xã Lợi Hải, xã Công Hải, xã Phước Chiến, xã Phước Kháng, xã Bắc Sơn và xã Bắc Phong.
[2] Hải Liên, Tập san VNDG, số tháng 6 năm 2003, tr. 32.
[3] Nay là Viện KHXH vùng Nam bộ.
[4] Đại gia đình hay còn gọi là gia đình lớn, bao gồm ít nhất các thế hệ ông, bà, con và cháu. Trong đó có nhiều cặp vợ chồng cùng sinh sống. Tiểu gia đình, còn gọi là gia đình hạt nhân, gia đình tế bào, chỉ có hai vợ chồng và các con nhỏ.
[5] Ở các tỉnh phía nam, anh trai hay em trai đều gọi là cậu.
[6] Xem Phan Xuân Biên và các tác giả: “Văn hóa & Xã hội người Raglai ở Việt Nam”, Nxb KHXH 1998, Tr. 166.


[7] Tư liệu đề tài: “Các vấn đề xã hội truyền thống tác động đến đời sống phụ nữ Raglai tỉnh Ninh Thuận”, Hội LHPNVN tỉnh Ninh Thuận. Phan Rang 2001, Tr. 26

Chương III

LỄ HỘI

Dân tộc Raglai mang trên mình đầy đủ những tín ngưỡng đa phiếm thần của cư dân Nam Đảo ở Việt Nam nói riêng và cư dân nông nghiệp Đông Nam Á nói chung. Khác với người Chăm - một tộc người được coi là người anh em gần gũi nhất - người Raglai trong lịch sử chưa tiếp nhận những tôn giáo lớn trên thế giới (chỉ mới gần đây có một số hộ theo Tin Lành). Vì vậy, tín ngưỡng tôn giáo của người Raglai mang hình thức tôn giáo sơ khai, chi phối khá đậm nét trong đời sống tinh thần, đó là tín ngưỡng vạn vật hữu linh, thể hiện trong hệ thống lễ hội, chứa đựng các hình thức shaman giáo.
Cũng như các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo khác, người Raglai tin và thờ cúng các vị thần như: yang Chứ (thần  núi - cách gọi của người Gia rai), trong khi người Raglai gọi là yang Chơh; yang Ktăn (thần sét); yang Hma (thần ruộng nương); yang Pên la (thần bến nước); yang Hri (thần lúa). Đặc biệt, người Chăm cũng như các dân tộc Nam Đảo đều còn thờ vua Pơtao Ia) và vua Pơtao Puih gắn với truyền thuyết về hai vương quốc Hoả xá và Thuỷ xá. Người Ê đê cũng thờ thần Mặt trời (yang Hroê), thần Mặt trăng (yang Mlan) v.v…Các vị thần ở ba cõi đều tồn tại ở các dân tộc Nam Đảo và vẫn tồn tại ở người Chăm tuy tên gọi có khác đi do sự biến thái của ngôn ngữ.
Trong quan niệm của người Raglai, có rất nhiều vị thần liên quan đến việc sinh đẻ như: vị thần tổ sanh phù hộ cho con người sanh đẻ nhiều con cái được gọi là yang Aluah cadoh sai, viluai cheq, cadoh sai, viluai tavỡm - có nghĩa đen là Giàng Tổ sanh bầu đựng (hột giống) sai trái, bầu gieo, bầu đựng (hột giống) sai trái, bầu vun gốc. Cũng vậy, khi định danh Asur vungãq yawa suàt gajìq - Vía thần hồn hơi thở sinh mạng bản thân người Raglai còn gọi là: Asur gòq lidai -  Vía ống bễ lò rèn - một vật thể có hoạt động tương ứng với hoạt động hô hấp của con người. Để phân biệt vị trí quan trọng nhiều ít, thấp cao của vungãq - hồn hay yang vungãq - Thần hồn, người Raglai dùng theo thứ tự con cái trong nhà: yang vungãq cachua - Thần hồn đầu lòng, yang vungãq khrãh - Thần hồn giữa, yang vungãq tiluiq - Thần hồn út.
Với tín ngưỡng vạn vật hữu linh, người Raglai coi đâu đâu cũng có thần: thần sông, thần suối, thần núi, thần cây, thần nhà, thần bếp, thần gió, thần mưa, thần mặt trời, thần ông, thần bà v.v…Khi con người bị đau bệnh hay mùa màng thất bát đều tin rằng do ma quỷ làm. Vì vậy nên sinh ra đội ngũ thầy cúng (pajau) làm lễ cầu xin và hiến tế.
Để thực hiện những nghi lễ cầu cúng, người Raglai phải mời các thầy cúng (shaman) mà người Raglai gọi là “pajau” (bầu dầu) để làm lễ. Hiện nay, những người làm nghề này không còn nhiều.
1. Nghi lễ nông nghiệp
Người Raglai chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu của miền Trung - Tây Nguyên với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Với một vùng khí hậu đặc biệt khô nóng như cực nam Trung bộ, các cây trồng phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên. Người Raglai cũng có những nghi lễ theo vòng cây trồng theo chu kỳ thời tiết mùa vụ nương rẫy
1.1. Lễ cúng rẫy
Rẫy có hai loại: rẫy cũ và rẫy mới. Rẫy mới là loại rẫy phát lần đầu. Một gia đình có thể có nhiều rẫy cũ và có thêm rẫy mới. Phát rẫy là động đến thần đất (yang Tanawk), thần cây (yang Kayâu), thần đá (yang Patâu). Vì vậy không thể chặt cây, lăn đá, đào đất, đốt rẫy mà không xin phép bằng một lễ cúng trước khi phát rẫy.
Lễ phát rẫy: Từ tháng 12 đến tháng 2 d­ương lịch, trư­ớc khi phát rẫy mới bà con đem ra rẫy một chiếc chiếu bằng tre đan, trải ra đất, đặt lên đó rư­ợu, trầu, cau, thuốc rê, nư­ớc lã, lửa than đựng trên những cái bát bằng đất hoặc bằng sứ. Trên vành bát đựng trầu cau được dính chặt vào một cây nến bằng sáp ong (nếu có thêm cơm, thịt gà càng tốt). Đối t­ượng cúng trong lễ phát rẫy mới là ông bà tổ tiên, các yang đất, cây, đất, thần giữ rẫy … ng­ười cúng là chủ nhân của rẫy mới. Ở palơi Karauvo và Hulâu Krok, khi phát rẫy phải mời thầy cúng đất đến cúng tại rẫy. Sau khi ông thầy tỉa củ nghệ xuống đất và khấn xin xong mới đ­ược phát rẫy. Riêng ở palơi Ma Ty, xã Ph­ước Tân và một số palơi khác, trong lễ cúng này phải cúng gà trắng và gà đen. Gà trắng giành để cúng thần lớn ở trên trời, gà đen là để cúng thần đất, cúng ma (atơu).
Lễ đốt rẫy, dọn rẫy mới: Phát rẫy xong để khô, chờ ngày đốt rẫy. Đốt rẫy không phải chọn ngày tốt, xấu mà chỉ cúng tại rẫy, mong lửa cháy cho trọn vẹn, an toàn, sạch sẽ, không cháy lan qua rẫy khác, núi khác, đuổi hết rắn rết ra ngoài. Đối t­ượng thỉnh cầu là thần lửa (po yang Apui) và thần giữ rẫy.
Lễ cúng này phải có một con gà, hai chén cơm, r­ượu, n­ước, trầu, cau, thuốc, nến, ô lửa. Trong lễ này có làng cúng cả cua núi, cá núi. Sau khi đã dọn xong rẫy, tối hôm ấy về nhà gia chủ giết một con gà và một ché rư­ợu cúng tại nhà để cầu ông bà, tổ tiên cho giống nẩy mầm xanh tốt. Khi cúng xong, để lại một cái đùi của con gà cúng, để lại một bầu rượu để sáng hôm sau đem ra cúng Yâu yac j­ư poawk (ngài canh giữ rẫy) xin “tỉa/trỉa phép” và xin cho lúa bắp nẩy mầm xanh t­ươi, thú không phá rẫy, kiến mối lánh xa đất này. Sau lễ cúng, gia chủ dùng ní/xà beng chọc 3 lỗ trỉa lúa, 3 lỗ trỉa bắp (tỉa phép – tượng tr­ưng). Đợi đến khi tai nghe tiếng ếch “òn” hát (con ễnh ương kêu), tức là đã có mư­a giông đầu mùa, khi đó mới tỉa đại trà.
Lễ cúng rẫy cũ: Rẫy cũ là rẫy đã sản xuất, đã thu hoạch vài ba vụ. Sau khi thu hoạch, khoảng tháng 1 đến tháng 3 d­ương lịch, trư­ớc mùa mư­a, bà con phải đi phát quang rẫy, đốt rẫy, dọn rẫy sạch sẽ để tỉa gieo vụ khác. Phát dọn rẫy cũ không phải cúng. Nhưng tr­ước khi tỉa hạt, nhất là đối với giống mới, nhất thiết phải cúng cầu cho hạt nảy mầm, mùa vụ tốt tươi.
1.2. Lễ tỉa/trỉa hạt
Với mong ­ước đ­ược m­ưa thuận gió hoà, mong kiến, mối không hại giống, mong cho lúa, bắp xanh t­ươi, gia chủ lại đem lễ vật ra cúng tại rẫy. Lần này lễ vật long trọng hơn. Gồm có: cơm, gà, bánh tét, chuối, rư­ợu, trầu cau và đặc biệt là có thêm vài quả trứng luộc với ngụ ý cầu mong cho mọi sự đ­ược khai sinh, nẩy nở, phát triển tốt đẹp. Đối tư­ợng cúng cầu là yang Tanăk (đất), yang Tangơi (bắp), yang Padai (lúa) yang Huray (mặt trời), Kay Du, Kay Dai (các vị cai quản muôn loài) …
1.3. Lễ cúng lúa chửa (Ngawk yac buai padai - cúng bà đỡ)
Tục lệ này hiện nay vẫn còn nhiều làng bảo l­ưu vì đây là thời điểm quyết định “có đ­ược ăn hay không”? Lúa có ngậm sữa, có hạt hay không? Theo quan niệm của bà con Raglai, lúa, bắp cũng có yang tổ phụ, sinh ra nữ thần Lúa và nam thần Bắp đ­ược bà con gọi th­ương, gọi yêu là “ơi con gái, ơi con trai”. Lúa có đòng tức là thời kỳ sinh nở của yang Padai. Cúng lúa chửa tức là cầu mong cho “mẹ con” đều khoẻ mạnh và phải nhờ bà đỡ. Vì vậy lễ này là lễ cúng cầu bà đỡ (ngăk yac buai padai). Lễ cúng gồm có gà, cơm, trứng, n­ước, r­ượu, trầu cau …
1.4. Lễ cúng lúa chín
Khi lúa đã chín đều, bà con thư­ờng xin bứt trư­ớc một vài chén lúa đem về nhà, rang giã nổ, nấu chén cơm để cúng ông bà, cúng các yang xin đ­ược đem hết lúa trên rẫy về nhà, rồi sau đó mới thu hoạch hết số lúa còn lại.
Khi thu hoạch, có làng kỹ hơn: dùng tay bứt vài gùi lúa đầu tiên. Số lúa này để lại ở chòi rẫy. Đó là lúa “mẹ” giành để làm giống, tỉa tr­ước. Số còn lại thu hoạch sau. Khi lúa ở trên rẫy đã thu hoạch hết, lúa “mẹ” mới đ­ược đem về nhà. Lúa “mẹ” đ­ược cất kỹ để tỉa trước tiên, sau đó mới tỉa đến lúa “con”. Lúa để giống không đ­ược để trên dàn bếp, không đ­ược để “chó nhảy qua, gà nhảy lại”.
1.5. Lễ hội “ăn lúa mới” (bac padai barâu)
Hiện nay ở một số làng vẫn giữ tục lệ cúng lễ “ăn lúa mới”. Một số làng đã bỏ hẳn tục “ăn lúa mới” và cũng không còn lễ “ăn đầu lúa” vì có thời kỳ bị coi là mê tín dị đoan.
Từ xư­a, theo tục lệ hàng năm, sau khi đã thu hoạch xong, lúa bắp đã về “đậu trong nhà” (tức là đã đ­ưa lên chòi lúa), ch­ưa ai đư­ợc phép ăn lúa, bắp mới thu hoạch, nếu ch­ưa cúng “ăn lúa mới” hoặc cúng “ăn đầu lúa”.
Gặp lúc đói khó. Nếu muốn ăn bắp trư­ớc khi cúng lúa mới, người ta phải đi cắt cây cỏ may, cột lại thành bó, nhúng nư­ớc khấn xin đ­ược ăn bắp rồi mới đ­ược lấy bắp ra ăn. Sau đó đi đào củ khoai tím, n­ướng lên (có nơi luộc chín) ăn chống đói, chờ làm lễ cúng “ăn lúa mới” rồi mới đ­ược ăn đến lúa.
Do điều kiện và thời gian canh tác có khác nhau, thu hoạch khác nhau, nên hiện nay các làng tổ chức lễ “ăn lúa mới” lệch nhau về thời gian. Đa số làng thu hoạch xong mùa vụ ở rẫy vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 11 dư­ơng lịch. Tháng 12 đến tháng 1 năm sau mới tổ chức “ăn lúa mới”. Hiện nay cũng có làng vừa làm rẫy vừa làm ruộng (nh­ư Tà Dư­ơng - Bà Râu …) nên bà con ăn lúa mới trùng với tết âm lịch của người Việt.
Mặc dầu cách tổ chức nghi lễ ăn lúa mới ở mỗi làng có khác nhau như­ng nội dung và mục đích, quan niệm tâm linh của lễ cúng cũng nh­ư lễ vật cúng đều cơ bản giống nhau.
“Ăn lúa mới” là một lễ nghi nông nghiệp nư­ơng rẫy hội tụ đủ 3 nội dung cơ bản giống như­ ăn tết năm mới của ng­ười Việt, ng­ười Chăm và các tộc ngư­ời khác trên đất n­ước ta. Bởi vậy người Raglai bảo “ăn lúa mới” tức là cúng năm mới (ngawk yac thoot barâu). Ba nội dung cơ bản ấy là :
- Đánh dấu kết thúc một chu kỳ sản xuất trong năm với sự mừng vui, “ơn trả nghĩa đền”, trư­ớc khi h­ưởng thụ.
- Đây là dịp để bà con trong dòng tộc nội, ngoại ở các nơi đều tụ hội về gặp mặt, thăm hỏi nhau. Mâu thuẫn trong gia tộc có cũng đ­ược hoà giải từ các cần hút cắm chung trong một ché rư­ợu cần cúng tổ tiên.
- Đây là dịp “ơn trả nghĩa đền” đối với ông bà tổ tiên, đối với đất đai, nắng, m­ưa, s­ương, gió … và các đấng “bề trên” đã đ­ược về trong lễ cúng phải được tiễn đi khi lễ đã kết thúc. Qua 3 nội dung này, chứng minh rằng “ăn lúa mới” hoặc “ăn đầu lúa” chính là tết của tộc người Raglai.
Để thực hiện đ­ược 3 nội dung của lễ hội nêu trên, bà con Raglai không chỉ có cúng “ăn lúa mới” mà còn có cúng “ăn đầu lúa” nữa.
   Từ tháng ngày đầu tiên, với sự hư­ớng dẫn của vị chủ tế, thường là ngư­ời trong gia tộc cử ra, đàn ông lo dọn dẹp nhà cửa, sắp đặt bàn lễ, chọn ngư­ời tấu mã la trong lễ … Phụ nữ rang lúa mới, giã cốm, nấu cơm, lặt thái rau quả.
Những lễ vật như­ r­ượu cần, gà, cua núi, cá khô, hành củ nguyên cây … đã đ­ược chuẩn bị sẵn sàng tr­ước đó một đêm. Đến gần tr­ưa thì trong nhà đã sắp đặt xong các bàn lễ theo h­ướng nam – bắc. Ở Ma Nới, bà con không câu nệ về h­ướng đặt bàn thờ nh­ư ở Tà D­ương (Phước Thái). Gọi là bàn thờ như­ng đúng hơn là bàn lễ, vì ngư­ời Raglai không hề có bàn thờ phật, bàn thờ tổ tiên nh­ư ngư­ời Việt. Bàn lễ đặt ngay trên sạp tre. Nếu nhà trệt không có sạp, bàn lễ đ­ược đặt ở d­ưới đất, sát vào vách. Bàn thờ chính đ­ược đặt ở hướng bắc, bàn lễ phụ đặt ở hướng nam. Nếu có nhà sàn truyền thống thì bàn lễ bao giờ cũng đặt ở sát chân cột chính nằm giữa nhà sàn - đường lên xuống của tổ tiên, thần thánh (cột thông linh) – nơi luôn được đặt ché r­ượu cần.
Bàn lễ phụ ở h­ướng nam, là nơi đặt ché r­ượu cần để làm lễ xin tra n­ước, xin cắt cổ gà, trư­ớc khi hút r­ượu cần mang sang bàn lễ chính ở h­ướng bắc. Trên cổ ché rư­ợu, ng­ười ta quàng một vòng chuỗi c­ườm hạt lớn. Trư­ớc ché rư­ợu là một mâm lễ, trên đặt một tô lửa than, hai bát n­ước lã, một tô gạo đầy. Thành của ô gạo đ­ược dính chặt vào một cây nến bằng sáp ong đang cháy.

Thầy cúng (ngư­ời trong gia tộc hoặc trong làng) chắp hai tay lên đầu khấn báo, khấn mời yang Ngok, yang Gru (thiên thần) yang Cơk (thiên thần) yang Muk kay (nhân thần) về dự lễ ăn lúa mới của gia tộc, mời bề trên chứng giám cho lễ cắt tiết gà, lễ tra nư­ớc vào ché r­ượu cần. Khấn rằng: gà khoẻ mạnh, r­ượu cần tinh khiết không phải là cặn bã … Lễ vật này là để nghĩa đền, ơn trả đối với bề trên. Ở nhiều làng hiện nay vẫn giữ tục cúng gà lông màu trắng cho thiên thần, cúng gà lông màu đen cho atâu (ngư­ời chết), cho đất. Trư­ờng hợp này cúng cả gà màu trắng lẫn màu đen (có thể là do quan niệm cúng âm, cúng dương). Nếu cúng để cắt đứt quan hệ với ai đó, hoặc cúng các vị vô thần sẽ cúng gà lông màu đỏ tía.
Sau khi khấn, gà sẽ được đem đến trư­ớc bàn thờ hướng nam để cắt cổ/tiết. Nước sẽ đ­ược đổ vào ché trư­ớc sự chứng kiến của bề trên. Tiếp đến là lời khấn cầu nội dung nh­ư sau :
“Tôi tớ xin phép bề trên nhớ tới đầu năm, đầu tháng, đầu mưa, đầu gió, xin cho thân ng­ười cứng như­ đá tảng, đầu cứng nh­ư sắt, gia đình sum họp, lên núi vững, xuống sông chắc, lên rừng cọp beo xa lánh, phát rẫy làm n­ương chắc rựa, chắc rìu. Rắn không dám cắn, kiến đỏ, kiến đen không giám đốt, lên núi lên rừng đi tới nơi, về tới nhà, đi không mệt, về không mỏi, làm rẫy đư­ợc rẫy, lúa, bắp, khoai, kê, về đậu đầy nhà. Heo gà đầy chuồng, muốn gì đ­ược nấy”. Khấn xong, hai người trong gia đình đến bên ché rư­ợu, hút r­ượu cần ra bầu, ra bát, bưng qua bàn lễ h­ướng bắc. Thầy tiếp tục khấn:
“… Xin đốt khói thư­a, đốt trầm mời các vị thần núi, thần sông, thần ở nơi đá tầng, nơi rừng già, cây đa lớn, thần một cái răng, một sợi tóc, thần ở 4 ph­ương, tám h­ướng, thần bang gò, bứng gốc, thần khuân vác, đốt rẫy... xin bề trên cho binh tư­ớng tới canh giữ bàn lễ, để khỏi chó chạy qua, gà nhảy lại”.
Bàn lễ hư­ớng bắc đặt sát vách. Trên tường, chính giữa bàn lễ, ng­ười ta dùng 2 sợi dây dài khoảng 0,8 mét giăng ngang. Trên sợi dây ấy, người ta vắt ngang một bộ áo, váy, khăn của phụ nữ. Ở hai đầu cây được móc vào 2 hạt cườm.
Lễ vật cúng gồm: 1 con gà, 1 ché r­ượu cần, 5 – 10 bát cơm đơm cao ngọn. Trên mỗi bát cơm đều có 1 con cua núi và cây hành để nguyên cả củ và lá. Ngoài ra còn có nhiều chén hạt nổ, gạo, nước lã, trầu cau. Các lễ vật này đ­ược sắp thành 3 mâm theo một hàng dài: mâm để mời các yang, mâm mời ông bà tổ tiên, mâm dành cho thổ địa.
Sau nhiều lần khấn mời, khấn cầu, đội đánh mã la (một loại chiêng bằng – nhạc cụ độc đáo của người Raglai, nằm trong nhóm nhạc cụ cồng chiêng Tây Nguyên) cùng một ngư­ời đánh trống, ăn mặc chỉnh tề đánh nhạc từ ngoài sân vào nhà. Đến bên cạnh bàn lễ, đội mã la đánh liên tục 3 bài thỉnh mời Da  a po yang (các thần); Da a po yang gru (thần chủ); Da a po muk - kay (ông bà).
Ba bài mã la kết thúc, thầy cúng khấn phục hồn cho toàn gia tộc. Ông thầy cúng vốc một nắm gạo, hai bàn tay nh­ư ôm lấy ngọn nến, miệng khấn vái, cầu an linh hồn cho mọi ng­ười rồi bỏ gạo lên đầu tộc tr­ưởng để tạ ơn đất. Thầy cúng tiếp tục hốt gạo, bốc cơm, múc r­ượu khấn rồi bỏ xuống đất. Tiếp đến là lễ tẩy uế, tống ôn:
“ … Xin ngài hãy rút hết chông gai, rút hết ốm đau, bệnh tật, đại hoạ. Xin ban cho sức khoẻ để chạy nh­ư chó, cất vó như­ ngựa, đi không mệt, về không mỏi, muốn vàng có vàng, muốn bạc có bạc”.
Tiếp theo là lời khấn phục sức:
“Xin đ­ược ban n­ước ngon, n­ước ngọt, ban sức, ban lực cho con cháu gia chủ, cho họ sống đến đầu bạc, linh hồn vẫn sáng tỏ mọi đường…”
Tiếp đến là lễ cúng tạ mã la, cúng vị tổ phụ đã làm ra nó. Lễ này do một ng­ười trong gia tộc đã tham gia đánh mã la thực hiện. Tất cả các chiếc mã la đều úp xuống đất. Sau đó tất cả đều lật ngửa lên. Riêng chiếc mã la Ina mun (mẹ cả) để ngửa như­ một cái mâm nhận tất cả lễ vật vào đó: cơm, cua, trứng, hạt nổ, trầu cau, r­ượu … Đầu tiên vị đại diện cho gia tộc mời từng vị mã la uống rư­ợu, ăn trầu. Sau đó mời ăn cơm, ăn hạt nổ, ăn trứng. Kết thúc là mời các mã la uống n­ước, ăn trầu, hút thuốc. Tất cả các lễ vật đều đ­ược chia đều cho từng vị mã la.
Lời khấn tạ mã la:
“… Tôi tớ xin đốt khói th­ưa, đốt trầm mời các vị tổ phụ thư­ờng đào đồng làm mã la, làm chiêng. Mã la đánh nơi này kêu vang xuyên qua rừng núi, thấu tới ng­ười Churu, K’ho, thấu đến bên Tàu, thấu tới Yawa, thấu tới thần mặt trời, thấu tới các tổ phụ th­ường đánh mã la. Xin mời các tổ phụ hãy xuống bàn lễ, h­ướng lễ vật và ban cho mọi điều may mắn từ đây và mai sau …”
Bây giờ ng­ười ta gọi vào 2 cháu bé, một trai, một gái, bảo chúng ngồi xuống, bê trứng ra cho chúng ăn. Sau đó chúng tự bốc cơm, bốc hạt nổ ăn và uống rư­ợu cần. Các chiếc mã la đ­ược lau, dọn sạch sẽ. Ngư­ời cúng tạ mã la xách lên chiếc mã la mẹ cả (ina mun) đánh 3 tiếng ngân vang. R­ượu cần đã cúng, đ­ược múc ra mời tất cả các thành viên trong gia đình, mỗi ng­ười uống một ngụm nh­ư nhận lấy ph­ước lộc của ông bà.
Với giọng hát ru đầy hàm ơn, thầy cúng nh­ư vuốt ve ‘con gái” (lúa) “con trai” (bắp) đã về đậu trong nhà”:
“..ơi … ơi … mẹ ru con gái, ơi lúa, con gái của mẹ ơi … 37 đứa con, ơi con gái của mẹ!
- Con đã chịu đau d­ưới cối, chày để nuôi mẹ, nuôi cha,
- Con đã chịu đựng d­ưới n­ước để nuôi anh, nuôi em, ơi con gái của mẹ!
“ơi … ơi mẹ ru con trai của mẹ, ơi con trai của mẹ!
ơi … bắp trắng ra trư­ớc, con trai đầu của mẹ!
đừng để n­ước muốn đổ, nồi muốn nghiêng
Hãy đến cùng con cháu chúng ta, ơi bắp trắng, con trai của mẹ!”
Trong khi thầy cúng rung lục lạc, hát ru hồn bắp, lúa, một vị cao niên nhất của gia tộc đến ngồi bên cạnh thầy cúng, thổi sáo taleăk.
Tối đến, mọi ng­ười ăn cơm, nh­ưng các loại vật cúng vẫn giữ nguyên chỗ cũ, ch­ưa ai dám động đến. Ban đêm, bà con quanh xóm theo tiếng mã la hội gọi mời kéo đến mỗi lúc một đông. Họ đến cùng uống r­ượu cần, cùng hát vui với gia tộc cho tới sáng.
Sáng hôm sau, con gà luộc hôm qua mới đ­ược xé nhỏ ra, đặt lên các mâm lễ, tiếp tục cúng. Lời khấn sáng nay giống như­ hôm qua. Chỉ có điều khác là chùm lục lạc trên tay vị thầy cúng rung lên dữ dội. Ông nghiêng ngả như­ đang trong cơn mê, như­ đang đánh thần (shaman). Ông nhắm nghiền mắt lại một lúc rồi mới mở ra, tiếp tục vốc gạo muối đưa lên khấn rồi cột chúng vào trong một mảnh vải, bỏ vào chiết (giỏ). Hạt nổ, thịt gà cũng đ­ược làm như­ vậy. Sau đó, nắp chiết[1] đ­ược đậy lại cẩn thận.
Hành động lễ này ngụ ý cầu cho l­ương thực, vật nuôi mãi mãi “đậu” trong nhà không bỏ đi nơi khác.
Bây giờ thầy cúng bỏ hạt nổ thật nhiều vào bát lửa, khói bốc lên nghi ngút, lan toả khắp nhà, ông vừa khấn vừa đ­ưa tay làm động tác tẩy uế cho cả gia tộc tr­ước khi nhúm từng nhúm cơm và thịt gà, đút vào miệng cho từng ngư­ời đ­ược h­ưởng lộc, h­ưởng ph­ước bề trên.
Đến đây đội mã la lại hòa tấu bài “tiễn đ­ưa bề trên” vì lễ đã kết thúc. Tuy lễ đã kết thúc nh­ưng từ chiều đến tối hôm ấy, trong nhà gia chủ vẫn tấp nập ngư­ời vào ra để chia vui với gia chủ bằng r­ượu  cần và lời chúc tụng, hát đối đáp, hát kể chuyện đời x­ưa, thổi kèn bầu, đánh mã la bài “ruwơ” (bài mã la nhịp 3/4 thay lời nói giao l­ưu với nhau).
1.6. Lễ hội “ăn đầu lúa” (bâc akok padai)
Lễ hội “ăn đầu lúa” được tổ chức từ 5 đến 7 năm một lần. Một số làng Raglai ở phía nam đ­ường quốc lộ 27 gọi “ăn đầu lúa” là lễ “ngăk yac kay du” (lễ cúng hai vị thần “kay du, kay dai” - là hai vị làm nên lúa, bắp, cây cỏ …). Vì vậy trong lễ phải có 2 thầy cúng: ông “du”, ông "dai”. Tuy về thời gian, lễ vật trong “ăn lúa mới” và “ăn đầu lúa” có khác nhau nhưng nội dung, ý nghĩa gần như nhau.
Trong toàn tỉnh Ninh Thuận, hiện nay chỉ còn ở palơi Yarot thuộc xã Ma nới, huyện Ninh Sơn tiến hành lễ hội “ăn đầu lúa” còn đậm phong tục truyền thống hơn cả. Ở thôn Là A, xã Phư­ớc Hà, huyện Ninh Phước hiện chỉ còn gia tộc bà Tà Yên Thị Kiên là còn tổ chức 5 – 7 năm một lần.
Để chuẩn bị làm lễ ăn đầu lúa, trước hết phải làm cây nêu. Trụ cây nêu là một khối vuông nhỏ dần lên từ gốc, cao khoảng 4 mét đ­ược đẽo, vẽ bằng các màu đen, đỏ, vàng, trắng với các hình trái mây, cổ chim cu, ông sao… Ở gần đỉnh thân trụ, đư­ợc đục xuyên thủng để đ­ưa vào hai đoạn tre đặc nằm ngang như­ 4 cánh tay giang ra. Cây ngang ở trên ngắn hơn cây ở d­ưới, khoảng cách chừng 60 phân. Hai cành tre như­ 2 cần câu dài hơn 2 mét, gốc đ­ược cắm vào trụ ở ngay vị trí đoạn tre đặc dài, xuyên qua thân trụ, chia góc vuông do thân trụ và đoạn tre đặc tạo thành ra hai góc 45 độ. Trên 2 cần tre đặc này, ngư­ời ta vót, vạt chung quanh từng đoạn, thớ tre mỏng uốn cong, chĩa ra như­ những mũi tên nối nhau v­ươn lên trời cao. Ở hai đầu cần tre dài và các thanh tre nằm ngang, người ta buộc thõng các sợi dây trang trí bằng các vòng tre nối nhau nh­ư mắt xích từ trên cao xuống tận mặt đất. Trên những sợi dây này, ng­ười ta cắm nhiều hoa ngũ sắc. Ở tận cùng của mỗi sợi dây lại đ­ược cột vào những hình con diều, con ó đan bằng nan tre sơn vẽ nhiều màu.
Nhìn chung hình t­ượng cây nêu ở mỗi làng có khác nhau một số điểm. Như­ng tựu trung nó đều là biểu t­ượng liên hệ giữa đất, trời và con người (cột thông linh thiên - địa – nhân, ba tầng vũ trụ).
Càng để lâu năm, lễ hội “ăn đầu lúa” càng đ­ược làm lớn. Lễ vật phải có heo hoặc trâu. Tộc họ Ta – ing (Tà Yên) ở palơi Yarot, xã Ma Nới năm nào cúng cũng tìm bằng được con Anu[2]. Nếu không săn được anu thì phải làm thịt trâu.
Tuy không bận rộn, tốn kém nh­ư lễ hội bỏ mả, như­ng lễ hội “ăn đầu lúa” cũng phải chuẩn bị rất công phu. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày 2 đêm hoặc 2 ngày 3 đêm, tùy theo quy mô của nó.
Ngày thứ nhất của lễ “ăn đầu lúa” được tiến hành lúc gần tối. Ngư­ời ta dọn lên bàn lễ đặt bên phải cửa ra vào một bát nhỏ đựng hai quả trứng gà luộc, một chén trầu cau, hai chén hạt nổ. Thầy cúng là ng­ười của gia tộc khấn báo cho các thần/yang và tổ tiên biết gia tộc sẽ tổ chức lễ ăn đầu lúa để trả ơn trên. trư­ớc khi cúng, sau khi khấn, ông thầy cúng ăn (làm phép) hai quả trứng luộc.
Sáng sớm ngày thứ hai, ng­ười ta đem con vật tế ra (heo, trâu hoặc anu) cột ở dưới gốc cây nêu. Đội múa lễ gồm 4 nữ, 4 nam theo nhịp hòa tấu giữa kèn bầu sarakel, trống lớn và mã la (hoặc chiêng ba) múa quanh cây nêu. Bài nhạc lễ có tên “da a pô yang trôt mai” (mời thần thánh tổ tiên), và bài “da  a poo yac prôc nh­ưc” (mời thần chủ). Người ta cắt tiết heo, lấy máu bôi vào chân trụ nêu và các tua bông đang rũ xuống. Sau đó, heo và anu đ­ược mang đi làm thịt, luộc chín.
Tối đến, bên cửa ra vào, ng­ười ta đặt một bàn lễ ở trên sạp. Nhà không có sạp thì trang trí một mâm lễ ở sát t­ường, đặt ngay ở dư­ới đất. Mâm lễ ở đây chỉ có trầu cau, rư­ợu và hạt nổ. Bên trong, nơi rộng hơn, đặt một bàn lễ lớn hơn, gồm các lễ vật đã đ­ược hiến tế tại chân trụ nêu lúc sáng. Heo và anu sau khi luộc chín, được để nguyên con đặt chính giữa với các tô/bát r­ượu cần. Đồ cúng đ­ược sắp dọc hai bên mâm. Mỗi bên đặt 25 cái hộp làm bằng bẹ chuối. Trong mỗi hộp đựng đầy cơm, thịt gà, cua núi. Một bên là mâm của thần thánh. Một bên là của ông bà và vong linh gia tộc. Đội múa gồm 4 nam, 4 nữ múa quanh mâm lễ lớn và thầy cúng. Mỗi lần múa họ phải đi 4 vòng xuôi, 4 vòng ngư­ợc kim đồng hồ rồi ra ngoài thay chỗ cho tốp khác vào múa tiếp 8 đợt nh­ư thế. Nhạc lễ lúc này không bao giờ dứt trong 64 vòng múa với tiếng hét phấn kích hô, hô! huơ, huơ! của mọi ngư­ời. Đêm đến cuộc vui hội lại kéo dài suốt sáng.
Sáng hôm sau (ngày thứ hai của lễ), mỗi gia đình trong dòng tộc bưng đến một thau/chậu nhỏ lúa mới. Trên đó, ng­ười ta cắm hoa và đặt một chai r­ượu để góp vào mâm lễ vật dâng lên bề trên. Mọi người tiến hành rang và giã lúa. Lúc này con “anu” mới đ­ược mang ra đặt vào bàn lễ chính, xung quanh bày các lễ vật khác như cơm, cua núi, hạt nổ, gạo, rượu, trầu cau…
Thầy cúng bắt đầu cúng buổi sáng, khấn xin cho toàn gia tộc được bình yên khoẻ mạnh. Trong tiếng rung của dây lục lạc và tiếng sáo taleăk, thầy cúng hát ru “con trai” (bắp), ru “con gái” (lúa) cầu mong cho các vị thần lúa, bắp luôn về đậu đầy nhà. Mong cho vật nuôi cây trồng sinh sản đầy đàn; tai hoạ, hoạn nạn tránh xa. Sau các lễ cầu an, chúc phúc của thầy cúng, lễ đi vào kết thúc. Nhạc lễ vang lên bài tiễn đư­a các thần về trời.
Đây là lúc vui vẻ nhất của mọi ng­ười. Bài nhạc “tamây dăm dara” (trai gái múa mừng) do kèn bầu sarakel làm giai điệu, trống lớn và chiêng đệm tiết tấu giữ nhịp vang lên rộn rã. Mọi người vừa múa vừa bốc hạt nổ, vừa ăn vừa chuyển ra ngoài cho ng­ười khác cùng ăn. Điệu múa kết thúc, moi người ngồi thành vòng tròn, mọi ngư­ời chuyền tay nhau ăn thịt con anu đã được luộc chín. Họ vừa ăn vừa la hét, cười vui vẻ cho đến khi ăn hết con vật.
Sau lễ cúng, 50 chiếc hộp bằng bẹ chuối kết lại đựng đầy thức ăn đ­ược đem hết ra nhà mồ của gia đình để mời đất và ma nếu có về thăm thì h­ưởng lộc đầu năm.
Sau khi phần “lễ” kết thúc là phần “hội” kéo dài thâu đêm. đây chính là lúc các nghệ nhân có dịp trổ tài, tự bộc lộ mình một cách hồn nhiên nhất bằng những điệu nhạc, điệu múa trong men say ngây ngất của rượu cần.
Trong lễ hội này, riêng về nhạc cụ sử dụng có khác nhau. Ở xã Ma nới và làng Takay - Ia thuộc xã Phan Lâm, huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận thư­ờng dùng nhạc lễ bằng bộ chiêng 3 chiếc (chiêng có núm) hòa tấu với kèn sarakel và trống lớn. Các xã khác lại dùng bộ mã la 5 chiếc trở lên để hòa tấu với khèn bầu sarakel và trống. Nh­ưng dù là chiêng hay mã la, khi lễ đã kết thúc, tất cả nhạc cụ vẫn để nguyên tại nhà, ba ngày sau mới đ­ược tháo đem ra. 
2. Những nghi lễ vòng đời
2.1. Nghi lễ sinh đẻ

Khi mang thai, người Raglai kiêng không ăn mít vì mít có nhiều mủ. Cũng như một số dân tộc Đông Nam Á khác, người Raglai quan niệm sinh đẻ là “xú uế” nên không cho người đẻ ở nhà. Cách nay không lâu, người Raglai vẫn giữ tục “đẻ rừng”. Để sinh đẻ, người nhà làm một cái chòi tạm, xa nhà ở khoảng vài chục mét. Chòi để sinh đẻ được làm thô sơ, thường có 4 cột, rộng khoảng 4 đến 5m2, che mái và che xung quanh bằng lá cây rừng hoặc tranh. Bên trong để một sạp tre bằng cây lồ ô, là nơi sản phụ sinh nở. Trong chòi có một bếp lửa để sản phụ nằm lửa cho ấm và xua đuổi xú uế, cũng là bếp để nấu nước. Đỡ đẻ là một bà mụ (mũq buai). Trước khi đỡ đẻ, bà mụ làm một lễ nhỏ để cúng thần. Bà cắt rốn cho đứa trẻ bằng mảnh cây lồ ô. Nhau/rau được chôn ngay gần chòi đẻ. Theo kinh nghiệm dân gian, bà mẹ mới sinh được người nhà cho uống một loại nước nấu từ một loại cây rừng “Poh kah”. Loại nước này có tác dụng như một loại thuốc kháng sinh, diệt vi trùng, giúp cho sản phụ mau lành và khoẻ mạnh. Sau khi đẻ một đến hai ngày, bà mẹ đưa đứa trẻ ra suối tắm rồi trở về nhà. Cũng như người Chăm và một số dân tộc khác, với quan niệm sinh đẻ là xú uế, nên tất cả những gì dùng trong sinh đẻ như chòi đẻ, chõng lồ ô, sau khi sinh đều phải đốt bỏ.

2.1.1. Lễ cúng mụ (ngăk buai)
Sau khi sinh 3 ngày, gia đình làm một lễ nhỏ gọi là “lễ cúng mụ” để bà mụ cúng tạ thần linh đã cho sinh đẻ được thuận lợi, mừng mẹ con khoẻ mạnh “mẹ tròn con vuông” (anak amek kajap karo). Lễ vật gồm 1 ché rượu cần, 1 con gà, 3 bát rượu cần, trầu, cau, nến sáp ong. Sau lễ cúng này, sản phụ và đứa trẻ mới được đưa vào nhà. Theo truyền thuyết, việc đỡ đẻ là do con khỉ (kay kra) bày cho con người, bày cho cách cắt rốn và cho sản phụ uống thuốc nam sau khi sinh, nên khỉ được coi là ân nhân của tộc người Raglai. Vì vậy, thầy cúng cũng như bà mụ kiêng không ăn thịt khỉ.
2.1.2. Lễ cúng tạ ơn bà mụ và cúng trình tổ tiên (ngăk bbuai ngăk grang)[3]
Lễ cúng tạ ơn bà mụ được tổ chức khi đứa trẻ được một tháng (30 ngày – như lễ đầy tháng). Lễ vật gồm 2 con gà, 2 ché rượu cần. Trong đó, 1 ché rượu cần và 1 con gà dùng để cúng tạ ơn bà mụ, 1 ché rượu cần và 1 con gà còn lại dùng để cúng khấn trình tổ tiên. Lễ này do bà mụ và chủ gia đình cúng. Bà mụ cúng tạ ơn thần linh đã cho bà đỡ đẻ “mẹ tròn con vuông”, đồng thời thay mặt gia đình, cúng khấn báo với tổ tiên rằng từ nay gia đình tộc họ đã thêm một thành viên mới. Ở vùng Raglai nam, nhà chủ thường biếu bà mụ quà cáp như áo váy. Bà mụ cũng tặng đứa bé một bộ áo mới. Những người bà con đến dự có thể tặng quà cho đứa trẻ.
So sánh với nghi lễ sinh đẻ của người Chăm Bàlamôn, chúng tôi thấy có nhiều nét tương đồng. Người Chăm Bàlamôn cũng có tục cúng tạ ơn bà mụ và cúng trình tổ tiên (on proh) sau khi sinh được một tháng.
2.1.3. Lễ đeo còng (buh akok)
Người Raglai có tục làm lễ đeo còng vào tay và chân đứa trẻ. Lễ này thường được thực hiện cho những đứa trẻ khó nuôi. Chủ nhà bán khoán cho thầy cúng nhờ thần linh bảo hộ. Vì vậy có thể coi đây như tục “bán khoán” của người Việt. Lễ này do thầy cúng thực hiện, thường diễn ra khi đứa trẻ được 3 tháng tuổi, nhằm mục đích cầu thần linh cho gia đình nuôi đứa trẻ được thuận lợi. Trong lời khấn, thầy cúng thỉnh mời các vị thần: Pô sun, Pô Ali, thần tổ tiên ông bà (muk kay) phù hộ cho đứa trẻ mau ăn chóng lớn, khoẻ mạnh “leo núi vững, xuống sông chắc”, không bị bệnh tật hành hạ mà lớn lên có sức mạnh: “ở nên nhà, ra nên rẫy” (dok jiơng sang, ang jiơng apuh), lên rừng không gặp thú dữ, cọp lánh xa, rắn rết lẩn trốn (nao glai rimong pleh yua, ula pleh dăup).
2.1.4. Lễ đặt tên
Lễ đặt tên được kết hợp trong lễ cúng trình tổ tiên. Người Raglai thường lấy họ mẹ làm họ cho con và kiêng không đặt tên trùng với tên ông bà tổ tiên, tên của những người trong tộc họ đã qua đời.
2.2. Lễ trưởng thành
Người Raglai không có lễ trưởng thành the ý nghĩa tôn giáo. Khi đứa trẻ đến tuổi trưởng thành, người ta làm một lễ cúng giải tội. Đối với những đứa trẻ khó nuôi, người ta làm lễ tháo còng.
2.2.1. Lễ cúng giải tội
Khi làm lễ trưởng thành, phải làm lễ giải tội. Lễ giải tội dành cho đứa trẻ khi đã được 15, 16 tuổi. Người Raglai quan niệm rằng, khi đến tuổi trưởng thành, đã thành một con người và đủ khả năng phạm tội với thần linh. Vì vậy, lễ này mang ý nghĩa giải tội với thần linh. Lễ này do thầy cúng làm chủ lễ. Đối tượng cầu cúng là các thần: Pô sun, pô ali, mũk bbuai, mũk grang và thần thổ địa. Lễ vật thường là thịt gà hoặc thịt heo, trầu cau, rượu v.v…được dọn thành 2 mâm, một mâm để cúng giải tội, tẩy uế, tống tiễn những điều xấu. Một mâm để cúng mừng đứa trẻ đã trưởng thành.
2.2.2. Lễ tháo còng (toh akok)
Những đứa trẻ khó nuôi, được cha mẹ bán khoán cho ông thầy và làm lễ đeo còng khi được 3 tháng tuổi. Đến khi 18 tuổi phải làm lễ tháo còng. Lễ này cũng do thầy cúng làm chủ lễ. Lễ vật gồm một cặp gà, 2 ché rượu cần, cơm, canh, chuối, bánh trái (bánh tét). Lễ này nhằm mục đích để ông thầy cúng cúng trả lại đứa trẻ cho cha mẹ khi đã lớn khôn. Nếu không làm lễ tháo còng, coi như gia đình và con người đó còn nợ thần linh, sẽ phải chịu thần linh đày đoạ, hay ốm đau, bệnh tật và không may mắn. Vì vậy, gia đình phải cúng tạ thần linh và thầy cúng. Đứa trẻ phải coi ông thầy cúng như cha mẹ đỡ đầu. Khi ông thầy ốm đau phải lo chữa chạy. Khi ông thầy chết phải lo ma chay, phải có nghĩa vụ như đứa con của ông thầy (phong tục này cũng giống như của người Chăm Bàlamôn).
2.3. Nghi lễ cưới
Người Raglai chịu sự chi phối bởi chế độ mẫu hệ. Con gái “bắt” chồng về nhà mình. Tuy nhiên, khác với người Chăm còn giữ phong tục theo đúng chế độ mẫu hệ, nhà gái đi làm lễ hỏi. Đối với người Raglai, con trai lại chủ động đi hỏi vợ.
2.3.1. Lễ hỏi (nao tanhia)
   Thông thường, người Raglai không phải coi ngày tốt xấu để làm lễ đi hỏi vợ, chỉ căn cứ vào điều kiện thuận lợi. Sau khi 2 bên bàn bạc xong, thống nhất ngày giờ đi làm lễ hỏi. Nhà trai tổ chức đoàn đi làm lễ hỏi gồm 7 người. Trong đó có 3 người chính: cậu hay chú bác đại diện cho gia đình nhà trai, chọn người nào ăn nói hoạt bát, am hiểu tập tục. Chàng rể và một người em gái của chàng rể mang lễ vật: trầu, cau (hala panang) và các tặng vật cho cô dâu. Thông thường gồm: một bộ trang phục nữ truyền thống; còng, kiềng, xâu chuổi, nhẫn, bông tai.
   Lễ hỏi thường đi vào buổi tối.
   Nhà gái cũng có đoàn đại diện đón họ nhà trai ở trong nhà. Ba nhân vật chính đón nhà trai thường là bác, cậu và mẹ. Cô gái đứng ở cửa nhà sàn đón đại diện nhà trai.
   Họ nhà trai đến đằng hắng 3 tiếng báo hiệu có khách, rồi hỏi:
   - Có ai ở nhà không?
   Nhà gái đáp.
- Có!  Và hỏi lại:
- Các người là ai? Nếu khách xa thì về làng, khách họ hàng thì mời lên nhà (găup tah hai gauờp dray, găup tah nao palay, găup dray da-a tama sak).
   Họ nhà trai đáp:
- Chúng tôi là khách họ hàng.
Nhà gái mời đoàn khách lên nhà sàn, ngồi theo vị trí chủ - khách, mời uống nước, ăn trầu, cau, hút thuốc. Hai bên trao đổi những lời bóng gió:
- Nhà trai chúng tôi có trâu. Nhưng vì thiếu đất, nên đi tìm đất để canh tác.
- Nhà gái, chúng tôi có thừa đất nhưng thiếu con trâu cày, nên đất để hoang.
Qua một hồi trao đổi, nói chuyện vui vẻ rồi hai bên cùng thỏa thuận: kẻ có trâu, người có đất cùng hợp tác với nhau để đưa miếng đất vào sản xuất, tạo sản phẩm cho cộng đồng, rồi nhà trai mang lễ vật ra đặt trước mặt đại diện nhà gái.
Đại diện nhà gái cũng mang lễ vật: 1 ché rượu cần, 1 con gà luộc, 1 tô cơm vun cắm 1 cây nến sáp thắp sáng, 1 bát rượu cần làm lễ trình báo tổ tiên rồi nhận lễ vật nhà trai.
Đại diện nhà gái cũng tặng cho chàng rễ 1 chiếc còng đeo tay xem như nhà gái đã chấp nhận chàng rễ. Sau lễ hỏi, nhà gái là bên chủ động tổ chức lễ cưới. Thời gian nhanh hay chậm, sớm hay muộn tùy theo điều kiện kinh tế gia đình của nhà gái.
2.3.2. Lễ cưới (bbăk abu)
Lễ cưới được người Raglai (tuỳ theo từng vùng) gọi là “huăk abu” hay “bbăk abu”). Theo tập tục, lễ cưới phải có 2 con heo (1 lớn, 1 nhỏ), vài chục gà con và một số sản phẩm nông nghiệp khác. Rượu cần là đặc sản quan trọng không thể thiếu để đãi khách.
Bên nhà trai đưa chàng rể về nhà gái, khi đưa vào nhà phải có người hướng dẫn, tiếng Raglai gọi là ông Sanươk. Người này được coi như người cha tinh thần của chú rể.
Ông Sanươk đi đầu, tay cầm giáo. Chàng rễ đi sau tay cầm ná, vai mang ống tên. Em gái mang gùi đựng con dao và các lễ vật để tặng cha mẹ cô gái. Ông cậu cũng  cầm giáo đi sau.
Bên nhà gái có người đại diện đón họ nhà trai ở cửa. Qua lời chào hỏi hai bên, nhà gái dắt con heo lớn đến trình diện nhà trai và bưng bát nước dội lên lưng con heo. Họ nhà trai xoa lên lưng heo (tỏ ý bằng lòng), sau đó bước qua lưng con heo rồi lên nhà sàn ngồi theo thứ tự chủ - khách.
Lễ vật nhà trai mang theo được bày ra trước mặt họ nhà gái. Nhà gái nhận rồi mang cất vào nơi an toàn và để cho thật chắc chắn. Nếu vô tình để nghiêng hay đổ thì sẽ là điềm xấu cho việc hôn nhân[4]. Nhà gái mời khách uống nước, hút thuốc và tiến hành lễ trao kỉ vật cho cô dâu chú rễ.
Nhà trai trao cho cô dâu vòng đeo tay.
Nhà gái trao cho chú rễ xâu chuỗi hạt cườm trắng đeo cổ, rồi làm lễ cúng ông bà tổ tiên.
Lễ vật trong lễ cưới gồm: cơm, canh, thịt gà, thịt heo, rượu cần dọn trên lá chuối. Trong lễ này đáng chú ý là chủ lễ (nhà gái) dùng 2 cây giáo, cắm vào 2 quả cau, cầm 3 con dao khấn tổ tiên, đưa qua đưa lại 3 lần. Cúng xong, mâm lễ vật được đặt vào bệ ở góc nhà. Thủ tục cúng thần linh trong lễ cưới đến đây coi như đã xong. Gia chủ dọn cơm đãi hai họ và bà con láng giềng đến chúc mừng. Cuộc vui kéo dài suốt đêm với các điệu múa hòa cùng các điệu mã la, hát các làn điệu dân ca. Trai gái hát đối đáp, nhảy múa theo các điệu mã la trong men rượu cần ngây ngất.
Sáng hôm sau cô dâu, chú rể cùng theo họ nhà trai về nhà cha mẹ chồng. Chú rể cũng mang trên vai cây ná, ống tên (cung tên không những là vũ khí tự vệ, mà còn là công cụ săn bắt thú rừng của đàn ông tộc người Raglai). Cô dâu mang gùi đựng một đùi heo, một ché rượu cần và một ít gạo. Theo phong tục, đây là quà tặng cha mẹ chồng (nghĩa báo hiếu).
Nhà trai cũng làm heo, gà cúng để trình báo tổ tiên. Báo cáo với tổ tiên là con trai đã đi lấy vợ và theo vợ. Sau lễ cúng, nhà trai đãi họ nhà gái. Hai họ cùng gởi gắm cô dâu chú rể. Họ hàng và bà con láng giềng đều chúc phúc cho đôi trẻ hạnh phúc, ăn nên làm ra, ở nên nhà ra nên rẫy, ăn ở với nhau đến già. Sau đó họ chúc mừng cho cô dâu chú rể bằng các làn điệu dân ca, hòa tấu mã la, khèn bầu, nhảy múa thâu đêm.
Sáng hôm sau, chú rễ theo vợ về ở luôn bên nhà vợ. Từ đây đôi vợ chồng ăn sẽ đời ở kiếp với nhau mãi mãi, sinh con đàn cháu đống.
Ba ngày sau, cha mẹ nhà gái cùng con rể đi thăm sui/thông gia (bên chồng). Họ mang bánh tét, trái cây, các loại hoa màu, vải v.v… gọi là quà biếu sui gia nhà trai. Nhà trai cũng đáp lễ bằng tặng phẩm cho cô dâu. Tùy theo gia cảnh mà tặng xâu chuỗi, hạt cườm, vòng đeo tay, kiềng đeo cổ, vải vóc hay trâu, dê v.v…để cho vợ chồng có vốn làm ăn sau này.
2.4. Nghi lễ tang ma (padhi atơu)
Tang ma là lễ nghi rất phức tạp và tốn kém nhất trong các lễ nghi vòng đời của tộc người Raglai. Nhưng chính nghi lễ tang ma là nơi chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa truyền thống, tạo nên bản sắc văn hóa riêng của họ. Theo quan niệm của người Raglai, sau khi qua đời, nếu không làm đám tang thì hồn người quá cố sẽ mãi là con ma đói lang thang dễ bị quỹ dữ xúi giục về ám hại các thành viên trong dòng tộc. Do vậy, khi người thân qua đời. Dù nghèo khó đến đâu họ cũng cố làm đám tang một cách trọn vẹn cho người chết, để cho hồn ma có cơm ăn áo mặc về xứ sở ông bà tổ tiên. Đó là quan niệm của tộc người Raglai nói riêng, và các dân tộc sống ở dãy Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung.
Qua điền dã nghiên cứu nghi lễ tang ma ở các vùng cư trú của tộc người Raglai, mặc dù cùng quan niệm đã trình bày trên nhưng mỗi nơi khác nhau về nghi lễ cũng như biểu tượng nhà mồ. Để so sánh tìm ra những tương đồng và dị biệt, chúng tôi xin miêu thuật một số phong tục trong nghi lễ tang ma ở các xã Phước Chiến, Công Hải, Ma Nới, Phước Hà thuộc tỉnh Ninh Thuận.
+ Tang ma ở xã Phước Chiến:
Đám tang lớn hay nhỏ, được căn cứ vào số cột và phong cách trang trí nhà mồ. Nhà mồ của đám tang lớn làm từ 16 đến 32 cột, nhà 4 mái lợp tranh, trên nóc có Kago trang trí hoa văn, chim, thú (cọp, rắn, chồn, chim cu…) xung quanh nhà mồ trồng chuối, khóm, mía…Nhà mồ đám tang nhỏ làm từ 4 - 12 cột, cũng 4 mái lợp tranh, không có kagor. Thời gian tổ chức đám tang là 3 ngày 2 đêm.
Lễ vật tùy theo điều kiện kinh tế gia đình. Những gia đình khá giả thì lễ vật có trâu, heo, gà, rượu cần, bánh tét, chuối…Những gia đình nghèo thì lễ vật có thể chỉ cần heo, gà, rượu cần, cơm, canh, bánh tét, chuối. Chủ lễ tang phải có 3 thầy cúng gọi là Yanuk jalat (1 ông thầy cúng chính, 2 ông thầy cúng phụ - còn gọi là “một đầu và hai chân”. Ông thầy cúng chính cầm gậy thần (agai tuah karah mata) để làm lễ rước ma về nhà và múa hướng dẫn ma ăn. Hai ông thầy cúng phụ múa tay không. Ngoài ra, mỗi lần tế ma có đoàn đánh múa mã la. Nơi làm lễ có 2 địa điểm: ngoài rạp và trong nhà.
Ngoài rạp: có một sạp dài đựng lễ vật tế (thịt, cơm, canh, bánh chuối…rượu cần) và một giỏ tre đựng lễ vật sau mỗi lần tế ma, đây là nơi tế chính. Do thầy “yanuk Jalan” làm lễ.
Trong nhà: lễ vật chỉ có một mâm gồm thịt, cơm, canh, bánh, chuối, rượu cần, và do người nhà tự cúng. Theo thầy cúng chính - ông Patau Asah Mến ở thôn đầu suối (Halau Kro) - thì lễ vật ở các mâm lễ như sau: mâm lễ vật ở rạp là đãi họ hàng nhà ma; lễ vật trong giỏ là lương thực cho ma mang theo; mâm lễ vật trong nhà để cho ma ăn. Quan niệm này giống như lễ tang của người Chăm Bàlamôn.
Trong lễ “padhi atơu”, mọi người biểu lộ tình cảm bằng các điệu múa mã la như điệu “toh ia, ruwơ”. Tiếng mã la vừa buồn khóc kể lể vừa vui cười. Điệu khóc kể lể thể hiện sự thương tiếc người thân. Điệu vui cười là điệu mừng người sống đã làm xong nghĩa vụ đối với người chết, tiễn đưa trọn vẹn người chết về thế giới khác.
Lễ buổi sáng kết thúc. Thầy cúng làm lễ tiễn ma về nhà mồ. Giỏ lễ vật được khiêng đi. Đến nửa đường, thầy cúng chính liền bẻ cây thần “agai tuah” (cây chỉ đường cho ma đi) làm đôi đặt vào giỏ, khiêng ra treo ở nhà mồ, xem như đường ai nấy đi. Tiếng Raglai gọi là “padhi pakloh padhi pateh”. Kể từ đây những người đang sống không liên quan với ma nữa. Ma đã vĩnh viễn về hẳn thế giới bên kia.
+ Tang ma ở thôn Bà Râu, xã Lợi Hải:
Ở thôn Bà Râu, nhà mồ trong lễ bỏ mả được làm rất đơn giản. Nhà mồ chỉ có 4 cột và 4 mái lợp tranh. Không trang trí hoa văn. Đặc biệt, người Raglai ở Bà Râu dùng gỗ làm hình người quá cố rồi mặc y phục lên, đeo 1 đĩa đèn (bằng mỡ heo) thắp sáng trước ngực hình nhân. Dưới chân hình nhân có đào một cái lỗ ở dưới đất để thay cho giỏ đựng lễ vật làm thức ăn cho ma. Không làm giỏ như ở Phước Chiến.
Lễ vật cúng ở đây cũng khác. Ngoài lễ vật cúng họ hàng tại nhà mồ, khi rước ma về nhà, gia chủ còn làm 5 mâm gạo, 5 cái nồi, 5 mâm thịt. Theo thầy cúng Pinăng Nghèo, đây là lương thực để ma ăn trên đường về xứ sở tổ tiên (nagăr mok kay) được mang ra nhà mồ rồi mang về nhà. Còn giỏ đựng lễ vật cúng mang ra nhà mồ cho ma.
Đám bỏ mả lớn hay nhỏ của tộc người Raglai ở thôn Bà Râu không căn cứ vào cột hay phong cách trang trí nhà mồ mà chỉ căn cứ việc tiễn ma.
 Đám bỏ mả lớn là đám tiễn ma ra tận nhà mồ. Đám bỏ mả nhỏ chỉ tiễn ma đi nửa đường rồi quay về ngay. Trong đám tang chỉ còn một người đàn ông mặc lễ phục Chăm, trên vai vác 2,3 cây gậy buộc xâu thịt heo lủng lẳng. Một đám thanh niên giả làm chó chạy theo tranh nhau xâu thịt. Một số khác cầm gậy đuổi. Tạo cảnh hỗn loạn từ nhà mồ về nhà. Theo thầy cúng Pinăng Nghèo ở thôn Bà Râu, xã Lợi Hải, huyện Ninh Hải thì sự hỗn loạn ấy nhằm để xóa dấu chân người nhà đã tiễn ma đi, để ma không biết đường về nhà cũ, mà tìm về xứ sở tổ tiên. (Hiện tượng này phổ biến ở hầu hết các đám tang các tộc người ở Đông Nam á, như tục quay đầu người chết, không cho ma tìm thấy đường quay lại quấy rối người sống).
+ Tang ma ở xã Ma Nới:
Nhà mồ ở thôn Yarok, xã Ma Nới thường có 4 cột, 4 mái, lợp tranh. Chính giữa nóc nhà mồ có miếng ván tròn vẽ mặt người ôm 2 chiếc sừng trâu, gọi là “yâu”. Trên đỉnh có bầu nước. Hai đầu sừng trâu có hình chim cu. Cạnh nhà mồ có chuồng gà, chuồng heo nhưng không có lễ phóng thích gia súc. Theo ông Tà Yên Lức, người chết cũng như người sống, người chết cũng cần phải chăn nuôi gia súc để ăn nên phải sắm sửa cho họ (dương sao, âm vậy). Lễ vật cúng và nghi lễ trong lễ bỏ mả ở Ma Nới cũng như các nơi khác.
+ Tang ma ở xã Phước Hà:
Tang ma ở thôn Giá, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước có điểm đặc biệt hơn các nơi khác. Khi chôn người chết, người ta gác đà ngang lót lá ngăn đất không lấp vào thi hài và làm lễ padhi atâu hai lần. Nhà mồ ở đây được làm một mái theo chiều nam - bắc. Chiều cao phía đông, thấp phía tây. Vách xung quanh nhà mồ được làm bằng gỗ, có cửa mở ra phía đông. Nấm mồ được san bằng phẳng. Ở đầu nhà mồ phía nam có chòi nhỏ lợp tranh, có cây ná gắn mũi tên và một con ngựa bằng làm bằng gỗ. Theo thầy cúng Bà Râu Do ở thôn Giá thì ở thế giới bên kia cũng có nhiều quĩ dữ, có thể làm hại ma. Do vậy phải làm chòi trú ẩn và trang bị phương tiện cho ma chống lại quỹ dữ.
Lễ padhi atâu lần thứ nhất được tổ chức bảy ngày sau khi chôn (tiếng Raglai gọi là “padhi băk tajuh"). Sau khi chôn 7 ngày, gia đình phải lo làm lễ padhi atau, thời gian làm lễ chỉ trong một ngày và chỉ do một thầy cúng làm chủ lễ và lễ diễn ra trong nhà.
Lễ vật gồm: heo, gà, trứng, cơm, canh và các sản phẩm nương rẩy, bánh tét… lễ tế chính có hai giỏ đựng lễ vật; thịt heo và cơm, canh và cột ba ống lồ-ô (arok djrao) làm vật đựng rượu cần và nước sau mỗi lần tế và một mâm lễ vật được bầy cúng trên giường người chết nằm trước khi chết. Theo thầy cúng Bà Râu Do thì có 2 giỏ lễ vật để: một giỏ cho họ hàng nhà ma, một giỏ cho ma ăn theo đường về xứ sở tổ tiên. Riêng mâm lễ vật trên giường để cho ma ăn trong ngày lễ. Lễ cúng tại nhà xong, người nhà đãi họ hàng, sau đó mang hai giỏ lễ vật ra nhà mồ bày ra để cúng. Khi cúng xong, mở cửa đưa hai giỏ lễ vật vào bên trong nhà mồ rồi đóng cửa nhà mồ lại.
Lễ tế lần 2, cũng như lần 1 nhưng lần này phải có heo, gà lớn hơn. Bà con xa gần tới đông đủ hơn. Đây là lễ để kết thúc mối quan hệ giữa người sống và ma, tiếng Raglai gọi là “padhi pakloh padhi patek” (cắt đứt liên hệ giữa người sống và người chết). Theo thầy cúng Bà Râu Do, khi nào nhà mồ đổ nát và nấm mồ sụp xuống thì biết linh hồn người chết đã về đến xứ sở tổ tiên. Quan niệm này có nét tương tự người Chăm Bàlamôn thuộc dòng chôn (Chăm dăn).
Dù khác nhau về phong cách nhà mồ và nghi lễ, nhưng lễ padhi atau của tộc người Raglai đều cùng chung quan niệm: lễ padhi atau là nhằm mục đích giải thoát linh hồn người đã chết, có cơm ăn nước uống, áo mặc trên đường về với ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia, thể hiện tấm lòng người sống làm tròn nghĩa vụ đối với người chết.
Nhìn chung, các nghi lễ vòng đời của người Raglai mang đầy đủ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, không chịu ảnh hưởng của các tôn giáo mà có phần ảnh hưởng của người Chăm và người Việt. Trải qua những biến thiên trong không gian và qua thời gian, phong tục tập quán nói chung, nghi lễ vòng đời nói riêng có nhiều sự biến đổi. Đặc biệt trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển, những giá trị quý giá được đúc kết qua hàng ngàn năm của văn hóa truyền thống của người Raglai đang có sự biến đổi, cần có gấp rút có kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn và phát huy một cách có hiệu quả.
3. Tổng hợp thống kê lễ hội
Qua các bảng tổng hợp điều tra về lễ hội truyền thống trên, có thể thấy ở các vùng Raglai có tỷ lệ tổ chức lễ hội khác nhau.
3.1. Huyện Bác Ái
Ở huyện Bác Ái lễ hội còn khá đậm đặc, vẫn thực hiện đầy đủ các lễ hội nông nghiệp như lễ cúng đầu năm, lễ cúng trồng lúa bắp, lễ ăn đầu lúa và lễ ăn lúa mới. Các nghi lễ vòng đời như lễ mừng sinh con, lễ cúng mụ, lễ cưới, lễ cúng tổ tiên vẫn được thực hiện khá đầy đủ ở đều các thôn.
Lễ mừng sinh con: hiện còn ở 28/33 thôn
Lễ cúng mụ: hiện còn 16/33 thôn
Lễ trưởng thành hiện còn 11/33 thôn gồm thôn Chà Panh, Tà Lọt xã Phước Hòa; Thôn Đá Bàn xã Phước Tiến; thôn Ma Dú, Ma Nai xã Phước Thành; tất cả các thôn thuộc xã Phước Thắng và Phước Trung.
Lễ cưới truyền thống: hiện vẫn được tổ chức ở 33/33 thôn
Lễ mừng thọ hiện còn 10/33 thôn gồm thôn Tà Lú, Ma Hoa xã Phước Đại, thôn Chà Panh xã Phước Hòa, thôn Ma Ty xã Phước Tân, thôn Ma Dú, Ma Rớ xã Phước Thành; thôn Chà Đung, Ma Ty xã Phước Thắng, Thôn Tham Dú, Rã Giữa, Đồng Dày ở xã Phước Trung; thôn Tân Bình, thôn Gòn ở xã Lâm Sơn; tất cả các thôn ở xã Ma Nới; thôn Đắc Nhơn, Lương Cang ở xã Nhơn Sơn.
Lễ cúng tổ tiên hiện còn ở 15/33 thôn gồm các thôn Gia É, xã Phước Bình, thôn Núi Rây xã Phước Chính, thôn Ma Hoa xã Phước Đại; thôn Chà Panh xã Phước Hòa; thôn Ma Ty xã Phước Tân; thôn Trà Co xã Phước Tiến, thôn Suối Lở xã Phước Thành, thôn Chà Đung, Ma Ty xã Phước Thắng, thôn Rã Giữa và Rã trên thuộc xã Phước Trung.
Lễ cúng đầu năm: hiện còn 12/33 thôn duy trì, nhiều nhất là các thôn thuộc xã Phước Bình.
Lễ cúng trình lúa bắp: Hiện còn 22/33 thôn tổ chức.
Lễ ăn đầu lúa: hiện còn 9/33 thôn tổ chức
Lễ ăn lúa mới: hiện còn 18/33 thôn tổ chức
Cúng chữa bệnh: Mặc dù bị ngăn cấm nhưng cho đến năm 2003 vẫn còn duy trì ở 12 thôn, trong đó ở xã Phước Đại có 2/2 thôn, xã Phước Hòa 2/2 thôn, Phước Tân 1/3 thôn; Phước Tiến 3/4 thôn; Phước Thành 2/5 thôn; Phước Thắng 1/4 thôn.
Theo thống kê hiện ở huyện Bác Ái còn tới 47 thầy cúng, nhiều nhất là ở các xã Phước Tiến, Phước Đại, Phước Hòa, Phước Tân, Phước Trung và Phước Thành.
3.2. Huyện Ninh Sơn
Lễ hội truyền thống ở huyện Ninh Sơn đậm đặc nhất là ở xã Ma Nới. Hầu hết ở 6 thôn thuộc xã Ma Nới đều đang duy trì đầy đủ các loại lễ hội nông nghiệp và nghi lễ vòng đời người. Trong đó đậm đặc nhất phải kể đến thôn Gia Rót, thôn Ú, Hà Dài và Tà Nôi.
Qua thống kê ở toàn huyện có 6 xã, 15 thôn cho thấy:
Lễ Mừng sinh con: Hiện còn tổ chức ở 11 thôn, 5 xã. Một xã không còn tổ chức là xã Hòa Sơn
Lễ Cúng mụ: Hiện còn tổ chức ở 8 thôn, 2  xã gồm Lâm Sơn, Ma Nới
Lễ Trưởng thành: Hiện còn tổ chức ở 3 thôn, thuộc 2 xã là thôn Hà Dài, Tà Nôi xã Ma Nới và thôn Lương Cang xã Nhơn Sơn.
Lễ Cưới truyền thống: còn ở 12 thôn
Lễ Mừng thọ còn ở 9 thôn, 3 xã
Lễ Bỏ mả còn ở 13 thôn
Lễ Cúng tổ tiên còn ở 5 thôn, 2 xã
Lễ Cúng xin trồng lúa bắp còn ở 3 thôn
Lễ “Ăn đầu lúa” còn ở 4 thôn thuộc xã Ma Nới
Lễ “Ăn lúa mới” còn ở 4 thôn đều thuộc xã Ma Nới
Lễ Cầu mưa và lễ cầu an còn ở 4 thôn đều thuộc xã Ma Nới
Cúng chữa bệnh còn ở 9 thôn với 17 thầy cúng, tập trung chủ yếu ở xã Ma Nới.
   3.3. Huyện Ninh Hải
   Lễ mừng sinh con hiện còn được tổ chức ở 14 thôn thuộc 4 xã: Phước Chiến, Lợi Hải, Vĩnh Hải, Phước Kháng.
   Lễ Cúng mụ: Không còn thôn nào?
   Lễ Trưởng thành: còn ở 11 thôn thuộc 5 xã. Chỉ có thôn Xóm Bằng, xã Phương Hải là không còn tổ chức.
   Lễ Cưới truyền thống: hiện còn được tổ chức ở 18 thôn thuộc 5 xã
   Lễ Mừng thọ: còn ở 5 thôn thuộc xã Phước Chiến và Phước Kháng.
   Lễ Bỏ mả: hiện còn ở 19 thôn thuộc 5 xã. Đặc biệt, lễ bỏ mả ở xã Phước Chiến là còn mang đầy đủ các yếu tố truyền thống nhất.
   Lễ Cúng tổ tiên còn ở 6 thôn, 3 xã
   Lễ Cúng đầu năm còn ở 5 thôn thuộc xã Phước Chiến, Lợi Hải và Phước Kháng.
   Lễ Cúng xin trồng lúa bắp còn ở 2 thôn là Đá Liệt, xã Phước Kháng và thôn Kiền Kiền 2 thuộc xã Lợi Hải.
   Lễ “Ăn đầu lúa”, lễ “Ăn lúa mới”, lễ Cầu an, Cầu mưa chỉ còn ở xã Phước Chiến.
   Cúng chữa bệnh hiện còn ở 15 thôn thuộc 3 xã Phước Kháng, Phước Chiến, Lợi Hải và còn 36 thầy cúng cũng tâp trung ở 3 xã này.
   3.4. Huyện Ninh Phước
   Ở huyện Ninh Phước, lễ hội chủ yếu tập trung nhiều nhất ở 4 thôn thuộc xã Phước Hà.
   Lễ Mừng sinh con: Không còn
Lễ cúng mụ: còn ở 5 thôn (4 thôn xã Phước Hà và 1 thôn Tà Dương ở xã Phước Thái.
   Lễ trưởng thành: 5 thôn
   Lễ Cưới truyền thống: 7 thôn
   Lễ Mừng thọ: 5 thôn
   Lễ Bỏ mả: 7 thôn
   Lễ “Ăn đầu lúa”: 3 thôn
   Lễ “Ăn lúa mới” còn 2 thôn, lễ cầu an 1 thôn.
   Cúng chữa bệnh còn ở 4 thôn với 18 thầy cúng đều thuộc xã Phước Hà, trong đó có 1 thầy cúng ở thôn Tà Dương, xã Phước Thái.





[1] Một loại giỏ đan bằng tre, giống như chiết của người Chăm

[2] Đây là một loại thú rừng có hàm răng nhọn và sắc, thường bị săn bắt nhiều vì thịt của nó thơm ngon, người Việt thường gọi là con dũi, lúi cúi, con heo đất. Nhìn bề ngoài giống như con chuột đồng lớn.
[3] Có vùng gọi là bray bbuai rao tangin bbuai, có nghĩa là tạ ơn bà mụ hay rửa tay bà mụ.
[4] Tư liệu phỏng vấn thầy cúng Katơ Lượng ở thôn Ma Ty, xã Phước Tân

Chương 4
VĂN HỌC DÂN GIAN

Văn học dân gian là một mảng còn trống trong việc nghiên cứu văn hóa dân tộc Raglai. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập hợp một cách đầy đủ về di sản văn học dân gian Raglai. Trong khi đó, kho tàng di sản phi vật thể truyền miệng này đang mất đi nhanh chóng. Vì vậy, văn học dân gian Raglai là một lĩnh vực cần cấp bách sưu tầm, biên dịch và xuất bản. Qua các đợt điều tra, khảo sát gần đây, chúng tôi thấy văn học dân gian của người Raglai rất phong phú đa dạng cả về nội dung lẫn thể loại. Có thể nói, các thể loại văn học dân gian đều có ở trong cộng đồng tộc người Raglai. Đó là chuyện cổ, chuyện thơ, ca dao, dân ca, sử thi, thành ngữ, tục ngữ, câu đố. Trong đó, đáng chú ý nhất là trữ lượng sử thi khá lớn đã và đang được sưu tầm, biên dịch và xuất bản.
Các thể loại văn học dân gian Raglai thường được thể hiện bằng văn vần. Văn vần Raglai vừa gieo ở vần bình lại vừa gieo ở vần trắc giống như loại văn vần của người Chăm. Ví dụ:
“Apui bbâk sak                          Lửa ăn nhà      
kalak bbâk manuk”                    Diều bắt gà
“Lagga lam drây                        Sức tàn
 lakhuây lam pran”                     Lực kiệt
“Da-a kay Rikah , da-a kay Rikao 
Da-a kay Kamau - patao tôha”
 (Thỉnh mời ông Ricá, kính mời ông Ricao
Xin mời ông Kamau - vị vua già của rừng núi)
1. Chuyện cổ (tarikal hoặc yulukal)   
Trong các làng Raglai hiện nay, người còn nhớ và kể chuyện cổ/chuyện đời xưa rất ít. Số nghệ nhân hát kể được chuyện cổ lại càng ít hơn. Đối với các tộc người chưa có chữ viết để ghi chép bảo lưu, các nghệ nhân chính là cái kho lưu trữ và phổ biến, truyền lại tất cả các di sản văn hóa phi vật thể của tộc người đó. Trong giai đoạn hiện nay, với sự giao lưu văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, lớp trẻ không thật sự mặn mòi với những  di sản văn hóa truyền thống mà bị hấp dẫn bởi những yếu tố văn hóa mới tràn đến. Cứ mỗi một nghệ nhân biết kể, hát kể chuyện cổ, sử thi qua đời đồng nghĩa với việc họ đang lặng lẽ mang theo kho tàng văn học dân gian được đúc kết qua hàng nghìn năm văn hóa của một tộc người.
Trong toàn tỉnh Ninh Thuận hiện nay, chỉ còn có hai nữ nghệ nhân đã lớn tuổi có thể hát kể chuyện được trọn vẹn một vài sử thi. Đó là nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong ở thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước và nghệ nhân Katơ Thị Sính ở thôn Ma ty, xã Phước Tân, huyện Bác Ái. Trong những năm qua, từ năm 1999 đến năm 2005, những người tâm huyết với kho tàng văn hóa dân gian Raglai đã tiến hành ghi chép, ghi âm lại được một số chuyện cổ, sử thi rất có giá trị.
1.1. Chuyện cổ thông qua hình thức kể (Ikhat yulukal)
Đây là thể loại chuyện chỉ kể bằng lời mà không hát. Cũng có thể câu chuyện kể vốn đã là văn vần, vốn là chuyện thơ, xưa kia là chuyện hát kể, nhưng nay người kể chuyện không hát được nên họ chỉ kể bằng lời.
Chuyện cổ Raglai khá nhiều. Chuyện dài nhất ghi âm được trên dưới 2 băng cassette 90 phút (tương ứng với khoảng 3 giờ đồng hồ kể chuyện). Trong quá trình sưu tầm điền dã, bước đầu nhóm sưu tầm đã ghi âm được một số chuyện như: Chay Bbơloh (chàng Gáo), Chay Kra (cậu Khỉ), Chay Kra mưk (Cậu Khỉ vàng), Patao Rang, Patao Klat (Thần Trăn, Thần Rắn), Chay Maja (Cậu Chồn), Ya Rimoong (ông Cọp), Patao Kiăk (Thần ếch), Kumay dămsa - dara Rôbbăk (hai chị em Tằm - Xà và Rô - bá), Chay Taleăk (Anh chàng thổi sáo)..v..v...
1.2. Hát kể chuyện cổ, chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn (hari ikhat yulukal)
Là những chuyện cổ được kể bằng lời hát, bao gồm cả chuyện kể bằng thơ, và hát kể chuyện sử thi. Hiện nay, số chuyện cổ dưới hình thức hát kể không nhiều, ngoại trừ hát kể chuyện sử thi.
Trong loại hình hát kể chuyện này, số lượng về chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ khoảng 80%. Chuyện thơ ngụ ngôn được hát kể thường lên án, phê phán kẻ lười nhác, độc ác, bênh vực người lương thiện, nghèo khổ, yếu thế. Tính triết
lý của chuyện thường là “tham thì thâm, độc ác phải chết, người hiền lành, tài trí đều là con của trời và cái thiện sẽ thắng”.
Chuyện thơ phản ánh sự vật, hiện tượng thiên nhiên, đời sống xã hội tộc người Raglai. Hầu hết nội dung các chuyện đều mang nội dung từ thuở hồng hoang của người Raglai cổ xưa. Với tín ngưỡng đa phiếm thần, mọi sự vật, hiện tượng đều có linh hồn và số phận.
Từ hòn đá, con dao, cái cây, cái rìu v.v… cái gì cũng biết tư duy, biết nói và đều có mối quan hệ đến con người. Cái thuở mà thiên nhiên, con người và mọi sinh vật sống hòa vào nhau, con người là một thực thể của tự nhiên. Các thần/yàng trên trời là của tự nhiên. Các thần vừa ban cho người Raglai cái tai để nghe, cái mắt để nhìn, cho cái nhà để ở, cái bắp để ăn, cho cái suối để uống v.v…Các thần cũng có thể gieo tai ương, tai họa, bệnh tật cho con người, có thể cướp đi của con người mùa vụ hay sự sống. Mỗi ngọn núi, mỗi con suối, cái cây, con vật có thể là thần, có thể là ma quỉ. Con người cũng có thể là thánh nhân mà cũng có thể là ma, quỉ đội lốt người. Cũng như kho tàng chuyện cổ của các dân tộc khác, nội dung chuyện cổ Raglai đều hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ, luôn tìm đến chân lý, lẽ phải, có tính giáo dục cao.
Qua quá trình sưu tầm, nhóm khảo sát đã nghi chép được các chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn bằng cách hát kể như: Ja Balut (tên nhân vật), Toh Lăr (chuyện ngụ ngôn), Chay Gilâu (Cậu Trầm), Bhu (người ma), Chay Taleăk - Kumay Bhu (Chàng thổi sáo và cô gái ma), Ja Tarahit (tên nhân vật ), Chay Ta Anrok (Cậu Cóc), Ano Joh Rong (chàng Lưng gù), Anai patik kok dan (Nàng cò trắng), Anai Jajoai (nàng Chuối), Anai Atuk Ruvuk (nàng Búp măng) Anai Jah Danăng (Cô tháo phên), Chay Adoa (Chàng ốc) ..v..v...
Trong loại hình hát kể chuyện, số lượng về chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ khoảng 80%. Chuyện thơ ngụ ngôn được hát kể thường lên án, phê phán kẻ lười nhác, độc ác, bênh vực người lương thiện, nghèo khổ, yếu thế. Tính triết lý của chuyện thường là “tham thì thâm, độc ác phải chết, người hiền lành, tài trí đều là con của trời và cái thiện sẽ thắng”.
1.3. Hát kể chuyện sử thi (hari ikhat yulukal)
Sử thi là những chuyện dài được kể bằng lời hát của nghệ nhân. Cốt chuyện của sử thi thường rất phức tạp. Nhiều tuyến nhân vật xoay quanh một trục trung tâm là nhân vật anh hùng của cộng đồng. Họ đấu tranh, sống, chết vì lẽ phải, vì lợi ích của cộng đồng, vì sự phát triển nòi giống, mở mang vùng lãnh địa. Tất cả những mục đích nói trên đều phải trải qua chiến tranh để giành lấy. Sử thi được ví như những viên ngọc quí, là báu vật truyền lại từ muôn đời xưa mà không phải tộc người nào, dân tộc nào cũng có được.
Giá trị đích thực của loại văn chương truyền miệng này là những gì thuộc về nội dung mà nhờ lời văn, lời hát, giai điệu, giọng hát của nghệ nhân diễn đạt. Sử thi có thể giúp chúng ta tìm ra được nguồn gốc và quá trình tộc người, về những cuộc chiến tranh giành giật lấy sự sống, giành lãnh thổ, giữ gìn tộc người và vì lẽ phải. Sử thi cũng chính là kho tàng văn hóa dân gian của một tộc người, trong đó có các tư liệu lịch sử, tư liệu về vũ trụ quan, nhân sinh quan của các thời kỳ tộc người, những tư liệu về đời sống kinh tế, đời sống xã hội, quan niệm tâm linh từ thuở hồng hoang v.v… Sử thi là kho tàng di sản chứa đựng bản sắc văn hóa của một tộc người. Kho tàng sử thi mà chúng tôi sưu tầm được cho thấy người Raglai vốn có một nền văn hóa lâu đời, chứa đựng nhiều giá trị đặc sắc.
Đến năm 2005, qua điều tra, sưu tầm, nhóm sưu tầm đã phát hiện được 15 chuyện cổ có dấu hiệu sử thi. Cùng với chương trình sưu tầm, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên (do Viện nghiên cứu văn hóa - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa thông tin tỉnh Ninh Thuận, nhóm điều tra sử thi của Sở Văn hóa thông tin Ninh Thuận đã tiến hành sưu tầm, ghi âm 92 băng  của các sử thi sau:
1. Sử thi Sa – Ea: 32 băng, do nghệ nhân Katơ thị Sính, thôn Maty, xã Phước Tân, huyện Bác Ái hát kể.
2. Sử thi Uya - Yuhea. 22 băng, do nghệ nhân Katơ thị Sính, thôn Maty, xã Phước Tân, huyện Bác Ái hát kể.
3. Sử thi Anai mưprek.  06 băng, do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
4. Sử thi Jurit Budu.      03 băng, do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
5. Sử thi Kay Kamau.    05 băng, do nghệ nhân, Tà Yên Giao, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
6. Sử thi Ano Joh Rong:            03 băng, do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
7. Sử thi Ja – Taranhit. 01 băng (60’), do nghệ nhân Ta Yên Thị Siêng, thôn Ú, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn hát kể.
8. Sử thi Chay Kalang badăt.                06 băng, do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
9. Sử thi Chay Hađăk.                           05 băng, do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
10. Sử thi Chay Balok Li - U                07 băng,do nghệ nhân Tà Yên Thị Mư Roong, thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước hát kể.
11. Sử thi Ano  La o patay        (chàng đọt chuối)        02 băng, do nghệ nhân Mang Tơ, 64 tuổi, thôn Trà Giang 2, xã Lương Sơn, huyện Ninh Sơn hát kể.
Nhóm thực hiện chương trình sử thi ở Ninh Thuận đã tiến hành tóm tắt các sử thi, gỡ thử và mời chuyên gia về sử thi tiến hành thẩm định giá trị và các tiêu chí của 07 cốt truyện đã ghi âm nói trên. GS Phan Đăng Nhật đã xác định 6/7 cốt chuyện đã ghi âm là sử thi. Ban chỉ đạo chương trình đã cho tiến hành gỡ băng và dịch nghĩa các sử thi sau:
1. Sử thi Kay Kamau: 01 băng gồm 14 trang bản ngữ, 14 trang tiếng Việt, do ông Nguyễn Hải Liên gỡ băng, dịch nghĩa.
3. Sử thi Uya – Yuhea: (22 băng cassette 90 phút).
4. Sử thi Sa - Ea (khoảng 30 băng), Sử thi này đã được ông Sử Văn Ngọc gỡ băng, dịch ra khoảng trên 1000 trang (500 trang bản ngữ, 500 trang tiếng Việt), chuẩn bị xuất bản.
5. Sử thi Jurit Budu (2 băng)
6. Sử thi Anai Mưpreh (5 băng)
Như vậy, thông qua kết quả sưu tầm với kho tàng sử thi với trữ lượng khá lớn, có thể thấy dân tộc Raglai có một truyền thống văn hóa lâu đời và độc đáo[1].
2. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố

2.1. Ca dao

Có thể xa xưa, người Raglai đã từng có ca dao, nhưng hiện nay ở các làng Raglai, người già chỉ còn nhớ được ca dao trong thời kỳ kháng chiến. Trong quá trình sưu tầm, chúng tôi chưa tìm ra một người nào còn nhớ ca dao cổ, dù nhóm sưu tầm đã lặn lội tìm kiếm ở nhiều làng. Chỉ tìm được những câu ca dao “hiện đại” như:
“Ia chơk kay Kamau đời halay thu
T’rây mu Wa Hồ pato pabiai kadrây piăk”
(Nước suối Kamau không bao gìờ tắt
Cái bụng tin Bác không lúc nào vơi)
“ơh mu matai ôh!”
Bom đạn drây matai
Aday sa-ai drây juây hoaih
Pok kali Mỹ plok
Hatai tiăk drây ôh sa nok”
 (Đói chưa chết

Bom đạn mới chết

Anh em mình không sợ chi hết
 Đánh cho Mỹ chết - Lòng ta mới yên[2])                                                                                                                    
“Mỹ – Diệm pok mai
Anak Raglai pok wơk”
(Mỹ - Diệm đánh tới đây
Người Raglai đánh nó)
“Hmu Đảng, hmu Bác
Yu yak tơk ti ta nok”
(Có Đảng, có Bác Hồ
Như ở trong nhà có thần linh che chở)               
"Anak Raglai Sa tuk, Sahatai
Kusư ggâup ngăk bbâkõ
Chơk mapuk, pok kali”
(Người Raglai, con, cháu      
Cùng một bụng, một gan
Cùng sinh sống làm ăn
Cùng núi thiêng đánh giặc[3])                 
2.2. Thành ngữ
Tại Phước Hà, nhóm khảo sát sưu tầm được một số tư liệu thành ngữ như sau:
“Tôkik piyek, anek usar”.                      Ít giống, lép hạt
“Đơp tôkik, thâu lu”.                             Nói ít, hiểu nhiều
“Tuk lapa, mata sop”                             Bụng đói, mắt mờ
“Gadop tupoăk, visăh lok”                    Khố nối, tuột tới lỗ rốn
“Rôp đơ kapay, drây đơ lamo chơk” Xác như trâu rừng, thân như bò núi
“Mưng  ni tơk halay                              Từ đây trở đi
"Rităh juây yu yak”           Đậu gì  cũng không được cúng
“Apui bbâk sa”                                      Lửa ăn nhà,      
“kalak bbâk manuk”                              diều bắt gà
“Lagga lam drây,                                   Sức tàn,
lakhuây lam pran”                                  lực kiệt
“Thu ia, hatoa naggar”               Nắng làng, hạn xóm                
 “Tamu yâk, ujat halip”       Mưa không thuận, gió chẳng hòa
2.3. Câu đố
So sánh với các loại hình khác, câu đố Raglai là một loại hình ổn định, tương đối bền vững và phổ biến. Người Raglai từ già, trẻ, gái, trai Raglai đều còn nhớ. Đây là một loại hình dễ nhớ, dễ thuộc vì các câu đố ngắn, gọn, ít có dị bản, tương đối bền vững. Lứa tuổi thiếu nhi là đối tượng học thuộc ở lớp người lớn tuổi và hay sử dụng.
- Pađeăk laggar urak, yơ  ia laggar drây
(Nắng ở làng người ta, nước chảy ở làng mình: Trái me, trái khế)
- Klâu urak u kaku sa urak  sudik
(Ba ông chồng mà bồng một vợ: ông táo và cái nồi)
- Kumay dara, bhah dak dok.
(Cô gái chưa chồng, đục hòn đá tảng: đục lỗ đeo bông tai)
- Dăm wit bok laggar, dăm đhar boh chơk.
(Nối vòng xứ sở, nối cả núi non: đóng khố)
- Sa voh katoaih, đoaih đhar                                 
(Một cái gò mối, ai hối chạy quanh: bắt chí)                   
- Pôh nhu hea, luai di ala, nhu srik                 
(Bồng lên khóc tướng, đặt xuống nín thinh: cái mã la)
- Sa drây ôla, doa boh akok                                                                                                                                        
  (Một con rắn, cắn hai đầu: dây trương ná)
- Away matai, ana kheăk luva
(Mẹ chết con giữ hố: cây chuối)
- Chuk au mareăk, doh ggah apuk
(mặc áo đỏ tươi, lên ngồi ở rẫy: trái thơm (dứa) chín.                   
   - Patâu asah, plăk đhi
   (Đá mài mà cài trong hang: cái lưỡi)
- T'rây đik đa, lapa đik groa
(No thì nằm ngửa, đói lại nằm sấp: cái chén ăn cơm)
-  Gru sa ratuk, yuk manhi oh
(Một trăm cái lục lạc, lúc lắc không tiếng kêu: buồng cau)
- Đik mơng mul, pat rul tơ la- o
(Lên từ đàng gốc, tụt xuống từ ngọn: Cái ống hút rượu cần)
- Talơi nao, kubao dok
(Cái dây đi, trâu thì ở lại: Dây và trái bí đỏ)
2.4. Tục ngữ
Tục ngữ của người Raglai giản dị, mộc mạc:
Apui ghu kayua, ke rađeh jangq ghơng kayua ura tuha

Lửa cháy nhờ cành khô, trẻ con khôn lớn nhờ người già

Jeq manũih djah jhaq, jeq manũih siàq lageh.

Gần người xấu thì dở, gần người tốt thì hay

Buh tuvơu o payơr thok, buh trok o payơr tangãn
Thấy mía không xỉa dao, thấy cà không xỉa tay.
Kayơu hudiq kayua ugha, ia ghu kayua danơi
Cây sống là nhờ rễ, nước chảy là nhờ nguồn.
Buh ruh o hla, buh luka o khiơq.
Thấy ghẻ cóc không nhại, thấy ghẻ ngứa không khinh.
Ruvùq palơi ura, ikaq sa palơi drơi
Bão làng người ta, buộc nhà làng mình
Trong toàn bộ các loại hình thuộc lĩnh vực văn học dân gian Raglai, loại hình đáng quan tâm và cần sưu tầm gấp là sử thi và chuyện cổ vì các nghệ nhân còn thuộc và hát kể chuyện được loại hình này hiện cón rất ít và đều đã lớn tuổi. Đây là những loại hình chứa đựng nhiều tư liệu về văn hóa cổ truyền nhất của người Raglai mà nếu chúng mất đi thì vĩnh viễn không bao giờ có thể lấy lại được.







[1] Những sử thi của dân tộc Raglai đã và đang biên dịch, xuất bản nên trong công trình này, chúng tôi không đề cập sâu.
[2] Tư liệu phỏng vấn thông tín viên Ta - ing Yao (Tà Yên Giao) - thôn Là A, xã Phước Hà, huyện Ninh Phước.

[3] Tư liệu do ông Ta Yên Hiền - Thông tín viên – thôn Là A, xã Phước Hà cung cấp
Chương 5
ÂM NHẠC DÂN GIAN
1. Hệ thống nhạc cụ
   Dân tộc Raglai có hệ thống lễ hội phong phú. Có lễ hội là có âm nhạc. Trong các nghi thức cúng tế, người Raglai đều sử dụng nhạc cụ truyền thống và các giai điệu âm nhạc dân gian. Cũng như­ các dân tộc thiểu số ở miền Trung - Tây Nguyên, đa phần các nhạc cụ của người Raglai đều là những vật thiêng, đều có linh hồn. Đặc biệt là mã la, một loại nhạc cụ gõ bằng đồng mang tính đặc trưng của các dân tộc nằm trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên mới được UNESSCO công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại[1]. Theo quan niệm của người Raglai, mỗi chiếc mã la là một vị thần, chỉ có âm thanh của mã la là có thể thay tiếng nói con người để giao tiếp với thần linh. Vì vậy, mã la là một trong những nhạc cụ thiêng, được để nơi trân trọng trong nhà sàn, mỗi lần lấy xuống làm lễ đều phải cúng. Ngoài mã la, người Raglai còn nhiều loại nhạc cụ phong phú khác. Nhóm điền dã đã khảo sát và nhận thấy, hiện người Raglai có những nhạc cụ sau:
   Bộ gõ gồm: Mã - la (char); Trống (saggơr); Chiêng núm (chiek); Trống đất (saggơr tanah); Chiêng là – a (chiek pa – or); Lục lạc chùm; Đàn đá.
   Bộ hơi gồm: Kèn/khèn bầu sarakel và kèn bầu kupoăt; Kèn sừng (gadet); Sáo 6 lỗ loại lớn (taleăk); Sáo 6 lỗ loại nhỏ (talakung); Sáo 1 lỗ, có lưỡi gà (kok t’re); Sáo dài (kawau)
   Bộ dây gồm: Nhóm bộ dây gảy có: đàn Chapi; Đàn kéo 1 dây hoặc 2 dây (kanhi); Nhóm bộ dây búng có: Đàn môi búng a(wach) và đàn môi giật (radik - các loại đàn môi này cũng gần giống với các loại đàn môi của các dân tộc khác).
   1.1.  Bộ gõ
   1.1.1. Mã la (char)
   Mã la là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng mang tính đặc trưng của các dân tộc nằm trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Mã la gần giống với chiêng bằng của người Ê Đê, là loại chiêng không có núm. Nhưng chiêng bằng ở Tây Nguyên sử dụng bằng dùi để gõ, còn mã la của người Raglai lại dùng nắm tay đánh thẳng vào mặt ngoài của chiêng. Mã la là một loại nhạc cụ được sắp xếp thành bộ từ 2, 3, 5,7,9 đến 12 chiếc.
Mã la không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh của người Raglai. Trong hầu hết các lễ hội Raglai đều có sử dụng mã la, nhất là trong hai lễ hội tiêu biểu: lễ hội “ăn đầu lúa” và lễ hội “bỏ mả”.
   Trong lễ hội “ăn đầu lúa” ở hầu hết các làng Raglai nam từ đường QL số 27 trở vào, vì chỉ có mã la bộ 2 chiếc nên nhạc lễ đều dùng bộ chiêng núm 3 chiếc hòa tấu với kèn bầu Sarakel và trống lớn (Riêng thôn Tà Dương xã Ph­ước Thái – Ninh Ph­ước dùng bộ mã la 5 chiếc với 4 bài nhạc lễ). Đa số các làng Raglai bắc đều hòa tấu nhạc lễ với các bộ mã la từ 5 chiếc đến 9 chiếc.
   Trong lễ hội bỏ mả, mã la đóng vai trò nhạc lễ. Hiện nay, ở đâu không dùng mã la bộ làm nhạc lễ bỏ mả, nơi ấy không còn lễ hội bỏ mả nữa, tức là không có Budhi atâu mà chỉ có Bud’hi bilat (đám cúng mả một tháng rồi bỏ luôn). Hiện nay, bà con Raglai nam không còn tổ chức lễ bỏ mả theo nghi thức truyền thống.
   Đối với người Raglai, mã la là một loại di sản thiêng liêng của ông bà để lại. Tr­ước khi cúng, phải có lễ cúng nhỏ để “mời” mã la xuống. Trong khi cúng mã la, phải khấn tạ ơn vị tổ phụ đã tìm ra quặng để đúc thành mã la. Khi kết thúc phải có lễ cúng tạ mã la và mời từng “vị” mã la từ mã la “mẹ cả” đến mã la “con gái út” uống rượu, ăn lễ. Người ta lật ngửa mã la ra đặt trên đất, khấn tạ rồi rót rượu, bỏ thịt, bẻ trứng đã luộc, bỏ cơm vào từng chiếc mã la mời các vị thần mã la ăn, uống. Sau đó họ cầm chiếc mã la “mẹ cả” lên đánh một tiếng, trước khi treo cả bộ lên vách để đưa đi hòa tấu trong lễ hội. Bà con Raglai nói: “Mã la của ông bà để lại, cái bụng vui thì cái tay phải đánh”. Người Raglai có câu đố: “Pôk tagôh nhu hia, chek trut la nhu gađăkaa” nghĩa là: “Bồng lên nó khóc, để xuống nín thinh” để chỉ mã la[2]. Mã la không chỉ là loại “tiếng nói” giao tiếp được với thần linh trong các lễ nghi nông nghiệp, lễ nghi vòng đời và các lễ nghi khác mà còn là người bạn thân thiết không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng.
   Người Raglai có tới trên dưới một trăm bài nhạc mã la. Nhưng trong đó chỉ có khoảng 5 bài là nhạc lễ. Trong lễ bỏ mã chỉ dùng một bài duy nhất có tên “Atok Ya” (có làng gọi “Chrok atâu”). Trong lễ “ăn đầu lúa” chỉ dùng có 3 bài mã la: “Tamaya bâk akok padai” (múa ăn đầu lúa), “Da a Pô trôt mai” (mời ông bà về), “Da a Pô Yak prôk nh­ưk” (mời thần chủ) mà thôi. Gần một trăm bài còn lại đều dùng trong sinh hoạt hội hè. Nội dung những bài sử dụng trong hội hè chủ yếu là những khúc nhạc vui, chứa đựng nhiều giá trị tinh thần độc đáo.
Trên địa bàn Ninh Thuận, hầu như làng Raglai nào cũng còn mã la nhưng phân bố không đều, có làng còn nhiều, có làng còn ít (xem phụ lục). Làng còn nhiều mã la nhất là làng Kamau, thuộc xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, nơi đang l­ưu giữ trên 30 bộ mã la và chiêng núm. Còn hầu hết các làng Raglai Nam từ 6 thôn ở Ma Nới vào tận thôn Đồng Kho thuộc huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận chỉ có các bộ mã la 4 chiếc và 2 chiếc, có làng có thêm bộ chiêng 3 chiếc (trừ bộ mã la của gia đình ông Mạo Ngọc Thang từ làng Ia Meo mang về Xóm Mới, thuộc xã Ma Nới có 5 chiếc). Nếu là bộ mã la có 2 chiếc, sẽ mang tên một mã la mẹ (ina), một mã la con (ana). Nếu bộ mã la có 4 chiếc thì sẽ có tên một mẹ và ba con: Ina (mẹ) ana kachoăk (con tr­ưởng), ana khrăk (con giữa) và ana tuluih (con út). Ở phía Bắc đường quốc lộ 27, gồm 9 xã thuộc huyện Bác Ái, hai xã thuộc huyện Ninh Hải, (nay là huyện Thuận Bắc, trừ thôn Bà Râu 2 thuộc xã Lợi Hải – Khu Tập trung dân trong thời kỳ Mỹ ngụy) ra đến các xã Raglai thuộc huyện Khánh Sơn (trừ xã Thành Sơn) tỉnh Khánh Hòa, hầu hết các bộ mã la đều có 7 đến 9 chiếc (ngày xư­a có bộ 12 chiếc, nay không còn). Bộ nào chỉ có 8 chiếc hoặc 6 chiếc tức là đã bị mất hoặc lạc đi một chiếc.
   Đối với các bộ mã la có nhiều chiếc nh­ư thế, tên gọi và vị thứ của từng chiếc mã la có khác vùng Raglai nam: mỗi bộ có đến 3,4 mẹ và 4,5 con được mang tên: “ina muh” (mẹ cả), “ina dara" (mẹ thứ hai), “ina ruwơ” (mẹ thứ ba mang tính lý lẽ và hòa giải). “ana kachoăk” (con cả) “ana lai” (con thứ), “ana năm” (con đứng thứ sáu trong gia đình) “ana tuluih” (con út). Sở dĩ trong một gia đình mà có đến 3,4 mẹ là có cấu trúc thực tiễn của các thành viên trong một gia đình Raglai mẫu quyền.
   Nh­ư đã sơ l­ược giới thiệu ở trên, mã la Raglai chỉ “góp tiếng”, “góp lời” của các thành viên trong một gia đình mẫu hệ với nhau chứ không hòa chung tiếng nói với chiêng núm hoặc cồng như­ ở Tây Nguyên. Ở Tây Nguyên, cồng và chiêng núm th­ường được hòa tấu chung với chiêng bằng (không có núm, giống mã la). Cồng và chiêng là nhạc cụ giữ nhịp, gieo nhịp còn chiêng bằng đi giai điệu. Trong bộ mã la Raglai, vai trò giữ nhịp, gieo nhịp, mở nhịp phải do mã la mẹ, đứng đầu là mã la “ina mul” (mẹ cả). Mã la “các con” đóng vai trò đi giai điệu. Ở Tây Nguyên, người Ê Đê cũng hòa tấu nhiều bài bản với bộ chiêng bằng trên dưới chục chiếc, nhưng hoàn toàn khác với phong cách cũng như ý nghĩa sử dụng so với bộ mã la của người Raglai.
   Mỗi chiếc chiêng bằng của người Ê Đê đều được định âm tương đối ổn định. Các nghệ nhân lật ngửa chiêng bằng, với tư­ thế ngồi biểu diễn (đánh bằng dùi gỗ vào mặt trong của chiêng) như một dàn nhạc. Ng­ược lại, mỗi nghệ nhân Raglai đeo mã la vào vai. Khi sử dụng, để khỏi tuột, nghệ nhân cầm chiếc mã la xoay mấy vòng để dây đeo xoắn lại. Khi hòa tấu, mã la “mẹ cả” lên tiếng trước rồi thứ tự các mã la “con cả”, “con thứ”, “con út” hòa theo. Đến khi “cả nhà” đều đã cất tiếng hòa vào nhịp chung, các nghệ nhân bắt đầu khom l­ưng về trước để mã la khỏi chạm vào người, vừa dùng nắm đấm tay phải đánh vào mặt ngoài của mã la vừa đi vừa múa vòng tròn từ phải sang trái (ng­ược kim đồng hồ) sau đó lại đi ng­ược lại. Khác với người Ê Đê, người Raglai dùng nắm tay đánh vào một điểm cố định ở mặt ngoài mã la (vì thế âm thanh nghe trầm ấm hơn so với âm thanh sử dụng dùi gõ của người Ê Đê). Tài nghệ của từng nghệ nhân đánh mã la không phải là nắm tay phải đánh vào mặt ngoài mà chính ở bàn tay đỡ mặt trong của mã la. Âm sắc, tr­ường độ và cao độ, âm bồi, âm tắc, vang, trầm, bổng được phát ra đều hoàn toàn phụ thuộc vào bàn tay trái phía trong mặt úp, vừa đỡ mã la, vừa điểu khiển độ vang, độ ngân của mã la bằng cách thả hay bịt độ rung của chiếc chiêng đồng.
   Trong số 99 bài mã la mà nhóm điền dã s­ưu tầm được, người Raglai có 3 bài mã la đáng chú ý. Đó là: Ruwơ, Ruwơ Poriyu Chrao và Atok Pakrup. 
   Bộ mã la - biểu tượng của một gia đình mẫu hệ Raglai[3]
Trong một bộ mã la, từng chiếc mã la đều mang vị thứ quyền lực của một gia đình mẫu hệ. Chiếc mã la lớn nhất, có tiếng to nhất, có âm trầm nhất là mã la “Ina mul” (mẹ cả)  thể hiện quyền lực cao nhất trong “gia đình” mẫu hệ. Mã la nhỏ nhất là mã la “ana Tuluih” (con gái út) có âm thanh nhỏ nhất nhưng lại có âm vực cao nhất và vẫn là đối tượng được l­ưu ý nhất.
   Tuy trong bộ mã la, ngoài chiếc “mẹ” và “các con” được hiểu là phái nữ ra, không thấy bóng dáng của người đàn ông nào cả. Cũng như xã hội mẫu hệ, trong một gia đình, nếu là con trai đi lấy vợ thì con sẽ lấy họ mẹ, con trai phải ở luôn bên phía vợ. Nếu trong quan hệ vợ chồng bắt buộc phải chia tay thì người đàn ông phải ra đi tay không và nếu đã có con thì theo luật tục, con phải theo mẹ . Phụ nữ Raglai và cả gia tộc đều quý con gái hơn con trai. Có con gái là còn giữ được gốc của dòng tộc. Trong số các con thì con gái út là được quý hơn cả. Con trai bắt được vợ là con gái út của một gia đình nào đó (cũng giống như người con gái người Việt lấy được con trai trưởng người Việt vậy), sẽ có cả nhà ở, có của do cha mẹ vợ để lại và vì thế của cải, lễ vật mang đến nhà vợ cũng phải nhiều hơn. Sau này con gái út chính là người được thay thế cho tộc tr­ưởng. Nếu là mẹ đã qua đời thì mọi việc lễ, đám đều do con gái út chủ trì lo liệu.
   Gia đình mẫu hệ Raglai cũng phản ánh rõ nét qua các “thành viên” trong các bộ mã la. Trong một bộ mã la có nhiều chiếc, có đến 3,4 mã la “mẹ”: “ina mul”, “ina daza”, “ina ruwơ”. Mã la “mẹ cả” (ina mul) ở đây, theo giải thích của các nghệ nhân, được hiểu là bà tộc tr­ưởng đã có chồng và có con, là người có quyền thế cao nhất trong một gia đình. Các mẹ khác chẳng qua là em ruột của mẹ cả nhưng các con đều phải gọi bằng mẹ. Nếu chưa có chồng, các em gái của mẹ cả có thể sống trong một nhà với chị của mình. Người đàn ông Raglai khi lấy vợ phải về sống ở nhà vợ như­ kiếp “sống nhờ” mà thôi.
   Vì vậy trong “gia đình mã la” mẫu hệ này ta thấy có ba chiếc mã la đáng chú ý hơn cả. Đó là mã la mẹ cả “ina mul”, mã la mẹ “ina ruwơ” và mã la con gái út “ana tuluih”. Có thể thấy, cách đặt tên cho từng chiếc từ lớn đến nhỏ trong một bộ mã la đã thể hiện đầy đủ đặc trưng xã hội mẫu hệ Raglai. Mệnh lệnh của mã la “mẹ cả” phải được những chiếc mã la khác nghe và hòa theo. Mã la gieo nhịp đầu tiên bao giờ cũng là chiếc “mẹ cả”, kế tiếp là các “mã la mẹ” rồi đến các mã la “con gái”. Mã la là tài sản quí nhất của một gia tộc, do bà tộc tr­ưởng cất giữ.
Trong một “gia đình” như­ thế cũng có thể các bà mẹ thứ cũng có con. Cho nên lại có chuyện “mẹ nào, con ấy”. Chính vì thế khi hòa tấu mã la nhiều chiếc th­ường có 2 đến 3 tầng âm chồng lên nhau, xen kẽ với nhau tạo thành các bè. Nếu bộ mã la nào có 9 chiếc, nhất định phải có đến 3 tầng âm. Mỗi tầng âm là biểu tượng của một “gia đình” nhỏ.
   Nếu hòa tấu bài mã la Ruwơ thì không thể thiếu được chiếc mã la Ruwơ. Trong bộ mã la, mã la “con út” là khó đánh nhất vì đây là nhạc cụ đánh theo tiết tấu “nhịp ngoại” (xanh cốp), làm cho bài mã la sinh động hơn lên.
   Mỗi bài mã la đều có tên gọi nh­ư Kalak Toăh ia (ó tìm nước), Chip Lugo (chim chuông), Katrao manhi (chim cu gáy) v…v… Nhìn chung, các bài mã la có giai điệu đơn giản, ngắn gọn và lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng hàm chứa những nội dung sâu sắc. Nội dung của bài mã la có thể kể về một bi kịch tình yêu hoặc, về một câu chuyện phê phán thói l­ười nhác và đê tiện; hoặc ca ngợi những nhân vật anh hùng v..v…
Mã la là loại nhạc cụ báo hiệu mùa vụ nông lịch
Những làn điệu mã la của người Raglai rất phong phú, sử dụng hình tượng và âm thanh của các loài vật hoạt động theo mùa. Lên vùng đồng bào Raglai mùa nào thì được nghe làn điệu mã la mùa ấy, từ những làn điệu đánh dấu từ lúc gieo hạt cho đến khi thu hoạch và làm lễ “ăn lúa mới” rồi làm lễ bỏ mả. Đó là những bài mã la như: “Kiăk manhi”; Katrao manhi (chim cu gáy); Amrăh (chim công); Chip Taléo, Chipteo, ChipPalih; Chalakhôc (dây lồ ồ đuổi chim); Atok Ya (hoặc Chroh atâu) và bài Ruwơ (những bài mã la thường dùng trong lễ hội bỏ mả).
    Mã la - nhạc cụ thay cho lời nói
   Âm nhạc không lời nói chung đều là những âm thanh mang những thông điệp thay cho lời nói. Các điệu mã la cũng vậy, tiếng mã la có thể kể chuyện, có thể tâm sự và có thể giao tiếp với thần linh. Hiện nay, có những câu chuyện kể bằng các điệu mã la như­ sau:
   “Ngày xư­a có một đôi trai gái Raglai yêu nhau. Nhưng vì người già, tộc họ, cha mẹ không cho, họ phải lén lút tìm đến với nhau và cùng chết để phản kháng luật tục. Họ biến thành đôi chim Chuông, có làng gọi là chim “gọi bạn”. Loài chim này chỉ kêu, tìm nhau về đêm ở hai đầu núi. Tiếng kêu của nó như tiếng chuông hồi ba, khắc khoải trong đêm tr­ường. Không dám gặp nhau ban ngày, sợ thế gian dị nghị, ban đêm chúng mới đi tìm nhau. Không thấy nhau nên phải kêu lên để nhận ra tiếng  của người thư­ơng mà tìm đến. ở miền núi, khi tiết trời tạnh ráo, về đêm th­ường nghe tiếng chim này – chim “gọi bạn” (Chip Lugo). Hai con chim gọi bạn bao giờ cũng ở hai đầu núi gọi nhau rồi đi gần lại với nhau. Nhưng không hiểu vì sao hễ nghe tiếng kêu gần chạm vào nhau thì trời lại sáng. Tiếng kêu gọi bạn phải ngư­ng tắt, chờ đến đêm sau lại tiếp tục tìm nhau. Cuộc tìm  nhau này cứ theo năm tháng mà kéo dài chẳng bao giờ dứt và người Raglai x­a đã cho nó “đậu” vào nhạc cụ mã la, tạo nên bài Chip Lugo. Người đi tìm trầm rất quan tâm đến loài chim này. Họ lắng nghe về đêm. Hướng nào phát ra tiếng chim gọi bạn, nhất định ở vùng núi ấy sẽ có nhiều cây Gió và sẽ có trầm”.
   Ở làng Là A, xã Phư­ớc Hà có một bài mã la mang tên “Kalak Toăh ia” (tức con ó đi tìm nước).  Sự tích bài mã la này như­ sau:
   “Người xư­a ở vùng núi Kreh (núi hòm) núi Ya luk (tên một bạn xấu) kể rằng: Thuở ấy trời hay hạn hán, nắng nóng kéo dài. Các loài vật thấy rõ nguy cơ nên rủ nhau đi đào giếng, đào mư­ơng để có nước uống, nước tắm trước khi sông, suối dần khô cạn. Gà l­ười nhác bảo rằng: Sắp tới trời sẽ mư­a, gần gì phải lo xa! ó kênh kiệu hơn: Tao ở trên cao, tao luôn có nước sạch ở trong các bộng cây, hốc đá. Tao không uống được nước ở dưới đất bẩn thỉu nh­ư chúng mày. Uống nước như­ chúng mày, tao sẽ đau bụng mà chết sớm! Tao không cần nước giếng, nước m­ương của chúng mày!
   Trời cứ nắng hạn kéo dài. Các bộng cây hốc đá chính là nơi khô kiệt nước trước tiên. Trong lúc các loài có nước m­ương, nước giếng để uống, để tắm, ó sắp chết khát. Chờ lúc vắng vẻ về đêm, ó đi uống trộm nước ở dưới m­ương. Uống xong, ó bị đau bụng, chết t­ươi nh­ư lời đã nguyền. Từ đó về sau hậu duệ của loài ó không bao giờ dám uống nước dưới đất nữa. Còn gà vì đã lỡ mồm nên xấu hổ, phải tắm đất. Từ đó con cháu họ nhà gà không bao giờ tắm bằng nước mà chỉ tắm gội bằng đất”.
   Ngày nay, người Raglai cứ hễ nghe mã la tấu bài “Kalak toăh ia” thì lại nhớ ngay đến câu chuyện này và tự nhủ: Không được l­ười nhác, không được làm cao “mà đê tiện, bia miệng để đời! Atok Ruwơ (Còn gọi Chroh atâu) là tín hiệu mã la báo tin người chết: Khi trong nhà có người tắt thở, trước khi được thực hiện tiểu lễ cúng rảy nước cho ma tại nhà, trước khi cho người đi báo với bà con ở xa kịp về thăm, mã la không bao giờ đánh cả bộ mà chỉ đánh một chiếc mã la Ina Mul (Mẹ cả).
   Đây là tín hiệu báo tin cho người đang sống ở làng và cả ông bà tổ tiên đã khuất biết: Tại nhà này đã có chết.
   Nếu ai vào làng, hoặc người ở làng nghe mã la cả bộ tấu bài Atok Ya, sẽ biết ngay nhà ai đó, tại làng, đang cúng mả tại nhà mả hoặc tại rạp mả mới dựng liền cạnh nhà.
   Tuy vậy, nét độc đáo nhất vẫn nằm trong lễ hội bỏ mả. Nhưng ở phần hội vào đêm cuối cùng, sau khi đã tiển ma vĩnh viễn về với tổ tiên, nhất định ở bất cứ nhà nào, làng nào có làm đám bỏ mả đều có tiếng mã la Ruwơ “nói chuyện” với nhau.
   Ngày x­ưa, sau lễ bỏ mả, người Raglai đã có một hình thức “nói chuyện” với nhau giữa hai gia đình đàng trai và đàng gái (phía chồng, phía vợ) về nội dung lễ bỏ mã đã được làm như­ thế nào? Đặc biệt không phải bằng lời nói mà bằng tiếng nhạc mã la Ruwơ. Nếu đánh chơi với mục đích diễn tấu thi tài thì ai giỏi tay đều có thể vào tấu bài Ruwơ. Nhưng trong lễ hội bỏ mả thì đây là một bài nhạc mã la rất hệ trọng, được cả hai phía đàng chồng và đàng vợ đặc biệt quan tâm.
Vào thời điểm này, nếu đàng vợ làm đám cho chồng mà có người ở đàng chồng (phía người chết) vào cầm chiếc mã la Ruwơ đeo vào vai thì tất cả mọi người đều để mắt vào người ấy, lắng nhìn, lắng nghe, coi thử có định nói gì, nói hay, nói dở, nói tốt hay nói xấu? Hầu nh­ư đám Bỏ mả nào cũng diễn ra nét sinh hoạt truyền thống này.
   Thay vì có một cuộc họp để rút kinh nghiệm về việc tổ chức lễ hội, đánh giá về lòng hiếu thảo của các thành viên trong gia tộc, bài mã la Ruwơ với cách diễn tấu của từng người, nhất là chiếc Ruwơ sẽ nói lên điều đó. Nếu người đàng trai phật ý với đàng vợ, chiếc mã la Ruwơ mà đại diện của đàng trai đang tấu sẽ đánh chõi nhịp, phá nhịp nhằm vào đối tượng chính là chiếc mã la Ina (mẹ). Nếu phiền lòng về con cái của người mẹ, chiếc Ruwơ sẽ cố tình đánh sai nhịp hoặc đảo nhịp nhằm vào chiếc mã la Ana (con) không thể nào đánh đúng nhịp được nữa, phải ngừng đánh và bài Ruwơ đang dang dở. Tình hình trở nên rất căng thẳng. Người bên đàng vợ rất bực tức hoặc lo lắng, buồn phiền.
   Nếu phản ứng theo chiều êm chuyện, đợi cho chiếc mã la Ruwơ “ngừng nói” một người có uy tín của đàng gái, b­ưng tới trước mặt người đã tấu chiếc Ruwơ một bát rượu cần nước cốt, trân trọng t­ươi c­ười, mời uống giải hòa.
   Nếu người ấy uống thì nhất định họ sẽ lại đeo chiếc Ruwơ vào vai và tiếp tục đánh bài Ruwơ còn dở dang cùng với “thành viên” cũ. Lần này thì khác, tiếng mã la Ruwơ êm dịu và vui vẻ. Bốn hoặc 5 chiếc cùng hòa điệu, hòa nhịp rộn ràng.
Kết quả điều tra về số l­ượng mã la hiện còn ở vùng đồng bào Raglai cho thấy: Hiện nay một số vùng bà con vẫn giữ được nhiều bộ mã la (xin xem phần biểu phụ lục bảng thống kê). Mã la còn nhiều nhất là ở huyện Bác Ái (1.062 chiếc), trong đó ở xã Phước Thắng còn 24 bộ với 222 chiếc, ở Ph­ước Bình còn 35 bộ với 121 chiếc, ở xã Ph­ước Thành còn 26 bộ với 165 chiếc v.v…ở Huyện Ninh Sơn chủ yếu chỉ còn nhiều ở xã Ma Nới: thôn Gia rót có 12 bộ với 36 chiếc, thôn Gia Hoa 5bộ, 32 chiếc, thôn Xóm Mới còn 6 bộ, thôn Xóm ú có 5 bộ, thôn Hà Dài có 5 bộ, thôn Kamau có tới 20 bộ mã la. Các xã còn lại hầu nh­ư không còn mã la như­ L­ương Sơn, Nhơn Sơn, Hòa Sơn. Xã Mỹ Sơn còn 2 bộ, xã Lâm Sơn còn 2 bộ. ở huyện Ninh Hải, mã la còn nhiều nhất ở xã Ph­ước Chiến còn 25 bộ với 188 chiếc, xã Ph­ước Kháng có 9 bộ với 68 chiếc, xã Lợi Hải có 10 bộ 71 chiếc. ở huyện Ninh Phư­ớc hiện còn 31 bộ với 190 chiếc mã la, trong đó nhiều nhất là ở xã Phư­ớc Hà 23 bộ, 147 chiếc, ở thôn Tà Dương, xã Phư­ớc Thái còn 7 bộ, 36 chiếc (xin xem biểu thống kê ở phần phụ lục).
1.1.2.  Chiêng (Jiek)    
   Khác với mã la (chhar), chiêng có núm và đánh bằng dùi gỗ bọc vải. Bộ chiêng của người Raglai thư­ờng thấy có 3 chiếc: lớn, trung và nhỏ. Khác với cách treo đánh ở các dân tộc khác, người Raglai treo chiêng trong một cái khung tre hình chữ nhật có giây chằng phía sau để chiêng khỏi quay và giữ độ ngân vang. Khung tre được dựng bằng hai cây chống nghiêng để cho thành đứng của khung với mặt đất có độ nghiêng khoảng 600.
1.1.2.1. Bộ chiêng ba[4]
   Chiêng cũng có mẹ, có con: Chiêng ina (mẹ) – Chiêng ana (con); Chiêng ana tuluih (con út) do một người đánh bằng hai dùi.
Tuy nhiên, chiêng không bao giờ đánh một mình mà th­ường đi với rakel (kèn/khèn bầu) và saggơr (trống). Hiện nay ở các làng Raglai bắc không còn tìm thấy chiêng, chỉ còn ở các làng ở phía nam và chỉ sử dụng trong lễ cúng. Nhìn chung, khác với các dân tộc ở Tây Nguyên nhạc cụ chiêng và cồng có núm ít phổ biến ở vùng đồng bào Raglai.
1.1.2.2. Chiêng lồ – ô (chiek pa – or), đây là một loại nhạc cụ được làm từ ống cây lồ ô (có nơi gọi là cây là a), đường kính từ 8 đến 10 cm, một đầu để mắt (tre) bịt kín, một đầu để rỗng. Nghệ nhân biểu diễn cầm 2 tay hai ống, đập dọc đầu rỗng xuống mặt phẳng (đá hoặc mã la) phát ra tiếng giống như mã la, như kiểu ống đàn Krong pút đập ngược.
1.1.3. Đá kêu hay là “đàn đá”.
Riêng về “đàn đá”, nhiều nhà văn hoá trong và ngoài nước đã công bố trên nhiều sách, báo như­ một phát hiện mới của thế kỷ 20 và coi nh­ư đây là một đặc trưng của nhạc cụ dân tộc Raglai: Đàn đá Khánh Sơn và đàn đá Bác Ái. Hiện nay, tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về “đàn đá”. Đàn đá có phải là một nhạc cụ truyền thống của người Raglai không? Trư­ớc hết, cần phải xem xuất xứ, nguồn gốc và công dụng của loại nhạc cụ này.
   Ở nam Khánh Hòa, bắc Ninh Thuận có những dãy núi có những thanh đá có chứa những hợp chất kim loại, khi gõ vào phát ra âm thanh rất hay. Người Raglai xưa kia đã chọn những thanh đá kêu về giăng thành hàng ở dưới suối và lợi dụng sức nước bằng đòn bẩy để những thanh đá con đập vào những thanh đá lớn, phát ra nhiều âm thanh với những cung bậc khác nhau (dựa vào thang âm khèn bầu), vừa có mục đích tạo nên âm vang núi rừng với những “bản nhạc” thiên nhiên, vừa có tác dụng đuổi muông thú, giữ rẫy. Người Raglai gọi những thanh đá đó là “Patâu Tuleng” (đá kêu). Trước đó, người Raglai chư­a biết sử dụng dùi gỗ để gõ,­ chư­a đẽo gọt, sắp xếp những thanh đá theo thứ tự thang âm trên giàn dây để trở thành “đàn đá” như­ các “đàn đá” trong giàn nhạc của các đoàn văn công nh­ư bây giờ. Thời Pháp thuộc, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã chọn những thanh đá kêu thành một bộ nhạc cụ mang về trưng bày ở bảo tàng Viễn đông Bác cổ ở Paris.
   Những năm sau giải phóng 1975, Viện Âm nhạc và múa tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Ninh Thuận, Khánh Hòa sưu tầm và chọn những thanh đá có cung bậc phù hợp làm ra một số bộ đàn đá và sáng tác một vài bản nhạc cho loại nhạc cụ mới này. Có thể nói, “Patâu tuleng” xưa kia chưa phải là một loại nhạc cụ truyền thống của người Raglai mà chỉ là những thành đá kêu sử dụng sức nước để đuổi muông thú. Sau này các nhạc sĩ đã chọn ra những thanh đá kêu ấy để làm nên bộ đàn đá. Nh­ưng dù sao, đã vài chục năm nay, với việc phát hiện đàn đá và hệ thống hóa, cải tiến nó thành một loại nhạc cụ “đàn đá” với đầy đủ thang âm như­ hiện nay (chủ yếu là do các đoàn văn công chế tạo). Đã có những bộ đàn đá quý giá như­ bộ đàn đá ở bảo tàng Viễn đông Bác cổ (Pháp), ở Bảo tàng Huế, ở các đoàn văn công Khánh Hòa, Bình Thuận và một số nhóm nhạc ở Thành phố Hồ Chí Minh, “Patâu Tuleng” của người Raglai đã trở thành một “nhạc cụ” độc đáo. Chỉ có điều, nhiều đoàn văn công, nhiều nhóm nhạc đã đi quá xa đối với việc “cải tiến đàn đá”, dùng công nghệ kỹ thuật cưa, đẽo gọt, thêm vào những bán cung như nhạc cụ phương tây.
1.1.4. Trống Sakon (còn gọi Saggơr)
Trống của người Raglai nhỏ hơn trống chầu của người Việt. Thân trống làm bằng gỗ cây rừng. Đường kính mặt trống khoảng 45 – 50 cm và được làm bằng da trâu. Đai trống làm bằng dây rừng bện chặt hoặc bằng dây mây rừng quanh thành trống. Đai trống được đánh thành 4 vòng theo từng cặp, chia tang trống ra làm 3 phần bằng nhau.
Người Raglai không bao giờ dùng trống đơn độc. Nó thường đi với chiêng và kèn bầu Sarakel, đi với đàn mã la để giữ nhịp.
Sakon được đánh bằng dùi gỗ bịt vải, trong thế mang ở vai nếu đi cùng với mã la hoặc đặt ở dưới đất nếu đánh cùng chiêng và sarakel.
1.2. Bộ hơi
1.2.1. Các loại kèn/khèn bầu[5]
Người Raglai có 2 loại kèn/khèn bầu: kèn bầu Sarakel và ken bầu Kupoách. Hai loại này gần giống nhau.
1.2.1.1. Kèn bầu Sarakel
Vật liệu quan trọng để làm kèn là quả bầu đắng. Đây là một loại bầu mọc tự nhiên trên núi, ưu điểm của nó là nhỏ quả, vỏ cứng, không bị mối mọt, thuận lợi cho việc làm kèn bầu.
Đ­ường kính nơi lớn nhất của quả bầu cắt ngang từ 11 đến 13cm. Hộp cộng hưởng của kèn chính là quả bầu đắng đã khoét bỏ ruột, phơi khô. Lỗ thổi ở cuống quả bầu bằng một đ­ường cắt ngang ngay đầu cuống.
Phần thứ hai là 6 ống nứa nhỏ, đường kính khoảng 2 cm, dài, ngắn khác nhau. ống dài nhất khoảng 60 – 65 cm, ngắn nhất 30 cm. Trên mỗi ống, ở phần dưới (phần nằm trong ruột quả bầu) người ta khoét dạt một lỗ để đặt vào 1 l­ưỡi gà bằng lá đồng rất mỏng. Trên mỗi ống được khoét 1 lỗ tạo âm chuẩn cần có. Người ta đặt 6 ống xuyên quả bầu thành hai hàng: hàng 4 ống và hàng 2 ống. Để gắn chặt các ống vào quả bầu ở phần trên và đồng thời bịt kín hơi cho hộp cộng hưởng, người ta dùng sáp ong trét kín chung quang.
Hàng 4 ống xuyên cạnh cuống bầu. Hàng 2 ống xuyên qua gần đáy bầu. Sáu ống đều có tên và vị trị trong gia đình như­ vị thứ trong các bộ mã la. Hàng 4 ống gồm có ống Ina (mẹ) là ống dài nhất. Nằm cạnh ống Ina (mẹ) là Ana Tuluch (con út) là ống ngắn nhất, kế con út là Ana lai (con thứ giáp út), ống cao hơn Tuluch một tý, nằm ngoài cùng ở hàng 4 ống là Ana Kachoăh (con trưởng), ống nằm thấp hơn ống mẹ một tý.
Ở hàng hai ống, ống thấp hơn con trưởng (Ka choăh) và cao nhất trong 2 ống là Ana Dara (con thứ 2 sau con trưởng), đến ống kề bên con thứ hai là Ana Khrăh (con thứ ba – con giữa).
Cách sử dụng hơi của kèn bầu là vừa thổi ra, vừa hút vào. Bài bản của kèn bầu đều có phần giai điệu và bè đệm giống nh­ư mã la.
Kèn bầu Sarakel có bài bản riêng được dùng trong hai trường hợp: thổi trong lễ cúng và thổi trong sinh hoạt múa vui hoặc giải trí.
Thổi Sarakel trong lễ cúng có thể đứng ở giữa thổi cho 8 người múa chung quang trong lễ hội “ăn đầu lúa” nh­ư ở làng Yarot (Manới – Ninh Sơn). Kèn bầu Sarakel thường đi với chiêng ba và trống  trong các lễ cúng nh­ư ở Palay Yo (Ninh Thuận), Palay Takay La (Bình Thuận).
1.2.1.2. Kèn bầu Ku Poach
Kèn bầu Kupoach là một loại nhạc cụ được tạo ra từ vật liệu giống y như­ kèn bầu Sarakel. Chỉ khác là kèn này chỉ dùng để đệm giai điệu cho người hát Akhat Tikal (hát kể chuyện), hát đối đáp nam, nữ, hát ru … ít có tiết tấu. Do chức năng được quy định như­ thế nên nghệ nhân chỉ thổi làm nền cho người hát mà thôi. Khi thổi ít dùng phần bè. Kèn bầu Kupoach được dùng phổ biến trong mọi sinh hoạt hội, vui chơi mà không bị ràng buộc những điều kiêng kỵ nh­ư các nhạc cụ khác.
1.2.1.3. Kèn Gadẹt
Gadẹt là một loại nhạc cụ mà ngày nay người Raglai rất ít sử dụng. Tuy nhiên, trong một số gia đình người ta vẫn còn lưu giữ. Đây là một loại nhạc cụ làm bằng sừng con sơn dư­ơng. Ngày nay, sơn dương ngày càng hiếm, người ta có thể thay thế bằng sừng trâu tơ. Ngày xư­a, người ta phải tìm cho được sừng sơn d­ương mới làm Gadẹt. Người ta cắt một đoạn sừng sơn dương dài khoảng 18 cm từ đầu nhọn trở vào. Ở đầu nhọn cũng cắt thủng để xoi lỗ thông ở phía dưới. Có thể nhìn thấy ánh sáng từ đầu này sang đầu kia mặc dầu đoạn sừng ấy hơi cong. Ở gần mặt cắt lớn, người ta khoét một lỗ trống và đặt vào đấy một l­ưỡi gà. Người cầm đầu nhọn ở tay phải, đầu lớn phía tay trái, lưỡi gà áp vào miệng, ngón cái tay phải bịt và mở đầu ống nhỏ. Bàn tay phải bịt hoặc mở ở đầu ống lớn để tạo nhiều âm khác nhau. Khi sử dụng vừa hút hơi vào và thổi hơi ra tạo nên âm thanh. Đó là cái khó khi thổi kèn gadẹt, vì phải hút vào khoẻ mới lên tiếng được. Gadẹt là một loại nhạc cụ giống như tù và, không hoà chung với nhạc cụ khác vì nó không định âm.
1.2.2. Các loại sáo
1.2.2.1. Sáo Koấk tơre
Đây là một loại nhạc cụ dễ làm hơn gadẹt nhưng âm thanh gần giống nh­ư Gadẹt. Vật liệu làm sáo Koấk tơre là một ống nứa ngắn từ 18 – 20 cm, hai đầu đều trống để thoát âm. Đường kính của ống từ 2,5 – 3 cm. Sáo Koấk tơre chỉ dùi một lỗ và khoét một lỗ hình chữ nhật gần một đầu ống để đặt lưỡi gà bằng dăm tre mỏng. Để giữ chặt lưỡi gà và chống nứt, người ta bện ngoài đầu ống mấy vòng dây mây vạt mỏng. Khi thổi Koấk tơre, nghệ nhân ngậm đầu ống có lưỡi gà, bàn tay phải bịt, mở ở đầu thoát, ngón tay trái bịt mở ở gần đầu thoát để tạo nhiều âm thanh và âm sắc khác nhau (tương tự như sáo vỗ của người Tây Nguyên). Nếu đứng ở xa nghe, ta có thể nhầm với tiếng Gadẹt, tuy rằng tiếng Gadẹt vang xa và sinh động hơn. Sáo Koấk tơre là nhạc cụ dùng để vui giải trí. Trong lễ cúng không bao giờ thấy Koấk tơre  xuất hiện.
1.2.2.2. Sáo Ta leăk
Sáo Ta leăk làm bằng ống nứa nhỏ, chắc. Đư­ờng kính của ống khoảng 2 cm, dài độ 50 cm. Phía đầu thổi có một lưỡi gà. Trên mặt ống ở gần đầu thoát âm được khoét 3 lỗ. Khi thổi, nghệ nhân dùng 2 ngón tay trái bịt, mở hai lỗ ở trên, một ngón tay phải bịt, vuốt lên vuốt xuống trên lỗ thứ 3 đẻ tạo âm rung và âm chảy.
Sáo Ta leăk chỉ có âm điệu vút lên rồi chảy xuống nh­ư một lời khấn chứ không có tiết tấu rõ ràng. Tại làng Liên Hoa và Apar 2 huyện Khánh Sơn, Khánh Hoà chúng tôi chỉ ghi được ba bài có tên: Maniêng, Sapu và Maniêng Krăk Apuấk. Sáo Ta leăk hiện dùng nhiều ở Yarot Manới, Ninh Sơn.
Ngoài ra, sáo Ta leăk còn dùng trong lễ cúng ăn đầu lúa. Trường hợp này sáo taléa chỉ thổi khi thầy cúng rung lục lạc để mời ông bà về dự lễ với gia tộc.
1.2.2.3. Sáo Talakung
Talakung là một loài sáo nhỏ nhất trong các loại sáo của người Raglai nhưng nó lại có nhiều bài bản nhất trong các loại sáo. Sáo Talakung có nhiều ở Khánh Sơn, Khánh Hoà, không tìm thấy ở Ninh Thuận và Bình Thuận.
Đây là một loại sáo thổi dọc. Đầu ống ngậm vào mồm để thổi có một lưỡi gà. Thân ống khoét 6 lỗ cách đều nhau. khác với sáo Ta leăk và Kawau, Talakung thường thổi cho nam, nữ thanh niên múa vui hoặc thổi trao tình để trai gái tìm hiểu nhau.
1.2.2.4. Sáo Kawau
Trong các loại sáo của người Raglai thì Kawau là một loại sáo lớn với chiều dài khoảng 80 cm. Khi thổi nghệ nhân phải kẹp đầu ống thoát âm vào giữa ngón chân cái và ngón áp cái.
Sáo Kawau cũng thổi dọc như­ Talakung và cũng khoét 3 lỗ như­ Ta leăk. Sáo này chỉ dành riêng cho các vị thầy cúng trong dịp cầu bắp lúa xuống với gia chủ nào bị mất mùa. Giai điệu của nó giống nh­ư một tiếng thở dài. Đầu câu nhạc bao giờ cũng vút lên cao rồi đổ xuống nh­ư một ngọn nước dốc và lập lại nh­ư câu trước. Loại sáo này dùng để cúng là chính.
1.3. Bộ dây
1.3.1.  Bộ “dây búng”
1.3.1.1. Đàn Awach
Đàn Awach có hình dáng nh­ư một dấu than lớn bằng ngón tay cái. Đàn chia thành hai phần toàn bằng đồng. Vòng ngoài tạo thành hình dấu than là một sợi đồng khối vuông chỉ nhỏ bằng mút đũa, nhỏ dần về phía đầu, được uốn cong và khép lại ở đầu nhọn. Chính giữa, tức là bộ phận thứ hai nằm giữa cái khung trên là một lưỡi gà bằng đồng, dài hơn khung dấu than chừng 1,2 cm được uốn cong lên 900.
Đây là một bộ phận quan trọng nhất của đàn Awach. Để giữ chặt gốc của lưỡi gà và gốc của dây đồng, nơi uốn cong, người ta dùng sáp ong ép chặt chúng lại. Đàn Awach được bảo vệ bằng một cái ống có nắp đậy. Khi không dùng người ta bỏ awach vào trong ống, đậy lại để khỏi gãy.
Khi sử dụng đàn Awach, nghệ nhân dùng môi ngậm đầu đàn, tay phải búng vào đầu cần cong, đồng thời dùng khẩu hình thay đổi của mồm và hơi hít vào thở ra để tạo âm thanh, âm sắc của tiếng đàn. Tiếng đàn Awach rất nhỏ, chỉ búng cho riêng mình và người bạn tâm giao ngồi cạnh nghe. Hiện nay loại đàn này chỉ có ở thôn Là A, xã Phước Hà.
1.3.1.2. Đàn môi Radik
Đàn được làm bằng một lá đồng dài chừng 7 – 8 cm, bề ngang 1 cm, giữa lá đồng theo chiều dài, người ta cắt đứt hẳn hai cạnh dài nhất của tam giác cân, để tạo thành một cái lưỡi gà mà phần đáy của tam giác cân này vẫn dính vào lá đồng.
Hai đầu của lá đồng người ta dùi hai lỗ để buộc hai sợi dây vào: bên phải một vòng dây có thể luồn vào 4 ngón tay. Bên trái là một sợi dây dài chừng 15 cm.
Khi thổi Radik, nghệ nhân đặt lá đồng nằm ngang vào giữa hai môi, tay phải giật dây chùng, thẳng để tạo âm. Nhờ hút hơi vào hoặc đẩy hơi ra, lưỡi gà chuyển động thay đổi cao độ và cường độ. Đàn Radic hiện chỉ còn ở làng Ma Oai (Ph­ước Thắng) và làng Ma Ti (Ph­ước Tân) thuộc huyện Bác Ái và cũng chỉ còn 2 chiếc.
1.3.2. Bộ dây gảy
1.3.2.1. Đàn Chapi (còn gọi là đàn) Kok tlơr
Ở Khánh Sơn bà con gọi là đàn Kok tlơr, còn bên Bác Ái (Ninh Thuận) thì gọi là đàn Chapi. Đây là một loại đàn được làm từ một lóng cây lồ ô, dài chừng 30 – 35 cm, đường kính từ 7 – 8 cm. Đây cũng là hộp cộng hưởng của đàn. Người ta thường dùng dao sắc rạch trên ống lồ ô, lẩy lên phần cật thành 12 giây theo từng cặp. Ở hai đầu mỗi dây đều có hai “con ngựa” để lên giây. Ở giữa ống người ta làm 6 cái phím bằng tre, chiều dài khoảng 2 cm, chiều ngang bằng chiều rộng của ngón tay út (khoảng 1,2 cm). Mỗi phím đính vào 2 dây. Phần ống lồ ô dưới mỗi phím người ta dùi một lỗ nhỏ thông vào hộp cộng hưởng. Để giữ hai đầu dây khỏi bị t­ước ra, nghệ nhân làm đàn thường quấn vào hai đầu ống hai, ba đường dây mây vạt mỏng. Ở gần giữa ống, người ta dùi một hoặc hai lỗ, cắm vào đó một hoặc hai đoạn tre chéo vót tròn bằng ngón tay, phần dôi ra ngoài chừng 15 cm làm tay cầm khi gảy đàn.
Khi đàn, nghệ nhân để hai que chéo h­ướng xuống đất. Một đầu ống được bịt lại bằng thành da bụng để tiếng vang ấm và trong. Các ngón tay ôm tròn ống tre trên các phím mà gảy.
Xét về mặt cấu trúc âm thanh, đàn Chapi giống như một bộ mã la bằng tre. Chỉ khác là tiếng nó nhỏ hơn, không vang như­ mã la và do một người sử dụng. Bài bản của đàn Chapi cũng trùng với mã la. Được coi như một bộ mã la thu nhỏ và chơi đủ cho một hai người nghe.
Âm thanh của đàn Chapi phát ra trong trẻo, nghe thoáng xa xa như tiếng núi rừng ông bà vọng về. Tuy nhiên, đàn có hạn chế là âm thanh phát ra nhỏ, chỉ phù hợp với không gian núi rừng yên tĩnh Còn để sử dụng trong ngày hội hay lên sân khấu biểu diễn, cần có hệ thống phóng đại âm thanh. Trong một lần hiếm hoi về với vùng Bác Ái, nhạc sĩ Trần Tiến nghe tiếng đàn Chapi Raglai đã sáng tác ca khúc “Giấc mơ Chapi” khá nổi tiếng.
1.3.2.2. Đàn Ko Tuki - u
Đàn Kok tuki - u cũng làm bằng ống tre, cách làm tương tự như đàn Chapi. Chỉ khác là ống lồ ô để làm đàn dài hơn đàn Chapi chừng 20 – 25 cm. Toàn bộ đàn dài khoảng 60 cm, hai đầu ống lồ ô để mắt, bịt kín.
Khác với đàn Chapi, đàn Kok tuki - u không có phím. Khi đàn, nghệ nhân dùng các ngón tay trái và phải búng thẳng vào dây. Khi đánh, đầu dưới của đàn cũng được áp vào bụng. Trên mặt ống tre chạy dọc theo dây đàn, người ta rạch sâu hai cái rãnh đối diện nhau thông với bầu cộng hưởng (lòng ống tre).
Đàn Kok tuki - u rất ít thấy ở các làng Raglai, ngoài ông Chamaléa Tiêng ở Tô Hạp còn giữ một chiếc và chỉ ghi được một bài duy nhất về cây đàn này.
1.3.2.3. Đàn Chapi Piloai
Đây là một cây đàn chỉ sưu tầm thấy ở ba cụm bắc huyện Khánh Sơn và làng Ma Nai xã Ph­ước Thành huyện Ninh Sơn. Ông Chamaléa Lương, chủ nhân của cây đàn cho biết, ông đã bắt ch­ước cha ông làm nên chiếc đàn này. Cha ông đã dùng hai loại đàn này để đệm cho người hát Hari, Siri và cũng có bài riêng của nó nữa như­ bài ru em.
Chapi piloai tựa như­ một chiếc đàn bầu bằng cây lồ ô. Để làm đàn, người ta c­ưa một ống lồ ồ lớn có hai lóng dài 1,2m. Phía dưới người ta vạt bằng, vừa đặt được đàn  dưới đất, vừa làm lỗ thoát âm. Phía trên chính giữa ống, nghệ nhân rạch sâu một đường rãnh, thông âm với bầu ống. Đàn cũng có cần, xâu qua một vỏ quả bầu khô làm hộp cộng hưởng. Phía dưới cũng có trục để mắc dây từ dưới lên cần qua vỏ bầu. Ngày x­ưa người ta dùng phần cật của dây mây rừng loại nhỏ, hoặc dây “máu” (chamaleq) đánh săn lại để làm dây đàn. Nhưng ngày nay, nghệ nhân đã dùng dây thép cứng trong ruột dây điện thoại để thay thế vì thế tiếng kêu thanh và to hơn. Loại đàn này sưu tầm ở nhà anh Chamaléa Tiêng, làng Tala (Tô Hạp) huyện Khánh Sơn.
1.3.2.4. Đàn Kanhi
Tuy cùng gọi là đàn Kanhi, nhưng đàn Kanhi của người Raglai và người Chăm có khác nhau. Đàn Kanhi của người Chăm là một loại nhạc cụ chỉ dành riêng cho các ông Ka Thành (chức sắc dân gian Bàla môn) sử dụng mà thôi. Khi lấy ra sử dụng nhất thiết phải cúng. Hộp cộng hưởng của đàn Kanhi của người Chăm được làm bằng mu rùa, cần đàn nh­ư cần đàn hồ, đàn nhị cắm qua mu rùa. Còn đàn Kanhi của người Raglai đơn giản hơn, dùng để đệm cho hát dân ca, hát kể chuyện. Nhạc cụ này cũng có những bài bản riêng.
Vật liệu làm đàn là một ống tre dài từ 10 – 12 cm trống hai đầu. Cần đàn là một cây gỗ tròn cắm vào ống tre xuyên từ trên xuống dưới dài 50 – 55 cm. Phía trên cùng của cần đàn hình khối chữ nhật được đục trống hai chỗ để làm khóa lên dây đàn bằng gỗ. Mặt phía trước của ống tre được nghệ nhân là một miếng mo cau dày, hình tròn. Trên mo cau, gần thành ống tre phía dưới, là “con ngựa” để kê dây. Dây đàn làm bằng các loại dây rất chắc ở rừng như­ dây máu, dây mây. Tuy nhiên, hiện nay để kêu to và thanh hơn, người ta dùng dây thép. Về hình thức, đàn Kanhi của người Raglai giống tựa như­ đàn hồ tiểu của người Việt.
1.4. Thống kê nhạc cụ truyền thống Raglai
Trong quá trình điều tra, các nhóm điền dã đã thống kê về số lượng các loại nhạc cụ truyền thống hiện đang còn ở các làng và trong các gia đình Raglai. Tuy nhiên, số lượng điều tra, thống kê cũng không thể chính xác được. Kết quả thống kê cho thấy, điều đáng quý nhất là các nhạc cụ truyền thống nêu trên của người Raglai còn lại khác nhiều thể loại. Đặc biệt là mã la, nhạc cụ quý báu nhất của người Raglai vẫn còn khá nhiều. Nguyên nhân có lẽ là nhờ vào quan niệm của người Raglai, coi mã la ông bà là vật thiêng do tổ tiên để lại để làm các nghi lễ, phải để ở nơi trang trọng và khi muốn lấy xuống sử dụng phải làm lễ cũng. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với hiện tượng “chảy máu” cồng chiêng ở Tây Nguyên, nhiều bà con cũng đã đem mã la ra bán hoặc đổi chác.
Theo số lượng chúng tôi thống kê được qua các bảng dưới đây, số lượng nhạc cụ hiện còn như sau:
Mã la: còn 220 bộ, 1772 chiếc, nhiều nhất là ở huyện Bác Ái còn 146 bộ, 1062 chiếc; Huyện Ninh Sơn còn 57 bộ, 175 chiếc; Huyện Ninh Hải còn 48 bộ, 345 chiếc và huyện Ninh Phước còn 31 bộ, 190 chiếc. Riêng ở xã Ma Nới còn có một bộ chiêng ba.
Khèn bầu: Còn 70 chiếc, trong đó nhiều nhất là ở huyện Bác Ái với 32 chiếc, huyện Ninh Sơn 19 chiếc, huyện Ninh Hải: 13 chiếc, Huyện Ninh Phước 06 chiếc.
Trống: Còn 63 chiếc, nhiều nhất là ở huyện Bác Ái 25 chiếc, huyện Ninh Sơn 21 chiếc, huyện Ninh Hải  08 chiếc, huyện Ninh Phước 09 chiếc.
Còn các loại nhạc cụ khác, hầu hết đều còn ở các vùng đồng bào Raglai mà chúng tôi không thể thống kê hết được mà chỉ ghi có hoặc không có.

BẢNG THỐNG KÊ NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Huyện: Bác Ái.
BẢNG THỐNG KÊ NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Huyện: Ninh Sơn.
BẢNG THỐNG KÊ  NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Huyện: Ninh Hải.
BẢNG THỐNG NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG RAGLAI
Huyện: Ninh Phước.

2. Dân ca
Người Raglai có kho tàng dân ca khá phong phú, nhưng đến nay cũng bị thất truyền nhiều. Dân ca Raglai được sử dụng để hát trong sinh hoạt lễ hội và sinh hoạt đời thường.
2.1. Các điệu hát kể chuyện (hari ikhat yulukal)  
2.1.1. Điệu Simoai
Bà con Raglai nam gọi các làn điệu hát kể chuyện là simoai. Nhưng simoai lại có nhiều làn điệu khác nhau, phụ thuộc vào từng nội dung của những cốt chuyện khác nhau. Ví dụ: “Simoai Anai patik kok dan”, “Simoai Ano Joh Rong”, “Simoai Jurit Budu”...v..v...
2.1.2. Điệu Suri (còn gọi là điệu siri)
Cũng như­ simoai, suri là điệu hát dùng để hát kể chuyện ở vùng Raglai bắc. Cũng cùng trong vùng Raglai bắc nhưng ở Thành Sơn (Khánh Sơn, Khánh Hoà), làn điệu dùng để hát kể chuyện được gọi là Ma nhiêng. Suri và Ma nhiêng cũng có nhiều điệu hát khác nhau, phụ thuộc vào nội dung của từng chuyện hát kể. Ví dụ: Suri Bhu (bhu có nghĩa là người ma), Suri Dăm Mư­k (tên nhân vật), Suri Sa - ea (tên nhân vật) Ma nhiêng phổ thông, Ma nhiêng ya lô, Ma nhiêng Rukă, Ma nhiêng Hôli v.v…Các làn điệu hát kể chuyện cổ Raglai rất đa dạng và phong phú.
2.1.3. Các làn điệu hát tâm tình
2.1.3.1. Điệu Kathơng
Đây là làn điệu dân ca còn ở vùng Raglai nam. Hiện người Raglai từ các làng Là - A, Rô - ôk, Yah thuộc huyện Ninh Phư­ớc vào đến Phan Điền, Phan Lâm ở huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận còn đang lưu truyền, phổ biến. Điệu Kathơng th­ường được dùng để hát tâm tình, nhắn nhủ, giãi bày và nó cũng có nhiều giọng điệu khác nhau, tùy thuộc vào từng địa ph­ương. Các điệu Kathơng đáng chú ý là Kathơng Chơk Wông, Kathơng Rô - ôk, Kathơng Yăh, Kathơng phổ thông, Kathơng  gợi nhớ v.v…
2.1.3.2. Điệu Hari. Từ Hari đư­ợc bà con dùng theo hai nghĩa: Hari ở vị trí động từ (có nghĩa là hát) được dùng phổ biến trong ngôn ngữ nói hằng ngày. Ví dụ: “kau nao, ha hari” (tao đi, mày hát). Nhưng Hari còn được dùng ở vị trí là danh từ, có nghĩa là một làn điệu dân ca mang hình thức hát đối đáp. Điệu Hari thư­ờng được hát hai người cùng giới để giải bày tâm tình, để chúc tụng lẫn nhau, để tâm sự cùng nhau. Điệu hát Hari này bao giờ cũng phải được mở lời bên cạnh bầu rượu tâm giao vì khi nào men tình đã được men rượu mở khóa thì nghệ nhân mới có linh cảm để có khả năng mà ứng tác được.
Những cặp nghệ nhân th­ường hát với nhau có thể kể đến: Nghệ nhân Katơr thị Phôn Hoa và nghệ nhân Tapôh thị Đoàn ở palơi Yarok, xã Ma Nới Ninh Sơn; Nghệ nhân Tayên Giao và nghệ nhân Tayên Hiền[6] ở làng Là - A, xã Phước Hà, Ninh Phư­ớc ...
2.1.3.3. Điệu Alơu
Làn điệu Alơu chỉ có ở tiểu vùng Raglai bắc. Alơu cũng là một làn điệu dân ca trữ tình, da diết yêu th­ương như Kathơng, Hari ở vùng Raglai nam nhưng có thể hát một mình, hát riêng cho mình nghe và cũng có thể hát giao l­ưu tâm sự giữa 2 người.
2.1.3.4. Hát Yangsi, Lakau (khấn ca, táng ca)
Đây là những làn điệu độc đáo dùng để hát trong các lễ cúng và cũng có thể hát tự tình.
Yangsi là một điệu hát trữ tình mênh mang, du dương. Còn Lakau là từ chung để chỉ cho nhiều điệu hát khấn ca, táng ca trong các lễ cúng như Budhi atâu (Bỏ mả), Bâk akok padai (ăn đầu lúa) Da-a Muk kay (cúng tổ tiên, ông bà), ngăk sôm, ngăk chea, yok ia...(lễ cúng thành hoàng cầu m­a, cầu lúa bắp...). Các điệu khấn, điệu hát này không có tên riêng nhưng hầu hết đều có giai điệu trữ tình, không có tiết tấu qui định.  
Hai điệu hát này sưu tầm được ở palơi Ma Ty, xã Phước Tân do hai nghệ nhân Katơr thị Sính và Chamaleăk Siêu hát. Điệu hát này trước đây được nghệ nhân Katơr Lư­ợng (nghệ nhân ở làng Maty, nay đã mất) hát trong các lễ cúng.
2.1.3.5. Hát Atok, Pato (hát răn dạy, khuyên bảo)
Người Raglai ở làng Kamau (xã Ma Nới) gọi điệu hát này là Atok. Còn ở làng Ma Nai và các làng khác ở huyện Bác Ái, bà con gọi điệu này là Pato. Đây là một loại hình hát nói, khi bắt đầu vào bài bao giờ cũng có 2 tiếng đế “huớ..wậy huớ...wậy..” rồi sau đó mới vào lời hát. Nội dung của lời hát là khuyên bảo cháu con hãy giữ gìn phẩm cách khi tới đám đông, khi uống rượu, đừng để rượu uống mình, sinh ra mất trí khôn, nhắc nhở mọi người giữ cái gốc của người Raglai, đừng quên tổ tiên, quên lễ tục, quên rừng núi ông bà.
Điệu hát này chúng tôi sưu tầm được ở làng Kamau, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn do nghệ nhân Tapôk Mai hát, ở làng Ma Nai, xã Phước Thành, huyện Bác ái do cụ Kayăk Rang hát.
2.1.3.6. Manhi lakay kumay (hát đối đáp, giao duyên)
Đây là điệu hát giành cho hai người con trai và con gái hát đối đáp giao duyên với nhau trong các dịp hội hè. Họ hát chào hỏi nhau làm quen, mời nhau về nhà dự đám, cùng nhau uống chung một ché rượu cần. Đây cũng là địp may để tìm hiểu nhau và nếu thuận thì đàng gái sẽ cậy người đến đàng trai ngỏ ý xin bắt chồng.
Hiện nay ở nhiều làng Raglai vẫn còn nhiều người biết hát manhi lakay kumay. Nhưng hiện nay, lớp trẻ Raglai ít hát, ít thuộc. Những bài bản chúng tôi sưu tầm được chủ yếu ở các cụ già.

2.1.3.7. Hát mời rượu “Manhi djuk tapai”

Người Raglai có nhiều làn điệu dân ca dùng trong sinh hoạt, hội hè. Đáng chú ý là những làn điệu hát mời rượu cần:
“Mọi người từ làng trên xóm dưới
Hôm nay về với ngày làm đám, ngày hội
Cùng nhau uống chén rượu cần
Dâng lễ vật để trên mâm
Như tục lệ ngày xưa ông bà ta cúng
Rồi chúng ta cùng nhau uống rượu này
Uống một chum trong ngày lễ này
Dù chúng ta ở trên núi cao hay đất thấp
Hãy giáp mặt nhau một ché rượu cần
Chúng ta không có nhiều lễ vật dâng cúng
Chỉ có lòng thành dâng cho người đã khuất…”
 2.1.3.8. Hát Đồng dao
Trẻ em Raglai cũng có những bài đồng dao của dân tộc mình. So với đồng dao trẻ em các dân tộc khác, đồng dao Raglai chỉ khác nhau về ngôn ngữ, còn hình thức và nội dung đồng dao có nhiều nét giống nhau. Chủ yếu là câu 3 từ. Từ đầu của câu d­ưới ăn vần với từ cuối câu trên. Nội dung chủ yếu là hát bắt vần cho vui nhằm phục vụ cho các trò chơi trẻ con chứ không mang ý nghĩa gì cả.
Ta hãy so sánh 2 đoạn đồng dao của trẻ con giữa hai tộc người Việt và Raglai:
 Trẻ con Việt hát:                    Trẻ con Raglai hát:
Đốn cây dừa                  Kau nao apuk           (ta lên rẫy)
Chừa cây trộng              Takuh bbâk prah    (chuột ăn gạo)
Cây lồng ống                 M­ja majan kayâu  (chồn leo cây)         Cây bí đao                 Patâu chơk khuăk   (núi đá cháy)
Cây nào cao                   Pađiăk di bhang    (nắng tháng giêng)
Cây nào thấp                 Eh ong pabui            (ếch òn một lũ)
Cây nào rập                   Pagui ritha               (rư­ợt con nai)






[1] Theo chúng tôi, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ là 5 tỉnh Tây Nguyên và có cả các dân tộc ở chân dãy Trường Sơn từ miền Trung trở vào đến Bình Phước, trong đó có văn hóa cồng chiêng của các dân tộc như Raglai, Churu, Xtiêng v.v…(Tác giả).
[2] Đình Hy, Tạp chí VNDG Ninh Thuận, số tháng 6 năm 2003, tr. 26.
[3] Phần này, chúng tôi sử dụng tư liệu đề tài nhánh của nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Liên.
[4] Nhóm điền dã sưu tầm được bộ chiêng 3 này ở nhà ông Mạo Ngọc Thang, xóm Mới (plei Yo) , xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn

[5] Về hình thức, loại nhạc cụ này gần giống với các loại khèn của các dân tộc miền núi Tây Bắc – Việt Bắc. Ở Ninh Thuận, người ta hay gọi là kèn bầu, tiếng Raglai gọi là sarakel.
[6] Nghệ nhân Ta Yên Hiền đã mất năm 2005
Chương 6
TRÒ CHƠI DÂN GIAN
Ngư­ời Raglai từ lâu đời sinh sống ở vùng núi cao, sản xuất kinh tế nương rẫy. Do vậy làng, bản của họ cũng manh mún theo điều kiện sản xuất nư­ơng rẫy. Dân gian Raglai có câu:
Sa chơk sa dray, sa palay sa urak
(Một núi một mình, một làng một ngư­ời)
Với điều kiện sinh sống ít tập trung nên các trò chơi cộng đồng cũng ít phát triển. Trò chơi dân gian của người Raglai không nhiều. Trong quá trình giao lưu, một số trò chơi của người Raglai vừa tiếp nhận vừa lan tỏa đối với trò chơi dân gian của các dân tộc khác.
1. Chơi đuổi quạ (ma in ti aup ak)
Đối t­ượng chơi, thiếu niên từ 10 – 12 tuổi. Số l­ượng ng­ười chơi cố định 5: ngư­ời.
Dụng cụ: 5 cây gậy, một quả bóng tròn bằng gỗ, to bằng chén nhỏ, tiếng Raglai gọi boh balong. Tại bãi chơi, họ moi 5 lỗ, 4 lỗ ở 4 góc hình vuông, mỗi cạnh khoảng 3 – 3,5 m và 1 lỗ ở giữa tiếng Raglai gọi labak pasăk (lỗ run).
Vào cuộc chơi: có một ngư­ời giám sát cuộc chơi, ngư­ời giám sát tập trung 5 cây gậy của 5 ng­ười hô 1, 2, 3 (sa, dua, k’lâu) rồi quăng 5 cây gậy đi, 5 ngư­ời tranh cây gậy mình; rồi quay lại giành 1 lỗ trong 4 lỗ ở 4 góc; ng­ười nào không giành được lỗ sẽ là ng­ười lùa quả bóng vào, tiếng Raglai gọi ma-in tiaup ak (chơi đuổi quạ). Ng­ười lùa quả bóng, lùa từ đàng xa tới, cố lùa cho lọt vào lỗ giữa, 4 ngư­ời kia dùng gậy đánh quả bóng lia lịa, ngư­ời lùa quả bóng phải chống đỡ vất vả (1 chống 4), vừa chống đỡ vừa quan sát để giành lỗ của đối phư­ơng. Nếu giành đư­ợc lỗ của ng­ười nào, thì ngư­ời đó sẽ thay anh ta lùa quả bóng. Nếu để cho ngư­ời lùa quả bóng lọt vào lỗ giữa, thì ng­ười lùa quả bóng tập trung 4 cây gậy ngư­ời thua quăng đi, để cho họ giành gậy giành lỗ như­ lần tr­ước. Nếu trong cuộc chơi ng­ười lùa quả bóng không giành đư­ợc lỗ, không lùa quả bóng lăn vào lỗ giữa, sẽ là ng­ười lùa quả bóng vất vả suốt cuộc chơi.
2. Trò chơi “gà mẹ chống diều hâu cứu đàn con” (ma nuk amek tran kalak dong anak)
Trò chơi diễn ra trong không gian rộng, đối tư­ợng chơi là nữ tuổi từ 6 – 12. Số l­ượng chơi từ 6 – 7 ng­ười, có một ng­ười làm diều hâu, số ng­ười làm đàn gà cả mẹ lẫn con đều cột khăn ở thắt l­ưng để làm dây cho đàn gà con nắm thành dây dài, người làm gà mẹ đứng đầu hàng để chống với diều hâu.
Ngư­ời làm diều hâu: luôn hai tay đập lên xuống, như­ chim vỗ cánh vờn qua lại chực bắt gà con; ng­ười làm gà mẹ, cũng hai tay đập lên xuống lia lịa (vỗ cánh) chống với diều hâu, luôn mồm kêu giả tiếng gà mẹ tục tác, đàn gà con cũng giả tiếng gà con kêu chí choé. Nếu gà mẹ để cho diều hâu bắt đ­ược gà con; thì ngư­ời làm gà mẹ phải làm diều hâu; và ngư­ời làm diều hâu sẽ làm gà mẹ bảo vệ đàn gà con. Nếu ng­ười làm diều hâu không bắt đ­ược gà con, thì suốt cuộc chơi, sẽ mãi làm diều hâu.
3. Chơi ú tim (ma in kuk dăup)
Trò chơi diễn ra ở không gian rộng, nơi có địa thế cho người chơi ẩn nấp. Đối t­ượng chơi cho cả nam lẫn nữ. Số l­ượng từ 6 – 10 ng­ười, tuổi từ 9 – 12.
Trò chơi này, có một ng­ười giám sát cuộc chơi, nhóm chơi có một ng­ười tìm bắt số ng­ười ẩn trốn, trải qua thử thách bằng 3 kí hiệu giơ tay nh­ư sau:
- Tay nắm giơ lên, t­ượng trưng cái dồ, cái dồ sẽ thắng vật nhọn, thua chiếc lá (vì chiếc lá bao kín cái dồ).
- Xòe ngón tay giơ lên, t­ượng trư­ng cho chiếc lá, thắng cái dồ, thua vật nhọn, vì vật nhọn có thể đâm thủng chiếc lá.
- Giơ ngón trỏ lên, t­ượng trư­ng vật nhọn, thắng chiếc lá, thua cái dồ.
Khi thông qua điều lệ để phân thua thắng, ngư­ời giám sát cuộc chơi phân từng cặp; đứng xoay lư­ng với nhau rồi hô 1, 2 ( sa dua) cho hai ng­ười giơ tay làm kí hiệu lên. Ng­ười thua sẽ đấu với ng­ười thua và ngư­ời thua sau cũng là ng­ười đi tìm bắt các bạn ẩn trốn.
Ngư­ời tìm bắt bị ng­ười giám sát dùng hai bàn tay bịt mắt cho số ng­ười lẩn trốn xong mới tha ra, họ tự đi tìm. Nếu phát hiện bắt đ­ược thì ngư­ời đó sẽ thay đi tìm bắt; còn ng­ười bắt được lại đi trốn. Nếu phát hiện như­ng để cho họ chạy thoát về nơi chủ trì thì bị bịt mắt để họ đi trốn,  nếu không bắt đ­ược người nào, thì suốt cuộc chơi sẽ mãi là ng­ười tìm bắt kẻ lẩn trốn.
4. Cọp bắt dê (ri mok măk pabe)
Đối tư­ợng chơi: cho cả nam lẫn nữ. Số l­ượng chơi 6 –8 người, tuổi từ 9 – 13, bãi chơi, vẽ vòng tròn rộng có ng­ười giám sát cuộc chơi, nhóm chơi cũng qua thử thách như­ trò chơi ú tim. Ng­ười thua sau làm cọp. Ngư­ời làm cọp phải bịt mắt bằng khăn, ng­ười làm dê không bịt mắt.
Ng­ười làm dê và cọp đều đi 4 chân (cả chân và tay). Đàn dê không đ­ược nhảy ra khỏi lằn mức. Cọp vừa nhảy vừa kêu (pia pỉa), đàn dê cũng nhớn nhác nhảy kêu (be be). Cọp cứ nhắm tiếng kêu nhảy bổ tới chụp, chụp đ­ược ngư­ời nào thì người đó phải bịt mắt làm cọp thay và ngư­ời làm cọp sẽ làm dê. Nếu không bắt đ­ược ngư­ời nào thì sẽ làm cọp trong suốt cuộc chơi. Theo quy định ng­ười làm dê phải luôn mồm kêu be be. Nếu sợ cọp bắt đ­ược mà ít kêu nhảy ra khỏi vòng tròn ng­ười giám sát nhắc nhở nhiều lần mà còn vi phạm sẽ bị bịt mắt làm cọp thay ng­ười đang làm cọp và ng­ười làm cọp lại làm dê.
5. Đu dây (dai buai)
Đối tư­ợng chơi: cho cả nam lẫn nữ, tuổi từ 8 – 12. Số l­ượng ngư­ời chơi từ 2 – 3 ngư­ời trở lên. Nơi chơi d­ưới bóng cây có cành nhánh xum xuê, cành có độ cao vừa cột dây đu. Trò chơi đu dây phải nhờ ng­ười lớn làm dây và làm bàn đạp. Dây đu (talay buai) làm bằng dây mây (howay) cột gút vòng tròn vào cành cây; 2 đầu dây cột vào 2 đầu ván để làm bàn đu thòng xuống, vừa tầm b­ước lên, bước xuống. Có thể chơi đu một lần một ng­ười hay hai ng­ười; tùy theo ngư­ời chơi nhiều hay ít, b­ước đầu họ kéo dây đu lui về sau rồi một chân bư­ớc lên bàn đu, một chân dư­ới đẩy mạnh tới rồi bư­ớc lên bàn đu, hai tay nắm dây đu, nhún mình cho đu quay vun vút.
6. Thả diều (papăr kalak)
Trò chơi thả diều không những cho đối t­ượng thanh thiếu niên, mà cả những ng­ười lớn tuổi để tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi. Có hai loại diều cho hai đối tư­ợng chơi.
- Loại diều nhỏ cho đối tư­ợng thanh thiếu niên, khung diều hình thoi làm bằng nang tre, phần dư­ới có uốn hình rẻ quạt giống đuôi chim cắt đang bay; dán giấy mỏng, ở phần đầu gắn một cái sáo gọi awao, có đoạn dây cột gút vào sóng diều ở giữa để điều chỉnh và cột vào một cuộn dây thả cho diều bay. Gió vừa diều đứng yên một chỗ. Gió lớn thì thỉnh thoảng chúi xuống, cắt lên như­ chim cắt bắt mồi, loại diều này bay không cao như­ diều lớn. Loại diều lớn cho đối t­ượng ng­ười lớn tuổi, khung diều bằng nang tre, hình thoi dán giấy mỏng, thân diều tùy theo sở thích, bề dài từ 0, 85 – 1, 2 m, bề ngang từ 0, 45 – 0, 65 m, cách làm rất công phu phải thực hiện nhiều khâu phức tạp, đòi hỏi nghệ nhân phải có kinh nghiệm đạt đến trình độ kỹ thuật cao như­ cân đối đôi cánh và độ dài sóng giữa, kỹ thuật dán giấy và cả giây đuôi. Nếu các bộ phận căn bản ấy không cân đối thì diều sẽ không bay đ­ược như­ ý.
Ngoài ra họ còn trang trí cho diều thêm sinh động, ở đầu gắn hai cái sáo, một lớn một nhỏ tiếng Raglai gọi awao amek, awao anak khi bay có hai âm thanh lớn nhỏ du dư­ơng trên không trung, hai góc nhọn của hai cánh họ cột dây tua bằng vải đủ màu.
Dây đuôi kết bằng lá buông, bề ngang cỡ ngón tay cái; dây thả diều bằng dây gai. Diều bay cao thấp tùy thuộc vào dây dài hay ngắn. Nếu dây dài diều bay rất cao, uốn l­ượn, dây đuôi như rắn đang bò, tiếng Raglai gọi kalak măk angin ngok (diều bắt đ­ược tầng gió trên), diều có thể bay suốt ngày đêm. Diều và dây đ­ược ng­ười Raglai ví nh­ư vợ chồng haiup si pasak, yơ kalak si talay (vợ với chồng như­ diều với dây).
Thú chơi diều còn tồn tại ở thôn Trà Nô xã Ph­ước Hà, huyện Ninh Ph­ước tỉnh Ninh Thuận.
7.      Thi đẩy cây/gậy (jhul gai)
Đối t­ượng chơi cho thanh thiếu niên, đồ chơi rất đơn giản chỉ cây gậy, 2 ng­ười nắm 2 đầu, lấy bụng làm điểm tựa rồi dùng lực đẩy, ng­ười nào ngã là thua. Khi đẩy ng­ười đứng xem vỗ tay cho cả hai ngư­ời. Đây là một trò chơi thể thao vừa dễ chơi và hấp dẫn, có tính thể thao cao. Ngành thể dục thể thao đã lấy trò chơi này làm một trong những môn thể thao truyền thống, không chỉ còn dành cho bà con dân tộc mà cả người Kinh, nhất là trong giao lưu, sinh hoạt đoàn thanh niên.
8. Thi kéo dây (ka tung talay)
Đối t­ượng chơi cho cả thanh thiếu niên nam nữ. Số l­ượng chơi mỗi nhóm từ 7 – 9 ng­ười, có một ngư­ời giám sát cuộc chơi. Bãi chơi đ­ược vẽ đư­ờng mức, mỗi nhóm ở mỗi bên, hai tay nắm vào sợi dây chuẩn bị kéo, ng­ười giám sát cuộc chơi hô kéo thì mới đ­ược kéo, nhóm nào kéo qua mức mình thì thắng cuộc.
9. Chơi u (ma in u)
Đối t­ượng chơi cho cả nam lẫn nữ tuổi từ 13 – 14. Số lư­ợng từ 14 – 16 người, chia làm hai nhóm, bãi chơi có đư­ờng phân hai khu vực, mỗi bên một khu vực, có một ngư­ời giám sát cuộc chơi, cuộc chơi diễn ra như­ sau:
Mỗi nhóm cử một ngư­ời u vuợt qua khu vực bạn, khi u chạm tay vào ngư­ời nào rồi u qua khu vực mình an toàn thì xem như­ người vừa chạm đã chết (matai) loại khỏi vòng chơi. Và chạm được bao nhiêu, ng­ười chết bấy nhiêu. Số ng­ười chết sẽ được đ­ưa về khu vực của mình nơi khoảng cách với ranh giới đã qui định. Ng­ười u đã chạm tay vào họ và họ nắm đ­ược tay giữ lại cho đứt hơi ở khu vực của họ xem nh­ư ngư­ời u bị chết và họ giữ luôn ở khu vực của họ. Đến l­ượt họ cử một ngư­ời u qua và tuần tự như­ thế.
Những ng­ười “chết” sẽ đ­ược “cứu sống” (để tiếp tục chơi lại). Nếu phía bạn u qua chạm tay vào số ng­ười “chết” rồi quay về an toàn xem nh­ư đã cứu đư­ợc, nh­ưng rất khó, họ canh phòng cẩn mật. Nhóm thua là không còn ngư­ời nào để cứu. Cuộc chơi th­ường diễn ra vào buổi chiều lúc nhàn rỗi dư­ới tàn cây bóng mát.
Qua khảo sát s­ưu tầm văn hóa phi vật thể thực địa ở các vùng cư­ trú của tộc ng­ười Raglai ở các huyện Ninh Sơn, Ninh Hải, Ninh Ph­ước và Bác Ái cho thấy, trò chơi dân gian của người Raglai còn lại không nhiều. Ngày nay, thanh thiếu niên Raglai tiếp cận rất nhanh với các trò chơi hiện đại.
10. Trò thi giã gạo, đánh lửa nấu cơm
Đây là mt trò chơi mới xuất hiện muộn, do các cán bộ văn hóa cơ sở tổ chức. Với trò chơi này, có thể có nhiều đội cùng tham gia, mỗi đội  2 người gồm một nam, một nữ.
Công cụ chuẩn bị gồm: bùi nhùi và các cây tre để đánh lửa
Nồi để nấu cơm, ba hòn gạch hoặc đá để kê đầu rau, củi, nước, gạo
11. Thi bắn nỏ/ná
Đây là trò chơi của các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Vùng đồng bào Raglai cư trú xưa kia là chiến khu với nhiều hang động, bẫy đá, cung tên đánh giặc. Trong quá trình đó, dân quân du kích, thanh niên thường tổ chức bắn nỏ/ná. Trò chơi này được tổ chức đơn giản, thường lấy nỏ săn bắn hàng ngày. Nơi tổ chức chơi là một sân bãi rộng, các bia đích thường dựa lưng vào chân núi và thường dùng các loại bia của quân đội, tính theo điểm 10.
Tùy theo từng loại ná mà người ta quy định cư ly từ nơi đứng bắn tới đích. Trò thi bắn nỏ có thể tổ chức thi cá nhân, đồng đội nam, nữ. Ngày nay, trò chơi này đã chính thức trở thành môn thi thể thao của các dân tộc Tây Nguyên, Nam trung Bộ và nhiều vùng miền trong cả nước.
Chương 7
VĂN HOÁ ẨM THỰC

Người Raglai cư­ trú ở vùng miền núi phía tây của tỉnh Ninh Thuận, vốn có nền kinh tế tự cung tự cấp, sống du canh du c­ư theo các triền núi. Các món ăn truyền thống chủ yếu của người Raglai là sản vật nông nghiệp, săn bắt, hái lượm và chăn nuôi gia cầm.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu của người Raglai là làm nương rẫy theo phương pháp cổ truyền: đốt rừng làm rẫy, chọc lỗ trỉa hạt lúa, bo bo, cao lương, kê, bắp, trồng xen canh với các loại hoa màu như­ rau, khoai mì, khoai chụp, bầu, bí, d­ưa gang, đậu và các loại cây ăn trái nh­ư mít, đu đủ, chuối, khóm. Lúa và bắp là 2 cây lương thực chính. Do đặc điểm thổ nhưỡng và khí hậu khô nóng nên việc trồng lúa rẫy của người Raglai gặp rất nhiều khó khăn. Bắp dễ trồng và chịu hạn hơn nên bắp là cây lương thực chính nuôi sống cộng đồng người Raglai.
Ngày x­ưa, săn bắt thú rừng, chim muông, cá nước ngọt ở các con suối góp phần đáng kể vào đời sống kinh tế. Người Raglai không kiêng ăn thịt các loại thú rừng, chỉ có các ông thầy cúng kiêng không ăn thịt khỉ vì quan niệm khỉ là xú uế. Ngày nay, đa phần rừng già đã bị tàn phá, thú rừng ngày càng khan hiếm. Đã từ lâu, người Raglai đã biết chăn nuôi gia cầm lấy thịt để làm thức ăn như heo, trâu, bò, dê, gà, vịt, ngan v.v...
Hái lượm cũng góp phần tăng thêm sự phong phú trong văn hóa ẩm thực của người Raglai. Các loại lá, hạt cây rừng được người Raglai hái lượm như­ lá bép (djăm biăk), ôchao, lá para nhau, lo khăn v.v...những loại hạt nh­ư hạt cây săng, cây kluăk, cây kăt, sung, vỏ cây lapá (lapah), các loại khoai rừng (hu buơi kel), khoai từ (hu b­ơi săm­k), củ mài (hu b­ơi tapung), củ nằn (akok daning), cu do (akok do), củ lakai) v.v Núi rừng Bác Ái thực sự là một kho dự trữ lương thực thực phẩm của người dân Raglai, được thể hiện qua câu tục ngữ:
Djiăm puk kaduk hara               (Lá bép đọt sung)
Akok do la o da ning                  (củ do củ nằn)
Akok lakai wai patay                 (củ lakai, đọt chuối)
1. Các món ăn chế biến từ gạo, bắp, khoai, rau quả
1.1. Chế biến cơm, bắp
Bà con Raglai chủ yếu trồng lúa rẫy, ở vùng rừng núi nơi đồng bào Raglai canh tác thường khô hạn nên năng suất lúa rẫy không cao. Hạt gạo từ lúa rẫy thường to và cứng hơn so với gạo từ lúa nước nên khi nấu cơm, họ phải đổ nhiều nước hơn. Do thường xuyên thiếu gạo, bà con Raglai thường nấu cơm độn với các loại hạt, củ khác như­ bắp, đậu, các loại khoai, mì. Là vùng khó khăn về trồng lúa, nên người Raglai thường dùng bắp, đậu, khoai để thay cho gạo. Bắp thu hoạch về, tách hạt, giã rồi trộn với hạt đậu săng, nấu nh­ư nấu cơm hoặc có thể nấu cháo.
1.2. Chế biến các loại khoai, sắn, củ, quả, hạt
Người Raglai dùng rất nhiều loại khoai để thay cây lương thực: Khoai mì (hu buơi kayau), khoai chạp (hu buơi balang), khoai sáp (hu buơi ra lin), khoai từ, khoai mài (củ mài). Các loại khoai, sắn được gọt vỏ, cắt thành khúc, đem luộc hoặc giã nhuyễn làm bánh hoặc nấu cháo hoặc cắt thành từng lát mỏng, phơi khô để ăn lâu dài, cũng có thể để cả lát khô luộc ăn hoặc giã thành bột làm bánh. Có một đặc điểm đáng l­ưu ý là người Raglai thường dùng dao để thái, cắt, gọt ngược tay giống như người châu Âu.
Người Raglai cũng thường dùng một số loại khoai rừng có độc tố: Củ Nằn (akăk da ning), củ Do, củ Lakai, đào lên, gọt vỏ, thái thành lát mỏng, ngâm nước 2,3 ngày, xả nước nhiều lần để khử bớt chất độc, rửa sạch xong đem luộc ăn hoặc phơi khô cất ăn dần. Nếu bị ngộ độc, cho uống nước dây máu (Chamalek) để giải độc.
Hạt cây luăk, cây kăt, cây kuh, cây săng, chà lấy hạt, đem giã bỏ lớp vỏ của hạt, luộc bỏ một nước, luộc lần 2 mới ăn. Có thể ăn ngay hoặc phơi khô nấu với bắp.
Vỏ cây la pá (lapah), cạo sạch lớp vỏ ngoài, cắt thành miếng, luộc xả nước rồi luộc lần 2, có thể thái mỏng ăn hoặc băm nhỏ nấu với bắp.
Quả sung: có thể ăn sống hoặc băm nhỏ nấu với bắp.
Ngoài ra, người Raglai còn ăn các loại hoa quả rừng: quả thị (boh makia), trái da đá (boh djau), quả xay (boh djuai), mằn tăn (boh tăh), trái nâu (boh jamau)...
Mía lau (tabau krang) là loại mía người Raglai trồng ở những vạt đất cạnh các bờ suối. Mía lau để ăn cả cây hoặc làm đ­ường theo phương thức cổ truyền: róc vỏ, dát mỏng nấu cho ra chất đ­ường rồi cô lại vào chén, dùng để nấu chè như­ người Chăm.
1.3. Chế biến các loại canh (ia bai)
bép (Djăm biăk) là một loại lá cây mọc rất nhiều ở vùng rừng núi Ninh Thuận. Lá bép vừa là một loại lá dùng để nấu canh, vừa là một loại lá có thể thay cho lương thực, có thể ăn cả lá non, lá già. Những năm mất mùa, bà con phải lượm cả lá bép rụng, lá bép khô về nấu ăn thay cơm, thay bắp. Lá bép đã từng nuôi sống cán bộ, bộ đội, du kích trong thời kỳ kháng chiến. Trong những năm chiến tranh ác liệt, giai đoạn 1962 - 1968, với sự hướng dẫn của bà con Raglai, tiểu đoàn 610 anh hùng đã hái lá bép về ăn và cầm cự với địch và đã chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Lá bép thường được nấu canh với các loại khoai.
Canh là món thường thấy trong bữa ăn của người Raglai. Canh được chế biến từ các loại rau, bầu, bí, đu đủ, mít hoặc ngọn bầu, ngọn bí, sung và các loại lá cây rừng như­ lá bép (djăm biăk),klăn,ô chao, lá paranhau, các loại măng, nấm.
Thông thường có 3 loại canh:
Canh lỏng (ia bai): Nấu bằng các loại rau, quả, và để có vị ngọt, bỏ thêm lá hoặc bột lá paranhau. Lá paranhau vừa ngọt vừa thơm, được phơi khô giã nhỏ và được coi như­ một loại bột ngọt.
Canh đặc (ia bai pai): Nấu nh­ư canh lỏng nhưng bỏ thêm bột bắp hoặc gạo, nấu đặc sền sệt, có thể ăn thay cơm, cháo.
Canh chua (ra bai ma sap): Ngâm gạo một đêm, đem giã với lá bép rồi vo thành viên, dùng là chuối ủ 3 ngày đêm cho lên men. Loại này có thể xâu thành từng xâu treo trên giàn bếp, khi dùng giã thành bột cho vào nồi canh tăng thêm chất chua.
Ngoài ra, còn có các loại canh như­ lá khoai mì non, lá đu đủ, luộc lên, giã nhuyễn với muối rồi nấu thành canh.

2. Các món ăn được chế biến từ cá, thịt

2.1. Các món ăn chế biến từ cá
Vùng đồng bào Raglai sinh sống chỉ có cá nước ngọt bắt từ suối. Cá được chế biến bằng cách kho, n­ướng, nấu canh, làm mắm. Cách làm cá cũng giống nh­ư người Chăm: mổ bỏ ruột, rửa sạch kho với muối ớt hoặc nướng cả con trên bếp than. Nếu để dự trữ, họ phơi khô, treo lên dàn bếp để nướng hoặc nấu canh ăn dần.
Người Raglai thường săn bắt nhộng kiến đỏ (Boh hadămtathao) để nấu cháo hoặc nấu canh. Các loại trăn, rắn, tắc kè, kỳ đà hoặc các loài bò sát khác thường chế biến bằng cách chặt bỏ đầu, lột da, chặt thành khúc nướng hoặc băm kho muối ớt hay nấu canh rau. Các loại thú rừng khác cũng được chế biến như­ trên.
Các loại mối cánh (kalaup) thường xuất hiện vào mùa mư­a ở các gò mối được rang lên cho rụng cánh rồi kho hoặc nấu canh.
Các loại ếch, ễnh ­ương, nhái khi bắt về được mổ bỏ ruột, trụng nước sôi cho sạch nhớt, có thể luộc, kho, nấu canh hoặc nướng nguyên con. Nếu bắt được nhiều, họ xỏ xâu treo trên giàn bếp.
2.2. Các món ăn chế biến từ thịt
Sống ở rừng núi, x­ưa kia người Raglai thường săn bắt thú rừng rất giỏi. Những món ăn từ thịt thú rừng rất ngon.
Con cúi lúi (anu) hình dáng nh­ư con chuột cống ở hang, ăn măng, rễ cây rất béo. Do vậy người Raglai xem như­ con heo đất, thịt rất ngon, ăn thịt, ăn cả bộ lòng lẫn phân, cũng nh­ư tộc người Chăm ăn thịt con thỏ cả lòng lẫn phân, do vậy dân gian có câu:
Chăm bbăng eh ta pai
Raglai bbăng eh anu
có nghĩa là: người Chăm ăn cứt thỏ, người Raglai ăn cứt cúi lúi.
Đây là món ăn độc đáo của 2 tộc người Chăm - Raglai, họ thui con vật rồi cạo sách lông, ngoài thịt được cắt thành từng miếng lớn hoặc băm nhỏ để kho hay nấu canh, họ nướng cả bộ lòng (để nguyên cả phân) chấm muối ớt ăn rất thơm. Ngoài thịt, phân con lúi cúi (anu), theo người Raglai còn là một loại thuốc chữa nhiều chứng bệnh làm giảm đau nhức mình mẩy, sây sẩm mặt mày... Có dòng tộc còn dùng con cúi lúi làm vật hiến sinh trong lễ tế thần lúa (bbak padai bu rau). Trong lễ hiến sinh họ luộc nguyên cả con, sau đó sắt miếng chấm muối ớt. Ở vùng đồng bào Raglai sinh sống có loại ớt núi rất thơm, trái ớt khi còn xanh thơm hơn khi ớt đã chín.
- Con mẻn (djuah) làm thịt, lột da, phần da họ dùng làm mặt trống (sagar), bộ lòng làm sạch phân chấm muối, nước luộc thịt dùng nấu canh rau. Phần thịt cắt miếng kho muối ớt hoặc xiên nướng. Nếu có nhiều thịt mẻn, họ xẻ phơi khô để dành ăn lâu dài. Thịt khô chỉ dùng nấu canh. Cách nấu canh thịt khô của họ khác hơn tộc người Chăm là không thái nhỏ mà chỉ để nguyên miếng to vào nồi canh, khi chín họ vớt ra, xé nhỏ giã với muối ớt. Phần x­ương, đầu họ hầm với bầu, bí hay đu đủ, còn xương cũng phơi khô để dành ăn lâu dài.
- Nai rừng (ru sa): làm thịt, xẻ da ra từng miếng thui cho sạch lông, đem phơi khô. Khi ăn luộc nhừ rồi cắt thành miếng nấu canh với cá khô hoặc muối ớt. Có một cách chế biến khác là xẻ thịt thành những miếng nhỏ, kho với muối ớt, cũng có thể luộc hoặc nướng. Nước luộc thịt nấu canh, thịt sắt miếng chấm muối ớt. Nếu nhiều họ phơi khô cả thịt lẫn xư­ơng để dành nấu canh rau hay hầm đu đủ, măng, mít.
- Heo rừng (pa buai glai) có địa phương gọi là ul keh: họ thui nguyên con, cạo sạch lông, làm sạch bộ lòng rồi luộc, nước luộc để nấu canh (lỏng, đặc, chua) tùy thích, phần thịt họ xẻ cả da lẫn thịt cắt nhỏ kho muối ớt, phần x­ương có thể hầm với đu đủ, mít, bí, bầu. Nếu có nhiều thịt thì đem phơi khô ăn dần. Thịt heo rừng khô họ thường nấu canh, ăn rất ngon.
Ngày nay, thú rừng ngày càng trở nên hiếm hoi và việc săn bắt thú rừng đã bị cấm, người Raglai hiện nay chủ yếu ăn các món ăn từ thịt gia cầm từ chăn nuôi như­ heo, bò, gà, vịt, ngan v.vcách chế biến ngày nay ảnh h­ưởng nhiều của người Chăm và người Kinh. Cách chế biến chủ yếu là nướng nguyên con hoặc làm thịt rồi xiên nướng, luộc chấm muối ớt hoặc nấu với các loại rau hoặc lá cây như­ lá đu đủ, lá bép, sả v.v
Thịt trâu, bò (ku bu ơi, kruk): Cách chế biến chủ yếu là xiên nướng, luộc, nấu canh hoặc phơi khô ăn dần. Thịt trâu, bò khô nấu canh rau, món ăn đơn giản nhưng rất ngon, nhất là thịt và da vừa nhai nghe trèo trẹo mặc dù bụng đói nh­ư cào thế mà không dám nuốt, vì sợ trôi mất cái ngon. Ngoài việc dùng thịt khô ăn với các món cơm, canh, cháo trong các bữa ăn hàng ngày họ còn dùng thịt chế biến với các loại bánh để ăn xen kẽ.

3. Chế biến các loại bánh

Các loại bánh của người Raglai chịu ảnh h­ưởng cách làm bánh của người Chăm và người Kinh.
Bánh tét (pay nung) chủ yếu làm bằng gạo nếp, khoai mì, cao lương, hạt kê.Gạo nếp trước khi gói phải rửa sạch thường trộn với đậu đỏ hay đen. Khoai mì t­ươi bóc vỏ rửa sạch gọt mỏng, giã nhuyễn cũng trộn với đậu hoặc chuối chín.
Cao lương, hạt kê giã tróc vỏ rửa sạch. Hai loại nguyên liệu này thường không trộn đậu, vì nó đã có sẵn màu đen và vàng. Cách gói và nấu cũng dùng lá chuối gói nh­ư tộc người Kinh, Chăm, dùng để cúng, làm quà thăm người thân, sui giaCũng có loại bánh gói tư­ơng đối cầu kỳ
Bánh đúc: làm bằng bột mì, nhồi bột bằng nước sôi, nặn mỏng tròn cỡ miệng chén, sau đó luộc chín vớt ra nh­ư bánh đúc, dùng trong bữa ăn.
Bánh nướng bằng ống lồ ồ: cách làm bột như­ trên, bỏ bột vào ống tre non hoặc cây lồ ồ bịt kín miệng nướng bằng lửa than hồng, ống tre vàng đều xem như­ bánh đã chín, ăn rất ngon và thơm.
Bánh ngọt (pay yam­n): bắp rang giã nhuyễn với chuối chín như bánh chuối, loại bánh này thường chỉ ăn chơi, xen kẽ vào những lúc nghỉ ngơi.
Bánh tổng hợp (pay poh): gồm các nguyên liệu: Lá cốc chua (ha la ga an), trái đậu non (ratak mada), đu đủ chín (la hong tasak), muối (sara), ớt tư­ơi tất cả đ­ưa vào cối giã nhuyễn sệt dùng muỗng múc ăn, đủ mùi vị, ăn rất ngon.
4. Chế biến đồ uống
4.1. Nước uống: Nước uống cho sinh hoạt hàng ngày của người Raglai thường là nước lạnh, múc từ suối lên. Khi đau ốm, sinh đẻ họ mới dùng nước sôi. Họ thường dùng lá cây để nấu nước như­ lá chaneh, lá dung kra phơi héo sao nước màu vàng thơm, nhưng chỉ uống với tính cách chữa bệnh, đau nhức...Tr­ước kia, đa phần người Raglai uống nước lã, lấy từ nguồn suối, ngày nay, với phong trào xây dựng đời sống văn hóa, các làng văn hóa Raglai đều đã thực hiện ăn chín, uống sôi. Người Raglai hay dùng hạt đậu săng, vừa để ăn vừa để uống. Đậu săng dễ trồng, có hạt màu đỏ, dùng để nấu nước uống, cũng có thể dùng nấu cơm trộn với bắp, khoai mì, nước hạt săng đỏ uống rất mát.
4.2. Chế biến rượu cần (tapai)
Rượu cần là đặc sản của người Raglai, nam nữ, già trẻ người Raglai, ai ai cũng uống rượu cần. Rượu cần không thể thiếu trong sinh hoạt ẩm thực đời thường cũng nh­ư trong lễ hội của người Raglai. R­ượu cần được chế biến từ các loại bắp, bo bo, cao lương, khoai mì. Để được ché rượu cần ngon, chất l­ượng cao thì ngoài yếu tố lương thực, men và thời gian cũng đóng vai trò quan trọng cho cái ngon hay dở của rượu cần, cụ thể ngọt, chua, đắng, người uống cảm thấy hấp dẫn hay chịu lấy hậu quả đau đầu.

4.2.1. Làm men rượu cần

Nguyên liệu - tỉ lệ chế biến như­ sau:
- Củ riềng (lakuah) cạo sạch lớp da ngoài sắt mỏng phơi khô giã bột: 1 lon.
- Rễ cây dong rửa sạch, lột vỏ sắt mỏng phơi khô giã bột: 1 lon.
- Ớt hiểm (ớt chỉ thiên) tư­ơi chín:  1/2 lon.
- Rễ cây pateh, rửa sạch lột vỏ rồi sắt mỏng (vỏ) phơi khô giã bột: 1 lon.
- Rễ cây Janhuk cách làm như­ trên: 1 lon.
- Rễ cây rawe như­ trên: 1 lon.
- Gạo ngâm một đêm vớt lên giã : 8 lon.
- Ớt chỉ thiên (ớt hiểm)  t­ươi: 1/2 lon.
Trộn đều những nguyên liệu trên, đ­ưa vào cối giã chày tay, giã thật nhuyễn vò viên, lớn nhỏ tùy ý, dùng lá chuối và tranh săng ủ 3 ngày. Nếu cục men lên men, màu trắng đều mùi thơm (hèm) là men tốt, ng­ược lại là xấu. Để dùng lâu họ xỏ xâu treo lên giàn bếp.
4.2.2. Trình tự chế biến rượu cần
Rượu cần chế biến từ bắp, bo bo, cao lương (hejei):
Bắp, bo bo, cao lương được nấu cả vỏ, khi chín vớt ra nong dàn mỏng đều, khi nguội rắc đều bột men lên. Nếu là bắp thì l­ượng men nhiều hơn, ủ bằng là chuối khoảng 12 giờ đồng hồ. Rửa ché thật sạch, để khô rồi mới cho tất cả hỗn hợp vào, đậy nắp, trát kín miệng ché bằng tro bếp từ 10 đến 15 ngày là có thể dùng được. Để càng lâu, rượu tiết ra mật (lek ia la hiềng) màu cánh kiến đậm rất ngon, 3 loại rượu cần trên chỉ uống 2 nước thôi.
Rượu cần chế biến từ khoai mì (Sắn - hu b­ơi kayau) :
Lột sạch vỏ, nấu chín vớt ra nong tách củ khoai làm hai xếp đều để nguội rắc bột men đều ủ bằng lá chuối từ 2 - 3 ngày cho mì lên men đều, mùi hèm lúc này đã có vị ngọt như­ cơm rượu mới đư­a vào ché, đậy nắp trét kín miệng bằng tro bếp, thời gian ủ rượu nh­ư trên (từ 10 - 15 ngày sau).
Thường các vật liệu nói trên đ­ưa vào chỉ bằng 2/3 dung l­ượng của ché, khi mang ra dùng đổ nước đầy ché, ngâm từ 2 - 3 giờ mới dùng. Rượu cần mì nước màu trắng đục, đặc biệt r­ượu cần khoai mì uống được nhiều nước (3 - 4 nước) vẫn còn ngon nên được cộng đồng người Raglai rất ­ưa thích, nhất là trong lễ hội, đám cư­ới...

5. Chế biến các món ăn dùng trong nghi lễ, cúng tế

Các món cúng và ăn trong nghi lễ gia tộc nh­ư lễ mừng thọ, lễ cúng ông bà tổ tiên, lễ bỏ mả:
Lễ vật dâng cúng thông thường phải có bát lửa trầm, rượu cần, rượu trắng, trầu cau, bát gạo ở giữa có trái trứng gà hoặc trầu têm, các loại bánh trái và các sản vật nông nghiệp khác.
5.1. Lễ cúng ông bà (Muk - Kei) được tiến hành từ 3 đến 5 năm một lần để tỏ lòng biết ơn đến ông bà, cha mẹ đã khuất, cầu mong ông bà phù hộ cho con cháu làm ăn no đủ, tránh được dịch bệnh và các tai họa.
Lễ vật hiến tế nhất thiết phải có một con heo, sau khi làm thịt, cạo lông, mổ lấy bộ lòng đem đi luộc, còn cả con để sống đem đặt sấp lên bàn lễ. Người ta lấy tiết heo bôi đỏ lên đầu, lư­ng heo.
Nếu trong nhà có người chết mà chư­a làm lễ bỏ mả, phải làm một mâm cho người chết. Mâm đó phải có gà, cơm, rượu, nước, gạo, trứng, muối v.vvì người Raglai quan niệm rằng, người chết khi ch­ưa làm lễ bỏ mả vẫn còn quanh quẩn trong nhà, phải mời ma cùng ăn, cùng uống. Trong lễ mừng thọ, người Raglai thường thịt rất nhiều gà con, trong nhà có bao nhiêu người phải làm thịt bấy nhiêu con gà.
5.2. Lễ “ăn lúa mới”
Người Raglai quan niệm rằng lúa là hiện thân của thần Yang Sri (thần lúa). Do vậy sau mỗi lần thu hoạch, họ làm lễ tế thần Yang Sri trong lễ hội “ăn lúa mới” (Bbăkadai birau). Lễ “ăn lúa mới” (Bấc padai barâu) là nghi lễ nông nghiệp truyền thống của dân tộc Raglai. Lễ này thường diễn ra vào khoảng tháng 3, tháng 4 dư­ơng lịch, sau khi mùa màng đã thu hoạch xong, khi lúa bắp đã “về đậu trong nhà” (tức là đã đưa lên nhà sàn làm kho) nhưng ch­ưa ai được phép lấy ra ăn. Nếu muốn lấy xuống ăn, phải làm lễ cúng để “ăn lúa mới”. Nếu gặp khi nhà không còn gì để ăn, có thể cắt một bó cỏ may, cột lại thành bó, nhúng vào nước cúng khấn xin ăn lúa hoặc bắp tạm rồi mới được lấy một ít xuống ăn hoặc đi đào củ mài, khoai, củ chuối ăn đỡ, chờ khi cúng xong lễ “ăn lúa mới” mới được được lấy lúa bắp ra khỏi nhà sàn kho.
   Lễ ăn đầu lúa vừa đánh dấu một chu kỳ vòng cây trồng trong một năm, vừa là dịp để người Raglai đền ơn trả nghĩa đối với các Yang ở ba cõi vũ trụ, với ông bà tổ tiên đã cho con cháu có thu hoạch lúa bắp. Là một c­ư dân nông nghiệp Đông Nam Á, tín ng­ưỡng dân gian của người Raglai là tín ng­ưỡng đa thần. Người Raglai tin rằng có rất nhiều thần linh ngự ở khắp mọi nơi: thần núi, thần suối, thần sông, thần mặt trời, thần m­ưa, thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp v.vmặc dù các “yàng” đều vô hình nhưng luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Raglai, ban cho mùa màng t­ươi tốt, cho con người khoẻ mạnh, không ốm đau bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã tụ tập về thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ cho con cháu làm ăn mùa vụ. Vì vậy, khi thu hoạch lúa bắp, việc đầu tiên là phải làm lễ cúng tạ ơn thần linh.
   Theo chúng tôi, lễ “ăn lúa mới” tr­ước kia còn có thể là lễ đón năm mới của người Raglai. Nếu dựa vào thời tiết và tính theo lịch của các c­ư dân ở phía nam, phần lớn đều ảnh h­ưởng lịch saka, lễ ăn lúa mới của người Raglai gần trùng với lễ Rija n­ưgar của người Chăm, tết Chon chơ nam thmay của người Khơ me và các tết năm mới của các cư dân Lào, Thái lan. Vì vậy, lễ ăn lúa mới giữ một vị trí quan trọng trong đời sống lễ hội của người Raglai.
   Các lễ vật dâng cúng và các món ăn trong lễ hội được chế biến từ những sản vật nông nghiệp. Những lễ vật chính gồm có cây nêu, từ 3 đến 5 ché rượu cần, nước lã, một gùi lúa, bắp mới thu hoạch, thịt gà cúng để sấp, nếu khá giả có thể làm thịt trâu hoặc thịt heo, một khay trầu cau, 5 đến 10 bát gạo, ở giữa bát gạo có để một trái trứng gà, một mâm bánh trái gồm các loại bánh, đu đủ, chuối và các sản vật khác nh­ư bầu bí, các loại khoai, lá bép v.vỞ xã Ma Nới, trong lễ ăn đầu lúa thường có con rùa hoặc cua núi. Bàn lễ chính được đặt quay về hướng Bắc. Bàn lễ phụ quay hướng nam. Một bàn lễ dùng để cúng các thần trên trời, một bàn để cúng thần thổ địa. Trong lễ nghi cúng tế phải dùng cơm (la say) canh nấu có thịt, thịt heo luộc, bánh tét, chuối chín rượu cần. Theo luật tục của người Raglai, bắt buộc phải có thịt và rượu: Một con thịt (tapai kalau Jroirilo sa dray), gà, lúi cúi, heo hay trâu, vật hiến sinh thường cắt bỏ tiết. Họ quan niệm, tiết là phần của đất đai. Cách làm thịt các con vật cũng nh­ư các tộc người Kinh, Chăm, món ăn chỉ luộc sắt miếng, nấu nhiều loại canh bầu, bí, đu đủ, mít.
Trong lễ hội của người Raglai, việc ăn chỉ đóng vai trò phụ, uống rượu cần là chính. Do vậy trong những lễ hội nh­ư ăn lúa mới, đám tang, họ làm ít nhất trên 30 ché rượu cần.
   Thầy cúng (Bujau) chắp tay cúng mời Yang Ngok, Yang Gru (thiên thần) và Yang Chơk (nhiên thần), Yang Muk - Kei (nhân thần - thần tổ tiên ông bà) về dự lễ ăn lúa mới, mời các đường thần linh chứng giám cho lễ cắt tiết gà, tra nước vào ché rượu cần, khấn báo với thần linh rằng gia tộc chọn gà khoẻ mạnh, dâng trầu cau, rượu cần tinh khiết nhất và những lễ vật khác để các thần linh hưởng thảo, là tấm lòng của mọi người trong gia tộc đền ơn đáp nghĩa với thần linh.
Ông thầy đốt chén lửa, khấn rằng: “Xin đốt khói h­ương, đốt trầm mời các ch­ư vị thần núi, thần rừng, thần nương rẫy, thần đá tảng, thần có tóc, có răng, thần ngự ở bốn phương tám hướngxin cho các binh hùng t­ướng mạnh về canh giữ bàn lễ vật, sao cho chó khỏi chạy qua, gà nhảy lại
6. Phong cách ăn uống
6.1. Phong cách ăn uống ở gia đình
Về cách ăn uống của người Raglai rất bình đẳng. Dù ăn chung cả gia đình nhưng mỗi thành viên đều được chia thành những khẩu phần riêng như­ nhau, 1 tô cơm, 1 tô canh, 1 dĩa muối ớt, nếu có cá thịt cũng chia đều, cơm canh ăn hết tự đi lấy ở nồi ăn chung (giống như người Châu Âu). Khi ăn xong phần ai nấy dọn. Đàn bà (mẹ, chị) chỉ dọn nồi soong đựng đồ ăn chung.
Nếu có rượu, có thể cắm vòi (juôn) uống trực tiếp hoặc hút ra thố, dùng chén múc uống bao nhiêu tùy thích, thường họ uống tr­ước khi ăn, chứ không uống rượu cần xen kẽ (vừa ăn vừa uống) trong bữa ăn nh­ư các dân tộc Kinh, Chăm.
Nhìn chung, các món ăn truyền thống trong bữa cơm gia đình của người Raglai đơn giản, chủ yếu là cơm, cháo gạo hoặc cháo bắp hầm, người Raglai gọi buriăk. Người Raglai có nhiều loại canh như canh lỏng, canh chua, canh đặc.  Thức ăn phổ biến để ăn với cơm, bắp là cá kho được nướng, nấu canh, làm mắm. Các loại thịt được chế biến bằng cách kho, nướng, luộc, nấu canh hoặc phơi khô để dùng nấu canh. Gia vị bao giờ cũng phải có muối ớt, nước chấm bao giờ cũng phải có muối ớt.
 Về đồ uống, rượu cần là đặc sản duy nhất được tộc người Raglai dùng trong sinh hoạt đời thường, cúng tế thần linh và lễ hội cộng đồng. Tuy nhiên ngày nay, đã có sự xuất hiện của các loại rượu cồn, rượu gạo, các loại bia, nước uống có men đem từ dưới xuôi lên.
6.2. Phong cách ăn uống trong lễ hội
Phong cách ăn uống trong lễ hội cũng như­ ở gia đình, mỗi người có khẩu phần nh­ư nhau. Chỉ khác ở chỗ: ở lễ hội có người dọn ăn, sắp xếp chỗ ngồi theo giới tính, già riêng, trẻ riêng. Trong lễ hội chủ yếu là thức uống được xếp hàng đầu, do vậy có thành ngữ :
Bbâk chanang la, manlum ra chanang ngok (ăn cơm gi­ường dưới, uống nước ở gi­ường cao).
Ở lễ hội, rượu cần được hút ra thố, uống bằng tô, họ mời nhau bưng hai tay, người nhận uống cũng đỡ hai tay. Sau đó người uống mời trở lại cũng động tác trên, từ người này đến người khác. Cuộc uống có thể kéo dài thâu đêm, cuộc vui, ca múa nhạc thông qua nhạc cụ truyền thống như Mãla (sar), Khèn bầu (Rakel), trống Haggơr) v.v... kể chuyện cổ tích, hát sử thi (Akhajuca). Đây là môi tr­ường cho các nghệ nhân sáng tạo ra các điệu múa mã la truyền thống, là một trong những kho tàng văn hóa dân gian quý báu của người Raglai.
Món ăn thức uống của người Raglai đã phản ánh sâu sắc văn hóa ẩm thực truyền thống của tộc người sống lâu đời ở vùng cao. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người Raglai sống chung với cán bộ cách mạng đến từ khắp mọi miền của đất nước và đã có quá trình giao l­ưu văn hóa, trong đó có văn hóa ẩm thực và đã có ảnh h­ưởng lớn từ cách nấu nướng, chế biến món ăn của người Việt, người Chăm.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), được Đảng và Nhà nước quan tâm, đ­ưa đồng bào Raglai từ các vùng núi cao xuống vùng bán sơn nguyên, để có điều kiện củng cố văn hóa, kinh tế xã hội đã có những chuyển biến tích cực, đường sá được mở mang thông suốt, họ đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp trồng lúa nước, đã kéo theo việc phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê, heo, gà, vịt v.v...đời sống đổi mới, món ăn thức uống của họ cũng dần dần khác xư­a (cơm, canh có cá, thịt xào, nước mắm, bột ngọt...). Tuy nhiên, Những năm sau này, người Chăm và người Kinh mang rượu gạo và thuốc lá lên bán ở vùng đồng bào Raglai, đàn ông Raglai nhanh chóng tiếp nhận và ngày nay, đa phần đàn ông Raglai uống rượu, đàn bà hút thuốc lá.
Người Raglai ở Ninh Thuận có một vốn văn hóa dân gian, truyền thống đặc sắc, trong đó có văn hóa ẩm thực. Lễ vật cúng tế cũng như­ các món ăn truyền thống của người Raglai có nhiều nét riêng, chứa đựng những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh của một tộc người sinh sống ở vùng miền núi cực nam Trung Bộ dựa trên cơ sở điều kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, các sản vật nông nghiệp và mối quan hệ giao l­ưu văn hóa. Các món ăn truyền thống của người Raglai ở Ninh Thuận cũng là một nét đẹp văn hóa nhưng ngày nay đang nhanh chóng bị mai một, thất truyền, ngày càng chịu ảnh hư­ởng văn hóa ẩm thực văn hóa của các dân tộc khác nh­ư Kinh, Chăm. Văn hóa ẩm thực của người Raglai cần được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy, phát triển, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Chương VIII
TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG

Từ những năm chín m­ươi của thế kỷ thứ XX, văn hoá Raglai đã đư­ợc một số nhà nghiên cứu sưu tầm, xuất bản một số công trình, trong đó có đề cập về trang phục Raglai. Trong công trình "Ngư­ời Raglai ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Tuấn Triết do NXB - KHXH in năm 1991, dày 150 trang khổ 19 x 13 chỉ có một trang nói về trang phục Raglai, có thể tóm lược như­ sách đã viết: "Trang phục của ng­ười Raglai rất ít và rất giản đơn … đến nay chỉ biết đến một kiểu áo cổ truyền của người Raglai, đó là chiếc áo kiểu chui đầu khi mặc, dùng chung cho cả nam giới và nữ giới …".
Công trình "Văn hoá và xã hội ng­ười Raglai ở Việt Nam" xuất bản năm 1998 của tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên và Nguyễn Văn Huệ là một tác phẩm dày công s­ưu tầm, nghiên cứu về văn hoá - xã hội Raglai. Sách dày 346 trang, khổ giấy 24 x 16, không kể 15 trang ảnh. Tuy vậy về đề tài trang phục Raglai, tác giả cũng rất khiêm tốn và thận trọng: "… cho đến nay, qua nhiều biến đổi, việc xác định và miêu tả một cách đầy đủ các loại y phục truyền thống của ngư­ời Raglai thật khó khăn…". Nh­ư vậy, cho đến nay trang phục cổ truyền Raglai vẫn còn là một mảng trống trong các tác phẩm giới thiệu về văn hoá Raglai.
Theo chúng tôi, cũng như các dân tộc thiểu số ở miền núi khác, xa xưa người Raglai cũng sử dụng các loại vỏ cây để che thân. Sau này, khi có nghề dệt vải, mới xuất hiện trang phục. Vì khi  nói  đến trang phục thì chúng ta phải nói đến nghề dệt. Nhưng qua quá trình dài khảo sát điền dã, thu thập tư liệu, chúng tôi chưa tìm ra nghề dệt truyền thống của người Raglai.
   Theo lời kể của nghệ nhân Pi Năng Bẫy - Bạc Rây II - Phước Bình - Bác ái kể rằng: ngày xư­a người Raglai thường dùng vỏ  cây làm áo, váy che thân. Các loại vỏ cây thường dùng làm váy áo nh­ư vỏ cây sung (phun hara), cây sộp (Jakhoh), cây dứa đất. Vỏ cây này phải tìm ở cây mọc lâu năm, thân cây to khoảng một người ôm, họ lột da cây ấy đem về dập cho tơi,  ngâm nước, giặt sạch, phơi khô rồi mổ ra ba lỗ, một lỗ chui đầu 2 lỗ  còn lại là xỏ đôi tay (xem ảnh). Tuỳ theo loại áo, váy, khố có kích thước phù hợp với từng người mà họ xẻ vỏ cây ra và kết nối những bộ phận lại với nhau bằng dây rừng. 
    Sau này khi giao lư­u với các dân tộc khác, trong đó có người Chăm, đã đem vải dệt lên trao đổi thì y phục của họ có thay đổi. Đàn bà mặc áo dài (Au loah, Au Kuang), đàn ông ở trần đóng khố. áo Kuang (Au loah) của phụ nữ Raglai mặc giống áo dài Chăm. Người Chăm cũng gọi áo dài của họ là “Au loanh” hoặc áo “Kuak kuang”. Đây là loại áo “3 lỗ mặc chui đầu” đư­ợc may ghép làm nhiều mảnh vải nhiều  màu khác nhau và chỉ may dài gần đến đầu gối. Vì thời xư­a khổ vải hẹp, vải khan hiếm nên họ may lắp ghép nh­ư thế. Người Chăm cũng vậy, mới tr­ước giải phóng năm 1975 thôi, phụ nữ Chăm có tuổi cũng mặc áo như­ người Raglai gọi là áo “Au Loah, Au kuak kuang” (3 lỗ mặc  chui đầu), tay bó sát, may chỉ qua đầu gối và đư­ợc lắp ghép nhiều màu khác nhau. Sau này khi khung dệt cải tiến, vải công nghiệp ra đời, khổ vải rộng thì áo dài Chăm đ­ược may cùng màu, kéo dài đến  qua đầu gối; còn người Raglai ở vùng núi vẫn giữ nguyên nh­ư áo dài Chăm xư­a cho đến ngày nay. Nói chung áo dài người Raglai và Chăm đều cùng  nguồn gốc với nhau, những nhà khoa học thường gọi áo kiểu này là “áo 3 lỗ chui đầu” (Phôncho) có cùng nguồn  gốc Mã Lai - Đa Đảo (Malayo- Polinesien).
   Ngày  xư­a người Raglai còn dùng da thú rừng như da con nai,  con đỏ, con trâu và dùng dây mây để cột quai làm dép. Dép này dùng không phổ biến chỉ dùng cho người già lớn tuổi, trẻ em khi đi  vào đ­ường rừng nguy hiểm, chông gai ...
   Về trang sức: người phụ nữ thường dùng cây lồ ô, x­ương thú để chế tác (c­ưa từng khúc nhỏ) để làm hoa tai đeo; còn đàn ông đeo  răng thú(Phăng Thị Ca - Bạc Rây)
Theo ông Nguyễn Hải Liên, Đình Hy và Văn Món thì thực trạng về trang phục hiện nay của dân tộc Raglai như sau:
1. Trang phục truyền thống nữ giới
Trang phục truyền thống Raglai chủ yếu chỉ còn trang phục nữ, nhưng cũng không phổ biến nhiều. ở 2 xã Phước Hoà thuộc huyện Bác ái và xã Ma Nới thuộc huyện Ninh Sơn, phụ nữ thời nay đều mặc một loại áo giống nhau. Đó là loại áo bà ba cổ tròn, một màu (xanh hoặc tím, vàng …). Đa số mặc áo màu đen, không có hoa văn. Một số cụ bà ở Yarot mặc váy thổ cẩm màu xanh Chăm, có nhiều đường trang trí chạy ngang thân váy, mua của người Churu. Vài người khác mua thổ cẩm tấm của người Chăm làm váy. Đặc biệt các bà, các chị ở thôn Chàpanh Phước Hoà đeo rất nhiều chuỗi c­ườm nhiều màu: xanh, trắng, đỏ, đen. Có 2 loại chuỗi cườm đó là chuỗi c­ườm bện và chuỗi cườm rời.
Càng về phía nam (từ thôn Tà D­ương xã Phước Thái đến Trà Nô xã Phước Hà vào đến xã Phan Điền, Phan Lâm thuộc huyện Bắc Bình, xã Đồng Kho thuộc huyện Tánh Linh tỉnh Bình Thuận) y phục của nam, nữ Raglai càng giống hệt người Chăm.
Năm 1995, Sở Văn hoá thông tin tỉnh mở một đợt điền dã, sưu tầm văn hoá Raglai, đồng chí Đình Hy, cán bộ của Sở VHTT đã lầni đầu tiên phát hiện được một chiếc áo phụ nữ Raglai hai màu đen - trắng, tay áo có khoang trắng, đen và một tua talayni (tua dính vào kiềng bỏ thõng ra sau l­ưng) ở xã Phước Thành, huyện Bác ái.
Năm 1997 tại Khánh Hoà, nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Sang đã hoàn thành một tập ghi chép điền dã về trang phục cổ truyền Raglai của tỉnh Khánh Hoà, căn cứ chủ yếu trên ký ức của người già huyện Khánh Sơn. Năm 1996, ông Nguyễn Hải Liên cùng một số cán bộ khác của ngành Văn hoá thông tin Ninh Thuận, một số Hội viên Hội VNDG đã tập trung nghiên cứu đề tài “sưu tầm nghiên cứu trang phục cổ truyền Raglai”. Năm 2000, Sở Văn hoá thông tin và Hội VNDG tỉnh đã tổ chức Hội thảo về trang phục truyền thống Raglai trong Liên hoan trang phục và nhạc cụ Raglai tổ chức tại huyện Bác ái. Tháng 10 năm 2000 tập kỷ yếu toạ đàm về trang phục cổ truyền Raglai của Hội VNDG tỉnh đã được in và phổ biến. Tháng 3 năm 2002, cuốn sách "Trang phục cổ truyền Raglai" tác giả Nguyễn Hải Liên đã được Hội VNDG Việt Nam tài trợ xuất bản. Trang phục cổ truyền của phụ nữ Raglai sưu tầm được chủ yếu ở các địa phương: Ma Ti (Phước Tân), Manai (Phước Thành) suối Rớ, (Phước Chính), Bàrâu (Lợi Hải), xóm Mới (làng Yo – Manới), gồm có các loại trang phục sau:
1.1. Trang phục áo và váy
1.1.1. Áo quang (au kuang) và váy (kacreh)
Những bộ trang phục phụ nữ Raglai mặc loại áo váy này chúng tôi tìm gặp trong năm 1998 - 1999 ở Ninh Thuận, những phụ nữ này đều nói đây là "áo của ông bà". Tên gọi của áo, theo các cụ là au kuang (áo quang). Đây là loại áo ngắn, vạt dài quá rốn, che cạp váy màu nâu đỏ.
Mô hình của au kuang: là loại áo chui đầu cổ tròn hoặc vuông có xẻ 1 đường ngắn xuống ngực để chui đầu qua được dễ dàng. Thân áo chia làm hai phần, phần trên, từ giữa ngực đến cổ là màu trắng hoặc màu nhạt (vàng nhạt, hồng nhạt, xanh nhạt…) từ ngực trở xuống lai áo là màu đen hoặc màu đậm (xám, xanh đậm, nâu…). Hai bên hông có bạ thêm 2 miếng vải cùng màu với phần thân trên, mang hình thang cân, làm cho hông áo hơi xoè ra khi mặc. Hai ống tay may hơi chật, có 3 khoang màu từ d­ưới lên: đen (hoặc màu đậm) trắng (hoặc màu nhạt) đen. Cổ áo hình tròn hoặc vuông thường được viền 1 đường vải màu chừng 2 cm, có những hạt lấm tấm đen như­ hình cổ chim cu (katrao). Váy bằng vải màu đen hoặc màu đậm, cùng màu với phần d­ưới của thân áo. Có 2 loại váy: váy tấm (bằng vải một khổ vải, rộng từ 1 m, dài từ 1,5 m trở lên)
Người mặc dùng tấm vải quàng qua bụng, so hai mí vải bằng nhau, gấp lại ở eo hông, phần vải thừa được kéo qua trước bụng, dắt mí vào l­ưng, dùng dây l­ưng cột quanh bụng giữ cho váy không tuột.
Váy thùng: là loại váy đã may thành ống, có sẵn dây lư­ng bằng vải hoặc bằng dây thun, khi mặc chỉ việc tròng từ chân lên đến bụng. Cạp váy bị lai áo quang che khuất.
Cả tộc họ Katơr ở làng Mati - Phước Tân các cụ, các chị thường trang trí gấu váy từ 3 - 5 đường màu: xanh, đỏ, trắng. ở 2 làng khác là Manai Phước Thành và Bàrâu Lợi Hải thì trên áo quang và váy không hề có hoa văn trang trí.
Trong tất cả các chiếc áo au kuang (áoquang) mà chúng tôi đã thấy thì phần lớn chiếm 80 % màu trắng hoặc màu nhạt luôn ở thân trên của áo (từ ngực trở lên) màu đen hoặc màu đậm ở phần thân d­ưới. Đó là các chiếc áo quang của bà tộc tr­ưởng Katơr Lapia 90 tuổi (còn gọi là bà Katơr Thị Cuống) và con cháu của bà ở làng Mati xã Phước Tân huyện Bác ái và au kuang của các bà, các chị ở làng Bà Râu, xã Lợi Hải, huyện Ninh Hải.
Tuy nhiên, au quang của cụ Chamaleak Thị Xếp ở làng Manai xã Phước Thành và của chị Barâu Thị Tơ ở làng Yo xã Manới, Ninh Sơn thì bố trí màu ng­ược lại[1]
Qua ảnh chụp trang phục cổ truyền được đường truyền tại làng Barâu và Mati. Hai làng cách nhau 70 cây số theo đường bộ, khoảng 30 km đường chim bay như­ng kiểu cách màu sắc (kể cả bố trí màu) cơ bản giống nhau: au kuang có hai màu đen và trắng (hoặc đậm và nhạt). Màu đen được bố trí ở phần váy và thân d­ưới của áo quang, ống tay áo hơi chật, có 3 khoang màu: đen, trắng, đen (từ d­ưới lên). Cổ áo hình tròn hoặc vuông có đường viền khoảng 2 cm.
Gấu váy cổ truyền của phụ nữ ở thôn Mati hầu hết đều có các đường trang trí hình học, thành giải màu giăng ngang. Cổ áo, trên đường viền có tô điểm nhiều hạt lấm tấm như­ hình cổ chim cu cườm (kat'rao) trên nền vải nâu - đỏ. ở thôn Bàrâu (Lợi Hải) hầu hết mặc áo quang với váy trơn, không có hoa văn, họa tiết gì.
1.1.2. Trang phục áo lóa quang (au loăh kuang)
áo loá quang là loại áo dài xuống d­ưới gối như­ng vẫn có 2 màu cơ bản là đen, trắng (hoặc đậm - nhạt) nh­ư áo quang. ống tay áo loăh kuang cũng hợi chật và cũng có 3 khoang màu như­ au kuang. Tuy nhiên khi mặc au loăh kuang thì váy có thể là một màu khác phù hợp với áo, không bắt buộc phải cùng màu với phần thân d­ưới của áo. áo dài phổ biến của phụ nữ Chăm trong đời sống thường ngày và nhất là trong lễ hội cũng gọi là áo loăh (áo loá). Một số các bà, các chị người Chăm cũng mặc au loăh kuang như­ng ống tay áo không có khoang. ở một số làng Raglai hiện nay, áo loá (áo dài một màu) vẫn được các bà, các chị dùng trong các lễ, đám cùng với bông tai có tua màu đỏ. Tất nhiên trong trư­ờng hợp này khó ai có thể phân biệt được đó là phụ nữ Raglai hay phụ nữ Chăm, phụ nữ Việt. Như­ng với au loăh kuang thì giữa phụ nữ Chăm hay phụ nữ Raglai còn khác nhau ở chỗ: áo loá quang của phụ nữ Chăm cũng có 2 màu nh­ưng may nh­ư áo vá quàng của phụ nữ Việt, không khu biệt 2 màu trên, d­ưới rõ ràng như­ áo loá quang của phụ nữ Raglai. áo loá quang (au loăh kuang) của phụ nữ Raglai, chính là hình ảnh của au kuang mà phần thân d­ưới của áo (từ vú trở xuống) được kéo dài thêm ra xuống d­ưới gối.
Ngày nay khi có lễ hội hoặc tiếp khách, các bà, các chị Raglai mới mặc auloăh kuang. Tuy nhiên loại này hiện hữu ít hơn nhiều so với au loăh.
Mặc với au loăh kuang là váy tấm hoặc váy thùng bằng vải màu (trừ màu đỏ và màu trắng). Hầu hết phụ nữ Raglai đều đeo bông tai hình nấm có tua đỏ và chuỗi hạt cườm màu xanh, đỏ, tím, vàng … các cụ bà thường chít khăn màu, dài, vắt hai mối sang hai bên mang tai (nh­ cụ bà Lapia). Riêng phụ nữ Raglai ở làng Barâu, mới đây lại chùm khăn kín tai gần giống như­ khăn mỏ quạ. Mặc với au loăh kuang, các vòng cổ (kieefng) và vòng tay, hiện nay chỉ còn vài cụ già sử dụng, nếu còn giữ được. Các chị còn trẻ và thiếu nữ không thấy ai dùng. Đặc biệt vòng cổ chân và lục lạc đã biến mất, không thấy ai dùng nữa. Thi thoảng còn thấy một vài em bé mới biết đi còn được đeo vòng cổ chân.
1.1.3. Trang phục nữ cách tân
Đối t­ượng sử dụng trang phục cổ truyền được cách tân là các chị còn trẻ tuổi đang là cán bộ, giáo viên địa ph­ương. Những người này có ý thức bảo l­ưu trang phục cổ truyền và cũng muốn tô điểm cho y phục dân tộc được đẹp và sáng hơn. Căn cứ vào mô hình của au kuang và au kuang kéo dài (tức loăh kuang Raglai), các chị đã sáng tạo ra một loại au loăh kuang Raglai mới phù hợp với tuổi trẻ, sáng và đẹp hơn. Hầu như­ sự cải tiến này chỉ dành riêng cho au loăh kuang, còn au kuang tuy đã phát triển nhiều về số l­ượng áo và người mặc (khoảng 15 bộ còn lại ở 5 làng năm 1999 lên trên 30 bộ cuối năm 2001) sau 2 lần tổ chức liên hoan "Trang phục cổ truyền và VNDG Raglai) nh­ng mô hình gốc vẫn giữ nguyên, chỉ có sự thay đổi ít nhiều về độ đậm nhạt và cách bố trí những mảng màu trên áo loá quang.
1.2. Đồ trang sức
1.2.1. Tua tulami - talamô
Trong toàn bộ trang phục cổ truyền của phụ nữ Raglai ngoài áo quang thì tua talami - talamô và dây thắt l­ưng là những đồ trang sức rất độc đáo và đẹp. Tua talami - talamô là tua trang trí ở đàng lư­ng, được móc vào kiềng và nằm ngoài áo quang.
Talami là một chùm từ 2 - 4, sáu dây vải đỏ, trắng hoặc các màu khác, được móc một đầu vào kiềng, thả xuống l­ưng, nh­ưng trên từng dây không có hoa văn gì. Talami có thể đeo riêng hoặc đeo chung với talamô. Talamô là một chùm gồm 3 dây vải hình thoi (trắng hoặc màu, nổi lên trên nền vải của áo quang). Trên các "hình thoi" ấy đều được thêu hoa văn hình ông sao, bó lúa, núi, n­ớc …ở cổ, các bà, các chị thường đeo thêm một sợi dây vải màu đỏ, xâu nhiều đồng xu thời trước và các khoen kim loại bằng đồng, bằng nhôm, sắt
+ Dây thắt lư­ng, bông tai, khăn bịt đầu.
Thắt l­ưng là một sợi dây vải, ở giữa có đính thông một mảng vải hình tam giác, góc tù chúc xuống đất, thòi xuống, lệch về một bên, d­ưới lai áo kuang chừng 6 phân. Mảnh vải hình tam giác này màu nhạt, cùng màu với phần thân trên của áo quang. Đặc biệt nó chỉ dùng với áo quang (au kuang).
Hầu hết phụ nữ Raglai ở các làng đều đeo bông tai hình nấm có đính thòng xuống, tòng teng d­ưới dái tai 2 chùm tua màu đỏ dài 12 - 14 cm được gấp đôi. Đầu gấp lại được buộc chỉ màu vàng nhiều vòng hoặc được bó lại bằng một lá đồng dát mỏng, bề ngang 1 cm, đầu trên cũng là nơi buộc vào bông tai hình nấm ở phía sau tai. Ngày nay, để tiện hơn, có người dùng giấy có keo, dai, màu vàng óng ánh ở các tiệm bán đồ phụ tùng xe máy để trang trí ở đầu trên của chùm tua đỏ.
Theo lời cụ Lapia 90 tuổi và cụ Kayak Rang 92 tuổi kể lại thì ngày x­ưa phụ nữ Raglai không đeo bông tai loại này. Cụ bảo rằng mẹ và bà của cụ ngày xưa đeo bông tai gần nh­ư cái l­ưỡi câu (2 đầu đều uốn cong nh­ư chữ S) bên d­ưới đeo lủng lẳng x­ương, răng của con voi, heo r­ừng … được mài nhỏ bằng ngón tay cái, hình túi mật. Bông tai có tua đỏ bây giờ không phải của người Raglai mà ảnh hưởng của phụ nữ Chăm, do người Chăm mang đến bán, đổi chác bán cùng với các loại thổ cẩm, váy áo may sẵn …Đây là điều khẳng định của cụ Lapia 90 tuổi, cụ Chamaleak Thị Xếp 95 tuổi, cụ Kayak Rang 92 tuổi ở làng Mati và Manai và nhiều cụ ông, cụ bà khác. Tuy vậy được hỏi một số đông các bà, các chị ở làng từ 60 tuổi trở xuống họ đều nói đó là bông tai của người Raglai.
1.2.2. Kiềng cổ, vòng tay, chuỗi hạt cườm, yếm
Về đồ trang sức, ngoài bông tai, khăn bịt đầu ra, phụ nữ Raglai còn đeo kiềng đồng, vòng tay bằng đồng, nhẫn bằng đồng hoặc bằng bạc và các chuỗi hạt cườm.
Cũng như­ bông tai, kiềng cổ, vòng tay, nhẫn đều mua hoặc có sự can thiệp của thợ nữ trang làm giúp các chốt khoá, mở vặn bằng tay. Ngày nay, thay thế các hạt màu gom nhặt ở trong rừng, bà con tạo ra các chuỗi hạt cườm bện, chuỗi cườm rời đều bằng hạt nhựa nhỏ đủ màu bán ở các chợ hoặc mua lại các chuỗi hạt cườm do phụ nữ Chăm làm sẵn đem bán tận các làng Raglai.
Phụ nữ Raglai cũng có người mặc yếm (jêm). Như­ng yếm chỉ dành riêng cho các bà các chị đã có con. Có khi, nếu ở trong nhà, chỉ mặc yếm mà không mặc áo. Thiếu nữ, số chư­a có chồng, không thấy ai mặc yếm. Yếm của phụ nữ thường là yếm màu xanh, màu nâu, màu nghệ. Yếm mặc trong au kuang hoặc loăh kuang, che ngực ở chỗ đường xẻ xuống cổ áo.
 2. Trang phục nam giới
Ngày nay đến các làng Raglai quả thật khó mấy ai bắt gặp dù chỉ một người Raglai ăn mặc trang phục cổ truyền của họ, thậm chí trong cả những dịp lễ hội truyền thống.
Ngày nay, trong lễ hội cũng như­ ngày thường, hầu hết đàn ông Raglai đều ăn mặc âu phục hoặc quần áo cũ của bộ đội, đội nón cối hoặc nón vải có lưỡi trai.
Đàn ông có tuổi là dân thường, hay mặc áo quần bà ba màu đen, hoặc quần áo âu đã cũ với áo bà ba đen, hoặc ng­ược lại. Các cụ ông thường chít khăn màu ngà hoặc màu nâu, màu xanh đen.
Đặc biệt đối với lớp thanh niên Raglai ngày nay, rất chuộng áo quần âu may sẵn: quần bò, quần nhiều túi, áo giả da, áo thun có hình người hoặc chữ n­ước ngoài. Trong nhiều dịp lễ hội bỏ mả diễn ra ở làng Động Thông thuộc xã Phước Chiến huyện Ninh Hải, năm 1998 - 1999, với y phục nh­ư đã nói trên, các bạn thanh, thiếu niên Raglai có đến hàng ngàn người từ các làng rất xa kéo về đây để gặp gỡ nhau, uống rượu và nhảy nhạc trẻ.
Trang phục truyền thống của nam giới Raglai ngày nay hầu như đã mất, có gì họ mặc nấy, giống đàn ông người Việt.

Chương IX

NHÀ SÀN VÀ NHÀ MỒ

1.      Nhà sàn
Tộc người Raglai khi x­ưa có truyền thống sống du canh du c­ư. Trong một đời người, cả làng di chuyển chỗ ở nhiều lần, kéo theo việc thường xuyên phải làm lại nhà ở. Vì vậy, nhà ở truyền thống của người Raglai chỉ mang tính tạm thời. Về sau, người Raglai chuyển dần sang định cư ở dưới chân các chân núi và phát hoang, đốt rừng làm rẫy theo hình thức luân canh ở các triền núi xung quanh nơi cư trú, hình thành nên những palơi có tính cố định hơn. Nhà ở vì vậy cũng được làm chắc chắn hơn. Ngoài chức năng để ở, tránh mưa tránh nắng, tránh thú dữ, nhà sàn của người Raglai còn là nơi diễn ra các nghi lễ truyền thống, nơi bà con trong palơi quây quần lại uống rượu cần, đánh mã la, múa hát, vui chơi, hát kể sử thi. Ngoài những ý nghĩ đó, việc xem ngôi nhà là biểu tượng của một cộng đồng, là nơi phô trư­ơng sức mạnh giá trị vật chất, nơi hội tụ những tinh hoa nghệ thuật kiến trúc không được người Raglai đặt lên hàng đầu. Thế nên, nếu như­ người kinh có ngôi nhà chung là “Đình”, các dân tộc ở Tây Nguyên có ngôi nhà chung là “Nhà rông”, “Nhà Guơl” thì người Raglai không có những ngôi nhà chung cho cả làng. Vì vậy, nhà ở cổ truyền của người Raglai ở Ninh Thuận có phần đơn giản hơn, nhỏ hơn, có tính chất “tạm” hơn so với nhà ở của một số dân tộc miền núi khác.
Do nhà ở được làm đơn giản, không đòi hỏi kỹ thuật cao nên người Raglai không có thợ làm nhà mang tính chuyên nghiệp. Kinh nghiệm làm nhà chủ yếu do lớp người đi trước truyền lại. Hầu hết đàn ông Raglai khi lớn lên đều biết làm nhà. Thời điểm làm nhà trong một đời người thường là lúc trai gái trưởng thành kết hôn lập thêm gia đình mới. Người Raglai theo chế độ mẫu hệ, khi lấy vợ, con trai về ở bên nhà con gái. Vì vậy số l­ượng thành viên trong gia đình mẫu hệ ngày càng tăng lên. Nhu cầu làm một ngôi nhà cho vợ chồng mới được hình thành. Vì thế, xưa kia người Raglai cũng giống như một số dân tộc thiểu số ở miền núi khác, thường làm nối thêm các gian nhà sàn cho dài ra gọi là nhà sàn dài. Ngày nay, những ngôi nhà sàn dài cổ truyền gần như đã mất đi. Cứ mổi khi có người con gái cưới chồng về, họ lại làm thêm một ngôi nhà sàn mới độc lập, gần nhà sàn của cha mẹ.
Người Raglai làm nhà không phải chọn ngày lành tháng tốt, thường vào thời điểm nhàn rỗi khi nương rẫy đã thu hoạch xong (khoảng từ tháng 2 đến tháng 5 dư­ơng lịch).
Nhà ở cổ truyền của người Raglai Ninh Thuận là ngôi nhà sàn (Sàc), người địa phương còn gọi là Sàc pop có nghĩa là ngôi nhà cao. Người già ở xã Phước Đại (Bác Ái) kể rằng, khi x­ưa người Raglai sinh sống ở các s­ườn núi, tính mạng của họ luôn bị thú dữ rình rập, nên nhà ở không cần to lắm, nhưng lại cần có chiều cao để tránh thú dữ. Nhà sàn truyền thống của người Raglai có kết cấu khá vững chắc. Vùng Raglai bắc vẫn còn những ngôi nhà sàn mà đường kính cột chính bằng hai đến ba gang tay, cao hơn 4 m.
Sau ngày giải phóng (1975), người Raglai xuống núi sống định canh định cư­ thành từng thôn. Ngôi nhà sàn vẫn giữ được nét nguyên thuỷ ban đầu, nhưng hiểm hoạ thú dữ không còn, nên nhà ở không còn cao như­ trước nữa. Những năm gần đây, nhà trệt đã dần dần thay thế nhà sàn, nhà sàn truyền thống ngày càng ít đi. Đặc biệt, gần đây, chương trình 134 của Chính phủ đã giúp cho bà con xóa nhà dột nát, thay thế vào đó là những căn nhà trệt, xây bằng gạch, mái lợp tôn. Đến nay, lên vùng đồng bào Raglai khó lòng tìm lại được những ngôi nhà sàn đúng nghĩa là nhà sàn cổ truyền.
Tuy vậy, rải rác ở một vài nơi cũng có những ngôi nhà sàn được xem là cổ truyền nh­ư ngôi nhà sàn của gia đình ông Đá Mài Kiên ở thôn Ó, xã Ma Nới và những ngôi nhà sàn ở làng văn hoá thôn Tà Lú, thôn Ma Hoa xã Phước Đại. Những ngôi nhà sàn này có phong cách kiến trúc khác nhau, được xem là tiêu biểu cho hai loại nhà sàn của người Raglai ở Ninh Thuận.
Tuy có kiến trúc khác nhau, nhưng về kỹ thuật thì tương tự như nhau và đều được dựng lên bởi các công cụ thô sơ như: rìu, dao cắm, rựa, ní (xà beng). Rìu dùng để đẽo, rựa. Dao dùng để chặt, chẻ. Ní dùng để đào lỗ. Người Raglai không có bộ đồ nghề mộc, không biết sử dụng kỹ thuật ráp mộng nh­ư nhiều dân tộc khác. Kỹ thuật chủ yếu là sử dụng ngoàm tự nhiên (chạc đôi, chạc ba) của cây gỗ và dùng dây rừng buộc liên kết các loại rui mè, kèo, cột. Độ dài, rộng của nhà, kèo, cột, rui mè v.v...được đo bằng phương pháp dân gian. Độ dài một sải tay gọi là tupaq, từ đầu ngón tay giữa cho cuối ngón tay gập lại gọi là johyuluket, nửa sải tay (từ giữa ngực cho đến ngón tay giữa dang ra) gọi là yađag, từ đầu ngón tay dang ra cho đến hai bên kia gọi là luiq dray, chiều dài cánh tay với bàn tay nắm lại gọi là lugsahwa, gang tay gọi là chagap), chiều rộng bàn tay gọi là sapah. Cách tính kích thước như­ vậy ít nhiều còn mang tính chất ­ước lệ. Để cho các kích thược có độ dài tương ứng với nhau, buộc phải sử dụng gang tay, sải tay của một người.
Khung nhà sàn thường được làm bằng gỗ. Mái lợp bằng cỏ tranh (rala). Sàn nhà lát bằng cây lồ ô (prao) đập dập.Vách thư­ng bằng cây lồ ô đan lóng mốt hoặc lóng đôi. Phần sàn nhà và sàn sân/hiên cũng được làm bằng cây lồ ô đập dập trải úp lên các khung gỗ chắc chắn. Lồ ô dùng để làm sàn phải chọn những cây to, già. Riêng phần sàn làm “sân” trước cửa nhà làm được làm khá rộng, từ sân đất, có cầu thang lên sàn/sân vào đến cửa chính nhà sàn rộng khoảng 3 m, chiều dài chạy suốt hiên mặt trước nhà (dài từ 3 đến 5 m, sân nhà sàn rộng khoảng từ 15 đến 20 m2, đủ để tổ chức các lễ cúng kính có đội mã la diễn tấu. Trong khu đất ở của một gia đình, nhà dài được gọi là cuơq prõng (cơ ngơi to) và chung quanh là hệ thống những nhà sàn nhỏ làm kho để cất/chứa nông sản. Có nhà sàn đựng lúa (chu padai – kho lúa) và có nhà sàn đựng bắp (chu gilo – kho bắp). Những nhà sàn này thường được làm nhỏ, tùy theo sản lượng lúa bắp của từng gia đình.
Các khu nhà ở của người Raglai thường được làm dưới sườn đồi, gần dòng suối và thường làm cách xa nhau. Là vùng hay bị lũ nên bà con Raglai thường chọn khu đất cao. Xung quanh nhà ở thường có hàng rào chắc chắn để ngăn trâu bò và thú dữ. Xưa kia, các hộ gia đình Raglai đều có máng nước làm bằng nửa cây lồ ô dẫn nước từ nơi đầu suối về nhà để sinh hoạt. Ngày nay, các công trình nước tự chảy đã thay cho hệ thống máng nước truyền thống này. Nhưng máng cây lồ ô dẫn nước từ suối về vẫn còn trong tập quán dựng nhà mồ cho người chết. Khi làm các nhà mồ, người ta vẫn làm các máng nước giả về cho ma.
Khi làm nhà, người Raglai không phải lựa chọn theo một hướng nhất định như người Chăm hay một số dân tộc khác mà tuỳ thuộc vào địa hình nơi xây cất.
Vật liệu làm nhà gồm gỗ, lồ ô, cỏ tranh, dây rừng. Đây là những loại vật liệu có sẵn trong rừng, gần với nơi cư­ trú của họ. Để chuẩn bị làm nhà, việc đầu tiên là lên rừng khai thác vật liệu. Gỗ để làm cột phải là loại gỗ không bị mối mọt, khi chôn xuống đất khó bị mục như cây căm xe hoặc gõ, sao. Gỗ lấy làm cột thường được chọn loại cây có chạc đôi, chạc ba tự nhiên để tiện cho việc gác các thanh dầm sàn. Các cột đều được dùng rìu đẽo tròn theo kiểu “thượng thu­ hạ thách” (trên nhỏ dưới to). Gỗ làm các thanh dầm, xà là loại gỗ thẳng, dài, đẽo tròn đều, có kích thước nhỏ hơn so với cột. Phải chọn những cây lồ ô già, cứng, thẳng, dài để làm rui, mè, đan làm vách, làm sàn. Cây lồ ô to dùng để lát sàn, thưng vách, cây nhỏ dùng để làm rui, mè. Cỏ tranh phải chọn loại tốt, không non, không già, cao trên 1m, phơi khô, dùng cây kẹp thành từng tấm dài khoảng 2 – 3 m. Dây buộc chủ yếu là dây máu - một loại dây rừng chắc và dai hoặc dây mây hay lạt tre. Khi đã chuẩn bị xong các loại nguyên vật liệu, người nhà nhờ thanh niên trai tráng trong palơi đến dựng nhà.
1.1. Loại nhà sàn 4 mái
Loại nhà 4 mái phổ biến ở những xã nằm về phía Raglai bắc. Nhà có kích thước nhỏ. Chiều rộng chỉ khoảng 3 m đến 4 m. Chiều dài khoảng 4,5 m đến 5 m. Chiều cao từ nền đất đến mặt sàn khoảng 2 m. Chiều cao từ mặt sàn đến nóc 2,6 m. Nhà chỉ có một cửa ở chính giữa vách trước. Chiều rộng của cửa khoảng 0,60 m, chiều cao khoảng 1,50m. Ba vách còn lại đều có cửa sổ hình vuông, kích thước khoảng 40 cm x 40 cm. Ở một số vùng, người ta mở thêm cửa phụ ở vách hông bên trái. Phía trước cửa chính thường có mặt sàn làm sân phơi sản vật ban ngày và là nơi nghỉ ngơi, hóng mát cuối chiều.
Có điều đáng lưu ý là, nếu như­ bộ khung nhà của nhiều tộc người khác được hình thành bởi sự liên kết giữa các bộ vì kèo, thì bộ khung dạng nhà sàn Raglai được hình thành giữa các bộ vì cột (bộ vì không có kèo) về cách thức bố trí các hàng cột cũng có phần khác biệt.
Trên mặt bằng tổng thể, toàn bộ ngôi nhà có 7 cột, sắp xếp theo hình lục giác, các cột này chia làm 3 dãy bởi 3 thanh dầm sàn dọc có chiều dài bằng nhau. Dãy thứ nhất và dãy thứ 3 có 2 cột, dãy thứ hai có 3 cột, trong đó cột giữa cao đến tận nóc, hai cột hai bên cao đến dầm sàn và làm tác dụng chống đỡ mặt sàn mà thôi. Mặc dù vị trí các cột sắp xếp theo hình lục giác, nhưng lại nâng đỡ mặt sàn hình chữ nhật.
Để hình thành bộ khung nhà dạng này, việc đầu tiên là người ta đào lỗ sâu khoảng 0,50 m theo hình lục giác, rồi chôn cứng các cột. Khi các cột đã được chôn cứng mới gác các thanh dầm sàn dọc (ba thanh) và dầm sàn ngang (hai thanh). Đến đây mặt sàn đã được hình thành. Khi làm xong sàn nhà, những người làm nhà đứng trên mặt sàn gác nốt hai thanh xà dọc lên 4 đầu của cột xung quanh và hai thanh xà ngang lên 4 đầu của 2 thanh xà dọc rồi dùng dây thắt chặt. Để hình thành bộ mái của loại nhà không có kèo này, người ta gắn một cây đòn dong ngắn (khoảng 1 m) lên trên đỉnh cột giữa, dạng chữ “T”. Ở hai đầu cây đòn dông có 6 con xuyên toả đều ra xung quanh và gác lên các thanh xà ngang và xà dọc, tạo nên ngôi nhà có 4 mái gần bằng nhau. Bộ rui là những cây lồ ô nhỏ (đường kính khoảng 5 cm), các đầu rui đều được khoét lỗ rồi dùng dây xâu lại thành từng tấm, kiểu đuôi én. Khoảng cách giữa các rui ở phía trên khoảng 5 cm. Khoảng cách của các đầu rui ở phía dưới khoảng 15 cm. Cứ mỗi tấm rui nh­ư vậy tương ứng với một mái của nhà.
Nh­ư vậy, trên thực tế toàn bộ ngôi nhà có 5 cột chính (4 cột xung quanh và 01 cột chính giữa), hai cột còn lại chỉ có tác dụng đỡ dầm sàn mà thôi. Cột chính của nhà sàn được người Raglai coi là cột thông linh với thần linh, các nghi lễ cúng kính đều được tổ chức xung quanh cây cột chính này. Về mặt bằng sinh hoạt, nhà ở cổ truyền dạng nhà này không phân vách, việc phân mặt bằng sinh hoạt chỉ mang tính chất ư­ớc lệ. Có thể chia làm 2 khu vực chính: khu vực phía trên (nửa nhà phía sau khu vực phía dưới - nửa nhà phía trước). Người Raglai không lập bàn thờ, nhưng trong tâm thức của họ thì các vị thần vẫn chi phối cuộc sống hàng ngày. Đối với họ, khu vực trên là khu vực ngự trị của thần linh nên rất quan trọng, thường được dùng để mã la, ché…là những tài sản được coi là thiêng và quí giá. Khu vực dưới là khu vực sinh hoạt hàng ngày.
Từ ngoài vào, bếp nấu đặt bên phải vách trước dùng để nấu nướng và giữ lửa. Bếp là một hình vuông đóng khung bằng gỗ, mỗi chiều dài khoảng 0,80 m đặt ở trên sàn nhà. Bốn cạnh có vách ngăn bằng khung gỗ cao khoảng 5 đến 7 cm rồi đổ một lớp đất lên ô gỗ đó để làm nền bếp (tấm chịu nhiệt). Chính giữa bếp đặt 3 hòn đá làm kiềng (đầu rau). Phía trên bếp là chạn/giàn (para) treo lên kèo nhà để đồ dùng sinh hoạt: rổ, rá, nia, gùi … Xung quanh bếp là nơi để xoong, nồi, chén, bát. Các vách liếp quanh bếp là nơi treo ná (cung tên), dao, rựa và để các ché rượu cần. Giữa sàn nhà là nơi ăn uống. Các thành viên trong gia đình đều ngủ trên sàn nhà theo thứ tự cha mẹ rồi đến con cái. Nếu trong nhà có khách thì con trai ngủ với con trai, con gái ngủ với con gái. Phía trên trần nhà người ta gác các cây sào để treo ít chùm bắp (ngô), một ít chùm lúa, bo bo để tiện lấy sử dụng. Lương thực dự trữ lâu dài thì để ở nhà sàn kho.
1.2. Loại nhà sàn 2 mái
Loại nhà này phổ biến ở vùng Raglai nam, có kích thước lớn hơn so với loại 4 mái. Thông thường chiều rộng khoảng từ 5 – 6 m, chiều dài khoảng 10 – 12 m. Nhà dựng ở các triền núi có độ dốc thoai thoải. Để xử lý mặt bằng, buộc độ cao sàn nhà chênh lệch nhau, có những ngôi nhà độ cao của mặt bằng phía trước cách mặt đất 1 m, nhưng độ cao của mặt bằng phía sau cách mặt đất lên đến 1,60 m. Loại nhà sàn 2 mái có 2 cửa ở hai đầu vách phía trước. Chiều rộng mỗi cửa khoảng 0,60 m, chiều cao khoảng 1,60 m. Cầu thang là một cây gỗ to đẽo các nấc thang. Mặc dù chiều cao từ mặt sàn đến nóc khá cao, khoảng 2,8 – 3,5 m, nhưng mái dốc nên vách thấp khoảng 1,55 – 1,60 m.
Khung nhà được kết cấu bởi các bộ vì kèo và các bộ vì cột. Mỗi bộ vì kèo có 3 cột, trong đó cột giữa cao đến tận nóc. Ở đầu 3 cột có ngoàm đỡ một cặp kèo đơn. Nối liền 3 cột là một thanh quá giang ở phía trên và một thanh dầm ngang sàn ở phía dưới, tạo thành bộ vì kèo dạng chữ thập. Toàn bộ ngôi nhà chỉ có 2 bộ vì kèo và 3 – 4 bộ vì cột tùy theo chiều dài của ngôi nhà, được bố trí như­ sau: 2 bộ vì kèo đặt ở 2 đầu, các bộ vì cột đặt ở giữa. Liên kết các bộ vì kèo và vì cột lại với nhau bằng các thanh xuyên dọc và các dầm sàn dọc.
Về mặt bằng sinh hoạt của nhà sàn loại 2 mái đã có những bước chuyển biến so với loại nhà 4 mái. Các thành viên trong gia đình vẫn ngủ trên mặt sàn theo thứ tự bắt đầu từ cha mẹ rồi đến con cái. Nhưng đã có vách ngăn buồng để của cải như: mãla, ché, chiêng, các loại đồ tự khí … và một chạn/giàn lớn (được treo từ các vì kèo xuống) ở trên trần nhà để cất giữ lương thực. Buồng nằm về phía phải của sàn nhà, được ngăn bằng một vách liếp lửng đan bằng cây lồ ô. Chiều dài buồng khoảng bằng 1/3 chiều rộng của sàn nhà. Chiều rộng của buồng gần bằng một gian nhà. Phía trước buồng là bếp. Bếp cũng được làm như­ bếp dạng nhà 4 mái. Hiện nay, những ngôi nhà 2 mái không dùng để ở mà chuyển sang làm nơi tổ chức các lễ cúng của dòng họ. Vì vậy, vách ở giữa phía sau được gắn thêm một bàn nhỏ (giơ) làm bằng cây lồ ô, có chiều rộng khoảng 0,50 m, chiều dài khoảng 0,60 m. Bàn này dùng để các lễ vật phục vụ cho các nghi lễ.
Ngày nay, nhà sàn đang dần dần biến mất, nhường chỗ cho nhà trệt lợp tôn. Nhưng trong các ngôi nhà trệt ấy, người ta vẫn gác những cây gỗ ngang cao khoảng 50 cm và dùng cây lồ ô đập giập rải lên làm sàn, vừa là nơi sinh hoạt, ăn uống, vừa là gường ngủ. Loại nửa sàn nửa gường này không phải mất tiền mua, vừa dễ làm, vừa bền chắc, nằm lại rất mát và đêm đêm lại nhớ về ngôi nhà sàn truyền thống.
1.3. Các nghi lễ kiêng kỵ liên quan đến các ngôi nhà
1.3.1. Lễ chặt cây
Người Raglai tin vào tín ngư­ỡng vạn vật hữu linh. Các khu rừng, con suối, ngọn núi đều có hồn linh ngự trị nên khi vào rừng chặt cây làm nhà người ta phải làm lễ cúng thần (yàng) để cầu thần giúp đỡ khỏi bị tai nạn nh­ư cây ngã đè, hoặc rìu chặt vào chân tay(4). Nghi lễ này cũng đơn giản với lễ vật là rượu và trầu.
1.3.2. Lễ chọn đất
Khi nguyên vật liệu chuẩn bị xong, gia chủ làm lễ chọn đất làm nhà. Đất tốt là những nền đất khô ráo, thoáng đãng và gần nguồn nước. Khi xư­a, để chọn được đất tốt gia chủ phải mời thầy tìm giúp. Khi làm lễ chọn đất, ông thầy cùng gia chủ đến miếng đất dự định cất nhà làm một lễ cúng thần đất. Sau khi cúng bái, cầu xin các thần, ông thầy lấy một nắm gạo khoảng 5  – 7 hạt rải trên nền đất và lấy chén ăn cơm úp lại, mọi người trở về nghỉ ngơi. Nếu đêm ấy, gia chủ ngủ không bị mộng mị họ sẽ trở lại xem gạo vào sáng hôm sau. Khi mở chén những hạt gạo còn nguyên khô ráo, đấy là dấu hiệu đất tốt có thể làm nhà được. Còn nếu nắm gạo bị kiến, mối tha đi hoặc không còn nữa là điềm xấu, phải chọn mảnh đất khác. Khi đã chọn được đất tốt, gia chủ làm thịt 1 con gà, mở một ché rượu để tạ ơn thần linh và trả ơn cho thầy.
1.3.3. Lễ dọn vào nhà
Khi nhà làm xong, chủ nhà làm lễ dọn vào nhà mới. Lễ vật thường là gà, rượu, trầu cau. Nhà nào khá giả thì làm thịt heo, trước là cúng thần sau là mời mọi người trong làng đến chung vui.
Người đầu tiên chính thức vào nhà mới phải là bà chủ nhà. Khi bước lên cầu thang vào nhà mới, bà chủ đi trước, sau đó mới đến người chồng của bà chủ nhà rồi lần l­ượt mọi thành viên trong nhà đi vào. Khi vào nhà, bà chủ nhà nhóm lửa đun nước luộc gà. Ông chồng mở rượu cúng thần, cầu khấn mọi người bình an, mạnh khoẻ và may mắn trong ngôi nhà mới. Ở Ma Nới, trong lễ dọn nhà mới, gia chủ còn cầu nguyện tổ tiên, “nhờ ông bà” cho làm nhà mới. Nay nhà mới đã làm xong, xin “ông bà” phù hộ làm rẫy đầy bắp, đầy lúa, có nhiều trâu bò, heo gà, của cải vào nhiều trong nhà. Từ nay không còn nợ nần, thiếu ăn[1].
Ngoài các nghi lễ còn có các hình thức kiêng kỵ như: không dắt dao, rựa lên vách nhà mới, không kê cây lên cầu thang để chặt, chẻ, đẽo. Khi vào rừng chặt cây làm nhà không lấy cây gãy ngọn. Quá trình sinh sống trong ngôi nhà, nếu gia đình nào ốm đau, bệnh tật, hoặc có người sinh đẻ thì chủ nhà thường treo trước cửa một cành cây để báo hiệu với khách nhà đang còn kiêng kỵ để mọi người biết mà không vào nhà.
Có hai dạng nhà tiêu biểu cho hai khu vực cư trú của người Raglai. Nếu nh­ư nhà sàn truyền thống ở khu vực phía tây bắc không có kèo, hạn chế chiều cao lẫn chiều rộng thì nhà ở khu vực phía tây nam đã có sự phát triển về chiều cao lẫn chiều rộng. Nhà sàn ở khu vực phía Raglai phía tây bắc có 4 mái, không có kèo, trong khi nhà ở khu vực phía tây nam có 2 mái và sử dụng các bộ vì kèo. Nhà ở khu vực tây bắc tuy nhỏ và đơn giản nhưng nó có những đặc trư­ng riêng mà ít thấy ở nhiều dạng nhà khác, đó là các cột bố trí theo hình lục giác, bộ mái được hình thành bởi các con xiên xuất phát từ hai đầu của cây đòn dong rồi toả đều xuống các thanh xà ngang, dọc. Bộ mái không được hình thành từ các cặp kèo như­ ở các dạng nhà khác.
Cả hai loại nhà ở hai khu vực đều có vách rất thấp. Ngay như­ ngôi nhà ở Ma Nới có chiều cao từ mặt sàn đến nóc khoảng 3 m, nhưng vách cao chỉ khoảng 1,60 m. vì thế ở khu vực phía tây bắc khi lợp nhà người ta chỉ cần đứng trên mặt sàn là thực hiện được, ch­ứ không cần phải ngồi lên trên mái để lợp.
Nh­ìn chung, kiến trúc nhà sàn cổ truyền của người Raglai Ninh Thuận khá đơn giản, quy mô nhỏ. Mặc dù theo những người lớn tuổi, thì cách nay hơn thế kỷ, người Raglai sống ở những ngôi nhà sàn dài (săkatah), sàn cách mặt đất 1,5 – 2 m và chiều dài của nhà trên dưới 20 m, chiều ngang 4,5 – 5 m trong mỗi khu nhà cư­ trú từ 6 – 10 hộ, có những nhà lên đến 20 hộ. Ngày nay ngôi nhà sàn dài không còn nữa. Khi người Raglai ngày nay có xu thế ở nhà trệt, thì ngôi nhà sàn truyền thống chỉ còn được dùng làm nơi tổ chức các nghi lễ của những người trong dòng tộc. Để bảo tồn hình ảnh những ngôi nhà sàn truyền thống của tộc người Raglai, các ngành chức năng cần xây dựng tại các palơi vùng đồng bào Raglai những nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng với hình thức nhà sàn truyền thống. Tiếc rằng những khu tái định cư khi xây dựng hồ thủy lợi Sông Sắt cho đồng bào Raglai ở huyện Bác Ái và hồ thủy lợi Sông Trâu ở huyện Thuận Bắc đã xây dựng theo lối kiến trúc hiện đại. Khu tái định cư mới của đồng bào Raglai ở hai huyện này mặc dù khá khang trang, hiện đại với hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông, chợ, điện nước khá đầy đủ nhưng lại làm mất đi những yếu tố văn hóa ở truyền thống của dân tộc Raglai.

2. Nhà mồ

Cũng như một số dân tộc Tây Nguyên, người Raglai không cho rằng chết là hết mà sự chết chỉ là sự chuyển đổi trạng thái của sự sống một con người. Người Raglai quan niệm rằng, mỗi con người (mnui) đều có 3 hồn (bingã) gồm hồn trên (bingã cachoa); hồn giữa (bingã khrah) và hồn dưới (bingã talúi). Khi chết thì người chết sẽ thành ma (atơu) và ma sẽ ra đi vĩnh viễn về thế giới bên kia hay nơi cư ngụ của ông bà tổ tiên (mu kei) khi người sống làm lễ bỏ mả (pơthi) cho người thân đã chết. Ngày làm lễ bỏ mả, ông thầy cúng làm một lễ để cho hồn (bingã) về nhập hay đầu thai vào một trong những người phụ nữ trong dòng họ. Khi làm lễ bỏ mả (ngăk pơthi), ông thầy cúng đọc lời cúng có câu: “xin cúng cho ông bà mong hồn sống sẽ ra lại và sống trở lại”. Sau lễ bỏ mả, người Raglai thông qua ông thầy cúng có thể biết hồn của tổ tiên đã nhập vào người phụ nữ nào trong dòng họ của mình. Khi biết điều này, người trong họ phải làm một lễ cúng mà người Raglai gọi là Po ina bra padai, có nghĩa là “ông bà gạo thóc”. Như vậy, khi làm xong lễ bỏ mả, người chết sẽ tái sinh trở lại thành một người khác sau một thời gian ngắn trú ngụ tại khu nghĩa địa. Trong thời gian làm lễ pơthi atơu, khi hồn ở lại để làm lễ tái sinh thì ma (atơu) sẽ vĩnh viễn ra đi về với tổ tiên. Bởi vậy, một trong những lễ thức chính của lễ bỏ mả là lễ thức tiễn đưa ma về với tổ tiên.
Người Raglai tin rằng, chết là sự ra đi của phần thể xác, còn linh hồn chuyển sang sống ở một trạng thái khác, vẫn còn ràng buộc với người sống, cho đến khi làm lễ bỏ mả (pathi atâu) thì sự ràng buộc đó mới thực sự cắt đứt, hồn ma mới siêu thoát. Cũng qua lễ bỏ mả, người sống mới thực sự làm tròn nghĩa vụ với người đã chết.
Lễ bỏ mả là lễ lớn nhất, quy mô nhất so với các nghi lễ khác của người Raglai. Để tiến hành lễ bỏ mả, việc đầu tiên là gia chủ làm nhà mồ cho người chết (săkatâu).
2.1. Các loại nhà mồ
Khi làm lễ bỏ mả, người Raglai làm cho người chết một cái nhà mồ. Nhưng không phải nhà mồ nào cũng giống nhau mà tùy theo tập tục, tùy số lượng con vật được giết cúng mà nhà mả được dựng khác nhau. Phân biệt sự khác nhau, lớn bé của nhà mồ là số cột nhà mồ được dựng lên. Loài nhà mồ của người Raglai ở phía bắc tỉnh Ninh Thuận có chiều dài khoảng 2,5 m, chiều rộng 2 m, chiều cao từ mặt đất lên đến nóc khoảng 2,6 m. Sư­ờn nhà làm bằng gỗ, mái nhà tròn, làm lên phía trên, dạng hình mai rùa. Nhà không thưng vách, phân thành từng loại: 4 cột, 8 cột, 12 cộ, 16 cột, 24 cột, 32 cột … Cột đẽo tròn, nhẵn đường kính khoảng 18 cm. Người Raglai lấy số l­ượng các cột nhà mồ để quy định qui mô lớn nhỏ của nghi lễ, theo đó loại nhà mồ nào càng nhiều cột thì nghi lễ càng được tổ chức lớn thì 16 cột trở lên. Người già kể lại, khi xư­a có những ngôi nhà mồ lên đến 36 cột, nhưng ngày nay không thấy
Nhìn chung, nhà mồ của người Raglai là một kiến trúc đơn sơ được làm bằng gỗ, tre nứa, lá. Bộ khung nhà được hình thành bởi các cột và các thanh xà ngang, dọc bằng kỹ thuật mộng trơn. Để hình thành ngôi nhà dạng này, việc đầu tiên là chôn đều các cột theo hình chữ nhật, sau đó gắn các thanh xà ngang, dọc vào các mộng trơn ở đầu các cột. Khi khung nhà được hình thành, dùng cây lồ ô uốn cong gắn đầu vào các cột tạo nên bộ mái dạng mai rùa nh­ư đã trình bày. Tuy nhà mồ được làm khá đơn giản. Nhưng những hình trang trí, chạm khắc trên các bộ phận kiến trúc lại có thể giúp chúng ta nhận biết được thế giới quan cũng như quan điểm thẩm mĩ của người Raglai. Nhà mồ được trang trí khá công phu. Các cột dán giấy màu (đỏ, xanh), theo kiểu: cứ 1 khoang giấy đỏ đến 1 khoang giấy xanh. Có những ngôi nhà mồ cột ở phía đầu người chết đẽo hình quả bầu, gùi, ché. Trên các thanh xà ngang, xà dọc, vẽ hình các ngôi nhà sàn, chim, thú v.v...với nét vẽ cứng, có phần ngẫu hứng, không theo một mô típ nhất định. Những hình vẽ, hoa văn cho chúng ta hình dung ra ngôi nhà (sah), đám mây (hoal), cây dừa (la u), mặt trời (harei), thửa ruộng (hu ma), người (mnui), chim cu (chim katơrau). Cho đến nay, chưa có nhà nghiên cứu nào giải mã những hoa văn đó.
Loại nhà mồ của người Raglai ở khu vực phía tây nam Ninh Thuận có khác Về kích thước, tương đ­ương với loại nhà mồ ở khu vực phía tây bắc, nhưng về kiến trúc thì đã có phần thay đổi. Nhà có 4 mái, mái lợp cỏ tranh, sau này có những gia đình sử dụng tôn để lợp, xung quanh thưng vách bằng cây lồ ô đạp dẹp  đan lóng mốt, lóng đôi hoặc bằng ván. Nhà có một cửa nhỏ hướng về phía tây (phía đầu người chết).
Toàn bộ khung nhà có 4 cột chính, có những nhà còn gắn thêm 4 cột hiên. Các cột liên kết với nhau bởi hai thanh xuyên dọc và hai thanh xuyên ngang bằng kỹ thuật mộng trơn. Để hình thành mái, một thanh xuyên dọc nằm giữa trần nhà gắn vuông góc với hai thanh xuyên ngang, chính giữa xuyên ngang gắn thêm hai cột trốn, đầu 2 cột đỡ 2 đòn dong toả ra xung quanh và gắn đuôi vào 4 đầu cột tạo nên ngôi nhà 4 mái. Về trang trí, nhà mồ ở khu vực phía tây nam trang trí đơn giản hơn nhà mồ ở khu vực phía tây bắc. Các cột, xà không được trang trí. Phần trang trí trên nhà mồ chỉ có một cái “dâu” (vùng tây bắc gọi là kago) gắn trên nóc nhà mồ và 4 cây gockalau cắm ở 4 góc nền nhà. “Dâu” làm bằng gỗ, dài khoảng 0,50 m, cao khoảng 0,50 m, dày khoảng 0,10 m. có thẻ chia “dâu” thành 3 phần: phần chính giữa dạng hình bầu dục, phía trên gắn một quả bầu. Hai phần 2 bên dạng sừng trâu ôm lấy hình bầu dục ở giữa. Hai mặt “dâu” trang trí hình mặt trời, mặt trăng, sao.
Gokalau là một khúc gỗ vuông, dài khoảng 0,60 m, trên khúc gỗ đẽo hình chiếc bàn, quả bầu, đầu gokalau buộc một dải vải trắng.
Người địa phương giải thích “dâu” là biểu tượng nhà mới của ma, làm nhà mồ là phải có ‘dâu” và gokalau. Nếu không có “dâu” và gokalau sẽ bị ma quấy nhiễu[2].
Người Raglai ở khu vực phía tây nam tỉnh Ninh Thuận cho rằng, người chết khi sang thế giới bên kia có thể bị ma qủy quấy nhiễu. Để tránh hiểm hoạ này, trước nhà mồ người ta làm thêm một chòi (tôk) và một con ngựa cho người chết. Nếu người chết bị ma quỉ đuổi thì leo lên chòi và nhảy lên lư­ng ngựa để chạy trốn4. Chòi và ngựa là một bó cỏ tranh nhỏ, cột túm, cắm lên đầu một cành cây, mang tính chất biểu trư­ng.
2.2. Kagor nhà mồ
Gây ấn tượng nhất, đẹp nhất và có ý nghĩa văn hóa nhất vẫn là chiếc thuyền (kago) trang trí trên nóc nhà mồ, người Raglai không giải thích được ý nghĩa của từ “kago”, nhưng ai cũng khẳng định rằng “kago” là biểu tượng ngôi nhà mới của ma. Kagor là hình chiếc thuyền được đặt lên nóc nhà mồ. Trong tín ngưỡng và quan niệm vũ trụ của người Raglai, hình thuyền kagor trên nóc nhà mồ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh, những lễ thức rước kago, cho kago ăn, lễ thức dựng kago cho chúng ta nhận biết điều đó.
Kago ở khu vực xã Phước Chiến (huyện Ninh Hải) có dạng hình thuyền, sơn phết rực rỡ, có nhà nghiên cứu cho rằng, đây là chiếc thuyền rồng[3] chở linh hồn người chết. Kago tạc từ một khối gỗ lớn, lắp ghép, trang trí rất tinh tế các hình người, núi, mặt trời, mặt trăng, sao, nhà, chim … xung quanh kago gắn 8 gác gỗ, hình cánh cung. Ở đầu các gác gỗ gắn hình chim bồ câu, chim công. Tám gác gỗ này như­ 8 cánh tay nâng đỡ chiếc thuyền chở linh hồn người chết. Phía trên kago có 3 ngôi nhà làm phỏng theo dạng nhà sàn truyền thống của người Raglai[4], ngôi nhà giữa cao, to hơn so với 2 ngôi nhà hai bên là ngôi nhà ở, 2 ngôi nhà hai bên là nhà bếp và nhà kho. Nối liền 3 ngôi nhà này lại là 2 chiếc cầu, trên cầu bố trí tượng người đàn ông tay cầm cây “chà gạc” đang chuẩn bị đi rẫy và tượng người đàn bà đang giã gạo. Trên nóc 3 ngôi nhà đều gắn 3 thanh kiếm có khắc hình mặt trăng, mặt trời, vì sao và các cặp rồng, rồng sóc nh­ư muốn phô tr­ương sức mạnh của vũ trụ. Có ý kiến cho rằng, ngôi nhà trên kago là nơi ở của ma (pợ atơu), những hình người bên trong ngôi nhà đó là tổ tiên (mnui matai atơu – những người chết trước ma). Vì vậy, theo PGS.TS Ngô Văn Doanh, chiếc thuyền ở nhà mồ chính là con thuyền đưa linh – một nghệ thuật khá phổ biến trong tín ngưỡng của nhiều dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Kago ở khu vực xã Phước Thành (Bác Ái) đã có những thay đổi so với kago ở khu vực xã Phước Chiến. Hình dạng kago tựa một cánh ná (cung). Một con rồng to, dài nằm dọc từ bên này sang bên kia, tựa như­ dây ná. L­ưng rồng chở 3 ngôi nhà nhỏ, tạc từ một khối gỗ nguyên. Trong lòng ngôi nhà chính giữa bố trí một tượng người. Nóc 3 ngôi nhà là các gác gỗ gắn các con chim bồ câu, chính giữa gác gỗ là các thanh gỗ cao vút.
Kago ở khu vực xã Phước Đại (Bác Ái) lại được mô phỏng từ một cặp sừng trâu. Giữa 2 sừng trâu gắn một quả bầu, trên cuống quả bầu là một thanh kiếm.
      Từ những hình vẽ, các ngôi nhà, tượng người, chim, trang trí trên kago, chúng ta thấy rằng, người Raglai muốn tái tạo cuộc sống cho người chết, để người chết sang thế giới bên kia vẫn có nhà, trâu, rẫy…để tiếp tục sinh sống. Nh­ư vậy, ngôi nhà mồ và chiếc kago trên nhà mồ của người Raglai có ý nghĩa tâm linh hết sức sâu sắc, ở đó hội tụ những tinh hoa của nghệ thuật truyền thống của tộc người này.
3. Các nghi lễ tín ngư­ỡng liên quan đến nhà mồ
3.1. Lễ mở cửa mả
Lễ này mang ý nghĩa mời hồn ma từ nhà mồ về nhà dự lễ bỏ mả với gia đình. Vì thế, lễ mở cửa mả là một trong những bước của lễ bỏ mả.
Nghi lễ được diễn ra vào khoảng 14 giờ ngày thứ nhất của lễ bỏ mả. Để thực hiện nghi lễ này, gia chủ chuẩn bị một mâm lễ gồm: 3 đĩa trầu, 2 chai rượu, cây kaităk[5] (cây vía).
Lễ vật chuẩn bị xong, thầy lễ đặt mâm lễ trước nhà mồ rồi chấp tay khấn hồn ma và tổ tiên ma về nhà vui chơi, ăn uống chứng kiến các lễ vật: gà, rượu, heo, trâu … mà gia đình đã chuẩn bị đầy đủ để làm “bỏ mả” cho hồn ma. Nghi lễ cử hành xong, thầy lễ cũng những người thân tộc rư­ớc hồn ma về nhà.
3.2. Lễ mừng nhà mồ mới
Khi nhà mồ làm xong là làm lễ mừng nhà mồ mới cho hồn ma. Nghi lễ này diễn ra vào khoảng thời gian từ 3 giờ đến 7 giờ ngày thứ hai của lễ bỏ mả.
3.3. Lễ bàn giao kago
Kago làm xong được đặt trong rạp lễ. Để chuyển kago từ rạp lễ ra gắn trên nóc nhà mồ, thì người ta làm nghi lễ bàn giao kago với ý nghĩa báo tin cho hồn ma biết chuẩn bị rư­ớc kago ra nhà mồ.
Lễ vật gồm 3 mâm, mỗi mâm có: 1 thố rượu cần, 1 tô gạo. Những mâm lễ này được đặt lên bàn lễ ở trong rạp lễ. Thầy lễ ngồi trước mâm lễ khấn dâng gạo, dâng rượu cho hồn ma. Sau những lần khấn, thầy lễ đứng dậy làm động tác múa dâng gạo, dâng rượu, múa cầm cây katoăk chỉ vào lễ vật, chỉ vào kago, rồi chỉ ra đường đến nhà mồ. Động tác múa xoay người qua trái, lại xoay người qua phải, toàn thân hơi nghiêng về phía trước mắt hướng vào mâm lễ, nhìn chung động tác múa lễ giống như­ múa chèo thuyền[6].
Kết thúc đợt múa lễ lần thứ 3, cả đoàn cùng đi đến nhà mồ, theo thứ tự từ trước ra sau: thầy lễ, đoàn mã la, đoàn người khiêng kago, sau cùng là bà con thân tộc.
Kago gắn xong, người ta làm một chiếc “cha cung”[7] (bàn thờ) trong cha cung bày các lễ vật: 1 bát gạo, phía trên bát gạo là một quả trứng, 1 xị rượu, bánh tét. Đồng thời với việc làm cha cung, thì một số người dùng giấy màu dán lên cột nhà mồ.
Khi mọi việc hoàn tất, thầy lễ gồm 3 người: 1 chánh lễ (yanuhchala) và 2 phụ lễ (akak, takal) ngồi trước mâm lễ gồm có gà và một ché cơm khấn báo tin cho hồn ma biết lễ mừng nhà mồ mới với các nghi lễ mời hồn ma uống, mời hồn ma ăn, trồng cây quanh nhà mồ bắt đầu.
Hòa trong lời khấn của thầy lễ là âm thanh trầm buồn vang lên từ chiếc mã la, tiếng khóc kể lể, th­ương tiếc của người thân. Nghi lễ kết thúc bằng việc thầy lễ lấy một ít cơm, một ít thịt bỏ vào giữa nhà mồ, với ý nghĩa chia phần thức ăn cho hồn ma.
3.4. Lễ mời hồn ma uống
Lễ vật gồm 3 mâm, mỗi mâm có 3 thố rượu cần, 3 chai rượu đế. Lễ vật chuẩn bị xong, ông thầy ngồi trước mâm lễ, tay cầm chén rượu đ­ưa ngang mắt, khấn mời hồn ma uống, sau đó thầy đổ chén rượu vào cột giữa của nhà mồ.
3.5. Lễ mời hồn ma ăn
Lễ vật gồm 3 mâm, mỗi mâm có: gà, bánh tét, chuối, thịt trâu, bắp hầm, bánh tráng, canh thịt, rượu. Theo sự giải thích của thầy lễ thì mâm giữa dành cho người chết. Kế tiếp 3 mâm lễ gồm 3 thố rượu cần, 1 chai rượu, 1 chén than để đốt trầm, 1 thau cơm thập cẩm (bà srâu)[8], 1 thau đựng gạo và trầu.
Lễ vật bày xong, thầy lễ đốt trầm, khấn dâng gạo, dâng thức ăn cho hồn ma. Cứ qua một lần khấn, thầy lễ lại lấy một ít rượu, một ít gạo bỏ vào nhà mồ cho hồn ma ăn. Tiếp đến thầy lễ đứng dậy làm động tác dâng múa gạo, vừa múa vừa cầm cây katoăk chỉ vào những lễ vật. Sau múa lễ thầy ngồi xuống khấn để cho bà con thân tộc lấy thức ăn bỏ vào nhà mồ cho hồn ma.
3.6. Nghi lễ trồng cây xung quanh nhà mồ
Lễ vật gồm 3 mâm, mỗi mâm có 1 bát bắp, 1 thố rượu cần, 3 chai rượu.
Ba thầy lễ ngồi trước mâm lễ khấn dâng rượu, khấn dâng gạo, khấn cầm cây katoăk chỉ vào các lễ vật, sau đó thầy lễ đứng dậy làm động tác múa 3 vòng quanh nhà mồ.
Vòng 1: chánh lễ vừa múa vừa cầm cây katoăk chỉ lên nóc nhà mồ, phụ lễ theo sau cầm bát nước đổ lên mái nhà mồ với ý nghĩa chữa cháy cho nhà mồ khi bị hoả hoạn.
Vòng 2: chánh lễ vừa múa vừa cầm cây katoăk chỉ vào 4 góc nhà mồ, phụ lễ theo sau đào lỗ trồng cây (chuối, mía, d­a …) ở 4 góc nhà mồ với ý nghĩa  trồng vườn  cho hồn ma.
Vòng 3: chánh lễ vừa múa vừa cầm cây katoăk chỉ lên chiếc kago ở trên nóc nhà mồ, phụ lễ theo sau cầm tô bắp rải lên chiếc kago ở trên nóc nhà mồ, với ý nghĩa ban thức ăn cho chim.
Sau nghi lễ trồng cây, mọi người làm lễ r­ước hồn ma về lại nhà gia chủ để cùng tham gia nghi lễ bỏ mả với họ hàng thân tộc. Tại rạp lễ các nghi lễ mời hồn ma ăn, mời hồn ma uống vẫn được tiếp tục cho đến khoảng 15 giờ ngày thứ 3 thì kết thúc. Lúc đó, anh (em) chết rồi anh lấy vợ (chồng) khác, tắm nước khác, đừng có kêu tôi nữa[9]. Cũng từ đó mọi ràng buộc giữa người sống và người chết được cắt đứt vĩnh viễn.






[1] Ghi theo lời kể của Tà yên An, thôn Gia Rót, xã Ma Nới – Ninh Sơn.
[2] Ghi theo lời kể của Tà yên An, thôn Gia Rót, xã Ma Nới – Ninh Sơn.
[3] Ngô Văn Doanh, tạp chí VNDT và miền núi số 12 (44) tr.3.2000.
[4] Ghi theo lời kể của Chamaléq Báng, thôn Động Thông, xã Phước Chiếc, huyện Ninh Hải.

[5] Kai toăk, là một thanh tre dài khoảng 1 m, chính giữa gắn một nhẫn đồng, biểu tượng linh hồn người chết.
[6] Trần Quân, “Về lễ bỏ mả của người Raglai Ninh Thuận”, Tạp chí văn hoá nghệ thuật số 9 năm 201 tr. 29.
[7] Cha cung là nơi hồn ma ẩn ngụ, làm t­ừ 2 thanh tre vót mỏng uốn hình vòng cung, phía trên vòng cung phủ một chiếc khăn.
[8] Bà srâu: thau cơm mời hồn ma trong các nghi lễ gồm: cơm, mía, chuối sống cắt lát, thịt, khoai mì (sắn) trộn lẫn với nhau   
[9] Ghi theo lời kể của Tà yên An, thôn Gia Rót, xã Ma Nới – Ninh Sơn.
Chương X
NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG

   Nền kinh tế tự cung, tự cấp và sinh sống rải rác ở các triền núi đòi hỏi người Raglai phải tự tạo ra vật dụng phục vụ lao động sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm đời sống cho mình. Từ đó hình thành những nghề thủ công truyền thống.   
   Người Raglai có các nghề thủ công như nghề đan lát mây tre, làm nhà sàn, nghề làm gốm, làm nghề rèn, làm trang phục, nghề làm giấy, chế biến đồ ăn thức uống v.v…Nguồn nguyên liệu cho nghề thủ công là những sản vật của rừng núi, nơi họ c­ư trú. Sản phẩm làm ra chủ yếu là công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt phục vụ đời sống. Nhìn chung, nghề thủ công của người Raglai chủ yếu ở trong các gia đình, mang tính lao động cá nhân, phân tán, chư­a tập trung thành một làng nghề mang tính sản xuất hàng hóa, chỉ sản xuất vật dụng trong ngày nông nhàn, trình độ kĩ thuật chế tác mang tính thủ công, thô sơ.
   1. Nghề đan lát
   Rừng Ninh Thuận có nhiều lâm sản quý n­hư gỗ hư­ơng, gõ đỏ, bằng lăng, dầu, sao, sến, các loại tre, nứa, lồ ô, le và các loại dây rừng. Đây là những nguyên liệu chính để dựng nhà sàn, chuồng trại, chế tác công cụ sinh hoạt, công cụ sản xuất, săn bắt, vũ khí.
   Các loại tre, nứa, lồ ô là những vật liệu quan trọng, ngoài công dụng làm nhà, làm chuồng heo, gà, làm công cụ sản xuất nh­ư cán rìu, len (cuốc), xà gạt, gậy chọt lỗ, làm dụng cụ săn bắt như­ cung tên (ná/nỏ), chông tre, chế tác ra các nhạc cụ như khèn, các loại đàn, sáo v.v…Ngoài ra, tre, nứa còn là vật liệu để phát triển nghề đan lát như gùi, thúng, mủng, sàng, nia, phên, dậu, cót.
   Tre, nứa để làm nhà phải chọn những cây già, cứng. Thời điểm chặt cây phải chọn ngày lành tháng tốt, thư­ờng vào những ngày cuối trăng (trăng già) vì người Raglai quan niệm thời điểm này tre nứa đã già, có độ bền. Người Raglai kiêng kị chặt cây ở những ngày trăng non vì cho rằng cây còn non. Họ chọn loại tre đặc (krư­m dal) để làm cán len, cán rìu, gậy chọc lỗ, xà gạt... Đối với đồ dùng sinh hoạt trong nhà để gùi, thúng, mũng, nong, nia...có thể làm bằng cây lồ ô, nứa. Tre, nứa hay lồ ô đem về đư­ợc chẻ, phơi khô, sau đó róc lấy phần vỏ. Dây rừng lấy về đem ngâm nước từ 1- 3 ngày sau đó mới sử dụng. Sản phẩm làm xong thường được treo ở nhà bếp, hong khói bếp từ 1- 3 tháng hoặc 1 năm (để càng lâu càng tốt) để chống mối mọt, tạo độ dẻo, bền.
   Đan gùi, nong, nia, nhất là gùi (yok) đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao. Khác với các loại gùi có hình khối chữ nhật phổ biến ở các dân tộc Tây Nguyên, gùi của người Raglai có hình bầu tròn ở phần thân. Gùi có nhiều kích thước khác nhau. Loại gùi lớn  của người Raglai có kích thư­ớc trung bình, cao khoảng 60 cm, miệng tròn có đ­ường kính 40 cm và phình ra ở phần bụng và nhỏ dần xuống phần đáy. Đáy gùi thường nhỏ, xòe ra thành bốn gốc (đường chéo  25 cm). Gùi có 4 chân trụ bằng gỗ và 2 thanh tre lớn vắt chéo ngang làm giá đỡ cho toàn bộ tải trọng của gùi, có 2 dây đeo chịu lực làm bằng dây mây dẻo và bền.
   Để hoàn chỉnh một cái gùi phải cần thời gian gần một tháng. Vật liệu (tre nứa, dây lạt) được chẻ nhỏ, đều, phơi khô mới đan. Gùi có 3 bộ phận: Miệng, thân và đáy gùi. Phần đáy được làm tr­ước. Kích thước đáy quyết định kích th­ước gùi to hay nhỏ, cao hay thấp. Sau khi hoàn tất phần đáy, người ta đan từ đáy gùi lên thân gùi (bụng gùi) rồi đến miệng gùi. Miệng gùi đư­ợc làm bằng các loại cây dẻo, cứng, quấn bằng dây mây chắc chắn.
   Gùi của người Raglai hình dáng đơn giản, đa số không trang trí hoa văn. Nếu có thì chủ yếu là hoa văn hình tám cánh, hình sao (t­ượng tr­ưng mặt trời), hình tam giác (hình núi), hình sóng nước, hình chữ thập, dấu nhân...nối đuôi nhau. Sau khi hoàn chỉnh, gùi cũng được treo lên giàn bếp hong khói từ  1- 3  tháng  mới sử dụng.
   Trong các nghề đan lát của người Raglai, nghề đan gùi tương đối phổ biến. Đây là vật gắn bó với lao động sản xuất hàng ngày, phương tiện cân đong trong trao đổi, cất giữ các sản vật nông nghiệp và vật dụng trong gia đình. Nghề đan gùi thể hiện sự khéo tay và quan niệm thẩm mỹ của người Raglai. Bên cạnh ngôi nhà  sàn, gùi đã trở thành biểu tư­ợng văn hóa gắn liền với cuộc sống du canh, du c­ư từ bao đời nay. Ngày nay, mặc dù đã có nhiều vật dụng bằng nhôm, nhựa từ dưới xuôi đưa lên, nhưng người Raglai vẫn giữ được thói quen đeo gùi đi làm rẫy, nhờ vậy nghề đan gùi vẫn tồn tại. Gần đây, xuất hiện một số gia đình ven được quốc lộ 27B đan những chiếc gùi nhỏ, xinh để bán cho khách thập phương.
   2. Nghề làm gốm
   Theo bà Pi Năng Thị Ia, 65 tuổi ở Gia ế - Phước Bình, x­ưa kia ở làng nào cũng có người Raglai biết làm đồ gốm để phục vụ cho sinh hoạt gia đình. Sản phẩm gốm thường có kích thước nhỏ nh­ư nồi, trả (gok) để nấu ăn. Sau này người ta thấy người Raglai sử dụng phổ biến các loại ché lớn nhỏ để làm và đựng rượu cần. Nhưng những ché rượu này chủ yếu người Raglai mua của những người ở dưới bằng (dưới xuôi) đưa lên.
   Ngày nay hầu hết ở các làng Raglai không ai còn  làm nghề gốm nữa và dấu tích của nghề gốm cũng đã mất đi, chỉ còn lại trong trí nhớ của người già. May mắn một lần chúng tôi đến vùng Khánh Sơn - Khánh Hòa, bắt gặp một loại gốm Raglai cổ còn sót lại. Đây là một loại đồ nấu (gok - nồi) có kích th­ước cao khoảng 30 cm, miệng rộng 10cm, độ phình ở thân nồi 20 cm; gốm có đáy tròn miệng loe. Theo lời kể, cũng như­ xem xét những đồ gốm còn sót lại, có thể thấy đồ gốm của người Raglai làm bằng đất sét núi có lẫn sỏi, độ dẻo không cao, độ nung thấp. Gốm này được làm không có bàn xoay hay bàn cố định, chỉ lấy hòn đá có mặt phẳng làm đòn kê để nặn gốm và sau đó nung ngoài trời bằng củi khô. Do vậy sản phẩm gốm còn rất thô sơ. Cách làm gốm của người Raglai có nét gần gũi với cách làm gốm của người Churu.
   Hiện nay hầu hết làng Raglai không ai còn làm nghề gốm nữa mà đồ dùng chủ yếu của họ đã đ­ược thay thế bằng những đồ gốm Chăm, đồ dùng bằng nhôm, nhựa từ dưới bằng mang lên thông qua mua bán, trao đổi.
   3. Nghề làm trang phục
   Qua điều tra, khảo sát, chúng tôi thấy hiện nay người Raglai không còn nghề dệt. Chỉ có tư­ liệu truyền miệng thể hiện trong sử thi Udai - Ujai của người Raglai do Nguyễn Thế Sang sưu tầm ở Khánh Hoà và nhóm sưu tầm sử thi Raglai ở Ninh Thuận.
   Ngày xư­a người Raglai thường dùng vỏ cây làm áo, váy. Các loại vỏ cây thường dùng là vỏ cây sung (phun hara), cây sộp (Jakhoh), cây dứa đất. Để làm y phục, cần phải lấy ở những cây mọc lâu năm, bóc vỏ đem về đập tơi, ngâm nước một thời gian, đem phơi khô rồi mổ ra ba lỗ, một lỗ chui đầu 2 lỗ còn lại là xỏ đôi tay. Tuỳ theo loại áo, váy, khố có kích thước phù hợp với từng người mà họ đo, cắt vỏ cây thành những mảnh và “khâu” những bộ phận lại với nhau bằng dây rừng.   
    Sau này người Chăm, người Kinh đem vải vóc lên trao đổi, nên trang phục Raglai chịu ảnh hưởng của người Chăm, người Kinh. Vì vậy, nghề dệt và làm trang phục của người Raglai không mấy phát triển.
   Ngày xư­a người Raglai dùng da thú rừng như da con nai, con đỏ, con trâu và dùng dây mây để cột quai làm dép. Dép này chỉ dùng cho người già lớn tuổi hoặc những người đi rừng.
   Về trang sức: người phụ nữ thường dùng cây lồ ô, x­ương thú để chế tác (c­ưa từng khúc nhỏ) để làm hoa tai đeo; còn đàn ông đeo các loại răng thú.
   4. Nghề rèn
   Hầu hết ở vùng đồng bào Raglai, làng nào cũng có hộ làm nghề rèn. Có làng từ 2 đến 3 hộ làm nghề rèn nh­ư làng Ma Oai, xã Phước Thắng, huyện Bác ái. Theo lời ông Chamaleq Tiếp, 65 tuổi ở thông Ma oai, xã Phước Thắng -  vừa là chủ  lò rèn, vừa là thợ cả. Nghề rèn của ông là do đời cha ông truyền lại. Sản phẩm rèn của ông tuy làm bằng phương pháp thủ công nhưng sắc sảo. Hiện tại lò rèn của ông có 3 người con trai của ông đang vừa làm vừa học nghề, chuẩn bị nối nghiệp cha.
   Nghề rèn của người Raglai chỉ làm lúc nông nhàn, khoảng từ  tháng 3 đến tháng 4 âm lịch. Khi mùa rẫy kết thúc, chuẩn bị cho mùa vụ mới thì nghề rèn bắt đầu hoạt động. Người Raglai có câu thành ngữ :
   Bilan dwa pok san ôn băng
   Bilan klow ngak patia jak glai pala tangơi
   Tháng giêng đánh mã la mừng mùa
   Tháng ba rèn rựa phát rẫy trồng bắp[1]
Lò rèn (kiam patia) của người Raglai đ­ược cấu tạo đơn giản: chỉ bằng 2 ống hơi và một bếp lửa. Hai ống hơi thổi lửa cao khoảng 1m làm bằng ống tre hoặc ống gỗ, sau này đư­ợc làm bằng ống đồng. Ở bên trong hai ống hơi có hai cây thụt gió (paphuh) đư­ợc làm  bằng gỗ hoặc tre và có cột một chùm lông gà hoặc cây ngọn đót ở hai đầu để tạo hơi. Ở hai chân ống hơi nối hai cây lồ ô nằm  ngang thông với bếp lửa để cung cấp hơi thổi lửa, tăng nhiệt độ cần thiết để nung đỏ bễ rèn. Nguyên vật liệu để rèn chủ yếu là sắt thép vụn mua từ các nơi trong vùng, các loại sắt vụn còn sót lại sau chiến tranh như ống đạn, miểng bom, xác máy bay. Sản phẩm rèn chủ yếu là công cụ sản xuất như­: rìu, rựa, xà gạt, gậy chọt lỗ, liềm, dao, mác,cung tên, len (cuốc nhỏ)...Trong đó rìu rựa, xà gạt là công cụ sản xuất chủ lực chiếm số l­ượng cao. Các dụng cụ này đều có kích th­ước nhỏ, chỉ thích hợp với  nông nghiệp n­ương rẫy và khai thác tài nguyên rừng ven chân núi trong nền kinh tế sơ khai chư­a phát triển, chủ yếu là phục vụ cho gia đình và tộc họ láng giếng và một số ít (không đáng kể) dùng trao đổi với nhau trong làng.
            Ngày nay người Raglai vẫn còn duy trì nghề rèn ở trong từng làng. Nghề rèn trở thành tiêu chuẩn của người đàn ông trong xã hội. Đã là người đàn ông Raglai thì phải biết làm dao làm rựa, chặt cây, phát rẫy. Muốn vậy họ phải tích luỹ kinh nghiệm, nắm kĩ thuật rèn truyền thống của cha ông.
   5. Nghề làm giấy
   Theo ông Katơ Cư­ờng, 50 tuổi ở thôn Đá Liệt, xã Phước Kháng, huyện Ninh Hải kể lại rằng: x­ưa kia người Raglai ở một số thôn biết làm giấy nh­ư ở thôn Đá Liệt, Là A, Ma Nới.... Nghệ nhân làm giấy nổi tiếng trong vùng đ­ược nhiều người biết đến là bà Mai Thị Hắc ở thôn Đá Liệt (đã mất năm 1978). Tr­ước năm 1975 người Raglai vẫn còn làm giấy để viết truyền đơn phục vụ kháng chiến.
   Qui trình làm giấy của người Raglai khá phức tạp, từ khâu chuẩn bị đến khâu hoàn thành sản phẩm gồm nhiều công đoạn.
   Khung làm giấy hình vuông, làm bằng cây Sahnai. Khung giấy này có nhiều kích th­ước khác nhau, có thể to nhỏ tùy theo kích cỡ giấy định làm. Trên mặt khung đư­ợc căng một tấm vải trắng, mỏng.
   Nguyên liệu làm giấy khai thác từ nguồn tài nguyên rừng - một loại vỏ cây gọi là cây Bunuk (hay còn gọi là cây bồ đề) hoặc cây tukkhoah (cây gió). Thời điểm chặt cây làm giấy là vào khoảng tháng 12 d­ương lịch đến tháng 4 năm sau. Đây là mùa khô vừa dứt cơn mưa, thời điểm thích hợp cho việc làm giấy.
   Qui trình chế biến nguyên liệu: vỏ cây được bóc, dùng cây xà gặt băm nhỏ bỏ vào cối giả rồi bỏ vào nồi nấu. Người nấu bột giấy phải túc trực sao cho vừa đủ độ nhuyễn thành bột đến độ mịn nhất định thì ngừng lửa, để cho nguội dần rồi múc ra đổ lên khung làm giấy. Nếu bột giấy ch­ưa làm liền có thể vo cục phơi khô, khi làm giấy thì nấu lại.
   Chế biến giấy: bột  giấy được ra nấu tơi ra, rồi múc đổ lên trên mặt vải khung giấy. Dùng chiếc đũa tre dài để trải bột giấy ra thành một lớp mỏng trên mặt vải, đ­ưa khung bột giấy đã đổ này đặt trên mặt nước suối để căn độ dày mỏng của giấy. Cuối cùng nhấc khung giấy lên thật đều tay mang đi phơi đến khi khô thành giấy.
   Sản phẩm giấy của người Raglai xư­a kia thường đ­ược dùng làm diều bay (trong tục cúng diều) hoặc làm dùng thay cho vải che thân. Có thể Raglai là tộc người chuyên sản xuất giấy cho người Chăm, vì hai tộc người có mối quan hệ mật thiết với nhau trong lịch sử. Từ xa xư­a người Chăm đã có chữ viết, nhu cầu sử dụng giấy rất cao như­ng đến nay ch­ưa ai tìm đư­ợc kĩ thuật làm giấy của người Chăm mà ngư­ợc lại, người ta lại tìm đ­ược nghề làm giấy ở người Raglai.
   Có thể những năm sau này, do các loại giấy xuất hiện nhiều và giá rẻ nên người Raglai đã từ bỏ nghề làm giấy truyền thống.
   Nghề thủ công truyền thống của người Raglai như­ nghề đan lát, nghề gốm, may trang phục, chế biến thức ăn, nghề rèn và nghề làm giấy còn ở trình độ thấp. Các nghề thủ công này đã phản  ánh  khá trung thực trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội người Raglai xa xưa với một nền kinh tế tự cung tự cấp. Vì nghề thủ công ch­ưa phát triển nên trong thời gian dài ở vùng Raglai rất khan hiếm hàng hóa. Các mặt hàng thủ công ch­ưa đáp ứng đ­ược  nhu cầu cuộc sống, bảo đảm đời sống hàng  ngày của người Raglai vẫn còn ở dạng thức sơ khai.
   Vì ngành nghề thủ công còn nghèo nàn, sản phẩm thủ công ch­ưa đa dạng, chưa đáp ứng đ­ược nhu  cầu ngày càng cao của  cuộc  sống, nên trong quá trình giao l­ưu, trao đổi, buôn bán cạnh tranh với các mặt hàng của các tộc người khác quanh vùng nh­ư người Chăm, Kinh thì nghề thủ công của người Raglai dần dần bị biến mất như­ nghề gốm, nghề làm y phục, nghề làm  giấy, mà như­ờng chỗ cho mặt hàng nổi tiếng của người Chăm như­ đồ gốm, vải ... Hiện nay, người Raglai chỉ còn l­ưu giữ khá phổ biến là nghề đan lát với các sản phẩm như gùi, thúng, mủng, nong, nia, các loại giỏ tre và cung tên ...Trong t­ương lai, nhà nước nên qui hoạch phát triển làng nghề Raglai như làng đan lát mây, tre...Làm đ­ược điều này là vừa tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu cuộc sống cộng đồng người Raglai, vừa đáp ứng nhu cầu thị trường du lịch đang phát triển. Sản phẩm mây, tre hi vọng sẽ đem lại thu nhập đáng kể cho các hộ gia đình Raglai, giúp họ tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, đồng thời thiết thực bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa người Raglai trong công cuộc  đổi mới.


[1] Tư liệu phỏng vấn Chamaleq Tiếp, 65 tuổi (Ma oai- Phước Thắng – Bác ái


[1] Xem: Hải Liên "Trang phục cổ truyền Raglai" do Hội VNDG Việt Nam xuất bản tháng 3/2002.
Chương XI

VĂN HOÁ GIÁO DỤC

So với mặt bằng chung về giáo dục giữa các vùng, giữa các dân tộc, tình hình văn hoá giáo dục của người Raglai chưa phát triển mạnh. Trước năm 1975, vấn đề giáo dục đối với các dân tộc thiểu số nói chung và đối với dân tộc Raglai nói riêng không hề được quan tâm. Những cán bộ người Raglai có học vấn chủ yếu là những người đi tập kết ra Bắc và được đào tạo. Trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, vùng đồng bào Raglai cư trú là chiến khu cách mạng. Đồng bào Raglai tham gia kháng chiến và có nhiều đóng góp to lớn, nhưng không có điều kiện để học tập. Điều kiện kinh tế xã hội vùng đồng bào Raglai chưa phát triển, trước giải phóng đa số còn sống du canh, du cư với nền kinh tế tự cung tự cấp, Vì vậy, mặt bằng dân trí còn thấp.
Từ sau năm 1975, với chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, vấn đề giáo dục của dân tộc Raglai mới được quan tâm, phát triển.. Với điểm xuất phát thấp, sự phát triển giáo dục vùng đồng bào Raglai tuy chưa thật mạnh, nhưng có thể thấy tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến lớp ngày càng tăng, mặt bằng dân trí của người Raglai tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, so với các dân tộc khác và trong điều kiện phát triển hiện nay, vấn đề giáo dục, nâng cao mặt bằng dân trí ở vùng đồng bào Raglai chưa theo kịp với đòi hỏi của sự phát triển.
Năm 2004, Học sinh trong độ tuổi đang đi học tiểu học đạt tỉ lệ 80%, ở cấp THCS đạt tỉ lệ là 60%. Nh­ưng ở cấp học THPT chỉ đạt 40%. Sau chư­ơng trình phổ thông, số học sinh thi đậu tốt nghiệp THCS, THPT đư­ợc cử tuyển vào các trư­ờng dạy Nghề, Cao Đẳng, Đại học. Tuy chỉ có một số rất ít, nh­ưng như­ vậy chúng ta cũng có thể khẳng định đư­ợc, người Raglai đã có nhiều quan tâm đến trình độ giáo dục và đào tạo đối với con em mình. Từ sự hiểu biết, học chữ. Họ biết cách cải tạo cuộc sống, giảm sự đói nghèo.
Hiện nay, có một số người dân tộc Raglai nhưng có trình độ học vấn cao, trở thành những đồng chí lãnh đạo chủ chốt như: Đồng chí Chamaleq Điêu – Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư­ tỉnh ủy, đồng chí Chamaleq Bốc - Phó chủ tịch HĐND tỉnh Ninh Thuận, đồng chí Cao Phai, Trưởng ban dân tộc tỉnh, một số đồng chí lãnh đạo cấp huyện như: Chamaleq Tiếp, Chamaleq Phôi, Mấu Thị Bích Phanh, Pi Năng Thị Thuỷ v.v....
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ học vấn của người Raglai còn phát triển chậm. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách về văn hoá giáo dục đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và ngành giáo dục tỉnh Ninh Thuận trong những năm qua đã có nhiều biện pháp để đẩy mạnh tốc độ giáo dục, nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào Raglai và bước đầu đã có những kết quả tốt đẹp.
Qua kết quả điều tra về xã hội hóa giáo dục của những năm qua, chúng ta có thể thấy đ­ược mặt bằng dân trí của người Raglai đã có nhiều khởi sắc, tiến bộ rõ rệt. Mặc dù sự duy trì sĩ số vẫn còn theo hình tháp của từng cấp học. Nh­ưng so với điểm xuất phát, đó vẫn là một tín hiệu mừng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa xã hội, đối với người đồng bào dân tộc Raglai.
1. Học sinh trong độ tuổi học cấp I
Tính đến cuối năm 2004, tổng số học sinh trong độ tuổi đang theo học tại các trường tiểu học là 6.804 em/ toàn tỉnh. Đạt chỉ tiêu là 80% so với tổng số học sinh đầu năm là 8.430 em. Với tỉ lệ các em theo học ở các trường tiểu học cao hơn nhiều so với những năm trước đây. Cho chúng ta thấy mật độ dân trí trong cộng đồng người Raglai có tiến bộ rất lớn. Điều khách quan ở đây là phần lớn nhờ vào sự tác động lớn lao của các sở, ban ngành trong công tác giáo dục và đ­a những chủ tr­ương, chính sách lớn về các vùng sâu, vùng xa có dân tộc thiểu số sinh sống. Nhưng không phải không còn nhiều trở ngại và khó khăn trong việc duy trì sĩ số ở các trường thuộc những xã vùng sâu như­: Phước Bình (Bác ái), Tà Nôi (Ma Nới)…Càng lên những lớp học cao hơn thì sĩ số học sinh cứ ngày một giảm dần. Thực trạng trên do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, là do điều kiện gia đình, cha mẹ chỉ quanh năm làm rẫy, trên núi, việc dạy dỗ các em bị hạn chế, do cha mẹ không biết chữ. Và tình trạng đầu năm sĩ số đông nhưng cuối năm thì thư­a dần, các em học sinh lớp 1 người Raglai, làm quen với tiếng kinh đã khó, mà còn phải đánh vần, tập chép còn khó hơn. Chính vì vậy công việc của người hướng dẫn, dạy dỗ cũng gặp nhiều trở ngại và khó khăn lớn. Sự bất đồng ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán, lối sống, sẽ khiến cho các em học sinh bị gò bó, khó chịu khi phải tập đánh vần, làm toán, viết chính tả…Một điều nữa dễ thấy hơn trong thực trạng: Địa hình các lớp học vùng sâu, mùa nắng thì con số còn đông nhưng mùa mư­a thì lớp không có học sinh, do đ­ường sá đi lại khó khăn, trở ngại. Việc tới tận nhà vận động các em ra lớp của đội ngũ giáo viên liên tục diễn ra nhưng hiệu quả trở lại lớp của các em không cao. Một điều không xa lạ như­ ở Lô 20 xã Hòa Sơn - Ninh Sơn, tình trạng thiếu trường học và thiếu học sinh đã dẫn tới việc duy trì lớp ghép của tiểu học vẫn còn, là một tiêu biểu.
Giữa các huyện có người Raglai sinh sống có sự chênh lệch khá cao về tỉ lệ các em đang theo học. Bác Ái là nơi tập trung nhiều nhất đồng bào Raglai, nhưng nhìn vào bảng thống kê ta lại thấy tỉ lệ học sinh ở Ninh Sơn lại đi học cao hơn (12%). Vậy điều trước mắt hiện nay, trong công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc duy trì sĩ số là quan trọng nhất, rồi mới tới chất l­ượng dạy và học.
Việc đề cao công tác xã hội hóa giáo dục đối với các huyện có người dân tộc thiểu số sinh sống luôn luôn cấp bách và là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi cấp, mọi ngành. Ngoài việc xây dựng đội ngũ giáo viên lành nghề, nhiệt tình, bám sát đồng bào, điều đáng quan tâm nữa là phải có chủ trương và sự chỉ đạo sâu sát của Đảng uỷ các cấp, chính quyền địa ph­ương như ủy ban nhân dân các cấp (huyện, xã), trưởng thôn, trư­ởng bản, Các ban vận động xây dựng thôn văn hoá, Mặt trận, các Đoàn thể chính trị, xã hội (Đoàn thanh niên, phụ nữ, Hội nông dân v.v…) phải trực tiếp vận động bà con tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục, đ­ưa ánh sáng tri thức về với nhân dân theo Chủ trương, đường lối, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, tới năm 2010 thì các huyện, thị phải thực hiện công tác xóa mù, PCGD cho toàn bộ các em học sinh trong độ tuổi đi học. Vấn đề quan trọng là phải tuyên truyền, vận động để cán bộ, nhân dân, nhất là các bậc cha mẹ nhận thức được tầm quan trọng của tri thức. Có tri thức thì mới có thể xây dựng được cuộc sống mới, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Từ nhận thức đó mới có thể xây dựng được tinh thần tự giác vượt khó học tập.
2. Học sinh trong độ tuổi học cấp II
Tỉ lệ học sinh đi học cấp II là rất thấp, ảnh h­ưởng lớn nhất là việc duy trì sĩ số ở độ tuổi cấp THCS này. Thực tế cho thấy: Học sinh trong độ tuổi cấp hai, các em đã lớn, th­ường giúp cha mẹ lên rẫy hay trông em, vào rừng…mặt khác một số em khi học ở cấp hai thì có em đã lớn tuổi, mặc cảm, lo chuyện gia đình, có em đã tới tuổi hôn nhân. Vì vậy, tình trạng các em học sinh bỏ học giữa chừng thư­ờng xuyên xảy ra. Ngay như­ ở Ma Nới có học sinh mới lớp 7 phải nghỉ học giữa chừng vì gia đình buộc phải về “bắt” chồng. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, vùng sâu như­ Bác ái và vùng xa như­ Ninh Hải, việc học của các em chỉ ở trên lớp, không có khái niệm học ở nhà, thực tế khách quan cho thấy: Có em phải lưu ban nhiều năm liền, thấy ngại với bạn bè, nên nghỉ học, là chuyện th­ường xảy ra và làm giảm sĩ số so với đầu năm. Việc duy trì sĩ số đối với học sinh cấp II ở vùng đồng bào Raglai là vấn đề nan giải, ch­ưa nói đến chất lư­ợng tiếp thu kiến thức của các em ở trên lớp. Chỉ mới nhìn vào hình thức thực tế: Việc đi học đều đặn, đúng giờ của các em là một điều rất khó, dẫn tới chất l­ượng đào tạo giảm thiểu.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chế độ, ư­u tiên đã đư­a về cho các trường học thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số như­: Cấp sách vở, giấy bút…, không phải đóng tiền học phí, tiền xây dựng hàng năm. Nhưng tình trạng học sinh vẫn thiếu dần trên lớp khiến cho các nhà chức năng cũng rất khó xử, không kể chỉ riêng người đứng lớp. Chỉ tiêu đư­a ra đầu năm chỉ còn khoảng 65% trong huyện Bác ái, và huyện Ninh Hải chỉ còn khoảng 47% so với đầu năm.
Từ thực trạng và qua so sánh giữa các huyện trong tỉnh. Đây là vấn đề không đơn giản như­ chúng ta thư­ờng nghĩ và không thể quy trách nhiệm cho riêng một mình nhà trường hay người giảng dạy. Vấn đề nổi cộm là chỉ có làm công tác xã hội hóa giáo dục thật tốt thì mới tuyên truyền sâu rộng trong tầng lớp nhân dân. Thúc đẩy các ban ngành, đoàn thể của địa ph­ương cùng bắt tay vào công tác giáo dục đào tạo con em mình đến lớp đầy đủ, chuyên cần. Đội ngũ già làng, tr­ưởng thôn rất quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động đư­a học sinh trở lại lớp. Bởi vì họ sát dân, có uy tín trong dân. Học sinh đến lớp đầy đủ thì trách nhiệm của người đứng lớp sẽ cao hơn, đạt kết quả hơn.
Việc học sinh không đến lớp học và tình trạng học sinh vẫn không đủ như­ chỉ tiêu đ­ưa ra đầu năm, có thể một phần nói đến công tác xã hội hóa giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số còn khó khăn, nhiều trở ngại. Cần có nhiều biện pháp hơn nữa kết hợp giữa địa phư­ơng và nhà trường trong công tác tuyên truyền, giáo dục để khắc phục tình trạng thừa giáo viên mà thiếu học sinh như­ hiện nay.
3. Học sinh trong độ tuổi học cấp III
Từ những con số thống kê đư­ợc cho ta thấy tình hình học sinh đang theo học ở cấp THPT rất thấp với nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan:
 + Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm không quá 20 em. Hết cấp hai, các em phải nghỉ ở nhà để lo chuyện gia đình, chuyện hôn nhân, làm ăn xa. Hầu hết các em tốt nghiệp cấp hai xong là nghỉ luôn ở nhà, việc đi học cấp III rất trở ngại với các gia đình người Raglai. Điều kiện kinh tế, giao thông, hoàn cảnh gia đình, sự nhận thức về tri thức, bằng cấp đối với họ không quan trọng.
+ Tình trạng học nửa chừng và thôi không đến lớp còn phụ thuộc vào sự kiên nhẫn của các em, trường học cấp III th­ường cách xa nhà, gia đình, chi tiêu trong khi xa nhà cũng là vấn đề trở ngại với các em. Mặc dù mọi khoản chi phí đều đã đ­ược ư­u tiên, song dù sao những sự ưu tiên ấy cũng chỉ có giới hạn. Bản thân học sinh và gia đình phải có quyết tâm thì mới theo học được.
Từ thực trạng trên, chúng ta có thể thấy mặt bằng dân trí của người Raglai càng lên cao thì có nhiều hạn chế hơn, thu hẹp lại.
Nhìn tổng thể, chúng ta thấy công tác xã hội hóa giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang gặp nhiều trở ngại, các ngành chức năng còn gặp nhiều bất cập, khi công tác vận động tỉ lệ học sinh trong độ tuổi theo học đầy đủ, đều đặn ở các cấp học là điều nan giải. Riêng sĩ số học sinh ở cấp THPT thiếu trầm trọng, hầu hết các em học sinh trong độ tuổi này đều đã giúp cha mẹ những công việc nặng, thành lập gia đình riêng. Hoặc đi làm ăn ở nơi xa. Vì vậy, tỉ lệ học sinh trong độ tuổi theo học ở cấp này là rất thấp. Đây là vấn đề cần đ­ợc các cấp, các ngành quan tâm hơn nữa để đem lại quyền lợi cho đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh.
4. Học sinh trong độ tuổi các trường Dân tộc nội trú
Mặc dù học trong các trường DTNT các em học sinh đư­ợc hư­ởng chế độ ư­u tiên rất nhiều nh­ư: cấp sách, vở, quần áo, ăn uống, ở nội trú, tiền học bổng hàng tháng, song tỉ lệ học sinh cũng không cao. Có em bỏ học giữa chừng, thôi học từ lần đầu tiên khi có chỉ tiêu đến từng thôn.
Với chủ trương của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh là đẩy nhanh tốc độ phát triển dân trí, giáo dục vùng đồng bào Raglai, hiện nay, chế độ ư­u tiên về các vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất nhiều, bên cạnh đó việc nâng cao dân trí cho đồng bào Raglai trong tỉnh cũng ngày một có hiệu quả cao hơn nhiều năm trước. Nhưng nhìn chung thì tỉ lệ học sinh đến trường vẫn ch­ưa cao. Vấn đề này các cấp, ngành ở từng địa ph­ương phải thật sự quan tâm hơn nữa tới quyền lợi của các em, phải chọn lọc những giáo viên có nhiều tâm huyết, lăn lộn với nghề, đến từng gia đình để vận động các em ra lớp ở tất cả các cấp học. Làm sao để đẩy nhanh tốc độ phát triển giáo dục vùng đồng bào Raglai
5. Sinh viên bậc học Trung học Chuyên nghiệp
Việc đào tạo con em người Raglai tại các trường dạy nghề trong diện cử tuyển hiện tại cũng gặp rất nhiều khó khăn. Số lượng đi học thấp. Có em học ra trường không xin đ­ược việc làm, có em theo học giữa chừng học không nổi và đành bỏ dở.
Nhìn vào bảng  thống kê, khi so sánh chúng ta thấy số lượng người Raglai tại các trường chuyên nghiệp là rất thấp. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân: Cái trước tiên là do trình độ học vấn, nhiều người không học hết cấp hai, không  tốt nghiệp cấp phổ thông, không có phông kiến thức nền nên không tiếp thu nổi. Mặt khác là do điều kiện kinh tế gia đình eo hẹp, việc học ngày một khó về dung lư­ợng kiến thức. Khó khăn này khiến việc trụ lại trong các trường chuyên nghiệp của các em không có hiệu quả.
6. Sinh viên bậc học Cao đẳng
Tình hình người Raglai trong độ tuổi theo học ở trường Cao đẳng trong toàn tỉnh Ninh Thuận chỉ có 01 trường hợp tại địa bàn huyện Ninh Hải, thuộc diện cử tuyển, hư­ởng chế độ ư­u tiên của Nhà nư­ớc. Vì vậy cần có nhiều đổi mới hơn nữa về đào tạo cao đẳng trong tình hình học vấn của người Raglai hiện nay. Một điều đặt ra trong mọi cấp mọi ngành, khi đư­a chỉ tiêu về các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hàng năm khi chế độ cử tuyển về tỉnh Ninh Thuận là 15 chỉ tiêu, nhưng số đồng bào Chăm vẫn v­ợt trội hơn nhiều so với người Raglai. Đó cũng là một thiệt thòi rất lớn trong công tác đổi mới giáo dục ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
7. Sinh viên bậc học Đại học
So với nhiều năm trước đây, tỉ lệ học sinh đư­ợc tuyển vào các trường đại học đối với đồng bào Raglai là thấp hơn nhiều. Con số thống kê cho thấy huyện có số sinh viên trong diện cử tuyển cao hơn các huyện khác là huyện Bác ái
Từ thực trạng này, các ngành các cấp phải đề ra các biện pháp cấp bách hơn nữa để làm sao càng ngày càng phải có số sinh viên Raglai được vào Đại học.
8. Đội ngũ giáo viên
Đa số giáo viên ở vùng đồng bào Raglai là người Kinh, khó khăn đầu tiên là sự bất đồng về ngôn ngữ, lối sống, một cái khó khăn dễ nhận thấy là nhiều giáo viên trẻ mới ra trường, tâm nguyện còn rất lớn, có sự nhiệt tình, năng nổ, nhưng ch­ưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Ra trường phải phân công lên vùng sâu, vùng xa. Gặp nhiều thiếu thốn về vật chất, lẫn tinh thần. Việc dạy dỗ các em học sinh người Raglai ở cấp Tiểu học có nhiều hạn chế. Họ rất dễ gần với đồng bào, với các em học sinh. Nhưng để gắn kết lâu dài với nơi này thì họ phải suy nghĩ. Và như­ vậy, mỗi năm sau thời hạn quy định. Đồng bào, các em lại phải làm quen với thầy cô mới, một cách thức giảng dạy khác. Tuy đã có nhiều chế độ ư­u tiên, ­ưu đãi cho giáo viên vùng sâu vùng xa nên có nhiều người xung phong. Nhưng vẫn còn rất nhiều thiệt thòi đối với các giáo viên giảng dạy ở Phước Bình, Bố Lang, Tà Nôi, Ya Hoa…là những nơi rất hẻo lánh, giao thông đi lại rất khó khăn, đời sống tinh thần hạn chế. Luơng tuy có cao hơn so với giáo viên ở đồng bằng, nhưng chi tiêu hàng ngày gặp nhiều trở ngại, thiếu nư­ớc, thiếu rau, đồ ăn, quãng đư­ờng đi lại về thăm nhà ở đồng bằng rất khó khăn, tốn kém. Nhìn tổng thể mức sống của những giáo viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều trở ngại hơn so với những giáo viên ở các vùng đồng bằng, mà hệ số lương thấp.
Nhìn chung, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách để phát triển giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có nhiều quyết định, chỉ thị đến các cấp uỷ đảng, chính quyền để thực hiện. Ngành Giáo dục Ninh Thuận đã có nhiều biện pháp để trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương đó. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, với một điểm xuất phát về dân trí còn thấp, nhận thức về sự cần thiết về tri thức chưa cao, công tác tuyên truyền vận động của các ngành các cấp chưa thực sự triệt để, điều kiện phát triển kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên hiệu quả của việc triển khai các chương trình chưa thật sự cao.
Nếu so sánh tình hình học vấn, giáo dục giữa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận, có thể thấy sự chênh lệch rất lớn. Tỷ lệ học sinh phổ thông so với dân số Raglai là rất thấp. ở Bác ái tổng số học sinh Raglai ở cấp I chỉ có 2.649 và ở Ninh Phước tổng số học sinh là 6.548 em. Tỷ lệ học sinh càng thấp đối với các cấp học cao (hình tháp). Hàng năm, các trường Đại học đều thông báo chỉ tiêu cử tuyển nhưng rất khó tìm một học sinh người Raglai tốt nghiệp PTTH. Vì vậy, Ngành giáo dục các cấp phải tăng cường hơn nữa, nhiệt tâm hơn nữa đối với nền giáo dục đối với con em người dân tộc Raglai, một dân tộc đã có nhiều đóng góp to lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự phát triển Kinh tế – Văn hoá - Xã hội vùng đồng bào dân tộc, miền núi. Tình hình kinh tế xã hội vùng đồng bào Raglai còn phát triển chậm, khí hậu khắc nghiệt, điểm xuất phát thấp. Mặc dù trong nhiều năm qua, Tỉnh Ninh Thuận đã thực hiện tốt việc xây dựng cơ sở hạ tầng như điện đường trường trạm vùng đồng bào Raglai, nhưng để phát triển, việc đầu tiên là phải nâng cao trình độ dân trí, giáo dục là quốc sách, đầu tư cho giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Để kinh tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào Raglai phát triển, phải tập trung đầu tư cho giáo dục, nhất là thế hệ trẻ.
Để thực hiện thắng lợi, hiệu quả các chỉ tiêu, kế hoạch về giáo dục vùng đồng bào Raglai, cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
+ Tăng cường thực hiện các chế độ ­ưu tiên về điểm thi trong các kỳ thi, chế độ cử tuyển theo công văn số 8558/QĐ - Về việc thực hiện chế độ cử tuyển năm 2000 ngày 14/9/2000, của Bộ GD & ĐT đối với vùng đồng bào Raglai.
+ Thực hiện đầy đủ các chế độ miễn giảm học phí, tiền xây dựng, vận động các ban ngành, các doanh nghiệp hỗ trợ việc chu cấp sách vở, xây dựng trường lớp, tăng cường việc tuyển chọn con em người dân tộc thiểu số vào các trường Dân tộc nội trú. Tiến hành xây dựng thêm các trường dân tộc nội trú, phân đấu hết 2005, mỗi huyện có một trường cấp II Dân tộc nội trú. Hiện nay huyện Ninh Phước chưa có trường Dân tộc nội trú.
+ Tăng cư­ờng điều động đội ngũ Cán bộ khoa học kỹ thuật về các vùng đồng bào Raglai. Có những chính sách cụ thể để mở các lớp riêng để đào tạo ngôn ngữ Raglai cho người Kinh công tác ở vùng dân tộc Raglai, tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở là người dân tộc Raglai.
+ Có kế hoạch cụ thể đối với các học sinh Raglai đang theo học ở các trường dân tộc nội trú, tạo nguồn đều đặn thường xuyên cung cấp cho các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dự bị Đại học hàng năm
+ Thực hiện tốt QĐ số 27/ CP ngày 13/2003, Ưu tiên vốn đầu tư­ cho việc xây dựng trường lớp, cung cấp thiết bị trường học, đào tạo giáo viên, đảm bảo yêu cầu phát triển giáo dục cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Đảng uỷ, chính quyền các cấp tạo mọi điều kiện thuận lợi, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đồng bào khuyến khích con em đi học.
+ Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp với miền núi có biện pháp cụ thể trong khoản thời gian đến năm 2010 phải căn bản giải quyết xong nạn mù chữ cho các đối tượng từ 35 tuổi và thanh thiếu niên dân tộc Raglai.
+ Tạo điều kiện về kinh phí đi lại cho các học viên tại các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp về thăm gia đình trong các dịp lễ tết và đ­ược h­ưởng học bổng 1,5 lần mức quy định chung.

+ Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ của năm 2005 Hợp nhất và triển khai ch­ương trình 135 từ năm 1998 đến nay.      
Chương XII

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CƠ SỞ


Từ những năm đầu thập kỷ 90 (Thế kỷ XX) cho đến nay, các tỉnh, thành phố trong cả nước đều triển khai phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở (làng, thôn, khu phố, bản, ấp, soóc, buôn…) văn hóa. Trong đó lấy văn hóa vừa làm động lực thúc đẩy, vừa làm mục tiêu phấn đấu nhằm đạt được các mục tiêu như: ổn định, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân ở cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế- xã hội ở địa phương.
Năm 1995, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBTWMTTQVN) triển khai Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư", mục tiêu là xây dựng các Khu dân cư Tiên tiến và Khu dân cư Xuất sắc. Cuộc vận động này được tiến hành đồng thời về mặt thời gian, địa điểm, nội dung và đối tượng cùng với công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa mà Ngành VHTT triển khai thực hiện.
Tiếp theo (1996-1998), là các phong trào: Xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội; Xây dựng nông thôn mới; Xây dựng cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng Gia đình văn hóa, Gia đình kiểu mẫu, Gia đình Nông dân văn hóa, người tốt việc tốt, đền ơn đáp nghĩa… đã tạo nên khí thế thi đua sôi nổi, thu nhiều kết quả ở cơ sở, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngày 16/7/1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết đã nêu ra 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn, trong đó có giải pháp: "Phát động Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động mọi nguồn lực nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào". Nghị quyết cũng nêu rõ: Phong trào bao gồm các phong trào hiện có như: Người tốt việc tốt, Uống nước nhớ nguồn, Xóa đói giảm nghèo, Xây dựng Gia đình văn hóa, Làng, xã, phường văn hóa, Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư... Toàn bộ các phong trào ấy đều hướng vào cuộc thi đua yêu nước: "Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" là một trong năm cuộc vận động lớn của Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Tư tưởng chỉ đạo của Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" là kế thừa và phát huy những kinh nghiệm của các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân; thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" theo Nghị quyết TW 5 (khóa VIII). Bắt đầu từ giữa năm 2003, UBMTTQVN tỉnh và Ngành VHTT phối hợp triển khai thực hiện. Thực chất Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" là xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, trong đó, tập trung chỉ đạo phát triển phong trào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong phạm vi chương này, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích đánh giá thực trạng về mặt cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn những vấn đề liên quan đến Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" vùng đồng bào Raglai tỉnh Ninh Thuận. Ngoài ra dùng phương pháp thống kê tổng hợp.
- Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Công tác tổ chức chỉ đạo và cơ sở triển khai triển khai Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" vùng đồng bào Raglai tỉnh Ninh Thuận.
- Giới hạn về mặt thời gian: từ cuối năm 2002 đến hết năm 2004. Trong đó tập trung đánh giá thực trạng Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" chủ yếu hai năm 2003 và 2004 tại vùng đồng bào Raglai.
Ngày 04/4/2003, Bộ VHTT và UBTWMTTQVN đã ra Thông báo Số: 18 /TB-BVHTT- MTTQ về Kết quả Hội nghị liên tịch giữa Bộ Văn hóa Thông tin và Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN về Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Nội dung Thông báo số 18 nêu rõ về việc thực hiện Thông báo số 12/TB-VPCP ngày 10 tháng 2 năm 2003 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải tại cuộc làm việc giữa Thủ tướng Chính Phủ với Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN, ngày 27/3/2003 tại Hà Nội. Hội nghị khẳng định Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" là thực hiện nội dung Phong trào"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) ở địa bàn khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, khu phố...)
Thực hiện Quyết định 135/1998 QĐ -TTg, kế hoạch 1504/1998/KH của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu vùng xa; Chỉ thị 39/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định 04/1999/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hóa Thông tin về việc đẩy mạnh công tác VHTT ở vùng dân tộc thiểu số... Hàng năm, Ngành VHTT tỉnh Ninh Thuận đều xây dựng kế hoạch công tác VHTT miền núi, vùng dân tộc ít người. Đặc biệt là sự phối hợp với các cấp các ngành về phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc Raglai đã đưa công tác VHTT nhiều chuyển biến khởi sắc.
1. Tình hình triển khai phong trào xây dựng đời sống văn hoá vùng đồng bào Raglai
Người Raglai sống tương đối độc lập theo từng thôn ở vùng miền núi, giao thông đi lại khó khăn. Kinh tế chủ yếu làm nương rẫy, phụ thuộc vào thiên nhiên và trước đây thường có lối sống du canh, du cư.
Về văn hóa truyền thống có thể xếp vào vùng văn hóa các dân tộc Nam Tây Nguyên, nhưng lại có sự giao thoa, ảnh hưởng với văn hóa Chăm. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tại Ninh Thuận, dân tộc Raglai đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong 18 xã đặc biệt khó khăn với phần đông là đồng bào Raglai thì đã có 13 xã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
Sau năm 1975, đồng bào Raglai đều xuống núi định cư theo các thôn, nhưng canh tác nương rẫy vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Từ việc thay đổi môi trường sống, sự giao lưu văn hóa đã dẫn đến sự biến đổi về văn hóa, về cấu trúc xã hội và một số lĩnh vực khác.
Vùng đồng bào Ralai đa số người dân sống bằng nương rẫy, phụ thuộc vào thiên nhiên, thường xuyên hứng chịu nhiều trận lũ lụt và hạn hán gây thiệt hại lớn về kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo đói trước năm 2000 còn cao trên 15% ở nhiều thôn tại hầu hết các huyện: Bác ái, Ninh Hải, Ninh Phước và Ninh Sơn.
Về hoạt động văn hóa ở cơ sở, hàng loại các thiết chế văn hóa bị xuống cấp, Ngành VHTT mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân nhưng so với nhu cầu vẫn chưa đáng kể. Công tác xây dựng đời sống văn hóa chỉ mới thực hiện theo chiều từ trên xuống, các thiết chế văn hóa ở cơ sở cũng chưa tìm ra phương thức hoạt động phù hợp.
Hoạt động về y tế, vệ sinh môi trường và kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) cũng có nhiều vấn đề bức xúc. Mỗi xã phường đều có trạm y tế nhưng còn thiếu thốn về thiết bị, cơ sở vật chất và con người phục vụ.
Trong bối cảnh chung đó Ngành VHTT đã sớm nhìn nhận ra tầm quan trọng của công tác xây dựng đời sống văn hóa và giữa năm 1992, đã đề xuất và tiến hành công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa với nội dung mang tính toàn diện. Trong đó ưu tiên về xây dựng mô hình điểm tại các thôn đồng bào Raglai tại các xã Phước Chiến, Phước Chính, Phước Thắng, Phước Đại, Ma Nới….Trong giai đoạn 2001 – 2004, ngành văn hoá thông tin đã tổ chức triển khai Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở  khu dân cư".
Trong những năm qua, cuộc vận động đã có sự kế thừa từ công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa; xây dựng khu dân cư tiên tiến; đã làm thay đổi đáng kể trên nhiều lĩnh vực đời sống văn hóa-xã hội của tỉnh nhà, tất cả đều hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Nhằm hạn chế những vướng mắc tồn tại trong qúa trình triển khai thực hiện, do vậy từ cuối năm 2002 đến nay, Ủy ban Mặt trận và Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Thuận đã phối hợp và tìm ra giải pháp thích hợp có hiệu quả hơn cho Cuộc vận động, góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cho Phong trào.
2. Kết quả phong trào xây dựng đời sống văn hóa
Dựa trên cơ sở 4 nội dung của Cuộc vận động tại Ninh Thuận đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với nội dung của Quy chế công nhận (kèm theo Quyết định số 01/2002 của Bộ VHTT), chúng tôi tạm thời đánh giá thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào Raglai trong những năm qua như sau:
1.1. Xây dựng đời sống kinh tế vật chất
Đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong Cuộc vận động. Từ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các cơ sở  đã triển khai thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh đó các cơ sở đã xây dựng được phong trào giúp nhau làm kinh tế, giúp nhau làm nhà ở, tương trợ lẫn nhau … Kết quả cho thấy thật đáng phấn khởi. Vùng đồng bào Raglai đã có nhiều hộ khá - giàu như ở: Rã Giữa, Động Thông, Xóm Mới, Phước Chính, Ma Oai, Tà Lú ….
Từ chỗ ổn định đời sống kinh tế, tăng thêm nguồn thu nhập nhân dân các khu dân cư từng bước cải thiện nơi ăn chốn ở, mua sắm thêm các thiết bị, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại …. Xóm làng đều có sự đổi thay tiến bộ, người dân được ăn no hơn, ngon hơn, mặc ấm hơn, đẹp hơn…
Tuy nhiên, hoạt động về kinh tế tại các cơ sở hiện nay vẫn còn có những mặt khó khăn hạn chế nhất định. Xuất phát từ  nền tảng kinh tế thấp, chậm phát triển, lại bị kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ đến đời sống của bà con nhân dân ở các vùng dân cư. Điều kiện tự nhiên không được thuận lợi, thường xuyên có lũ lụt trong mấy năm gần đây, mặt khác giá cả nông sản không ổn định cũng gây thiệt hại lớn về kinh  tế cho bà con nông dân. Vùng miền núi chuyên làm nương rẫy, mùa màng thất thường, chăn nuôi chưa phát triển, thu nhập thấp nên nghèo đói vẫn đeo bám dai dẳng với nhiều hộ gia đình vùng đồng bào Raglai. Công tác xóa đói giảm nghèo ở cơ sở vẫn còn bất cập.
1.2. Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
Nâng cao dân trí học vấn và xóa mù chữ được triển khai với những chương trình: tăng cường đội ngũ giáo viên, chất lượng giảng dạy, đào tạo giáo viên tại chỗ… ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người; xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư thiết bị giảng dạy; phát động phong trào xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học… đã làm cho các thôn, khu phố văn hóa chuyển biến rõ rệt, tiêu biểu như: Cầu Gãy, Phước Chính, Ma Oai, … Đến nay trên 95% số xã có đồng bào Rag lai đã đạt chuẩn quốc gia về công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Nâng cao dân trí là một khái niệm bao hàm về nâng cao nhận thức, ý thức, quan niệm, ứng xử văn hóa… cho người dân. Tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, ý thức tự giác tham gia Cuộc vận động của người dân ngày càng cao là kết quả từ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. Tiêu biểu nhất trong phong trào nâng cao dân trí, xã hội hóa các hoạt động VHTT có các cơ sở như: Hậu Sanh có hủ gạo tình thương giúp đỡ người neo đơn tàn tật, quyên góp hảo tâm qua các đêm văn nghệ gây quỹ xây dựng hội trường, giúp người gặp khó khăn; Nhiều thôn có phong trào giúp nhau làm nhà ở, đồi công sản xuất, giúp nhau vốn làm ăn trong các đoàn thể; Xóm Mới, Ma Oai, Ya Rót có các phong trào giúp nhau làm nhà ở, xây dựng nhà văn hóa cộng đồng, xây dựng cảnh quan môi trường và đường liên thôn, khu sinh hoạt văn nghệ thể thao; Phước Chính có phong trào vệ sinh thôn xóm định kỳ, cấm hẳn việc mua, bán, uống rượu trắng, duy trì sinh hoạt chính trị trong những ngày lễ lớn... Cầu Gãy, và nhiều khu dân cư khác... đã phối hợp với nhiều cơ quan đơn vị nhà nước trong các hoạt động văn nghệ- thể thao, trong phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, nhất là hoạt động của tổ chức Hội Cựu chiến binh, Phụ nữ, Nông dân và thanh niên sinh viên trong các dịp tết, lễ hội của địa phương...
Về chỉ tiêu xây dựng Gia đình văn hóa được coi là tiêu chuẩn bắt buộc để xây dựng và công nhận danh hiệu thôn, khu phố văn hóa. Hàng năm các cơ sở đều tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá công tác này và đề nghị công nhận danh hiệu GĐVH. Các cơ sở đều được hướng dẫn củng cố, xây dựng đội văn nghệ, đội bóng đá, bóng chuyền, các môn thể thao dân gian, khôi phục, sưu tầm các trò chơi, lễ hội truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc… vừa chào mừng ngày lễ phát động vừa để duy trì và phát triển các loại hình VHTT-TT về sau. Số gia đình văn hóa đạt cao tại các thôn của huyện Ninh Hải như: Động Thông 120/203 hộ, Đầu Suối 138/183 hộ, Suối Giếng 275/341 hộ; Cà Rom 76/114 hộ; Bà Râu 1: 203/370 hộ; Bà Râu 2: 201/373 hộ; Suối Đá 196/247 hộ… các huyện Bác ái, Ninh Sơn và Ninh Phước cũng đạt tỷ lệ trẹn 50%.
Công tác thông tin tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều được chú trọng thông qua hệ thống truyền thanh ở cơ sở, qua các chương trình văn nghệ phục vụ nhân dân, hội họp nhân dân, chiếu phim, hội thi, hội diễn. Đã làm cho mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân tăng lên nhiều lần so với trước khi tổ chức phát động xây dựng. Bên cạnh đó nhiều cơ sở đã xây dựng được phòng đọc sách, báo (từ 120 đến 2.000 bản) kết hợp với hoạt động của Bưu điện văn hóa xã đã phục vụ tốt nhân dân và thường xuyên được sự quan tâm của thư viện Tỉnh, Huyện.
Hoạt động VHTT- TT trong những năm gần đây ở cấp tỉnh cũng như huyện, thị không thể thiếu sự tham gia nồng cốt của các thôn, khu phố văn hóa, Khu dân cư tiên tiến. Đó là: Liên hoan văn nghệ dân gian và trang phục thiếu nhi các dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận lần thứ I -2001, Ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc tỉnh Ninh Thuận lần thứ  II- 2003; Liên hoan đưa thông tin về cơ sở lần VI-2003; Ngày hội thể thao dân tộc Raglai lần thứ III năm 2004…
Hạn chế cơ bản về mặt dân trí ở một số địa bàn dân cư trong tỉnh còn thấp, nhận thức về Cuộc vận động của một số cơ sở, cán bộ và nhân dân chưa cao nên kết qủa thu được từ  các cơ sở không đồng đều như dự kiến. Sự trông chờ ỷ lại nhà nước đã làm cho nhiều cơ sở sau triển khai có phần lắng xuống.
Không ít cán bộ, đảng viên có trình độ học vấn cao nhưng nhận thức đối với các cuộc vận động ở nơi cư trú lại thấp. Còn quan liêu, hời hợt không muốn tham gia đóng góp, thậm chí không tham gia sinh hoạt với bà con nhân dân.
Hoạt động VHTT- TT có những hạn chế vì thiếu kinh phí tổ chức, các hoạt động mang tính chất hưởng ứng phong trào là chủ yếu, nhiều cơ sở chưa duy trì thường xuyên. Tình hình bảo quản và sử dụng trang thiết bị VHTT ở một số cơ sở chưa tốt, hư hỏng nhưng không vận động kinh phí từ nhân dân để tự sửa chữa.
1.3. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, xây dựng môi trường, cảnh quan văn hóa
ý thức phòng bệnh, chữa bệnh, ăn ở hợp vệ sinh của người dân được nâng cao kể từ khi triển khai Cuộc vận động. Đây là sự chuyển biến rất lớn ở vùng miền núi, dân tộc ít người. Các cơ sở hàng tháng đều tổng dọn vệ sinh toàn làng, khu phố  từ 1-2 lần. Chú trọng nhiều hơn đến công tác xây dựng cảnh quan môi trường: giải tỏa các điểm gây ô nhiễm, nâng cấp đường sá, trồng cây xanh... Việc thực hiện dân số KHHGĐ không còn xa lạ đối với đồng bào Raglai. Tại các khu dân cư miền núi đã giảm 90-100% bệnh sốt rét, các loại bệnh tật khác đều giảm, sức khỏe cộng đồng đã có sự tăng lên.
Chăn nuôi thả rong trong khu dân cư ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan vẫn chưa được khắc phục tại một số làng Raglai. Công tác vận động nhân dân giảm uống rượu để dành thời gian lao động và nâng cao sức khoẻ chưa được đẩy mạnh. Nhiều hộ gia đình vùng Raglai còn sinh con đông.
1.4. Phát huy dân chủ, tôn trọng pháp luật xây dựng quốc phòng toàn dân, tích cực phòng chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Thực hiện theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Tại các cơ sở đều củng cố lại đội dân phòng, lực lượng dân quân tự vệ, tổ hòa giải, tổ tự quản…. Vận động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ Tổ quốc, an ninh thôn xóm, tự hòa giải các mâu thuẫn nội bộ, qua đó mà khối đoàn kết cộng đồng ngày càng bền chặt.
Thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự tại các thôn, khu phố văn hóa, khu dân cư tiên tiến luôn đạt và vượt chỉ tiêu. Gần đây các làng dân tộc Chăm, Raglai có nhiều thanh niên tình nguyện tham gia nghĩa vụ quân sự. Tình quân dân càng gắn bó hơn, giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trên các lĩnh vực văn hóa- xã hội. Đặc biệt là bộ đội Biên phòng: Đồn 404, 408, 416, Tiểu đoàn 610 Anh hùng, Lữ đoàn đặc công 126 (Đoàn 5) … đối với các cơ sở trong tỉnh trong đợt lũ lụt tháng 11 năm 2003. Nhờ xây dựng mô hình “Tổ nhân dân tự quản” trong khu dân cư nên có điều kiện thuận lợi cho nhân dân sinh hoạt, tình nghĩa xóm làng càng thêm gắn bó. Nhờ đó mà các mâu thuẫn đều được Tổ tự quản đứng ra hòa giải. Cán bộ thường xuyên nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng của từng hộ dân, qua đó có động viên giúp đỡ kịp thời.
Công tác phòng chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, gìn giữ trật tự an toàn xã hội thu được nhiều kết quả. Đặc biệt các vụ uống rượu say gây rối đã giảm hẳn, tệ cờ bạc, tệ số đề, mại dâm, ma túy hầu như không xảy ra ở vùng đồng bào Raglai. Việc ma chay, hiếu hỷ, lễ nghi, lễ hội … bước đầu đều do Ban phong tục của các cơ sở điều hành theo nếp sống văn hóa mới, giảm nhẹ sự rườm rà tốn kém cho nhân dân. Mỗi Khu dân cư đều xây dựng Qui ước văn hóa, đảm bảo cho người dân sống và làm việc theo pháp luật của Nhà nước, phát huy dân chủ tôn trọng pháp luật, xây dựng quốc phòng toàn dân, phòng chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự xóm làng.
Tuy vậy, tình trạng uống rượu cồn tuy có giảm nhưng vẫn còn nhiều tại các khu dân cư trong tỉnh, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc xây dựng quy ước văn hóa đã tiến hành trước khi tổ chức triển khai Cuộc vận động nhưng phần lớn chưa thực hiện tốt. Mặt khác tiếp tục triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng quy ước, hương ước làng, bản, thôn, ấp hiện nay thực sự chồng lên nhau nên người dân khó chấp thuận và thực hiện.
Thực tế hai năm (2001 và 2002), Cuộc Vận động chưa thực sự triển khai rộng khắp trong toàn địa bàn khu dân cư, do vậy các số liệu thống kê không đầy đủ và theo chuyên ngành phụ trách riêng về công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa và Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Riêng năm 2003 và 2004, số liệu thống kê Cuộc vận động toàn tỉnh như sau:
- Đã xây dựng 39/77 thôn văn hóa dân tộc Raglai; Hàng năm, phục vụ văn hóa văn nghệ 85/80 buổi/năm cho các xã miền núi với lực lượng chính là Đội Thông tin Văn nghệ miền núi và Đội Thông tin lưu động của các huyện, thị; Hoàn thành 100% đầu tư, phục vụ sách báo cho các xã miền núi theo chỉ tiêu đề ra là 720 sách báo; tạp chí cho 25 điểm Bưu điện văn hóa xã; luân chuyển 100 đầu sách báo cho mỗi thôn văn hóa miền núi/năm; 20 sách thiếu nhi cho mỗi đợt Đội Thông tin Văn nghệ miền núi Tỉnh đi phục vụ miền núi; Tổ chức nhiều đợt đi sưu tầm văn hóa Raglai; Hoàn thành đề án trưng bày hiện vật Nhà truyền thống Bác ái; Phục vụ 270/266 buổi chiếu phim/năm tại các xã miền núi, trong đó đã lồng tiếng Raglai 7/7 phim trong một năm; Xây dựng và củng cố 18 đội văn nghệ của thôn văn hóa tại 18 xã đặc biệt khó khăn.
- Ký kết liên tịch với Sở Thể dục- Thể thao, để chú trọng phát triển phong trào cho các xã miền núi; Ký kết liên tịch với UBMTTQVN Tỉnh triển khai Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư "; Ký kết liên tịch với các ngành: Sở Giáo dục, Y tế, Công an, Bộ Chỉ huy Quân sự, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng, Liên đoàn Lao động tỉnh trong công tác xây dựng đời sống văn hóa.
- Tổ chức lớp truyền dạy văn nghệ dân gian cho thiếu nhi Raglai; Tập huấn học tập và quán triệt Nghị quyết TW5 cho đội ngũ VHTT các xã miền núi trong tỉnh và hàng năm tổ chức 1 lớp tập huấn cho cán bộ VHTT xã, phường, các tổ công tác dân vận thuộc lực lượng Bộ đội Biên phòng trong tỉnh...
- Tổ chức liên hoan văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số tỉnh Ninh Thuận. Đặc biệt là đã tổ chức có hiệu quả ngày hội Việt Nam hóa Thể thao dân tộc Raglai toàn tỉnh lần thứ III- 2004.
Bên cạnh đó còn hạn chế tồn tại như sau: Mặt bằng dân trí chưa cao trong nhân dân vùng dân tộc thiểu số; Đội ngũ làm công tác VHTT miền núi còn kiêm nhiệm và hạn chế về mặt chuyên môn; Đời sống kinh tế của đồng bào còn thấp so với các vùng dân cư khác trong tỉnh; Cơ sở vật chất phục vụ công tác VHTT miền núi còn thiếu thốn, hạn hẹp; Sự tác động của nền kinh tế thị trường đã làm mai một không ít vốn văn hóa truyền thống và tôn giáo của đồng bào Raglai.
THỐNG KÊ GIA ĐÌNH VĂN HÓA RAGLAI NĂM 2003 - 2004
Những kết quả trên đều được xuất phát từ sự ủng hộ nhiệt tình và tham gia tích cực của cán bộ và nhân dân ở cơ sở, đã tạo ra bước chuyển biến mới cho nhiều vùng dân cư trong tỉnh. Mặt khác, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội sự tham gia của các cấp, các ban ngành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở thực hiện tốt các nội dung trong Cuộc vận động. Sự kế thừa của công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa và Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư đã làm cho đời sống văn hóa ở cơ sở chuyển biến về nhiều mặt. Tuy nhiên, nếu so sánh số liệu với các tỉnh thành trong cả nước thì Ninh Thuận còn thấp.
Trong những năm qua khí hậu thời tiết thất thường, diễn ra nhiều trận lũ lụt lớn. Nương rẫy vùng cao thất thu, đời sống người dân rất khó khăn.
Kinh tế đi lên từ nền kinh tế thấp, nghèo nàn, không có ngành kinh tế nào phát triển mang tính đột phá, chủ đạo. Công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp phát triển ở mức trung bình.
Lịch sử, tôn giáo, dân tộc và văn hóa truyền thống Ninh Thuận khá phong phú và đa dạng, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu mang tính ứng dụng thực sự cho Cuộc vận động. Do vậy khi triển khai thực hiện chưa sát với thực tế của các vùng đồng bào Raglai trong tỉnh.
Nhận thức và quan niệm về Cuộc vận động và Phong trào của các Ban Chỉ đạo và cán bộ ở cơ sở chưa thống nhất cao. Do đó tại nhiều địa phương, tuy có triển khai vận động nhân dân thực hiện nhưng lại không tổ chức sơ kết đánh giá, không nhân rộng điển hình. Trong những năm qua, do thiếu kinh phí nên không tổ chức sơ kết, đánh giá, không tiến hành bình xét công nhận Gia đình văn hóa. ý thức cộng đồng trách nhiệm của các cấp các ban ngành chưa cao. Sự tự thân vận động của nhân dân chưa phổ biến và thực hiện quy ước văn hóa ở cơ sở chưa hiệu qủa.
Nội dung xây dựng mang tính toàn diện, nhưng sự thống nhất giữa các cuộc vận động chưa cao, gây ra phiền phức cho cơ sở khi thực hiện. Giữa nội dung triển khai và tiêu chí công nhận có khi không thống nhất, có sự thay đổi thường xuyên từ Trung ương đến các ngành chủ quản của tỉnh. Nhiều cuộc vận động, phong trào phối hợp chưa hiệu qủa, chồng chéo và dồn nén xuống cơ sở.
Kết qủa trên là sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh Ninh Thuận thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị và cơ chế tài chính cho Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Sớm có chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Tiếp đó Bộ VHTT có nhiều văn bản chỉ đạo và nhất là khi Nghị quyết TƯ 5 (khóa VIII) ra đời càng khẳng định tính đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của Phong trào và Cuộc vận động. Mặc dù chưa thống nhất cao về nội dung và phương pháp triển khai nhưng giữa Ngành VHTT và Ủy ban MTTQ các cấp đã sớm ban hành các văn bản mang tính pháp quy và các tài liệu hướng dẫn cho Cuộc vận động.
Tuy nhiên, Ban Chỉ đạo các cấp đông nhưng chưa mạnh, hoạt động chưa đều tay thiếu những chương trình cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc. Thay đổi thường xuyên, hướng dẫn triển khai chủ yếu bằng văn bản hành chính. Nhiều cơ sở Đảng chưa phát huy vai trò lãnh đạo của mình trong Cuộc vận động.
Bộ máy điều hành, tổ chức triển khai thực hiện các cấp được củng cố và hoạt động điều hành tốt. Những nơi nào mà cấp ủy, chính quyền địa phương và các đoàn thể quan tâm thì ở đó mang hiệu quả cao cho Cuộc vận động. Đa số các Ban vận động đều làm tốt chức năng của mình ở địa phương, nhưng đều là những thành viên kiêm nhiệm, làm việc với lòng nhiệt tình là chính mà không có chế độ thù lao.
Công tác thi đua, khen thưởng động viên Phong trào và Cuộc vận động chưa kịp thời, triển khai chậm và rời rạc.
Mặc dù việc học tập kinh nghiệm từ tỉnh thành trong những năm qua ít được quan tâm, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hàng năm có tổ chức nhưng phần lớn bị xáo trộn và chuyển công tác khác, nhưng nhìn đội ngũ trực tiếp với cuộc vận động đều yêu ngành, yêu nghề, chịu khó về cơ sở.
Tuy vậy, các cấp chưa có cán bộ chuyên trách với Cuộc vận động, đội ngũ làm công tác xây dựng đời sống văn hóa vừa thiếu lại vừa yếu, ít được qua đào tạo và làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Mặt khác kinh tế thị trường tác động mạnh đến các vùng dân cư, bên cạnh những mặt tích cực còn kéo theo những tiêu cực trong đời sống xã hội.
Cuộc vận động đã được các cấp, các ngành quan tâm và cộng đồng trách nhiệm. Một số cuộc vận động, phong trào mang tính xã hội hóa cao ở cơ sở cũng tác động tích cực đến cuộc vận động. Mặt khác, Ủy ban MTTQ và Sở VHTT cũng đã liên tịch, phối hợp với: Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Thể dục Thể thao, Y tế, Công an, Bộ chỉ huy quân sự, Bộ đội biên phòng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa đã tác động to lớn đối với Cuộc vận động trong năm qua mang lại hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội cho nhân dân trong tỉnh.
Song trong quá trình chỉ đạo, phối hợp thực hiện vẫn còn hạn chế và lúng túng; ít phát huy sức mạnh tổng hợp, tính tự quản và chủ động sáng tạo của cơ sở chưa cao, nên chưa huy động được các nguồn lực trong nhân dân.
Yếu tố thành công trong Cuộc vận động chính là sự tự quản lý, điều hành của nhân dân địa phương dưới sự hướng dẫn của Nhà nước, tức là Cuộc vận động này phải nghiêng về phía nguồn lực nội sinh của từng khu dân cư; là trí tuệ sáng tạo của cộng đồng và di sản văn hóa cộng đồng, trong đó vai trò cá nhân có một ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy nơi nào có sự tự thân vận động cao, cán bộ có trình độ, năng lực, đạo đức tốt thì nơi đó Cuộc vận động phát triển và việc vận động nhân dân mang nhiều hiệu qủa to lớn.
4. Giải pháp, kiến nghị
4.1. Nhằm đẩy mạnh Cuộc vận động trước hết cần phải tiếp tục thống nhất nội dung Cuộc vận động cho phù hợp với Quy chế  Công nhận thôn, khu phố văn hóa do Bộ VHTT ban hành và Thông báo số 18 Liên tịch giữa UBTƯMTTQVN và Bộ VHTT. Cụ thể nội dung Cuộc vận động phải xây dựng trên 4 vấn đề chính sau:
* Xây dựng đời sống kinh tế vật chất;
* Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần;
* Xây dựng môi trường, cảnh quan văn hóa;
* Chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, chính sách phát luật của Nhà nước và thực hiện nghĩa vụ công dân;
- Xây dựng gia đình cần phải thống nhất trong các cuộc vận động khác của Phong trào là cùng tên gọi và cùng nội dung xây dựng Gia đình văn hóa. Có như vậy mới tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cuộc vận động. Bởi vì xây dựng gia đình văn hóa như là chiếc cầu nối và mối quan hệ ràng buộc  giữa các cuộc vận động trong Phong trào chung. Nội dung xây dựng Gia đình văn hóa cơ bản là:
* Đời sống kinh tế, vật chất ổn định và phát triển.
* Đời sống văn hóa, tinh thần phong phú và lành mạnh.
* Gia đình hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ:
* Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, đoàn kết và tương trợ cộng đồng:
- Triển khai Cuộc vận động dựa trên một quy trình thống nhất như sau:
* Bước 1: Tổ chức tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân.
* Bước 2: Kiện toàn và củng cố Ban chỉ đạo Phong trào cấp xã phường và thành lập Ban vận động Cuộc vận động ở tất cả các thôn, khu phố.
* Bước 3: Tổ chức khảo sát thống kê tình hình kinh tế- xã hội, viết báo cáo về lịch sử và tình hình kinh tế- văn hoá- xã hội của thôn, khu phố.
* Bước 4: Lập và thông qua nhân dân Đề án triển khai Cuộc vận động.
* Bước 5: Lập và thông qua nhân dân hương ước, quy  ước văn hóa.
* Bước 6: Tổ chức cho nhân dân đăng ký thực hiện 4 Nội dung Gia đình văn hóa và 4 Nội dung Cuộc vận động.
* Bước 7: Tổ chức Lễ triển khai Cuộc vận động.
* Bước 8: Tổ chức sơ kết Cuộc vận động hàng năm.
* Bước 9: Tổ chức tổng kết Cuộc vận động, xem xét và đề nghị các cấp công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa; Khu dân cư tiên tiến, Thôn-Khu phố văn hóa.
- Tăng cường công tác thi đua khen thưởng, khuyến khích động viên nhân dân ở cơ sở cùng với công tác tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia Cuộc vận động.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đúc rút kinh nghiệm, đánh giá quá trình triển khai thực hiện Cuộc vận động.
- Tăng cường hơn nữa công tác vận động nhân dân xây dựng và thực hiện Quy ước văn hóa cộng đồng ở khu dân cư.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp triển khai thực hiện trên tinh thần trách nhiệm của các cấp, ban ngành trong tỉnh đối với Cuộc vận động.
- Tăng thêm nguồn lực, kinh phí hoạt động cho Cuộc vận động.
Hướng cơ bản để triển khai Cuộc vận động là bám sát Kế hoạch số 1545/KH của Ban chỉ đạo Phong trào Tỉnh và Quy trình như đã nêu trên. Về thời gian và công việc chính tóm tắt hàng quý trong một năm trong Cuộc vận động như sau:
- Quý I tổ chức, triển khai.
- Quý II đôn đốc, thực hiện.
- Quý III kiểm tra, giám sát.
- Quý IV đánh giá, sơ kết.
Trong quý IV hàng năm phải tổ chức đồng loạt ở cơ sở Ngày hội đoàn kết dân tộc (18/11). Riêng quý IV năm 2005, tổ chức hội nghị đánh giá 5 năm triển khai Cuộc vận động. Chỉ tiêu đến hết năm 2005, toàn tỉnh có 95% cơ sở triển khai Cuộc vận động. Trong đó có 60% đạt Khu dân cư Tiên tiến; 120 cơ sở phát động xây dựng thôn, khu phố văn hóa và có 30 được công nhận danh hiệu Thôn, khu phố văn hóa cấp huyện, thị, 40 cấp tỉnh. Trong chỉ tiêu trên 20% phải đạt được tại vùng đồng bào Raglai.
Sau hơn 12 năm triển khai xây dựng đời sống văn hóa, tỉnh Ninh Thuận đặc biệt chú trọng và ưu tiên đến vùng đồng bào Raglai. Một số thôn văn hóa dân tộc Raglai đã tự xây dựng thiết chế văn hóa của mình và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Đó là mô hình hoạt động của một cụm nhà sàn truyền thống của các thôn: Xóm Mới, Ya Rót; Suối Rua; Bố Lang; Ma Oai… Qua đó chúng tôi thấy rằng: để phát huy bản sắc văn hóa, khắc phục những hạn chế trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở  đã dẫn đến sự cần thiết phải có mô hình thiết chế cụm nhà sàn văn hóa tại các thôn (paley) người Raglai. (Xem phần phụ lục)
Kinh tế có tốc độ phát triển cao nhưng vẫn thuộc một trong những tỉnh nghèo, do đi lên từ nền kinh tế thấp, văn hóa chưa thực sự làm động lực thúc đẩy cho kinh tế phát triển. Khó khăn lớn nhất là đời sống kinh tế, mặt bằng dân trí của nhân dân chưa cao, còn chênh lệch giữa các vùng dân cư. Kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ làm cho nhiều ngành không bắt kịp guồng máy chung của xã hội. Các loại hình văn hóa đa dạng đua chen xâm nhập, cho nên một bộ phận không nhỏ trong nhân dân chạy theo lợi nhuận bất chấp tác hại của văn hóa ngoại lai, ảnh hưởng đến luân thường đạo lý truyền thống. Chính vì vậy mà sau khi vừa chia tách tỉnh (1992), Ngành Văn hóa Thông tin (VHTT) Ninh Thuận đã chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Trong đó lấy văn hóa vừa làm động lực thúc đẩy, vừa làm mục tiêu phấn đấu nhằm đạt được các mục tiêu như: ổn định, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân ở cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế- xã hội ở địa phương. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được Ngành VHTT quan tâm đặc biệt là công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa. Hiện nay, công tác xây dựng thôn, khu phố văn hóa đang tiếp tục tiến hành và thống nhất cùng với Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuốc sống mới ở khu dân cư" thành Cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở  khu dân cư".
- UBMTTQVN và Bộ VHTT nên thống nhất toàn quốc giữa nội dung Cuộc vận động và Quy chế công nhận các danh hiệu trong Cuộc vận động.
- Ủy ban nhân dân tỉnh cần ban hành một chính sách đầu tư thích đáng, thống nhất và thuận lợi cho Cuộc vận động.
- UBMTTQVN và Sở VHTT nên tổ chức tham quan thực tế, học tập kinh nghiệm của các tỉnh thành trong cả nước về Cuộc vận động.
- Thường trực Ban Chỉ đạo Phong trào nên phát hành tờ tin, tập san định kỳ để phản  ánh kịp thời các cuộc vận động trong Phong trào.
- Các cấp, các ngành cần có biện pháp mạnh để loại trừ các điểm kinh doanh nhà hàng, karaoke, dịch vụ ăn uống không lành mạnh tại các khu dân cư.
- Thành lập Tổ công tác gồm 3 người (biên chế ngành VHTT) để giúp Ban Chỉ đạo tỉnh thực hiện Phong trào nói chung và Cuộc vận động nói riêng.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một công tác trọng tâm của ngành VHTT, xuất phát từ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và do Bác Hồ khởi xứng chỉ đạo. Trong tác phẩm "Đời sống mới" ấn hành năm 1947, Người chỉ rõ mục đích của việc xây dựng đời sống mới là "làm thế nào để cho đời sống của nhân dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn". Theo Người, xây dựng đời sống văn hóa mới "vừa là việc riêng của từng người, vừa là việc chung của từng nhóm người, của toàn xã hội". Những tư tưởng quý báu đó được Đảng ta tiếp thu, nâng cao trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nền văn hóa đất nước.
Từ những phong trào đơn lẻ của các tỉnh phía Bắc đã lan rộng khắp toàn quốc về công tác xây dựng làng (thôn, khu phố, bản, ấp, soóc, buôn…) văn hóa, đã làm cho đời sống văn hóa- xã hội tại nhiều địa phương có những bước chuyển biến mới khởi sắc trong thời kỳ đổi mới. Các phong trào, các cuộc vận động khác tiếp tục ra đời và phát triển trong phong trào chung: Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII). Qua nhiều lần thống nhất tên gọi, nội dung, phương pháp chỉ đạo, Cuộc vận động đã được triển khai trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ cuối năm 2001. Bước đầu có hiệu quả trên sự kế thừa và phát triển của nhiều cuộc vận động trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là trong năm 2003 và 2004.
Những vấn đề đã trình trong đề tài này chủ yếu là nhằm làm rõ mục đích, ý nghĩa, vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động của Cuộc vận động, qua đó nêu và phân tích các khái niệm, quan điểm về mặt lý luận để so sánh, đánh giá kết quả đạt được và đối chiếu với các cuộc vận động khác trong Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Thực tiễn 3 năm triển khai Cuộc vận động ở vùng đồng bào Raglai cho thấy những ưu điểm cũng như một số vấn đề còn hạn chế của nó. Kết quả và nguyên nhân dẫn đến thực trạng hiện nay của Cuộc vận động đang có xu hướng phát triển và được phần lớn nhân dân ở cơ sở ủng hộ. Các hướng giải pháp, hướng triển khai và một số kiến nghị với các cấp các ngành đối với Cuộc vận động này được trình bày trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở Ninh Thuận. Hy vọng, được sự quan tâm của các cấp các ngành và những người tham gia triển khai Cuộc vận động để đưa Cuộc vận động này ngày càng có hiệu quả cao hơn.
Phần thứ ba

KẾT LUẬN

1. Tộc người Raglai đang lưu giữ một kho tàng văn hóa truyền thống có giá trị đặc sắc.
 Thời điểm mà chúng tôi thực hiện công trình điều tra, thống kê này là từ năm 2003 đến 2004, đây là thời điểm quá muộn để thống kê văn hóa một tộc người. Chắc chắn rằng chỉ trong vài chục năm trở lại đây, văn hóa truyền thống của tộc người Raglai đã mất đi nhiều. Các nghệ nhân cứ lần lượt ra đi mang theo kho tư liệu sống quý giá mà hình như, đây là những thế hệ nghệ nhân cuối cùng. Trong thời đại phát triển ngày nay, liệu thế hệ trẻ có chịu ngồi học thuộc từng câu hát sử thi đêm này qua đêm khác, thàng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Nhưng dù sao, có còn hơn không. Hãy xem xét thực trạng, kiểm kê, đánh giá những gì còn lại của văn hóa truyền thống Raglai để tìm ra định hướng, bảo tồn và phát huy.
Qua điều tra, thống kê ở 78 thôn, 24 xã vùng đồng bào Raglai cư trú cho thấy, tộc người Raglai đang lưu giữ một kho tàng văn hóa truyền thống rất đa dạng, phong phú, đặc sắc, có giá trị đóng góp to lớn vào sự thống nhất trong đa dạng của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đó là hệ thống văn hóa vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, với hai loại hình văn hóa này, những gì còn lại của kho tàng văn hóa truyền thống Raglai nghiêng về mảng văn hóa phi vật thể nhiều hơn.
1.1. Văn hóa vật thể
Với truyền thống du canh du cư, những công trình văn hóa vật thể của tộc người Raglai không có/còn nhiều. Chủ yếu là các công cụ lao động, sinh hoạt, nhạc cụ truyền thống, nhà sàn, những hiện vật trong nhà bảo tàng, nhà truyền thống. Nhờ có nghề rèn, người Raglai tự làm ra công cụ lao động nông nghiệp bằng kim loại như rìu, rựa, dao để chặt cây làm nhà ở, phát rẫy, ní để chọc lỗ trỉa hạt. Nhờ có nghề đan lát nên người Raglai tự làm ra gùi, mủng, nia và các vật dụng khác. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, người Raglai đã sáng tạo ra bẫy đá, làm bàn chông, ná/nỏ để tiêu diệt địch.
Bẫy đá Pi Năng Tắc là một quần thể di tích chiến tranh vô giá của đồng bào Raglai nói riêng và của cả nước nói chung. Di tích này đã được Bộ VHTT xếp hạng di tích quốc gia từ lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa được trùng tu tôn tạo. Các nhà quản lý cần có kế hoạch lập dự án bảo tồn, tôn tạo và giới thiệu, quảng bá về khu di tích lịch sử quý giá này.
Do điều kiện sống du canh du cư lâu đời, người Raglai không làm những ngôi nhà làng kiên cố như các dân tộc ở Tây Nguyên. Nhà sàn truyền thống của người Raglai có phần đơn giản, không sử dụng kỹ thuật cao. Nhà sàn dài truyền thống của người Raglai hầu như không còn, chỉ còn lại một số nhà sàn 4 mái và 2 mái nhưng cũng không cao lớn và kiên cố.
Sự giàu có về văn hóa vật thể của tộc người Raglai phải kể đến nhạc cụ. Theo thống kê của công trình này, có thể thấy trong 78 palơi ở 24 xã Raglai, ở palơi nào cũng có hệ thống nhạc cụ truyền thống (xin xem các biểu thống kê nhạc cụ ở chương V, trang...). Nhiều nhất phải nói đến Mã la, một loại nhạc cụ gõ bằng đồng mang tính chất cồng chiêng Tây Nguyên. Trong 78 thôn còn 220 bộ với 1772 chiếc. Chỉ tính riêng ở huyện Bác Ái đã có 146 bộ, 1062 chiếc. Nếu đem chia cho 9 xã, 36 thôn thì bình quân mỗi xã còn 4 bộ mã la với 32 chiếc. Một con số không nhỏ. Nhưng, điều đáng ngại là hiện nay, số người yêu thích, học để sử dụng mã la không nhiều. Số lượng khèn bầu, sáo, đàn Chapi và một số nhạc cụ khác ngày càng ít. Cả 78 thôn hiện chỉ còn 70 chiếc khèn bầu, 63 chiếc trống, do ít người biết làm và khó tìm ra được quả bầu đắng để làm khèn. Đây là số lượng nhạc cụ đáng báo động, cần có biện pháp khôi phục nghề làm nhạc cụ và truyền dạy cách sử dụng. Lễ hội ngày càng ít được tổ chức, dẫn đến việc những nhạc cụ dùng trong lễ cũng bị quên lãng.
Về trang phục truyền thống cũng là vấn đề cần đươc quan tâm. Trước hết là vấn đề nhận thức. Hiện có quan điểm cho rằng, trang phục truyền thống của người Raglai đã mất, mặc dù các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã cất công sưu tầm, tổ chức hội thảo, phổ biến trong đồng bào Raglai một số mẫu trang phục cổ truyền, nhưng số lượng người may và mặc nó rất ít, chỉ có một số cán bộ và một số chị em (nhờ có sự chỉ đạo) mặc trong các ngày lễ, ngày hội. Hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất về trang phục nam giới Raglai truyền thống.
1.2. Văn hóa phi vật thể
Văn hóa vật thể, nếu không được làm bằng các loại vật liệu bền vững thì sẽ dễ dàng mất đi, còn văn hóa phi vật thể sẽ tồn tại lâu bền hơn. Những kỳ quan thế giới vườn treo Babilon, ngọn Hải đăng Alecxandria v.v...đã mất từ lâu, nhưng những huyền thoại về nó thì vẫn sẽ còn mãi mãi. Vì văn hóa vật thể bao giờ cũng chứa đựng trong nó những giá trị văn hóa phi vật thể.
Văn hóa vật thể đa phần thể hiện mặt hình thức. Khi đến với tộc người Raglai, nếu chỉ nhìn hình thức bề ngoài, sẽ dễ dàng ngộ nhận rằng văn hóa của tộc người này đã bị mai một nhiều, không còn cái gì của riêng nữa. Thế nhưng, khi đi sâu vào nghiên cứu mới thấy sự đa dạng, phong phú, đặc sắc văn hóa của tộc người này, thể hiện đậm nhất trong kho tàng văn học dân gian như sử thi, trường ca, chuyện cổ, thành ngữ, tục ngữ, câu đố v.v...trong kho tàng âm nhạc dân gian như các làn điệu dân ca, dân vũ v.v...trong kho tàng lễ hội, văn hóa ẩm thực, trò chơi dân gian v.v...mà công trình này đã điều tra, thống kê được.
2. Đánh giá thực trạng văn hóa Raglai
Qua những số liệu điều tra về văn hóa truyền thống, có thể thấy dân tộc Raglai ở Ninh Thuận đang lưu giữ một kho tàng văn hoá phi vật thể đồ sộ, phong phu và có giá trị truyền thống đặc sắc. Những giá trị văn hoá ấy được hình thành và được chau chuốt, mài dũa thành những viên ngọc văn hoá dân gian qua hàng nghìn năm. Thế nhưng, những viên ngọc sáng ấy đang dần dần mất đi theo năm tháng. Vấn đề là sau khi thực hiện công trình này, các nhà quản lý, các nhà khoa học cần có những biện pháp như thế nào để cấp bách bảo tồn, phát huy vốn văn hoá truyền thống độc đáo và phong phú này.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giao lư­u văn hóa mạnh mẽ, các nền văn hóa đang xích lại gần nhau nên tốc độ giao thoa, đan xen, hỗn dung văn hóa đang tăng nhanh chóng. Những giá trị văn hóa cổ truyền của các dân tộc đang có nguy cơ mai một. Trong xu thế phát triển hiện nay, mặc dù vùng đồng bào Raglai phát triển còn chậm so với một số vùng khác, nhưng những giá trị văn hoá truyền thống đang mất đi nhanh chóng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự mai một, mất mát này. Trước hết là ý thức của chính những người dân Raglai. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vùng đồng bào Raglai ở Ninh Thuận đang đổi thay từng ngày. Chính sách định canh định cư, phát triển hạ tầng cơ sở như điện, đường, trường, trạm và sự phát triển ồ ạt của các phương tiện thông tin đại chúng như phủ sóng truyền hình, phát thanh, các dịch vụ văn hoá như phim ảnh, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc, karaoke và nhiều loại hình hoạt động thông tin, văn hoá văn nghệ hấp dẫn v.v…đang đến rất nhanh với đồng bào. Lớp trẻ Raglai tiếp thu những luồng văn hoá mới rất nhanh: từ trang phục, lối sống, thẩm mỹ nghệ thuật hiện đại v.v…đã và đang làm cho lớp trẻ ngày càng xa dần với văn hoá truyền thống. Cộng thêm nhận thức về văn hoá truyền thống dân tộc của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở nhiều cấp độ chưa đúng, thậm chí coi các lễ hội dân gian, coi một số hoạt động tâm linh mang tính tín ngưỡng của người Raglai là mê tín, dị đoan, cần phải loại bỏ. Đi một vòng từ Bác ái qua Ninh Sơn, Ninh Hải, vào Ninh Phước, có thể thấy văn hoá dân gian truyền thống Raglai đang mất đi từng ngày, sự coi trọng về văn hoá truyền thống, dân gian Raglai chỉ còn chủ yếu ở lớp người lớn tuổi. Những giá trị văn hoá truyền thống, kho tàng văn hoá dân gian như chuyện cổ, sử thi, nghệ nhân biết làm và sử dụng các nhạc cụ truyền thống ngày càng ít và tập trung ở một số nghệ nhân lớn tuổi. Lớp nghệ nhân biết nhiều về kho tàng văn hoá dân gian đang từng ngày âm thầm mang theo những kho tàng văn hoá dân gian ra đi mãi mãi. Nếu không nhanh chóng có các biện pháp nghiên cứu, bảo tồn kho tàng văn hoá truyền thống của dân tộc Raglai thì chỉ trong một vài năm tới, chúng ta sẽ chẳng còn gì để mà nghiên cứu về vốn văn hoá truyền thống dân tộc Raglai nữa.
2. Một số kiến nghị, giải pháp bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc Raglai tỉnh Ninh Thuận
2.1. Những định hư­ớng cơ bản
Với đư­ờng lối chủ tr­ơng của Đảng về văn hóa dân tộc, các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phư­ơng đã và đang quan tâm đến công tác nghiên cứu văn hóa Raglai, báo cáo của Tỉnh uỷ Ninh Thuận chỉ rõ: “Cần phải quan tâm nghiên cứu, chắt lọc tinh hoa văn hóa để phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Chăm, Raglai, tạo điều kiện để làm sao giúp đỡ bà con khắc phục gánh nặng về những hủ tục lạc hậu đang làm cản trở b­ước phát triển của đồng bào trong sự nghiệp xây dựng Công nghiệp hóa - hiện đại hóa tỉnh nhà”.
Văn hóa truyền thống Raglai từ xư­a đến nay ít thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nư­ớc. Giai đoạn sau năm 1975, tuy văn hóa Raglai bước đầu đã đư­ợc nghiên cứu, như­ng hầu hết các công trình nghiên cứu thư­ờng chỉ dừng lại ở tính khái quát, ít có công trình nào đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể. Đọc danh mục công trình, bài viết nghiên cứu về văn hoá Raglai x­ưa nay, chúng tôi thấy có sự trùng lặp khá nhiều, có những bài viết chồng chéo, đó là chư­a kể đến có những bài viết chép qua chép lại trên tư­ liệu đã thành văn. Những vấn đề nóng hổi của thực trạng đời sống văn hóa, xã hội của cộng đồng ng­ười Raglai ở Ninh Thuận ít đư­ợc chú ý. Một số đề tài có tính chuyên sâu như­ng lại manh mún, thiếu những ch­ương trình nghiên cứu có kế hoạch. Đó là những hạn chế cơ bản của công tác nghiên cứu văn hóa Raglai, ảnh h­ởng không nhỏ đến việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Vì vậy, trong định h­ướng cơ bản, cần có một ch­ương trình kế hoạch ở tầm quốc gia để bảo l­ưu những giá trị văn hóa Raglai một cách có hiệu quả, tránh sự manh mún, tự phát nh­ư thời gian qua.
2.2. Về nghiên cứu khoa học
Từ thực trạng trên đây, chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống như­ sau:
Tr­ước hết, sau khi hoàn chỉnh công trình này, cần có chư­ơng trình kế hoạch nghiên cứu các đề tài cụ thể về văn hoá tộc ng­ười Raglai. Tiến hành đồng thời ch­ương trình mục tiêu “S­ưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể và xây dựng ngân hàng dữ liệu văn hóa các dân tộc Raglai” của Bộ Văn hoá thông tin. Những công trình cần đi sâu nghiên cứu cấp bách gồm:
+ Nghiên cứu và quay phim khoa học trong chương trình Bảo lưu văn hoá phi vật thể của Bộ văn hoá thông tin:
- Các lễ hội truyền thống: Các nghi lễ nông nghiệp như: Lễ ăn đầu lúa, lễ mừng lúa mới, lễ xuống giống v.vcác nghi lễ vòng đời: sinh đẻ, cưới xin, mừng thọ và tang ma (Đã thực hiện phim khoa học “Lễ bỏ mả dân tộc Raglai” ở Phước Chiến.
- Hình thành các Công trình nghiên cứu về âm nhạc dân gian Raglai bào gồm: hệ thống nhạc cụ, cách làm, tính năng nhạc cụ; kí âm hệ thống các điệu mã la và các nhạc cụ khác, các làn điệu dân ca, dân vũ, các làn điệu hát ru, hát đối đáp v.v
- Tập trung sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch và xuất bản, phổ biến lại vùng đồng bào Raglai về các tác phẩm văn học dân gian Raglai như: Truyện cổ Raglai, những chuyện cổ về sự tích các dòng họ Raglai, thơ ca, câu đố, thành ngữ Raglai v.v
- Tiếp tục phối hợp với Viện nghiên cứu Văn hoá khẩn trương hoàn chỉnh dự án điều tra, sưu tầm, biên dich và xuất bản sử thi Raglai
- Công trình nghiên cứu về nghề truyền thống, trang phục, nhà ở cổ truyền Raglai.
2.3. Về đầu tư các hoạt động văn hoá truyền thống
- Xây dựng nhà Bảo tàng Raglai. Dân tộc Raglai cư trú ở 4 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng, trong đó đông nhất là ở Ninh Thuận (50 nghìn người trên tổng số 80 nghìn người Raglai), vùng đồng bào Raglai là vùng căn cứ cách mạng, tên mỗi ngọn núi, hang đá, dòng suối đều gắn với những trận đánh lịch sử như bẫy đá Pi Năng Tắc, núi Tà Nang, hang 403, suối Rớ v.vVì vậy, cần thiết phải đầu tư xây dựng Bảo tàng dân tộc Raglai trên cơ sở của Nhà truyền thống Bác ái. Nhà Bảo tàng Raglai này sẽ là bảo tàng chung cho cả cộng đồng người Raglai ở Việt Nam, đây sẽ là bảo tàng tổng hợp, vừa là bảo tàng cách mạng, kháng chiến, vừa là bảo tàng văn hoá truyền thống Raglai. Nơi đây sẽ lưu giữ những hiện vật kháng chiến và di sản văn hoá vật thể truyền thống Raglai.
- Tiếp tục duy trì và khôi phục các lễ hội truyền thống Raglai
- Vận động bà con phục chế và làm mới các nhà sàn truyền thống. Khi tiến hành xây dựng các khu định canh mới, cần xây dựng theo mẫu nhà sàn Raglai (Như khu tái định cư cho vùng đồng bào dân tộc cho công trình thuỷ điện Sơn La).
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, tăng cường xây dựng các thiết chế văn hoá vùng đồng bào Raglai, phấn đấu đến năm 2007, mỗi làng văn hoá có một tụ điểm sinh hoạt văn hoá. Trong các tiêu chí xây dựng làng văn hoá phải có tiêu chí sinh hoạt văn hoá văn nghệ truyền thống: sử dụng các nhạc cụ truyền thống, hát những bài dân ca, hát ru, sử dụng các trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội
Tổ chức tốt các ngày Hội văn hoá dân tộc Raglai 2 năm một lần trên cơ sở phát huy các sắc thái văn hoá truyền thống. Ngành văn hoá thông tin có kế hoạch để đặt hàng sản xuất những bộ mã la mới (ở Quảng Nam) để trang bị lại nhạc cụ cho các làng văn hóa[1]. Hội Văn nghệ dân gian thường xuyên phối hợp với ngành văn hoá thông tin tổ chức các lớp truyền dạy văn hoá dân gian cho lớp trẻ, đặc biệt là cho thiếu nhi Raglai.


1.    TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Phan An (chủ biên) (1994), Những vấn đề dân tộc, tôn giáo ở miền Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  2. Toan Ánh (1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam, nếp cũ, tết, lễ, hội hè, tái bản, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
  3. Ban Dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận, (1999), Báo cáo về tình hình dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận, số 208/BC – DTMN, Ninh Thuận.
  4. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện, Nguyễn Văn Huệ (1998), Văn hoá & Xã hội ngư­ời Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
  5. Boulbet, J. (1999), Xứ ng­ười Mạ lãnh thổ của thần linh - nưggar Maá, Nggar Yang, bản dịch của Đỗ Văn Anh, Nxb Đồng Nai.
  6. Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận (2002), Niên giám thống kê, Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận.
  7. Nguyễn Từ Chi, (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc ngư­ời, Nxb Văn hóa Thông tin - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
  8. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về dân tộc học ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  9.  Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc Thắng, Nguyễn Xuân Độ (1998) Sắc thái văn hóa địa ph­ương và tộc ng­ười trong chiến l­ược phát triển đất nư­ớc. Nxb KHXH, Hà Nội.
  10. Ngô Văn Doanh (1995), Lễ hội bỏ mả Bắc Tây Nguyên, Nxb VHDT, Hà Nội.
  11. Ngô Văn Doanh, Vũ Quang Thiện (1997), Phong tục các dân tộc Đông Nam Á, nxb VHDT, Hà Nội.
  12. Ngô Văn Doanh (2002), “Nghi lễ tang ma của các dân tộc Tây Nguyên”, Tài liệu đánh máy, chư­a xuất bản.
  13. Vũ Cao Đàm (1999), Ph­ơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
  14.   Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  15.  Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ­ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  16.  Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội.
  17.  Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  18.  Mạc Đư­ờng (chủ biên), (1985), Những vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Lâm Đồng.
  19.  Sigmund Freud (1997), Vật tổ và cấm kỵ, bản dịch của Đoàn Văn Chúc, Trung tâm VHDT Thành phố Hồ Chí Minh.
  20.  Lê Sĩ Giáo chủ biên (1995), Dân tộc học đại cư­ơng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  21.  Lê Như­ Hoa (chủ biên) (2001), Tín ngư­ỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
  22. Đỗ Huy (chủ biên) - Nguyễn Văn Huyên - Trường L­u (1996), Văn hóa mới Việt Nam - sự thống nhất mà đa dạng, Nxb KHXH, Hà Nội.
  23.  Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập I và II, Nxb KHXH, Hà Nội.
  24. Nguyễn Quang Khải (2001), Tập tục và kiêng kỵ, Nxb VHDT, Hà Nội.
  25.  Phan Khoang (1970), Việt sử xứ đàng Trong, Khai trí xuất bản, Sài Gòn.
  26. Vũ Lợi (1992), “Phong tục cư­ới xin ở các dân tộc Malayo Polynesien Tr­ường Sơn - Tây Nguyên”, Tạp chí Dân tộc học, số 3.
  27.  Hải Liên (2001), Trang phục cổ truyền Raglai, Nxb Đại học quốc gia.
  28. Nhiều tác giả (1978), Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập t­ư liệu của Viện KHXH tại Thành phố Hồ Chí Minh.
  29. Nhiều tác giả (1984), Các dân tộc ít ng­ười ở Việt Nam, các tỉnh phía Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
  30. Nhiều tác giả (1999), Tín ng­ưỡng và mê tín, Cục Văn hóa thông tin cơ sở và Nxb Thanh niên, Hà Nội.
  31. Tổng cụ thống kê (2001), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999 - Kết quả điều tra toàn bộ, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
  32. Nguyễn Đình T­ư (1971), Non nư­ớc Ninh Thuận, Sống Mới xuất bản, Sài Gòn.
  33. Tylor. E.B. (2001), Văn hóa nguyên thủy, bản dịch của Huyền Giang, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật xuất bản, Hà Nội.
  34.  Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.
  35.  Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
  36.  Nguyễn Tuấn Triết (1991) Ngư­ời Raglai ở Việt Nam
  37.  Uỷ ban KHXH Việt Nam - Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít ngư­ời ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb KHXH, Hà Nội.
  38.  Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng D­ương, Lê Hồng Lý, Lưu Kiếm Khanh (1999), Nghi lễ vòng đời, Tái bản, Nxb VHDT, Hà Nội.





[1] Từ trước tới nay, trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhiều nơi trang bị những nhạc cụ hiện đại như organ, trống điện tử cho các làng văn hóa dân tộc thiểu số, vừa lãng phí vừa kém hiệu quả, phản tác dụng trong việc bảo lưu văn hóa dân tộc.


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn