“Lễ bỏ mả của tộc người Raglai (Trường hợp nghiên cứu tại xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận)”

Luận văn cao học. Học viên Trần Đình Giang. Người hướng dẫn khoa học: PGS.PS PQA. TVU.

Lễ hội là một trong những di sản văn hóa với những giá trị truyền thống mang tính tâm linh, Lễ hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các tộc người. Ở Việt Nam hiện naycó 54 tộc người, mỗi tộc người có những nét văn hóa đặc trưng riêng, điều đólàm nên sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn hóa cộng đồng các tộc người ở Việt Nam. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến văn hóa của tộc người Raglai. 

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Lễ hội là một trong những di sản văn hóa với những giá trị truyền thống mang tính tâm linh, Lễ hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các tộc người. Ở Việt Nam hiện naycó 54 tộc người, mỗi tộc người có những nét văn hóa đặc trưng riêng, điều đólàm nên sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn hóa cộng đồng các tộc người ở Việt Nam. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến văn hóa của tộc người Raglai.
Raglai là tộc ngườinằm trong nhóm ngôn ngữ Nam đảo (Malayo – Polynedien), ở Việt Nam với dân số 122.245 nghìn người, trong đó: Ninh Thuận có số dân 58.911 người, riêng huyện Thuận Bắc 67.790.000 người và xã Phước Chiến 4.950 người. Tộc người Raglai đứng thứ 19 trong 54 dân tộc ở Việt Nam, chiếm khoảng 51,2% dân số các dân tộc thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận. Là một dân tộc sinh sống lâu đời ở vùng cực Nam Trung Bộ, chủ yếu ở phía Tây tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng và đông nhất ở một số xã thuộc các huyện miền núi thuộc tỉnh Ninh Thuận. Như bao tộc người khác, người Raglai có nền văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính bản địa đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước, điều đó văn hóa tộc người Raglai đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử và thay đổi về địa bàn cư trú, quá trình giao lưu với các tộc người khác, người Raglai đã hình thành nên một nền văn hóa truyền thống mang sắc thái riêng biệt: Đó là một nền văn hóa vừa mang nét văn hóa của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, vừa có nét văn hóa của cư dân vùng biển cực Nam Trung Bộ. Chính điều này đã góp phần tạo nên bức tranh đa sắc của văn hóa Ninh Thuận nói riêng và văn hóa vùng cực Nam Trung Bộ nói chung.
Lịch sử, văn hóa của tộc người Raglai chịu ảnh hưởng khá nhiều từ văn hóa của các dân tộc cận cư, cộng cư như: Việt, Chăm, Gia Rai, Ê Đê... Nhưng bản sắc văn hóa Raglai mang nhiều sắc thái riêng, độc đáo và đa dạng của văn hóa tộc người và văn hóa vùng. Hiện nay người Raglai vẫn lưu giữ được một nền văn hóa truyền thống với những lễ hội đặc sắc như: Lễ tạ ơn, lễ ăn đầu lúa mới… đặc biệt là lbỏ mảđược xem là lễ đặc trưng nhất của tộc người Raglai.
Trong văn hóa truyền thống của người Raglai, lbỏ mả là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống tiêu biểu nhất, có nhiều nét đặc trưng nhất. Bởi lễ, chứa đựng hầu hết các thành tố văn hóa dân gian của người Raglai, từ phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn hóa dân gian, âm nhạc dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian. Mặt khác, lễ cũng thể hiện các quan niệm tâm linh của người Raglai về sự sống và cái chết về linh hồn.... Có thể nói, lbỏ mả là một trong hình thức sinh hoạt văn hóa hàm chứa nhiều giá trị truyền thống, góp phần hình thành bản sắc của riêng biệt của tộc người Raglai này.
Cũng như nhiều dân tộc khác, sự biến đổi về văn hóa là điều không thể tránh khỏi; đặc biệt trong những năm gần đây cùng với các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa; sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa đã làm cho văn hóa Raglai có nhiều biến đổi, nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa tộc của người Raglai là điều khó tránh, nếu không có biện pháp khắc phục, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của Raglai hiện nay.
Bên cạnh đó có những phương diện đánh giá, nhận xét và so sánh sự giao lưu tiếp biến về quan niệm, nét đặc trưng của người Raglai với một số dân tộc khác Ê Đê, Gia Rai, Chăm, Ba Na...
Do vậy, nghiên cứu văn hóa dân gian của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận, qua trường hợp lbỏ mả, vừa để tìm hiểu những giá trị trong văn hóa truyền thống của người Raglai, vừa góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa ấy.
Là người công tác trong ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có điều kiện tiếp xúc với văn hóa của tộc ngườiRaglai và với những nhận thức của mình, tôi chọn Đề tài: “Lễ bỏ mả của tộc người Raglai (Trường hợp nghiên cứu tại xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận)” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Raglai là một trong những tộc người tồn tại lâu nhất ở vùng đất Ninh Thuận, là một trong năm tộc người trong nhóm tộc người có cùng ngữ hệ Nam Đảo (Raglai, GiaRai, Ê Đê, Chăm và ChuRu), cư trú ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở tỉnh Ninh Thuận, người Raglai cư trú chủ yếu ở phía Tây huyện Thuận Bắc, huyện Bác Ái và một số ở huyện Ninh Sơn và huyện Thuận Nam. Người Raglai có những kho tàng văn hóa đồ sộ và phong phú, là đối tượng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Vì vậy, văn hóa Raglai ngày càng được nhà nước tạo điều kiện trong việc tìm hiểu và nghiên cứu. Trong thời gian qua các tộc người Chăm, Chu ru... đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhưng vẫn còn qúa ít công trình nghiên cứu về tộc người Raglai này. Những bài viết về Raglai được các nhà nghiên cứu khoa học đề cập và giới thiệu đến bạn đọc, họ chỉ giới thiệu khái quát một phần nào đó về văn hóa Raglai như: Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, tang ma, lễ hội, dòng tộc.... Nhìn chung các bài viết chỉ sơ lược về các vấn đề của tộc người Raglai, không đi sâu vào nghiên cứu một đề tài nhất định, điển hình như:
Lê Khắc Cường, Phan Văn Dốp, Nguyễn Văn Huệ, Phan Xuân Viện, Truyện cổ Raglai, Tập I, Nxb Khoa học Xã hội, 1990. Công trình bao gồm truyện thần thánh và truyện cổ tích, các truyện tập trung vào lý giải các hiện tượng trong tự nhiên như sự hình thành của trời đất, biển mặn, cây lúa… đến lý giải các mối quan hệ trong xã hội đặc biệt miêu tả về sự xuất hiện con người qua câu chuyện Kay Misiq và Muqpila (Nguồn gốc loài người).
Nguyễn Tuấn Triết, Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội năm 1991. Tác giả đã khái quát được những đặc điểm môi sinh và sự hình thành vùng cư trú cũng như vấn đề nguồn gốc lịch sử của tộc người; những đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa truyền thống; những biến đổi của xã hội tộc người Raglai qua các thời kỳ. Đây là chuyên luận đầu tiên giới thiệu tương đối đầy đủ về văn hóa, xã hội của người Raglai ở Việt Nam.
Phan Xuân Biên (chủ biên), Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ, Văn hóa xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1998. Công trình đã phác thảo bức tranh toàn cảnh về đời sống văn hóa và xã hội của người Raglai trong tiến trình phát triển qua các thời kỳ lịch sử.
Hải Liên, Trang phục cổ truyền Raglai, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001. Trong đó, tác giả dành toàn bộ cho việc nghiên cứu, so sánh các hóa văn, họa tiết, màu trang trí trên những bộ trang phục cổ của nam và nữ tộc người Raglai trong sinh hoạt ngày thường và trong ngày lễ hội. Ngoài ra, tác giả Hải Liên còn có 05 công trình nghiên cứu văn hóa Raglai do Viện Văn hóa dân gian và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Ninh Thuận tài trợ như: Lễ bỏ mả và lễ ăn đầu lúa mới dài 178 trang; trong đó, tác giả đi sâu phân tích, tìm hiểu ý nghĩa biểu tượng thuyền Kagor trên nóc nhà mồ của tộc người Raglai. Công trình lễ tang của tộc người Raglai ở cực Nam Trung bộ, dành nhiều trang phân tích, mô tả, so sánh lễ bỏ mả nhánh Raglai Bắc và Raglai Nam.
Phan Đăng Nhật (chủ biên), Luật tục Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, năm 2003. Công trình không chỉ sưu tầm, hệ thống và biên dịch các điều luật tục cổ truyền, mà còn cùng với các cấp chính quyền địa phương nghiên cứu, kế thừa luật tục truyền thống xây dựng các quy ước buôn làng mới, coi đó như là sự thể nghiệm việc ứng dụng luật tục trong việc quản lý cộng đồng.
Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á (2003), Những vấn đề văn hóa và ngôn ngữ Raglai, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh gồm 16 bài tham luận của các tác giả Việt Nam và nước ngoài trong hai cuộc hội thảo khoa học về văn hóa và ngôn ngữ của người Raglai, giới thiệu chung về người Raglai ở Việt Nam và bốn mảng đề tài chính là: Tổ chức dòng họ luật tục, nghi lễ và ngôn ngữ Raglai. Đối với chúng tôi, đáng chú ý là tham luận của tác giả người Pháp Charles Macdonald với đề tài "Một buổi cúng của người Raglai" dài 40 trang, trong đó, tác giả giới thiệu các nghi lễ cầu cúng của người Raglai rất da dạng, được sử dụng như một phương tiện cần thiết trong lễ nghi, tín ngưỡng của tộc người Raglai. Đây là những gợi ý giúp chúng tôi tiếp cận trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai.
Viện Khoa học Xã Hội Việt Nam (2004), Kho tàng sử thi Tây Nguyên – Sử thi Akhàt Jucar Ra-glai UDAI-UJàC (2 tập), Nxb Khoa học Xã hội. Công trình này đã phản ánh những nội dung lịch sử và xã hội liên quan nhiều đến người Chăm, quốc gia Chămpa và xa hơn là với ấn Độ.
Phan Quốc Anh, Văn hóa Raglai những gìcòn lại, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2007. Tác giả cho rằng, mục đích của lễ bỏ mả là giải thoát linh hồn người đã chết, để có cơm ăn nước uống, áo mặc trên đường về với ông, bà, tổ tiên ở thế giới bên kia, thể hiện tấm lòng của người sống làm tròn nghĩa vụ đối với người chết. Đây là những tư liệuquý giá giúp tôi có cơ sở thực hiện tốt đề tài luận văn này.
Phan Quốc Anh, Nghi Lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 2008. Công trình đề cập đời sống tâm linh, niềm tin tín ngưỡng thể hiện qua hệ thống nghi lễ, trong đó, nghi lễ vòng đời người Chăm, thông qua những nghi lễ của các giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời một con người, sự gắn kết giữa cá nhân với cộng đồng.
Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận, Lễ nghi nông nghiệp truyền thống của tộc người Chăm và Raglai tỉnh Ninh Thuận, Nxb Nông nghiệp, năm 2010. Công trình đề cập đến các lễ nghi nông nghiệp và các tư liệu sản xuất truyền thống bằng hình vẽ và hệ thống thủy lợi của tộc người Chăm và Raglai tại địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã tiếp cận được những bài viết về nghi lễ, tín ngưỡng của tộc người trên thông báo khoa học của Viện Văn hóa - Thông tin; tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật (9/2001). Trong đó tác giả Trần Quân đã miêu tả thuyền Kagor trong nghi lễ bỏ mả của tộc người Raglai và các nghi lễ bỏ mả khác của tộc người ở vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ, đây là tài liệu tham khảo có giá trị.
Gần đây, các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng đã có những nghiên cứu về tộc người Raglai trong mối quan hệ với các tộc người thuộc ngữ hệ Mã lai - Đa Đảo như các đợt khảo sát của tiến sĩ Charles Macdonal (người Pháp) với tập "Từ vựng Raglai - Pháp". Giáo sư, Tiến sĩ Toh Goda (người Nhật) với bài "Đường đến Raglai" đăng trên tạp chí của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh; những đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về văn hóa tộc người Raglai như: Dương Thị Hải Yến với đề tài "Tang ma của người Raglai", Văn Thị Thanh Nhàn "Quan hệ giới với gia đình mẫu hệ của người Raglai" năm 2005, Nguyễn Thị Thu Hương "Văn hóa quản lý xã hội ở cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái - Ninh Thuận”, Lê Như Hoa, "Thuyền và thuyền Kagor trong văn hóa Raglai”, Trần Kiêm Hoàng,"Yếu tố biển trong văn hóa Raglai”.
Tác giả Nguyễn Quang Lê có cuốn sách Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam, trong đó có bài viết về “Lễ hội bỏ mả theo phong tục của người Raglai ở vùng núi Ninh Thuận”, là tài liệu tham khảo khá bổ ích đối với tôi khi viết luận văn.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết về tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội, tập tục, trang phục.... của tộc người Raglai hoặc nói về người Raglai nhưng chỉ để so sánh khi nghiên cứu về tộc người Chăm, Ê Đê, Chu Ru, Gia Rai… được đăng trên các tạp chí, kỷ yếu, trên Internet của các nhà nghiên cứu, các học giả, các nhà báo...
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về tộc người Raglai chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu khái quát các lĩnh vực chung, chưa có những công trình chuyên sâu, kiểm kê, kiểm chứng và chứng minh kho tàng văn hóa tộc người Raglai, để từ đó hoạch định kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn, phát huy và làm giàu văn hóa truyền thống của tộc người này.Qua xem xét lịch sử vấn đề nghiên cứu cho thấy, đề tài “Lễ bỏ mả của tộc người Raglai (nghiên cứu trường hợp ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận) là đề tài mới, không trùng hợp với bất cứ đề tài nào đã có trước đó.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các thế hệ trước, kết hợp với sự nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát của bản thân trong quá trình học tập và công tác, tôi quyết định tìm hiểu về lễ bỏ mả của tộc người Raglai (Trường hợp nghiên cứu tại xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận).
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả luận văn mong muốn đạt tới mục đích tìm hiểu rõ hơn về lịch sử văn hóa của tộc người Raglai, đi sâu nghiên cứu, giải mã những hiện tượng văn hoá thể hiện trong lễ bỏ mả. Để từ đó phát hiện, tìm hiểu quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, về sự sống, sự chết của con người trong đời sống tâm linh, thể hiện qua phong tục tập quán, quá trình hình thành nên những nét văn hóa đặc trưng, hàm chứa những giá trị văn hóa của người Raglai.
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về lbỏ mả của người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận một cách toàn diện và hệ thống. Qua nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ diện mạo, giải mã nét văn hóatruyền thống lịch sử của người Raglai; đồng thời khắc họa rõ nét những đặc trưng về văn hóa truyền thống và những biến đổi của nó trong đời sống văn hóa xã hội người Raglai hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp tiếp tục việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Raglai ở xã Phước Chiến nói riêng, tỉnh Ninh Thuận nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là lbỏ mả của người Raglai, các quan niệm về linh hồn, về sự sống, về cái chết của người Raglai cũng như các phong tục, tập quán, tín ngưỡng và ảnh hưởng của chúng đối với đời sống xã hội của người Raglai.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu về tộc người Raglai ở Ninh Thuận và một số vấn đề lý luận chung về lễ bỏ mả;
Lễ bỏ mả của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận;
Những những giá trị trong lễ bỏ mả của người Raglai và so sánh sự giao lưu tiếp biến với một số dân tộc khác.
Phạm vi không gian nghiên cứu: Xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Ngoài ra có mở rộng so sánh nghiên cứu đến một số llỏ mả của tộc người khác
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Lễbỏ mả của người Raglai từ 10 năm trở lại đây, có sử dụng tư liệu của thời gian trước.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài có mã ngành là Văn hóa học nên phương pháp luận sử dụng trong luận văn này là phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học. Bên cạnh đó,chúng tôi có sử dụng kết hợp các phương pháp trong văn hóa học như: dân tộc học, sử học, văn hóa dân gian.
Nghiên cứu trường hợp là phương pháp định tính, lấy lễ bỏ mả của người Raglai ở xã Phước Chiến làm đại diện để đánh giá văn hóa truyền thống trong lễ tang của người Raglai nói chung
Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp cụ thể làđiền dã dân tộc học, khảo sát thực địa, tham dự, phỏng vấn, ghi âm, chụp ảnh để thu thập tư liệu; phương pháp tra cứu tư liệu, tổng hợp, phân tích, so sánh để đạt được mục đích của luận văn.
7. Bố cục của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về người Raglai.
Chương 2: Lễ bỏ mả của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3:Giá trị trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai.







CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI RAGLAI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm về lễ hội
Việt Nam là quốc gia đa tộc người, mỗi tộc người đều có những phong tục, tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhưng cùng sống trong điều kiện,nền văn hóa lâu đời. Do vậy có những nét tương đồng về tâm thức, văn hóa đã tạo nên một khối nhất thể trong đa dạng, hết sức phong phú - đó chính là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong đó, lễ hội là một yếu tố vừa mang tính đặc trưng, vừa đặc sắc trong tổng thể nền văn hóa dân tộc.
Trong những năm qua, lễ hội được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Do đó, có rất nhiều quan niệm khác nhau về lễ hội.
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex, Nhà xuất bản (Nxb) Đà Nẵng, 2008, tr.694 các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thành Hòa cho rằng lễ hội là “Cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống”.
Theo Từ điển lễ hội Việt Nam, tác giả Bùi Thiết cho rằng: "Hội lễ là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần và ứng xử, sự phản ánh những phong tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một cộng đồng làng, xã nhất định" [33,tr.15 - 48]
Về thuật ngữ hội lễ, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở về trước, các nhà nghiên cứu thường dùng thuật ngữ hội lễ để diễn đạt về lễ hội như quan niệm hiện nay.
Trở lại khái niệm lễ hội, các tác giả trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (Do hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002, tr. 674 đưa ra quan niệm: Lễ hội là hệ thống các hành vi, tác động nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng từ bao đời nay được quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “Nhân khang, vật thịnh”.
Các tác giả Lê Huy Trám, Hoàng Anh Nhâm trong công trình lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh (Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội-2001,tr. 11-15) đã đưa ra quan niệm trong việc nhận thức và nghiên cứu về lễ hội. Tác giả đã nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận lễ hội trong sự tổng thể chứ không tách phần lễ riêng và phần hội riêng. Cho đến nay, chúng ta dễ thống nhất với nhau: Lễ không phải chỉ là một hiện tượng đơn thuần, hoạt động độc lập tách biệt giữalễ và hội.Sự tách biệt đó là cần thiết, song, nó sẽ trở nên thiếu tính khái quát về con đường hình thành và phát triển của lễ hội truyền thống. Khi đó, chúng ta không thể cắt nghĩa đúng đắn và đầy đủ bản sắc dân tộc trọng các lễ hội.
Lễ hội của người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số đã từng gắn với các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo. Khi nghiên cứu về lễ hội Rija Nưgar của người Chăm, tác giả Ngô Văn Doanh quan niệm rằng: Lễ hội gắn với vòng đời người như cưới xin, một số nghi lễ tang ma như lễ nhập cút; một số lễ hội lớn tạ ơn thần linh được tổ chức lớn tại các đền tháp như lễ hội Katê; những lễ hội có nguồn gốc từ Hồi giáo của người Chăm Bàni như tháng chay Rammadan... Các lễ hội của người Chăm không chỉ phong phú, đa dạng mà còn có nguồn gốc từ những hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng bản địa khác nhau. Có những lễ hội thuần tuý chí là những lễ hội nông nghiệp như lễ hội cầu mưa (Yôr-yang)lễ hội khai mương đắp đập (Pơh băng yang).
Qua phân tích các công trình trên, khi bàn về khái niệm lễ hội của người Kinh và của các dân tộc thiểu số các tác giả có điểm chung về lễ và hội. Tuy nhiên, ở mỗi cộng đồng người có những biểu hiện cụ thể và những biểu hiện ấy phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội ở cộng đồng tộc người đó.
Như vậy, lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian cộng đồng, diễn ra trong những chu kỳ về không gian và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng về sự kiện và nhân vật. Những hoạt động này nhằm để thỏa mãn những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong cộng đồng. Lễ hội là những hoạt động, những sinh hoạt văn hóa mà ở đó có sự gắn kết không thể tách rời cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản là lễ và hội. Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn có một số thành tố khác như: Các trò diễn dân gian, diễn xướng, hoạt động văn hóa và ẩm thực... Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó, để đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng, chứ không chỉ phục vụ lợi ích của riêng những người tổ chức hoạt động lễ hội.
Theo quan điểm của nhiều tác giả, lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại. Đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã hội.
Lễ bỏ mà là gì? Tiếng Raglai là gì?
1.1.2. Quan niệm về lễ bỏ mả
Đối với hầu hết các dân tộc trên thế giới, cái chết là một chủ đề và mối bận tâm hàng đầu của con người: Vì sao chết, cuộc sống sau khi chết sẽ như thế nào, con người sẽ đi về đâu?... và tất nhiên, mỗi dân tộc, mỗi tộc người, mỗi tôn giáo đều có cách lý giải và cách ứng xử riêng đối với vấn đề “Chết”. Tộc người Raglai cũng không nằm ngoài hiện tượng chung mang tính nhân loại đó. Họ cũng có những quan niệm riêng, cách ứng xử riêng đối với cái chết của những con người trong cộng đồng.
Quan niệm của tộc người Raglai sau khi chết, linh hồn con người sẽ về thế giới bên kia được sống với tổ tiên. Nhưng, linh hồn của người chết không đi khỏi, không sống hẳn ở thế giới bên kia, mà sẽ trở tái sinh trở lại làm người. Vì vậy, đối với tộc người Raglai, chết không phải là hết, mà chết chỉ là chuyển trạng thái sống của một cá thể: Từ trạng thái vật chất sang trạng thái siêu hình, để sau một thời gian lại chuyển từ trạng thái siêu hình về trạng thái vật chất.
Vì tin rằng khi chết linh hồn của người chết sẽ sống ở thế giới khác - thế giới bên kia của ông, bà tổ tiên - nên người Raglai có tục làm lễ bỏ mả để đưa tiễn linh hồn người chết, để linh hồn đó được chuyển sang trạng thái sống. Chỉ sau lễ bỏ mả đó, linh hồn người chết mới hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc với người sống, mới thực sự đi đến “quê hương” mới của mình. Người sống được giải phóng thực sự khỏi mọi liên hệ với người chết. Vì thế tộc người Raglai gọi buổi lễ đó là lễ bỏ mả.
Lễ bỏ mả của tộc người Raglai được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng đa thần. Họ tin rằng thế giới tự nhiên là do một thần linh tối thượng tạo ra, đó là Giàng (Yang) tức là Trời. Mỗi sự vật hiện tượng đều có các thần linh khác cai quản như: Thần sông, thần núi, thần mặt trăng, thần mặt trời. Tín ngưỡng của tộc người Raglai mang màu sắc đa thần giáo. Họ cho rằng vạn vật hữu linh và linh hồn là có thật. Sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại không ở dạng vật chất mà trú ngụ trong phần xác người chết, vẫn có thể tâm tình và gần gủi với người sống. Chỉ sau khi lễ bỏ mả kết thúc, người chết mới ra đi vĩnh viễn, không còn mối quan hệ với người sống. Và, dường như cuộc sống sau khi chết đối với tộc người Raglai cũng giống như là một cuộc sống trước lúc họ chết.
Do xuất phát từ ý niệm đó, mà lễ“bỏ mả” của người Raglai được hình thành. Người Raglai quan niệm, khi bắt đầu cuộc sống mới ở thế giới bên kia, người chết sẽ không thể sống thanh thản và đầy đủ nếu thiếu lễ bỏ mả. Chính vì vậy, lễ bỏ mả là một trong nghi lễ quan trọng trong nghi lễ vòng đời của tộc người Raglai.
1.1.3. Đặc điểm của lễ bỏ mả.
Thông qua các nghi lễ tín ngưỡng và lễ bỏ mả của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tín ngưỡng của tộc người Raglai mang nặng tính huyền ảo và lối tham chiếu trong quan hệ người - vật, người - thần, nên họ thờ rất nhiều thần linh. Trong tín ngưỡng của lễ bỏ mả tộc người Raglai cũng sùng tín và tôn thờ rất nhiều thần linh khác nhau như: Nhiên thần, nhân thần, đến cả thần bản mệnh của chính họ.
Thứ hai, lễ thờ cúng trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai mang tính phồn thực, xuất phát từ yếu tố thiêng để mong đổi lại sự bình yên và no đủ. "Khi thực hành các nghi lễ cúng tế, con người cảm thấy được thần thánh chứng giám, bảo vệ, giúp họ vượt qua những khó khăn và bệnh tật” [34,tr.31]
Thứ ba,các nghi lễ, phong tục của tộc người Raglai hình thành trên nền tảng của đời sống kinh tế nông nghiệp. Chính vì vậy, đối tượng thờ cúng trong các loại hình tín ngưỡng dân gian của tộc người Raglai nói chung và lễ bỏ mả là đa thần, trong đó chú trọng đến các vị thần thiên nhiên. Mặc dù chủ thể thần linh của lễ bỏ mả là các nhân thần, nhưng nhiên thần vẫn có một vị trí đặc biệt.
Thứ tư, lễ bỏ mả diễn ra rất mộc mạc, nhưng ẩn đằng sau là những quan niệm đầy tính nhân văn về cội nguồn con người, về sự sống và cái chết, ẩn chứa những triết lý nhân sinh, vũ trụ luận của tộc người Raglai.
Thứ năm, lời cúng bỏ mả - một loại hình văn hóa dân gian đặc biệt, làm cho linh hồn ra đi một cách dễ dàng về thế giới bên kia. Bên cạnh đó, còn có ý nghĩa là phương tiện giải bày mang tính nghệ thuật, những ước mong của con người. Vì vậy, những lời khóc than, những lời cầu khấn trở thành một thể loại văn học dân gian không chỉ đặc biệt mà còn có giá trị lớn về nhiều mặt văn hóa nghệ thuật.
Lời cúng tang ma của người Raglai mang những nét giống với lời cúng tang ma của một số tộc người ở Tây nguyên. Song, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, lời cúng tang ma của người Raglai có những nét đặc trưng được biểu hiện nghệ thuật độc đáo của riêng họ.
Xét về cấu trúc, những lời cúng bỏ mả thường gồm những phần sau:
 - Gọi, báo cho hồn ma và tổ tiên.
 - Nói mục đích những việc làm của người sống cho người chết.
            - Nói ước muốn của người sống.
Ba phần trên cũng có thể tách ra và cũng có thể hòa lẫn vào nhau. Ví dụ, lời cúng trong lễ bỏ mả của người Raglai mà chúng tôi tìm hiểu được có nội dung như sau:
"Tôi xin chắp hai tay, thỉnh mời ngài ngự về mâm lễ, hưởng các lễ vật dâng cúng, cầu ngài ban cho mọi sự bình yên, cho con cháu họ hàng gần xa, cùng nguyện làm lễ bỏ mả, cho ông, cho cha… ngày mai đây, cầu xin ngài cho cầm dao, chắc dao, cầm rìu, chắc rìu, cầm rựa, chắc rựa, đốn cây, chặt củi, gọt bầu, gọt bí, thái rau, nấu cơm, canh thịt đều chín, ngon. Tôi tớ chắp hai tay lạy ngài, đừng để cho kẻ xấu gan, làm điều ác, hại đến lễ bỏ mả". (Phụ lục số…)
Như mọi lời cúng khác, lời cúng bỏ mả là biểu hiện truyền thống mang nội dung về tang ma. Song, những lời cúng đó mang tính ứng tác, tính cảm xúc gần với thơ ca trữ tình dân gian. Cũng nhờ những đặc trưng hay ý nghĩa ma thuật của những lời cúng bỏ mả, cho nên, nó vừa giữ được truyền thống xưa, vừa được sáng tác và thể hiện sống động phù hợp với từng hoàn cảnh.
Tộc người Raglai quan niệm về cái chết thật đơn giản và độc đáo: Chết là sự tái sinh sang sống ở một thế giới khác dưới một dạng khác. Ở thế giới bên kia (một thế giới đối lập hoàn toàn với thế giới của người đang sống), đêm là ngày, ngày là đêm, đẹp là xấu, cùn là sắc, ngược là thuận... Người chết vẫn là người, nhưng chỉ như cái bóng chứ không phải có thân xác vật chất và có cuộc sống như người sống (cũng làm việc, cũng có gia đình hàng xóm, cũng đau ốm, già rồi chết). Sau khi chết, hồn ma hòa vào đất để rồi sẽ tái sinh thành người. Vì thế, nội dung nghi lễ của những lời cúng bỏ mả là những lời vĩnh biệt lưu luyến, những lời dặn dò cảm động, những câu thông báo ngắn gọn về những việc mà người sống đã làm cho người chết, là những lời ước nguyện chân thành thực tế,đó là một ngày hội cộng cảm cuối cùng của người sống chia tay vĩnh viễn với người chết và là cuộc tiễn đưa người chết ra đi về với thế giới bên kia.
Trước khi đọc lời cúng bỏ mả, người sống phải làm tất cả những gì cần thiết cho người chết như: Làm nhà mả mới, chia của, chuẩn bị bữa ăn cộng cảm cuối cùng; chuẩn bị những đồ cúng và những vật tượng trưng: Ché rượu, ngọn mía, cây chuối... sau khi dân làng đã ăn xong bữa cơm cộng cảm cuối cùng với người chết thì lời cúng được cất lên trong một tâm trạng và một hoàn cảnh sáng tác thật đặc biệt. Người cúng vừa là người thân thiết của người chết, lại vừa phải nhập vai thầy cúng,tình cảm của người cúng là tình cảm thưc sự, phải tuân theo nghi thức tang ma truyền thống. Vì thế, lời cúng vừa chứa đựng trong mình cả công thức truyền thống của cộng đồng, lẫn cảm xúc riêng tư. Hành động cuối cùng mà người cúng làm sau khi đọc xong lời cúng đó là bẻ gãy Gai toah (cây gậy thần) làm đôi ở giữa đường (có nghĩa là âm - dương cách biệt).
Nghi thức của những lời cúng bỏ mả là một phần bức tranh đặc thù về tang ma của tộc người Raglai. Vì thế, yếu tố ma thuật của những lời cúng bỏ mả chủ yếu là những lời thông báo, những câu dặn dò, những lời ước nguyện chân thành thực tế. Hơn thế nữa, những lời cúng bỏ mả chỉ là cái khung quy định truyền thống để cá nhân có quan hệ và tình cảm trực tiếp với người chết thể hiện cảm xúc của mình. Cho nên, có thể nói, những lời cúng bỏ mả của tộc người Raglai nghiêng về những ứng tác biểu lộ cảm xúc dưới dạng văn vần. Từ những đặc trưng trên, chúng tôi cho rằng lời cúng bỏ mả là một trong những đặc điểm của lễ bỏ mả của người Raglai.
Thứ sáu, nghệ thuật diễn xướng và biểu diễn trong lễ bỏ mả. Trong nghệ thuật diễn xướng, yếu tố nước xuất hiện ở các câu chuyện khá nhiều, trở thành hình ảnh thân thiết, gần gũi với người dân, điều này chứng tỏ tầm quan trọng của nguồn nước đối với đời sống của tộc người Raglai. Khi sáng tạo nên truyền thuyết về thể loại nào, các nghệ nhân thường có xu hướng lấy một vật thể có thật trong vũ trụ như:Mặt trăng, mặt trời, con sông, con suối và biển… đặt tên cho các nhân vật.
Những câu chuyện cổ trong nghệ thuật diễn xướng của tộc người Raglai là tấm gương phản chiếu khá phong phú và trung thực với đời sống cộng đồng. Khi hát kể về các nhân vật không miêu tả chi tiết, những người nghe vẫn hình dung được toàn cảnh bức tranh về cuộc sống xã hội của tộc người Raglai, từ ngôi nhà sàn đến chiếc gùi, bầu nước, con thuyền... đều chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh là niềm tin và là chỗ dựa về đời sống tinh thần của tộc người Raglai nơi đây.
Trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai thông thường những nhà có điều kiện mới làm được thuyền Kagor, mới rước thầy cúng, nghi lễ linh đình; nếu đám tang của người già không có Kagor thì bị quở trách..
“Nhà có đám tang to
Già thì hơn trăm tuổi
Sao không có Kagor
Rước hình nhân hình tượng
Để ông, bà quở trách
Không vẹn nghĩa đến cùng…”
Diễn xướng trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai kéo dài ba đến bốn ngày, đêm, hát cho người đã khuất, hát tiễn đưa Kagor....
"Hò...hò...tôi khóc tiễn đưa anh đi
Trên con thuyền mang theo tất cả
Của muôn vàn sự sống ở bên anh
Thuyền đưa anh về với sông với biển
Về ông, bà cha mẹ của ngày xưa..."
Ca từ mộc mạc, dễ hiểu, điệu nhạc trầm, buồn khiến cho người nghe cảm giác nao lòng bởi những tình cảm của người còn sống thể hiện đối với người đã khuất. Nội dung của bài diễn xướng trong lễ tiễn đưa thuyền Kagor là những lời thỉnh cầu, điều mong ước, niềm tin của gia đình, dòng tộc và bà con,dân làng đối với các vị thần đưa con thuyền về thế giới cực lạc vĩnh hằng.
Âm nhạc, theo quan niệm của tộc người Raglai, mỗi chiếc Mã la là một vị thần, chỉ có âm thanh của Mã la có thể thay tiếng nói của con người để giao tiếp với thần linh. Do đó, Mã la có vai trò chủ đạo của âm nhạc trong các nghi lễ, đặc biệt là lễ bỏ mả, lễ đưa tiễn thuyền Kagor. Âm nhạc của tiếng Mã la trong lễ rước thuyền Kagor như mời gọi các vị thần linh về chứng giám cho lễ rước thuyền lên nhà mồ, tiễn đưa linh hồn người chết về thế giới xa xưa. Đoàn Mã la đi quanh thuyền Kagor theo ngược kim đồng hồ, có nghĩa là quay ngược thời gian.
Múa là một nghệ thuật truyền thống sinh hoạt trong đời sống và được tổ chức trong các nghi lễ như: Bỏ mả, ăn mừng lúa mới, lên nương.... Múa trong nghi lễ bỏ mả xuất hiện liên tục trong quá trình diễn ra, từ các nghi lễ múa đầu tiên là các thầy cúng đều chuyển tư thế, động tác và hành động của người sống sang thế giới của người âm. Nhằm dẫn nhập linh hồn của người chết được siêu thoát, đây chính là thông điệp giữa người sống và người chết. Những điệu múa này của các thầy cúng giống như múa lên đồng của người Kinh.
Múa tiễn đưa thuyền Kagor gồm những cô gái ở tuổi chưa lập gia đình, được xếp thành hàng từ năm đến bảy người đi song song với hàng Mã la. Sau nghi lễ múa cúng của các thầy cúng ở con thuyền Kagor, thầy cúng dùng Gai toah chỉ về phía nhà mồ, sáu người con trai khỏe mạnh đặt thuyền Kagor lên vai, lúc này đội Mã la đánh nhạc và các thiếu nữ bắt đầu uyển chuyển múa từng bước đi nhịp nhàng, hai tay chấp lậy và đẩy khỉu tay về phía sau theo nhịp chèo thuyền, lướt sóng, cứ như vậy cho đến khi thuyền Kagor được đưa lên nhà mồ thì kết thúc phần múa tiễn.
Thứ bảy, lễ bỏ mả của tộc người Raglai phản ánh chân thực về tính cộng đồng sâu sắc.Ở các tộc người khác, một nhà có tang thì họ hàng tới chung tay lo mọi việc, những người khác thường chỉ đến viếng. Riêng với tộc người Raglai, ngoài những người thuộc họ hàng, hầu như cả cộng đồng dân cư đều tự nguyện đến làm giúp: Làm nhà mồ mới, làm Kagor, làm rạp mả, sạp lễ, tấu Mã la, mổ heo, thịt trâu… tham gia nấu nướng, quét dọn và tiếp khách... Ngoài người dân ra, chính quyền và cả cán bộ thôn, xã cũng đứng ra gánh vác các công việc tổ chức.
Trong những ngày này, người Raglai tổ chức nhiều bữa ăn cộng đồng. Bao giờ tộc người Raglai cũng chuẩn bị món ăn cho từng người nên chén, bát rất nhiều, người phục vụ cũng không thể ít, có khi chuẩn bị cho vài trăm người ăn cũng phải có hàng chục người phục vụ. Người ta chia ra nhiều đợt ăn, kéo dài hàng vài tiếng đồng hồ và đặc biệt có rất nhiều khách không mời mà vẫn tự nguyện đến chung vui, số này đông gấp chục lần số người trong lễ hội. Đó là hàng ngàn thanh thiếu niên Raglai từ khắp xóm gần làng xa ở trong và ngoài làng nghe tin, kéo tới đông nghẹt trong đêm rước "ma" về nhà.
Ngoài ra, lễ bỏ mả của người Raglai còn có đặc điểm là tùy trường hợp và điều kiện của người chết mà có tục hành lễ khác nhau như chết non, chết bệnh tật, chết già... có thể sơ lược như sau:
Đối với trẻ chết dưới một tuổi thì chỉ cúng một lần rồi đem chôn, không làm tuần 3 ngày, 10 ngày, một tháng hoặc làm lễ bỏ mả như người từ 15 tuổi trở lên. Tuy nhiên, đối với những nhà kinh tế khá giả, họ vẫn có thể làm lễ tang như người lớn (nhưng số này rất ít).
Đối với trẻ chết ở độ tuổi từ 1-10 tuổi thì lễ tang ma như người lớn. Đa số thực hiện lễ theo từng người. Tuy nhiên, một số khác có thể kết hợp làm đám bỏ mả chung với người lớn (hai hoặc ba người). Do đó, lễ vật cúng và số lượng thầy cúng cũng theo tỉ lệ thuận với số lượng người chết. Một số khác vì gia đình quá nghèo, họ chỉ cúng vài lần sau khi chết rồi bỏ luôn mà không làm lễ bỏ mả theo phong tục cổ truyền sau một đôi năm (Buđhi atâu) hoặc một tháng (Budhi bilat).
Đối với những người lớn đã biết chắc là chết, mất tích, tại nhà, người ta không làm tuần, cúng theo ngày tháng chết (vì không biết chết vào ngày nào) nhưng vẫn thực hiện đầy đủ các nghi thức của một lễ bỏ mả. Ở trường hợp này, người ta phải đẽo một hình nhân bằng gỗ, thay cho người đã chết để cúng lễ, đưa vào hòm chôn cất rồi sau đó làm lễ bỏ mả.
Trong gia đình, nếu chồng chết trước, mọi việc lo liệu, chủ trì tang lễ từ đầu đến cuối đều do vợ và phía bên nhà vợ lo toan hết mọi chuyện. Thân tộc đằng trai chỉ đến ngồi dự các lễ tang, trao đổi bàn bạc, ăn uống không đụng tay vào bất cứ việc gì (hiện nay đã có sự thay đổi, bên đằng trai đã có người tham gia trợ giúp, lo liệu phần nào).
Nếu vợ chết trước, họ hàng phía bên vợ phải đứng ra lo liệu tất cả, chồng chỉ cùng bên đằng gái đóng góp công sức.
Theo tục lệ, sau khi vợ chết, người chồng phải trở về với tộc họ của mình (phía mẹ đẻ), gia tài, con cái đều ở lại nhà cũ, phía mẹ. Nếu người chồng muốn ở lại với con cái phải làm mâm lễ, xin với họ bên mẹ và họ vợ để được ở lại với con cháu. Đối với trường hợp không muốn ở lại bên nhà vợ, bên đằng gái phải cử người dẫn ông ta đi trả rể với một mâm lễ rượu, thuốc, bánh, trái cây. Nếu con cái nghĩ tình cha, chúng sẽ mang theo vài gùi lúa, bắp làm qùa hoặc sẽ nhượng lại cho cha mình một cái rẫy để tiếp tục làm ăn sau khi trở về với họ hàng.
1.2. Khái quát về tộc người Raglai
1.2.1. Thành phần dân tộc, dân số và địa bàn cư trú
Tộc người Raglai là một trong nhóm ngôn ngữ Nam đảo thuộc ngữ hệ (Malayo – Polinesien) ở Việt Nam, với dân số 122.245 nghìn người, trong đó, Ninh Thuận có số dân 58.911 người, riêng huyện Thuận Bắc 67.79 người và xã Phước Chiến 4950 người. Tộc người Raglai đứng thứ 19 trong 54 dân tộc ở Việt Nam, chiếm khoảng 51,2% dân số các dân tộc thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận.
Tên tộc người này được các tài liệu phiên âm và dùng các ký tự khác nhau như: Radlai, Oranglai, Rolai, Raglai, Rắc lây… tộc  người Raglai cư trú ở vùng núi cao dọc sông suối, dọc cuối thuộc dãy trường sơn ở một số tỉnh Nam Trung bộ. Điều kiện giao thông đi lại khó khăn, yếu tố văn hóa truyền thống chưa được nghiên cứu nhiều.
Cho đến nay, các nhà khoa học còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc lịch sử phát triển của tộc người Raglai. Đặc biệt là thời kỳ cổ đại của người Raglai cũng như các dân tộc thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, khối dân cư Mã Lai - Đa Đảo ở nước ta có cũng nguồn gốc với cư dân thế giới đảo Đông Nam Á và người Raglai cũng đến từ thế giới hải đảo ấy. Trong khi đó đại đa số lại thiên về luận thuyết của các nhà dân tộc học người Nga trước đây, đại diện là N.Trêbôcxarốp cho rằng khối cư dân Mã Lai - Đa Đảo vốn từ các đảo vùng biển Nam Trung Quốc di cư xuống vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, đoàn quân di cư đi qua đất liền Đông Dương, rồi từ đó di cư ra hải đảo Đông Nam Á. Các dân tộc Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam ngày nay bao gồm: Chăm, Giarai, Êđê, Raglai, Churu là đội hậu bị, là "cái đuôi” của đoàn quân di cư đó. Bên cạnh giả thuyết trên, có một ý kiến cho rằng, trên đường di cư từ các quần đảo Nam Trung Quốc xuống vùng đảo Đông Nam Á đã có một bộ phận rẽ vào đất liền Việt Nam, sáng tạo nên một nền văn hóa thuộc thời đại kim khí ven miền duyên hải Việt Nam ngày nay, đó là tổ tiên của các dân tộc Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam [11, tr.1-2].
Dù còn có nhiều vấn đề tranh cãi về lịch sử hình thành tộc người Mã Lai - Đa Đảo. Nhưng nhìn chung, một điều chắc chắn là nhóm tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa Đảo đã xuất hiện khá sớm và phân bổ trên một địa bàn rộng lớn thuộc vùng Đông Nam Á, đến tận Madagascar, Indonêsia, Đài Loan... Tổ tiên của người Raglai có thể là con cháu của nhóm người Mã lai - Đa đảo cổ này. Trong quá trình di cư đến Việt Nam, nhóm dân cư này đã phân chia thành hai nhóm sinh thái - nhân văn. Một nhóm sống ở ven biển, nhóm còn lại cư trú sâu trong đất liền, thích nghi với điều kiện thiên nhiên miền núi. Người Raglai thuộc nhóm thứ hai, dù rằng có một số tài liệu có đề cập đến việc họ đã từng sống ở vùng ven biển, nhưng thời gian lưu trú ở khu vực ven biển là không đáng kể.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, hiện nay đang tồn tại hai cách phân vùng văn hóa Raglai như sau:
Cách phân vùng thứ nhất chủ yếu dựa trên địa giới hành chính: Nhóm Raglai Bắc có nhiều nét khác biệt là nhóm Raglai ở huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh ở tỉnh Khánh Hòa, nhóm Raglai Nam là nhóm Raglai còn lại ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Đây là cách phân vùng của một số tác giả nghiên cứu về tộc người Raglai như J.Shorck, V.Cobbey, L.Lee. Mở đầu là cuốn sách viết về dân tộc ít người ở Miền Nam của Bộ Quốc Phòng Mỹ, xuất bản năm 1996, đã chia tộc người làm hai nhóm: Raglai Bắc và Raglai Nam, nhưng sự phân biệt ấy chỉ có ý nghĩa về mặt địa lý hành chính đơn thuần.
Cách phân vùng thứ hai là cách phân vùng của văn hóa truyền thống, cách phân vùng này lấy Quốc lộ 27 tỉnh Ninh Thuận làm ranh giới: Từ phía Bắc Quốc lộ 27 trở ra Khánh Hòa là nhóm Raglai Bắc bao gồm bà con Raglai ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa và các huyện Thuận Bắc, Bác Ái ở Ninh Thuận. Từ phía Nam Quốc lộ 27 trở vào đến Bình Thuận là nhóm Raglai Nam bao gồm bà con Raglai ở các huyện Ninh Sơn, Thuận Nam của tỉnh Ninh Thuận và huyện Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc của tỉnh Bình Thuận, một số làng Raglai ở Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng. [5,tr.26-27]
Theo chúng tôi, cách phân vùng thứ hai là hợp lý hơn cả. Bởi vì qua quá trình điều tra nghiên cứu cho thấy, văn hóa truyền thống của người Raglai khu vực phía Bắc so với văn hóa truyền thống của người Raglai khu vực phía Nam, ngoài những nét tương đồng chung, cũng có những biến đổi dẫn đến mức độ đậm nhạt và có sự khác biệt tương đối rõ nét. Tuy nhiên, sự phân chia ấy cũng chỉ là một sự quy ước.
1.2.2. Khái quát về văn hóa truyền thống
Tộc người Raglai coi trọng đời sống văn hóa, trong văn hóa truyền thống của người Raglai đã phải trải qua quá trình lịch sử lâu dài từ thế hệ này sang thế hệ khác điều đó tạo nên giá trị di sản văn hóa và đặc biệt là tạo nên bản sắc văn hóa riêng của tộc người, qua đó đã góp phần làm giàu văn hóa truyền thống cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Trong đó lễ bỏ mảcủa tộc người Raglai là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống tiêu biểu, có nhiều nét đặc trưng nhất và được xem là tài sản vô cùng quý giá nhất đối với họ. Bởi lẽ, lễ chứa đựng hầu hết các thành tố văn hóa dân gian của người Raglai, từ phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn học dân gian, âm nhạc dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian. Mặt khác, lễ cũng thể hiện các quan niệm tâm linh của người Raglai về sự sống, về cái chết, về linh hồn, cách ứng xử với linh hồn... Có thể nói, lễ bỏ mả là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa hàm chứa nhiều giá trị văn hóa truyền thống, góp phần hình thành bản sắc độc đáo của tộc người Raglai. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong cộng đồng mà ở đó có sự gắn kết không thể tách rời cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản đó là lễ và hội. Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn có một số thành tố khác như: Các trò diễn dân gian, hoạt động văn hóa ẩm thực... Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó, để đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng, chứ không chỉ phục vụ lợi ích của riêng những người tổ chức hoạt động lễ hội.
1.1.3. Tín ngưỡng và quan niệm của tộc người Raglai
Người Raglai xưa nay không theo tôn giáo nào. Tín ngưỡng của tộc người Raglai là tín ngưỡng bản địa với quan niệm vạn vật hữu linh, họ bị chi phối bởi tín ngưỡng đa thần và quan niệm tất cả mọi vật đều có linh hồn, có thần linhvà cho rằng thế giới gồm ba tầng: Tầng trời, mặt đất và dưới mặt đất. Họ xem thần núi và linh hồn của người chết là những vị thần quan trọng vào bậc nhất. Thần Mặt trời là vị thần tối cao ở tầng trời và ông bà, tổ tiên cũng được họ xem là thần linh, thuộc tầng trời. Khi gặp khó khăn đau ốm, dịch bệnh hay trắc trở gì, họ thường cầu sự giúp đỡ của những thần linh ở tầng trời này. Ở phần ranh giới giữa tầng trời và mặt đất, có tám vị thần chăm lo cho số mệnh của từng người, trong số đó, có thần lành và thần dữ. Nếu được thần lành che chở thì con người sẽ được nể trọng, làm ăn thuận lợi và ngược lại. Nhìn vào số phận của một đứa bé bốn, năm tuổi người ta có thể đoán biết được vị thần nào là người bảo hộ chúng và họ sẽ có những nghi thức, những lễ vật hiến sinh tượng trưng để bày tỏ sự tạ ơn hay cầu khẩn các vị thần đó. Hình thức trừng phạt cao nhất của các thần đối với con người là làm cho họ chết và gây bệnh tật cho hàng loạt người trong dòng tộc. Chính vì vậy, họ rất tôn trọng các thần và không được phép làm những điều được coi là có tội với các thần như: Quan hệ tình dục trước hôn nhân, loạn luân... Nếu có phạm tội thì phải tổ chức cúng thần linh và nộp phạt cho làng “Palay” để xin thần tha tội.
Trong khi tin tưởng vào các thế lực siêu nhiên (thần núi, thần rừng, ma qủi...), có khả năng gây tai họa cho con người, thông qua cúng lễ và thực hiện những kiêng kỵ nhằm tránh xúc phạm đến các thế lực siêu nhiên ấy, ở tộc người Raglai đã hình thành loại hình tín ngưỡng Saman giáo với một tầng lớp Saman mà họ gọi là pơjâu và phần lớn các pơjâu người Raglai là nam. Có quan niệm cho rằng, trước khi trở thành pơjâu những người này dường như bị mắc chứng động kinh nhẹ và do những chứng động kinh hành hạ mà họ thường chạy vào rừng nhiều ngày đêm trước khi họ trở về trạng thái bình thường. Các pơjâu thường lên đồng và báo cho người bệnh biết nguyên nhân của bệnh và thực hiện các nghi thức chữa bệnh dưới hình thức chủ yếu là cúng tế. Những trường hợp sau đây người ta phải nhờ đến pơjâu: Trẻ con bị bệnh, nhất là có kèm theo cơn động kinh, khi đi chọn rẫy hay phát rẫy về mà bị bệnh, mơ thấy điềm gở... Trong những công việc mà người Raglai phải vào rừng sâu săn, bắt, tìm sáp ong... thì việc tìm sáp ong là nguy hiểm nhất. Vì vậy, người đi tìm sáp ong thường nhờ đến các pơjâu “làm phép” để giúp họ tránh được thú dữ, rắn rết cũng như không bị ma qủi bắt hồn, thần linh quở phạt.
* Quan niệm về vũ trụ
Trong quan niệm cổ truyền, vũ trụ được người Raglai chia thành ba tầng, bao gồm: Tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất.
tầng trời (cachua pava), không gian thì hữu hạn, còn thời gian là vô hạn bởi đây là nơi ngự trị của các vị thần. Nơi cao nhất của tầng trời là mặt trời; còn nơi thấp nhất, chỗ tiếp giáp với tầng mặt đất là ở đâu thì không ai xác định rõ ràng. Trong sử thi Raglai kể lại những người anh hùng Raglai đến các tầng trời để cầu hôn những người con gái của xứ sở thần mặt trời đều đi bằng ngựa thần bay, trên tê giác bay... Nhưng không được nghe, mà phải vượt qua một con sông, ngọn núi cụ thể.
Tầng mặt đất (khrah pava) là nơi sinh sống của con người, là khung cảnh quen thuộc với thung lũng, núi rừng, ruộng nước, rẫy nương; là palay, là lagar của họ. Thời gian và không gian ở tầng mặt đất hữu hạn bởi cuộc đời con người.
Tầng dưới mặt đất, trong lòng đất (tiluiq pava) là nơi ở của những người lùn. Nơi đó giống người này vẫn sinh sống, lấy vợ gả chồng, sản xuất như người ở tầng mặt đất. Nhưng ở đây mọi vật đều thu nhỏ lại. Súc vật trong nhà như con giun, con dế trên mặt đất; trâu, bò chỉ bằng mèo, chó.
Trong quan niệm của người Raglai, tầng dưới lòng đất không phải là thế giới của siêu nhiên, không phải là cõi âm ty địa ngục như quan niệm của người Kinh. Tầng trong lòng đất và tầng mặt đất vốn có lối thông thương, qua lại. Trong dân gian, tộc người Raglai vẫn còn lưu truyền câu chuyện về một chàng trai Raglai đã xuống thế giới lòng đất trong một dịp anh ta tìm củ mài để kiếm ăn do gặp mùa giáp hạt. Sau khi nhổ gốc củ mài lớn, một lỗ hỏng xuất hiện dưới gốc bụi mài. Theo lỗ hổng, anh xuống thế giới lòng đất. Tại đây, chàng trai Raglai đã cưới một cô gái xinh đẹp. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn chính là việc ăn uống ở đây không như tầng mặt đất. Những con vật anh dùng làm thực phẩm hàng ngày như gà, vịt nay chỉ như con giun, con dế. Trong quá trình sống ở tầng dưới lòng đất, anh ta phát hiện ở đây có một giống cây mía đặc biệt, thân cây mía cao, mập và chắc chắn. Anh đã bảo vợ trồng bụi mía bên dưới lỗ hổng, nơi trước đây anh đã đi xuống. Khi cây mía cao, ngọn mía vượt qua lỗ hổng, chàng trai Raglai leo theo cây mía để trở về quê cũ của mình...[30,tr.2].
Trong vũ trụ 3 tầng trình bày ở trên, tộc người Raglai ở Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận quan niệm chung quanh họ luôn hiện hữu ba thế giới: Thế giới ông bà (laga mokei), thế giới trần gian (lagar) và thế giới thần linh (lagar Yang). Thế giới trần gian là thế giới của con người, thế giới ông bà là của tổ tiên. Hai thế giới trần gian và ông bà tách biệt bởi cái chết  (matai) của con người. Con người và ông bà chỉ sống trong tầng mặt đất. Người Raglai quan niệm tại thế giới của mình, ông bà cũng phải làm nương rẫy, cũng sinh hoạt như con người nhưng hoàn toàn trái ngược với thế giới trần gian. Bên này là xấu, bên kia là đẹp, bên này là ngắn, bên kia là dài. Vì vậy, có tục khi chia của cải cho người chết về với thế giới ông bà thì:Ché phải đập bể, Mã la phải đập cho đến khi biến dạng...
Thế giới thần linh bao trùm cả thế giới ông bà và thế giới trần gian. Các thần linh có thể ngao du đây đó, gieo rắc tai họa hay ban phúc lành đến cho con người. Vị thần tối thượng ở thế giới ông bà, ở tầng dưới là Aluah có quyền năng ban hành cho con người đầu thai kiếp sống khác. Đây có thể là manh nha của hiện tượng nhất thần trong tín ngưỡng của người Raglai ảnh hưởng của văn hóa Ấn độ qua giao lưu với văn  hóa Chăm.
Con người ở thế giới trần gian cũng có thể tự mình tiếp xúc với thần linh qua những lời cầu khấn ở các lễ thông thường. Trường hợp cần đến việc giải bùa chú của thần độc, con cháu trong nhà phải cúng bái trừ tai họa do malơu (mắc cở) khi người bậc trên (bác, cha, chú, mẹ, anh, chị) đầu thai về lại trong dòng họ, trong gia đình thì phải nhờ đến pháp lực cao hơn của các thầy bơjâu.
* Quan niệm về sự sống và cái chết
Xuất phát từ quan niệm cái chết không có nghĩa là hết, là kết thúc mà là chuyển sang sống ở một thế giới khác. Tộc người Raglai không chỉ thể hiện lòng thương xót, sự đau đớn, nuối tiếc của gia đình và cộng đồng trước sự ra đi của một thành viên, mà còn là sự chuẩn bị hành trang cho hồn người chết đến nghĩa địa một cách thuận lợi, để có sự sống đầy đủ, sung túc, không bị thiếu thốn, khổ sở ở thể giới bên kia.
Cái chết giống như sự sinh ra, cái chết mở đầu của tồn tại con người, do đó những suy nghĩ về nó bao giờ cũng được phản ánh vào nhân học và giá trị nhân văn. Cái chết là sự kết thúc tự nhiên của cuộc đời con người. Vì thế, trong lúc sống, ai cũng thấy buồn khi nghĩ đến cái chết, mặc dù chỉ buồn trong ý nghĩ, vấn đề "chết chỉ mang tính lý thuyết" bắt đầu được Epicure bàn đến khi ông nói "con người ta không bao giờ phải đối mặt với cái chết vì khi còn sống, cái chết chưa đến, còn khi chết đến thì làm gì còn cái tôi để mà đối mặt. Vì vậy ta chẳng nên sợ cái chết”.
Cách tiếp cận bi thảm đối với cái chết được L.Tolstoi thể hiện tuyệt vời trong truyện vừa "cái chết của Ivan Ilitch", tác phẩm xứng đáng được coi là tác phẩm văn học, y triết học hay nhất nói về cảm xúc của con người trước cái chết. Tác phẩm văn học đích thực vĩ đại, khẳng định phẩm giá của con người (Co crate) trước cái chết là "Peadon" nổi tiếng của Platon. Tấn bi kịch khách quan của cái chết, nghĩa là cái chết mang tính bản thể, bắt nguồn từ mâu thuẫn không thể khắc phục nổi giữa hai "chiều" của con người: Tính nhất thời của thân xác và tính vĩnh hằng của linh hồn, linh hồn không chịu tác động của quy luật biến hóa hỗn loạn do thực tế cuộc sống, mà qui luật của nó là đi lên theo kiểu vĩnh hằng và tuyệt đối. Linh hồn không bị "nhốt" trong thể xác, mà chỉ khi ốm đau hay hấp hối, nó mới phụ thuộc vào thể xác với tính chất một thứ xa lạ. Con người không bao giờ hết được nỗi sợ và nỗi thất vọng trước cái chết, ngược lại, càng phát triển bao nhiêu về mặt văn hóa và văn minh, nỗi sợ đó càng bi thảm. Nhưng bên cạnh đó, nhân loại sẽ không sống nỗi nếu không gạt đi nỗi sợ ấy hoặc ít nhất cũng giảm tính bi thảm của nó. Trong vấn đề này, tôn giáo là thứ bảo vệ đáng tin cậy nhất cho linh hồn chúng ta về những cách tiếp nhận cái chết. Nhưng không phải mọi người đều có đức tin vào sự tồn tại vĩnh hằng của linh hồn. Vì vậy, suy nghĩ của chúng ta thường tìm cách "dàn hòa” với cái chết, cách tốt nhất là hiểu rằng cái chết không phải là vô nghĩa, nó chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn đối với con người.
Đối mặt với cái chết, con người không khỏi khiếp sợ, lo lắng. Từ những suy nghĩ đầy trực giác của người nguyên thủy, cho đến những day dứt băn khoăn, toan tính của con người hiện đại đều có đi tương đồng, đó là cảm giác đau đớn, bất lực trước cái chết. Sự sợ hãi và ước muốn trước cái chết đã đưa con người vào thế giới tâm linh. Họ cho rằng linh hồn của con người, có thể tồn tại độc lập với thân xác. Chỉ có thể suy nghĩ như thế, họ mới không day dứt và khổ đau. Quan niệm về kiếp sau và sự bất tử của linh hồn đã làm giảm gánh nặng tinh thần và họ cố gắng chuẩn bị cho kiếp sau như một cuộc hành trình đến một nơi ở vĩnh viễn. Từ đó, tục hiến tế cho người chết ra đời. Cõi nhân gian này có gì, người chết cũng sẽ có như vậy bởi ở kiếp sau, người ta sẽ sống mãi dài lâu. Có khác chăng, mỗi người đi vào xứ sở vô định ấy với những hành trang khác nhau, tùy thuộc vào nền văn hóa đã nuôi dưỡng họ và tôn giáo mà họ tin theo. Mỗi người không ai giống ai về cách thức đi về thế giới bên kia, song, họ đều giống nhau ở ước nguyện muốn trở thành bất tử, muốn quay trở về mái nhà xưa để đoàn tụ với những người thân, cha mẹ mà họ vô cùng thương nhớ. Ngoài ra, còn nhiều điều đau đớn mà con người không lý giải được, họ đều mong có li giải đáp ở kiếp sau.
Như vậy, cái chết của tộc người Raglai chỉ là sự chuyển đổi con người từ thế giới này sang thế giới khác và được xem như là sự mở đầu cho một hành trình mới của con người ở thế giới bên kia. Nhưng để đến được với thế giới ông bà tổ tiên, điều quan trọng cần phải có một người đưa đường chỉ lối đó là thầy cúng (pơjâu). Bên cạnh đó, gia chủ cũng phải chuẩn bị khá chu đáo và tiến hành những nghi lễ mới có thể đưa được cả phân xác và hồn của người chết về thế giới dành riêng cho họ.
             * Quan niệm về thể xác và linh hồn
Trong cách nghĩ của người Raglai, linh hồn khi song đôi cùng thể xác vẫn có được một khả năng bay bổng và khá tự do của nó. Điều đó thể hiện tính độc lập tương đối của nó đối với cái thể xác vốn hữu hạn. Trong khi đem lại sự sống cho thể xác, linh hồn có thể rời bỏ thể xác để bắt đầu những cuộc viễn du của riêng mình một cách thường xuyên. Trong bất kỳ tình huống ra đi nào, linh hồn cũng khiến cho con người rơi vào trạng thái bất bình thường. Đó là cách mà người Raglai lý giải cho nhiều trạng thái vật chất cũng như tinh thần của con người.
Một trong những trạng thái tinh thần thường xuyên có ở con người đó chính là những giấc mơ. Con người đã dành 1/3 khoảng thời gian của cuộc đời mình để chìm vào giấc ngủ thì cũng có thể có chừng ấy thời gian con người chìm vào trong mộng mị ở những mức độ khác nhau. Người Raglai cho rằng, khi con người chìm vào giấc ngủ, linh hồn bắt đầu một cuộc sống khác, hoàn toàn tự do để có thể đi đến bất kỳ đâu nó thích mà chẳng phải chịu bất kỳ rào cản vật chất giới hạn nào. Nếu một người đi xa, trong giấc mơ, cô ta thấy mình được trở về nơi quê nhà thì quả thực là cô ta đã ở đó bằng chính linh hồn của mình, trò chuyện với linh hồn của những người thân. Trong những cuộc viễn du trong mộng ấy, cô ta có thể giao tiếp được cả với những người quá cố hay với thần linh, cần lưu ý rằng, với người Raglai những chuyến phiêu lưu của linh hồn không phải đều đơn thuần là một cuộc rong chơi không mục đích hay chẳng ý nghĩa.
Những linh hồn bắt gặp và hành động trong chuyến phiêu lưu của mình thường mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó mà khi bừng tỉnh con người cần phải giải mã để có thể "lĩnh hội” được bức thông điệp hàm ý nghĩa ấy. Cũng như bao tộc người khác, người Raglai có cả một hệ thống những chìa khóa để giải mã các giấc mơ như: Mơ thấy một chiếc răng rụng hay xây nhà mới - có một cái chết của người thân, mơ thấy mặt trời lặn ở hướng nào hướng ấy rồi sẽ có người chết...giấc mơ thấy làm một con đường mới cũng có một hàm ý tương tự như vậy. Đôi khi việc giải mã các giấc mơ lại là sự đảo ngược: Mơ thấy mình đang tm dưới dòng sông tức mình sẽ bị ốm đau; mơ thấy một người ốm nghĩa là người ấy đang rất khỏe mạnh... Cuộc hành trình của linh hồn trong giấc mơ là một ẩn dụ sinh động, một trạng thái khác biệt thường xuyên đầy ý nghĩa. Người Raglai vẫn thường nói đến giấc mơ đêm qua của họ. Đó quả là một đề tài khiến cho mọi người lưu tâm. Thời điểm mà chân lý là những gì con người có thể tri giác được theo đường hướng của truyền thống, người ta không thể không tin vào tính "khách quan", tính có thực của những giấc mơ.
Người Raglai chưa biết đến phương cách luận giải khoa học rằng giấc mơ là sản phẩm hoạt động của bộ não của nhiều điềm thức, trong khi tất cả chìm vào sự thư giản tĩnh tuyệt đối. Vì vậy, tất cả những gì đơn thuần là mộng mị trong con mắt nhng con người được giáo dục bởi ánh sáng khoa học tiên tiến, thì với người Raglai đó lại là một trong nhng cơ sở tạo niềm tin có vai trò dẫn dắt những hoạt động của con người trên cơ sở giải mã những ẩn dụ hàm chứa trong giấc mơ.
Nhưng không phải bất c lúc nào linh hồn rời bỏ thể xác cũng là một sự tự nguyện. Có trường hợp, thường không kém phổ biến, linh hồn bị một thế lực siêu nhiên khác bắt gi, bị chia tách với thể xác. Với nguyên lý, mọi khởi động của sự sống là hệ quả tác động của linh hồn, người Raglai tìm thấy nguyên nhân của bệnh tật, đau ốm từ chính trạng thái của linh hồn chẳng lấy gì làm lạ. Linh hồn là một thực thể ít nhiều có được đặc tính linh thiêng bởi nguồn gốc thần thánh và tính vô ảnh, vô hình của nó trong con mắt những người bình thường ở vào trạng thái bình thường nhưng lại có một vai trò to lớn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, linh hồn có vai trò quan trọng đối với sự sống của con người. Song, không phải vì thế mà tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn. Với người Raglai, thể xác và linh hồn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau đến nỗi mà chỉ có cái chết mới có thể chia lìa hai thực thể này.
Mối quan hệ ấy được thể hiện một mặt linh hồn và thể xác phải có sự tương hợp với nhau. Nếu linh hồn quá rộng lớn so với thể xác thì sự sống  rất khó tồn tại, ví dụ, người Raglai lý giải sự chết đi của một đứa trẻ là do thể xác của đứa trẻ đó không đủ lớn đ chứa đựng một linh hồn rộng lớn; mặt khác, thể xác bị đau thì linh hồn cùng bị tổn thương. Khi một người bị cụt tay thì linh hôn của anh ta cũng chẳng đủ hai tay.
Ngoài ra, từng bộ phận trong cơ thể con người cùng đồng nhất với linh hồn, ví dụ, chảy máu là biểu hiện thất thoát của linh hồn, máu là biểu hiện của linh hồn và vì thế, nó là dấu hiệu của sự sống.
* Quan niệm về linh hồn và tái sinh
Nếu như phân chia vũ trụ thành 3 tầng, 3 thế giới được khoanh các đường biên tương đối chính xác thì chúng tôi không thể khoanh các vía, hồn của con người một cách rõ rệt. Cũng như người Kinh, người Raglai có quan niệm con người có thể xác, vía và linh hồn. Thể xác của con người (sor),(palagar), linh hồn (vungãq). Ngoài thể xác, vía, hồn, mỗi người từ khi sinh ra còn có thêm Aluah pajieng (tinh): đây chính là hồn do thượng đế ban cho. Mọi sự tài giỏi của bất kỳ người nào cũng phải do trời cho chứ không phải muốn mà có, không tự học hỏi mà có được Asur palagar (vía).
Trong quan niệm của người Raglai, nam giới có 7 vía, nữ có 9 vía. Số lượng vía bên phải luôn nhiều hơn bên trái. Nam có 4 vía bên phải, 3 vía bên trải; nữ có 5 vía bên phái, 4 vía bên trái. Vía cư trú trên đầu, vai và trên thân thể của một con người, không cư trú từ bộ phận sinh dục trở xuống chân. Đây cũng chính là chiều sinh của sự vận động theo quan niệm dân gian của người Raglai...[30. tr.2].
Khi con người chết đi, các palagar tan biến. Trở về thế giới của ông, bà chứ không cùng linh hồn tạo thành ma. Một người còn sống đều có linh hồn (vungãq) thì đến lượt mình vungãq lại bao gồm nhiều loại: Hồn út và hồn đầu lòng chỉ có một còn hồn giữa có nhiều hơn. Hồn lấy xác làm nơi trú ngụ. Khi con người tắt thở, hồn thoát khỏi xác Asur palagar (vía) không còn nữa, tan biến cùng thể xác. Aluah pajieng trở về cõi thượng đế ở bên kia để chờ ban cho người khác.
Khi con người chết đi, một khái niệm mới xuất hiện đó là Ma (Atâu) khác với vía, hồn là của người sống, ma là hồn của người chết, là hồn đã thoát khỏi thể xác. Như vậy về bản chất, ma khác như thế nào đối với hồn và vía? Các vía và hồn không còn thể xác làm nơi nương tựa. Ba hồn bảy vía đối với nam, ba hồn chín vía đối với nữ sẽ biến thành bao nhiêu ma? Nếu vía và hồn hoàn toàn xa lạ với ma thì khi ma xuất hiện vía và hồn sẽ đi đâu?
Quan sát các cuộc lễ tang của người Raglai, chúng tôi thấy rằng các vị chủ lễ và trong các lời khấn đều đối xử ma như một cá nhân nhất thể. Giả thiết rằng sau khi chết, các vía hồn cố kết lại thành một thể thống nhất gọi là ma. Thế nhưng, ma này vẫn còn thiếu một hồn quan trọng nhất, đó chính là Vungãq tiluiq (hồn út).
Khi con người chết, linh hồn tác động vô trật tự, làm hỗn loạn sinh hoạt của cõi sống. Bởi vậy, người sống phải làm chuyển đưa ma từ thế giới tự nhiên không còn thích hợp với ma, không thích hợp với hồn đầu lòng, các hồn giữa về thế giới của siêu nhiên, về cõi chết.
Hồn đầu lòng và hồn giữa được đưa vào ở tạm trong gậy “Gai toah” chờ đến lúc làm lễ bỏ mả (Budhi atâu) nhập thể với hồn út để về với thế giới ông bà.
Khi con người chết, trước khi được người thân làm lễ bỏ mả, hồn của người chết vẫn chưa về được thế giới ông bà. Ở đây như có một vách ngăn vô hình giữa thế giới trần gian và thế giới ông bà. Khoảng không gian này chúng tôi tạm gọi là cõi trung gian giữa cõi sống (thế giới trần gian) và cõi chết (thế giới ông bà). Hồn người chết vẫn có thể qua lại từ cõi trung gian này đến cõi sống. Những người chết vì bất đắc kỳ tử, chết bị cọp vồ, cây đè, mà không được người thân cúng tạ và trừ giải sẽ trở thành qủy gây hại cho người. Cõi trung gian này dày hay mỏng là do thời gian của người thân làm lễ bỏ mả cho người chết chậm hay sớm.
Nếu sau khi chết mà làm lễ bỏ mả ngay hoặc những trường hợp khác thì vách ngăn này gần như không có. Từ thế giới trần gian, người chết đi thẳng về thế giới ông, bà nhờ chiếc thuyền đưa linh Kagor trên mái nhà mồ. Sau khi làm lễ bỏ mả, ma về thế giới ông bà. Chính vungãq là hồn đầu thai trở lại trần gian và được thượng đế ban cho một Aluah pajieng khác trở thành, con người khác với người đã chết. Một người chết, có thể đầu thai trở lại trong gia đình hay trong dòng họ, trong làng thành một hay nhiều người khác nhau.
Nghiên cứu lễ bỏ mả của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận và các nghi thức, quan niệm của họ, chúng ta có thể biết chu trình từ khi con người còn sống, chết đi biến thành ma và quay trở lại thành người, mượn môi trường đất là yếu tố vật chất và biểu tượng là con thuyền Kagor đưa linh trên mái nhà mồ.
Tiểu kết Chương 1
Ở Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có những nét văn hóa đặc trưng riêng, thể hiện nhiều ở các hệ thống lễ hội gắn với đời sống của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á. Lễ hội là một trong những di sản văn hóa với những giá trị truyền thống mang tính tâm linh. Những nghi lễ gắn với vòng đời người là một hệ thống lễ hội quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Những nghi lễ ấy thể hiện tín ngưỡng, đời sống tâm linh, thể hiện quan niệm về sự sống và sự chết và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các tộc người. Người Raglai là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam có lễ bỏ mả - một trong những nghi lễ cuối của vòng đời người được coi là quan trọng nhất khi con người từ giã cõi trần về với thế giới bên kia.
Tộc người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc là một trong số địa bàn xuất hiện người Raglai đầu tiên ở tỉnh Ninh Thuận, thuộc dân cư bản địa của vùng Nam Trung bộ. Nằm trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo Malayo – Peoolinedi ở Việt Nam, trong tiến trình lịch sử và phát triển tộc người Raglai đã hình thành nền văn hóa dân tộc với những nét đặc trưng riêng và những nghi lễ, tập tục, tín ngưỡng vô cùng phong phú, góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc vùng duyên hải Nam Trung bộ.
Do địa bàn cư trú ở vùng núi, hoạt động kinh tế truyền thống của người Raglai ở đây chủ yếu là canh tác nương rẫy. Vì vậy đời sống kinh tế của người dân còn thấp, chậm phát triển do với vùng đồng bằng. Tuy nhiên tộc người raglai lại có đời sống tinh thần phong phú. Văn hóa truyền thống của người Raglai vừa phản ánh nếp sống, nếp nghĩ của cư dân nông nghiệp lại vừa có đôi nét của cư dân ven biển. Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, giao lưu tiếp biến với nhiều nền văn hóa, đến nay bản sắc văn hóa Raglai ít nhiều có sự biến đỗi. Nhưng giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc vẫn còn lưu truyền trong các sinh hoạt văn hóa, tâm linh và đặc biệt là trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai.




Chương 2
LỄ BỎ MẢ CỦA TỘC NGƯỜI RAGLAI Ở XÃ PHƯỚC CHIẾN HUYỆN THUẬN BẮC TỈNH NINH THUẬN
2.1. Lễ chôn
2.1.1. Những lễ thức khi có người chết
Trước khi còn những hơi thở cuối cùng, người thân luôn ở bên cạnh người sắp chết (chết lành) để chăm sóc. Khi chết, người nhà lập tức đánh một tiếng Mã la thật to. Gia đình cử nhiều người đi báo cho thân nhân khắp nơi biết tin buồn và mời thầy cúng đến nhà lo việc tang.
Khi chết, người chết đặt trên giường, đầu xoay về hướng Tây hoặc hướng núi (người Raglai quan niệm hướng mặt trời mọc là hướng chính, hướng của người sống, hướng Tây là hướng đen tối, hướng của thế giới người chết). Người thân nhanh chóng làm chuẩn bị lễ vật: Thịt gà và nấu hai bát cơm chia hai, một phần đặt ở đầu, một phần đặt ở chân. Thầy cúng bảo người nhà múc, đưa lên một bát nước lã, chuẩn bị một chiếc nhẫn mắt (Người Raglai gọi là krãh mata, chiếc nhẫn ở mặt trên có đính đá màu mài nhẵn, giống như con mắt nên gọi là nhẫn mắt, nó được tròng vào chính giữa Gai toah - cây gậy chỉ đường cho ma, từ khi trong nhà có người chết và giữ gìn cẩn thận cho đến ngày làm lễ bỏ mả) được mang ra bỏ vào bát nước, kể cả láng giềng đều vớt chiếc nhẫn mắt lên, xoa nước vào môi, rảy vào người chết với ý nghĩa: Người chết là vì số phải chết, không có ai làm bùa phép hại người đâu, đừng oán giận ai! Người thân ai cũng vừa rẩy nước, vừa nói như vậy là vì sợ hồn ma không siêu thoát lại bắt thêm người khác đi cùng thì khốn.
Lời cúng: “Wơi.... kasôk kamin buôl yưh hăn ơ... ơi... kanon kamin ggơk yơ hăn ờ... ơ... Khieng ka kayau ka nhăq ugha, khieng ka ia tanơl ... apih matai bbăk, apih surah langi, dapơk apih hom kaway, dapơk apih ki pareăq ơi.. ời ... ơi”
Lời dịch:Wơi.... chúng tôi đã lo liệu hết nước rồi, nhưng ông vẫn không sống được...ơ...ơi. Chúng tôi mong cho ông được sống, đã cứu chữa cho ông hết đường, hết tiền của trong nhà để lo cho ông... ơi ông ơi....”
Trong lúc này, nỗi đau mất người thân được nấc lên thành những tiếng khóc thê lương, tiếng khóc đó là thể hiện sự tiếc thương, xót xa và cộng với nỗi đau không nói nên lời. Mặt khác, người thân khóc vì hai lẽ:
Một là,thương tiếc người chết không còn sống trên mặt đất mình nữa.
Hai là, theo quan niệm của tộc người Raglai, tiếng khóc sẽ giúp cho linh hồn của người thân được siêu thoát, không bị các thế lực hung ác như qũy dữ... ám hại linh hồn. [42, tr. 58].
Trong ngày đầu, khi có người chết, bà con xung quanh cũng như người thân, ai đến cũng mang theo món quà đưa tiễn người chết đi vào lòng đất. Quà tặng gồm có heo, gà, gạo, rượu, trái cây...
Với một mâm trầu cau, ông thầy Yanuh Jalat (Thầy chỉ đường) khấn báo cho tổ tiên người chết biết trong gia tộc đã mất thêm một người. Đối với đất, ông cũng báo cho thần cai quản đất biết để nhận người chết về với đất và xin hãy nhốt nó cho kỹ, đừng để nó đi lang thang, đừng đánh đập tội nghiệp nó.
Tiếp đến, thầy Yanuh Jalat mới bắt đầu làm Gai toah (cây gậy thần). Gai toah là một đoạn tre nhỏ bằng ngón tay trỏ, dài khoảng 80cm – l00cm, một đầu vót hơi nhọn (đầu âm), đầu kia hơi tà (đầu dương). Chiếc nhẫn mắt (krãh mata) dùng để rảy nước lên người chết trong ngày hôm qua, bây giờ được tròng vào chính giữa Gai toah. Thầy Yanuh Jalat dùng chỉ cột chặt chiếc nhẫn mắt vào Gai toah rồi dùng sáp ong trám chặt nơi cột chỉ, khi Gai toah đã làm xong, lễ cúng mới bắt đầu. Theo chỉ dẫn của Gai toah, do thầy Yanuh Jalat vừa múa, vừa dùng đầu ám chỉ vào hai mâm thức ăn và thức uống: Một mâm cho người chết, mâm khác cho những người đến đưa người chết đi. Đầu nhọn của Gai toah bao giờ cũng được ông thầy cúng chỉ xuống đất, đầu kia luôn chỉ lên trời. Trong tiếng mã la (oq Ya với Gai toah trên tay), thầy Yanuh Jalat vừa múa sang phải, sang trái, chính diện để chỉ dẫn cho ma biết đường về mà ăn, uống, không được nhầm lẫn với mâm của người khác.
Sau lễ cúng người chết tại nhà, quan tài mới được khiêng vào nhà. Trước khi khâm liệm (bỏ thi thể vào hòm), người chết được thay áo quần mới và mặc thêm nhiều áo quần khác. Áo quần và các vật dụng vốn là của người chết đều được bó theo và bỏ vào hòm từ vai trờ xuống, kể cả thức ăn, thức uống trong mâm cúng tiễn. Những thứ không bỏ được vào hòm như: Nồi, ché, chén, bàn ghế... cũng phải mang ra bỏ xuống huyệt, bỏ xuống huyệt không hết, người ta để trên mộ.
Khi thi thể đã được bỏ vào quan tài, người thân và dân làng đều theo vị thầy cúng, theo đội mã la và những người khiêng quan tài ra khu nhà mồ. Đội mã la vừa đi vừa tấu nhạc, ví như dắt ma bằng âm thanh của vật thiêng. Thầy Yanuh Lalat vừa đi, vừa múa chỉ đường cho ma ra theo mộ. Đến khu mộ, quan tài được đặt xuống đất bên cạnh huyệt, người ta đưa quan tài vào hai vòng dây chắc để đưa xuống huyệt. Cây thước đo người chết để làm quan tài được người nhà cẩn thận bẻ làm hai và gấp lại xem có bằng nhau không rồi bỏ xuống huyệt phía đầu một nửa, phía chân một nửa. Nếu cây thước đó bẻ thành hai đoạn bằng nhau là chết lành, nếu so le là chết oan, chết do ai đó trù yếm hoặc bị bắt đi. Trước khi lắp đất, vật dụng còn lại của người chết, được bỏ hết xuống huyệt trừ những thứ lớn như bàn ghế, ché, chum…thầy cúng bỏ xuống huyệt một nấm đất và khấn: Xin giao cho thần đất giữ cho chặt, đừng để nó trở về nhà “patuh pasir ka bhum tanah, joai ka nhu papuh ka sak”. Mỗi người cầm một nắm đất làm theo thầy cúng, lúc này những người đào huyệt dùng xẻng lấp đất đầy huyệt, thành nấm mồ giống người Kinh và được bao bọc xung quanh bởi những viên đá. Tộc người Raglai quan niệm rằng đá là một chất liệu mà tự nó có chưa linh khí, đá có thể là vật "chuyển tải” linh hồn. Vì vậy, đá được sắp xếp quanh mả được coi như "gạch nối" giữa thế giới bên dưới (âm) và trần gian (dương), là con đường của người chết đi lên từ mộ của mình để tiếp xúc với gia đình và cộng đồng. Người thân chuẩn bị hai cọng tranh khô, có bông gòn cột chính giữa được cắm ở đầu và chân mộ. Đây là hai cọng tranh được người Raglai gọi cây cắm ở đầu là "cây ông bà", cây dưới chân là "cây ma". Thầy cúng cầm lửa ngọn đốt "cây ông bà" xem thử ông bà có còn gọi ai đi nữa không. Nếu cọng tranh bị đốt không gãy rơi xuống mà lại uốn vòng tròn có nghĩa là ông bà còn gọi tiếp người khác nữa, điều đó có nghĩa người thân, gia tộc phải cúng giải. Đến lượt "cây mả" nếu tàn tranh bị đốt cháy, ngã vào mộ hay hướng khác thì tốt, còn ngã về phía người thân đang ngồi thì có nghĩa là người chết ra đi chưa thanh thoát, còn oán trách, giận hờn ai đó trong gia tộc, về nhà phải cúng an ủi để giải thoát.
Ngày hôm sau, người nhà cùng vị thầy cúng mang ra mộ một mâm lễ nhỏ: cơm, rượu cần, trầu cau, thuốc lá... thầy cúng khấn mời "mả". “Da-a Ha diq wah pu, manhum dapai juh pakao..." . Mời mày lên ăn cơm, uống rượu cần, hút thuốc... ông cũng báo cho "mả" biết, ba ngày nữa bà con sẽ ra thăm, cúng mở cửa mả cho "mả".
Sau ba ngày chôn cất, người thân (không có thầy cúng) mang cơm ra mộ bánh tét, thịt gà, thịt heo, rượu, lá xa khạ cuộn tròn, cúng trước mộ. Người Raglai gọi đây là lễ mở cửa “mả" để "mả" có thể được phép lên khỏi đất và về nhà cùng ăn uống với người thân trong các bữa ăn gia đình.
Những ngày sau đó, mỗi bữa ăn, gia đình đều để bát, thìa, cơm, thức ăn riêng cho "mả” và nói trước khi ăn : "Wah atâu !" (Ăn cơm hỡi mả!). Đến một tháng người thân trong gia đình sẽ lại ra thăm "mả" (từ "mả" là cách gọi của người Raglai để chỉ cho người chết còn nằm trong đất, bị thần đất giam giữ, sau lễ bỏ mả người chết được giải thoát, thành ma về xứ sở ông bà, tổ tiên; từ “mả” còn được dùng để chỉ cho nơi mới người chết về nhà ăn uống với người thân trước lúc vĩnh viễn chia ly: rạp mả, giỏ mả, múa mả...). Người nhà mang ra mộ 03 bát cơm, bên trên mỗi bát đặt một quả trứng luộc, lễ vật còn có nước, rượu, trầu cau, thuốc lá... Những tháng sau đó người nhà có nơi vẫn thường xuyên ra thăm mộ hoặc có làng (Palay) chỉ thăm vài tháng đầu tiên, về sau chỉ mời "mả” về nhà ăn cơm, không đi thăm mộ nữa. Vài năm sau đó, khi gia đình có đủ điều kiện thì làm lễ bỏ mả cho người chết.
           2.1.2. Nhà mồ
Nhà mồ của người Tây Nguyên nói chung và tộc người Raglai nói riêng là một trong những nét văn hóa truyền thống, độc đáo và có giá trị. Tuy vẻ kiến trúc nhà mồ của tộc người Raglai không lớn như nhà Rông của người Bana và Gia Rai hay nhà Dài của người Êđê, cũng không mang tính sử dụng lâu dài (chủ yếu chỉ phục vục cho lễ bỏ mả và chỉ có giá trị thực sự trong những ngày làm lễ bỏ mả). Nhưng nhà mồ là kết tinh của những văn hóa truyền thống đầy nghệ thuật mà người Raglai đã đúc kết từ lâu đời và còn được truyền mãi cho tới ngày nay. Nhà mồ không chỉ là kiến trúc, nhà mồ còn là điêu khắc, hội họa, đan lát. Nó không chỉ là một công trình nghệ thuật tổng hợp mà là cả một nếp văn hóa truyền thống. Hay nói cách khác, nhà mồ là công trình nghệ thuật người sống làm để dành cho người chết, để linh hồn người chết mang đi sau lễ bỏ mả. Chính vì thế nó là hình ảnh vật chất gắn liền với quan niệm của người sống về người chết, về thế giới của người chết.
Khi làm lễ bỏ mả, người Raglai làm cho người chết một cái nhà mồ. Nhưng không phải nhà mồ nào cũng giống nhau mà tùy theo tập tục, tùy điều kiện kinh tế của gia chủ và tùy theo số lượng con vật được cúng tế mà nhà mồ được dựng khác nhau. Phân biệt sự khác nhau, lớn bé của nhà mồ là số cột nhà mồ được dựng lên. Loại nhà mồ của người Raglai ở phía Bắc tỉnh Ninh Thuận có chiều dài khoảng 2,5m, chiều rộng 2m, chiều cao từ mặt đất lên đến nóc khoảng 2,6m. Sườn nhà làm bằng gỗ, mái nhà tròn, làm lên phía trên, dạng hình mai rùa, phân thành từng loại: 04 cột, 08 cột, 12 cột, 16 cột, 24 cột, 32 cột... Người Raglai lấy số lượng các cột nhà mồ để qui định qui mô lớn nhỏ của nghi lễ, theo đó loại nhà mồ nào từ 12 cột trở xuống thì lễ bỏ mả được tổ chức ở qui mô nhỏ (hay còn gọi là đám nhỏ), nếu gia đình quá nghèo, không có heo, có thể chỉ cúng gà, cơm, rượu, nhưng dù nghèo đến đâu cũng phải làm nhà mồ, phải làm rạp mả, làm chòi cao để thịt cúng. Vật hiến tế lớn nhất là heo, gà, rượu cần, cơm, canh, trái cây; đối với nhà mồ có 16 cột trở lên thì được gọi là đám lớn. Đám lớn là đám phải tuân theo tiêu chí bắt buộc như: Trên nhà mồ nhất định phải có Kagor, Kagor là tặng phẩm cho người chết, được làm từ thân cây lớn, hình thuyền, trang trí rất đẹp, biểu tượng cho một cuộc sống giàu sang trong tương lai của người đã khuất về với ông, bà tổ tiên; lễ vật nhất thiết phải có một con trâu, ba con heo, 9 ché rượu cúng. Ngoài 9 ché rượu cần dùng để cúng, trong đám lớn phải có đến hàng chục ché rượu khác và hơn chục con heo được hồ trợ từ dòng họ, bà con láng giềng xung quanh.
Nhìn chung, nhà mồ của tộc người Raglai là một kiến trúc đơn sơ được làm bằng gỗ, tre nứa, lá. Bộ khung nhà được hình thành bởi các cột và các thanh xà ngang, dọc bằng kỹ thuật mộng trơn. Để hình thành ngôi nhà dạng này việc đầu tiên là chôn đều các cột theo hình chữ nhật, sau đó gắn các thanh xà ngang, dọc vào các mộng trơn ở đầu các cột. Khi khung nhà được hình thành đùng cây lồ ô uốn cong gắn đầu vào các cột tạo nên mái dạng mai rùa.
Tuy nhà mồ được làm khá đơn giản, nhưng những hình trang trí, chạm khắc trên các bộ phận kiến trúc lại có thể giúp chúng ta nhận biết được thế giới quan cũng như quan niệm thẩm mỹ của tộc người Raglai. Nhà mồ được trang trí khá công phu, các cột dán giấy màu đỏ, xanh... theo kiểu: Cứ một khoanh giấy đỏ đến một khoang giấy xanh. Có những ngôi nhà mồ cột ở phía đầu người chết tạc tượng hình quả bầu, gùi, ché, trên các thanh xà ngang, xà dọc, vẽ hình các ngôi nhà sàn, chim, thú... với nét vẽ cứng, có phần ngẫu hứng, không theo một mô típ nhất định. Những hình vẽ, hoa văn cho chúng ta hình dung ra ngôi nhà (sah), đám mây (hoal), cây dừa (lau), mặt trời (harei), thửa ruộng (hu ma), người (munui), chim cu (chim katơrau).
Loại nhà mồ của người Raglai ở khu vực phía Tây Nam Ninh Thuận có khác, về kích thước, tương đương với loại nhà mồ ở khu vực phía Tây Bắc. Nhưng về kiến trúc thì đã có phần thay đổi. Nhà có bốn mái, mái lợp cỏ tranh, sau này có những gia đình sử dụng tôn để lợp, xung quanh thưng vách bằng cây lồ ô đập dẹp đan lóng mốt, lóng đôi hoặc bằng ván. Nhà có một cửa nhỏ hướng về phía Tây (phía đầu người chết).
Toàn bộ khung nhà mồ có bốn cột chính, có những nhà còn gắn thêm bốn cột hiên. Các cột liên kết với nhau bởi hai thanh xuyên dọc và thanh xuyên ngang bằng kỹ thuật mộng trơn, về trang trí, nhà mồ ở khu vực phía nam trang trí đơn giản hơn nhà mồ ở khu vực phía Bắc. Các cột, thanh xà ngang không được trang trí. Phần trang trí nhà mồ chỉ có một cái "dâu" gắn trên nóc nhà mồ và bốn cây Gockalau cắm ở bốn góc nền nhà. "Dâu" làm bằng gỗ, dài khoảng 0,50m, cao khoảng 0,50m, dài khoảng 0,1 0m. Có thể chia "dâu" thành phần: Phần chính giữa dạng hình bầu dục, phía trên gắn một quả bầu. Hai phần hai bên dạng sừng trâu ôm lấy hình bầu dục ở giữa. Hai khúc gỗ vuông, dài khoảng 0,60m, trên mặt "Dâu" trang trí hình mặt trời, mặt trăng và sao...
Gokalau là một khúc gỗ vuông dài 0,60m, trên khúc gỗ đẽo hình chiếc bàn, quả bầu, đầu gokalau buộc một dải vải trắng.
Người địa phương giải thích "Dâu" là biểu tượng nhà mới của ma, làm nhà mồ là phải có "Dâu” và Gokalau. Nếu không có ’'Dâu” và Gokalau sẽ bị ma quấy nhiễu.
Người Raglai ở khu vực phía Nam tỉnh Ninh Thuận quan niệm rằng, người chết khi sang thế giới bên kia có thể bị ma qủy quấy nhiễu. Để tránh hiểm họa này, trước nhà mồ người ta làm thêm một chòi (tôk) và một con ngựa cho người chết. Nếu người chết bị ma qủy đuổi theo thì leo lên chòi và nhảy lên lưng ngựa để chạy trốn. Chòi và ngựa là một bó cỏ tranh nhỏ, cột túm, cắm lên đầu một cành cây, mang tính chất biểu trưng.
Như vậy nhà mồ là một phần đặc sắc trong di sản văn hóa của tộc người Raglai nơi đây. Nó không chỉ phản ánh những khía cạnh về xã hội và phản ánh quan niệm cổ truyền của tộc người về thế giới bên kia của ma (người chết), mà còn đặc biệt thể hiện đậm nét những đặc điểm tạo hình trang trí và nghệ thuật trang trí dân gian trên nhà mồ và thuyền Kagor. Mặt khác, nó cũng gắn liền với các nghi lễ của đời sống tâm linh trong tập tục tang ma, đồng thời lại chứa đựng những yếu tố văn hóa sông, nước của tộc người Raglai.
           2.1.3. Kagor nhà mồ
Trong tín ngưỡng và quan niệm của tộc người Raglai, hình thuyền trên nóc nhà mồ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của con người sống hiện tại với ở thế giới bên kia. Thể hiện sự ràng buộc giữa cái hiện thực và cái hư vô. Kagor là một phần đặc sắc trong di sản văn hóa của tộc người Raglai, nó vừa phản ánh những quan niệm về "thế giới bên kia" là nơi thể hiện những nét nghệ thuật trang trí điêu khắc, tạo hình, góp phần quan trọng trong nghi lễ bỏ mả của tộc người Raglai.
Đến nay,tộc người Raglai vẫn chưa lý giải rõ nét về ý nghĩa của từ "Kagor", nhưng ai cũng khẳng định rằng "Kagor" là biểu tượng ngôi nhà mới của ma và Kagor là hình chiếc thuyền được đặt lên nóc nhà mồ. Kagor được tạc từ một khối gỗ lớn, lắp ghép, trang trí rất tinh tế, tạc rất nhiều các hình người, núi, mặt trời, mặt trăng, sao, nhà, chim… xung quanh Kagor có gắn 08 gác gỗ hình cánh cung, ở đầu các gác gỗ gắn hình chim bồ câu chim công, tám gác gỗ này như 8 cánh tay nâng đỡ chiếc thuyền chở linh hồn người chết. Phía trên Kagor có 03 ngôi nhà làm phỏng theo dạng nhà sàn truyền thống của người Raglai, ngôi nhà giữa cao, to hơn so với 2 ngôi nhà hai bên là ngôi nhà ở, 2 ngôi nhà hai bên là nhà bếp và nhà kho. Nối liền 3 ngôi nhà này lại là 2 chiếc cầu, trên cầu bố trí tượng người đàn ông tay cầm cây "chà gạc" đang chuẩn bị đi rẫy và tượng người đàn bà đang giã gạo. Trên nóc 3 ngôi nhà đều gắn 3 thanh kiếm có khắc hình mặt trăng, mặt trời, vì sao và các cặp rồng, sóc, điều đó như muốn phô trương sức mạnh của vũ trụ. Có nhà nghiên cứu cho rằng, đây là chiếc thuyền chở linh hồn người chết.
Những ngôi nhà trên thuyền Kagor là nơi ở của ma (pợ atâu) và hình người bên trong nhà đó là tổ tiên (mokkei). Vì vậy, theo PGS.TS Ngô Văn Doanh, chiếc thuyền ở nhà mồ chính là con thuyền đưa linh - một nghệ thuật khá phổ biến trong tín ngưỡng của nhiều dân tộc ở Việt Nam và Đông Nám Á. Như vậy, từ những hình vẽ, các ngôi nhà, tượng người, chim, trang trí trên Kagor, chúng ta thấy rằng, trong tâm thức của người Raglai, thuyền Kagor cũng là ngôi nhà đưa kiếp người đã khuất trôi vào "biển cả, đại dương vũ trụ, để hòa nhập vào cõi vĩnh hằng của một kiếp người" [52,tr.27].
Đồng thời, người Raglai cũng muốn tái tạo cuộc sống cho người chết sang giới bên kia vẫn có nhà, trâu, bò, rẫy... để tiếp tục sinh sống. Như vậy, ngôi nhà mồ và chiếc thuyền Kagor trên nhà mồ của người Raglai có ý nghĩa tâm linh hết sức sâu sắc. Ở đó hội tụ những tinh hoa của nghệ thuật truyền thống của tộc người Raglai, đặc biệt là những hình tượng trang trí trên thuyền Kagor giống như tái tạo lại cuộc sống của những hình ảnh mang tính phồn thực, với mục đích nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình, buôn làng ấm no, hạnh phúc.
            2.1.3. Diễn trình lễ bỏ mả
Trong quá trình sinh tồn và phát triển của tộc người Raglai đã có những nghi lễ, tập tục, tín ngưỡng văn hóa dân gian vô cùng phong phú và đa dạng, tiêu biểu là phong tục và tín ngưỡng “vòng đời”. Bởi, con người sinh ra luôn chịu sự tác động và có mối quan hệ ràng buộc với thiên nhiên và vũ trụ bao la và với thế giới siêu hình bao quanh. Khi sinh ra con người đã phải chịu sự nhập kiếp đầu thai, khi lớn lên mọi hoạt động điều chịu sự chi phối bởi các thần linh và những vị thần hộ trì. Người Raglai quan niệm rằng, có hai thế giới song song cùng tồn tại đó là thế giới của người sống và thế giới của người chết. Khi người chết đã được chôn cất thì vẫn còn mối quan hệ với người sống, bởi linh hồn của người chết vẫn còn lẫn khuất trong cõi nhân gian, do vậy lễ bỏ mả là để cắt đứt mối quan hệ này.
Lễ bỏ mả là lễ cắt đứt quan hệ giữa người sống với hồn ma, giúp hồn ma về vi thế giới ông bà, tổ tiên để được nhập “kiếp đầu thai” có thể trở lại làm người. Do tính chất quan trọng của lễ bỏ mả nên được gia đình, dòng họ và bà con hết sức coi trọng. Mặt khác, lễ bỏ mả là dịp cuối cùng để người thân, họ hàng bày tỏ tình cảm của mình đối với người đã chết, nên tất cả mọi người đều tham gia rất tích cực với tinh thần trách nhiệm, tuân thủ mọi quy định, thực hiện nghiêm túc công việc được phân công. Bởi lẽ, tất cả mọi người, từ con cháu gia tộc, đến bà con trong làng ai cũng muốn linh hồn người chết được siêu thoát ở thế giới bên kia và người ở lại có được sự thanh thản vì đã làm tròn nghĩa vụ đối với người đã khuất.
            Nguyên tắc đầu tiên của việc thực hiện lễ bỏ mả (Budhi a tâu), người chết được chôn cất gần hơn một năm trở lên. Nhưng gia đình phải có đầy đủ điều kiện về kinh tế, có kinh phí để tổ chức nghi lễ. Theo truyền thống của người Raglai lễ bỏ mả thường được tổ chức vào những lúc rãnh rỗi, mùa khô từ tháng 11 cho đến tháng tư (âm lịch) năm sau.
Khi đã ước định thời điểm làm lễ bỏ mả và được sự đồng ý của gia đình, có sự đồng ý của thầy cúng - người chủ trì mọi hoạt động tín ngưỡng của làng, ý kiến của người chủ tang, cùng với sự tham gia của người uy tín trong dòng họ để được sự thống nhất về thời gian cụ thể và chuẩn bị công việc như: Làm thuyền Kagor (trên nhà mồ) và chuẩn bị các lễ vật, làm nhà mồ, kèm theo mổ trâu, heo, gà...
Khi thực hiện xong công tác tổ chức phân công giao nhiệm vụ cho các bộ phận, người nào việc nấy, mọi vấn đề đều được thống nhất cao thì gia chủ mời thầy cúng rót rượu khấn vái để thưa trình “Lễ thưa trình”với tổ tiên rằng các con cháu đã chuẩn bị xong khâu cúng kính trong cuộc lễ bỏ mả.
Lời cúng: “Drai pô… wơi atâu, atâu kay katơrReq, wơi kay... huray ni akha si muqkayatâu, si atâu kay, huray ni payuh ba dăm ggơq apok titea ana, ticho si điq. Payuh badăm ggơq apok titea karaq kay, payuh ba dăm ggơq ngaq budhi atâu.
Kay....drai pô”
Lời dịch: “Hởi mả, hởi vong ling ông Katơr Ré, ơi ông ơi... hôm nay xin trình báo với ông bà của ông (tổ tiên người đã chết). Xin báo cho ông biết, tất cả họ hàng bên vợ đã tập trung lại, họ hàng đằng trai ai cũng có mặt đông đủ, có mặt đông đủ để làm lễ bỏ mả cho ông... ông ơi”
Sau khi thực hiện nghi thức lễ thưa trình với tổ tiên xong và lễ “Lễ tống khứ’này được khấn vái tại trước cửa nhà lễ, mâm lễ vật đặt dưới đất, nhằm làm cho nơi hành lễ trong khuôn viên nhà được tôn nghiêm và trong sạch, trước khi thực hiện lễ nghi dâng cúng cho tổ tiên ông bà, những điều xấu xí, ô uế và những tà ma, kẻ phàm được tống tiễn xua đuổi ra ngoài, cái gì tốt thì để lại, cái gì xấu tống tiễn đi ra. Theo ông Đá Mài Soi, thôn Động Thông Yaglak yara, cikrai thaira klah bih di nak graong bok cơk” có nghĩa đuổi tà ra khỏi điểm hành lễ đến nơi bờ sông, vách núi. Mâm lễ có 1 con gà luộc, 1 cây dao, 2 khay gạo đặt trên là 10 miếng trầu têm hình tam giác, 1 chai rượu, 1 chén cơm, 1 chén đựng lá trầu và tiền, 1 chén lửa, lễ vật người Raglai gọi là “Ama“ hình vuông bằng lá chuối phần trên có gắn vào lông và huyết gà “Ama” là lễ vật thu ghi nhận những gì gọi ô uế để tống khứ ra ngoài, ngoài ra còn có 1 chiếc gùi dùng để đi hái rau quả phục vụ trong cuộc sống thường ngày. Khi thầy cúng khấn vái xong thì các lễ vật khác được giao lại cho chủ đưa vào cất lại trong kho, riêng phần lễ vật làm bằng lá chuối, thầy cúng đưa cho một người đàn ông (Trung niên) cầm tên tay và đưa ra khỏi khuôn viên  nhà ở, nơi tổ chức lễ về hướng Đông, có nghĩa đã đưa những gì ô uế ra ngoài.
Tóm lại: Quá trình chuẩn bị để thực hiện cho lễ bỏ mả đã được tộc người Raglai tổ chức thực hiện rất chặt chẽ, thận trọng và chu đáo. Các lễ vật có liên quan phải thực hiện xong trước khi diễn ra cuộc lễ. Cách thức phân công, phân nhiệm rõ ràng, người nào việc nấy, để cho cuộc lễ được diễn ta tốt đẹp, đó cũng là quan niệm sống của người Raglai khi thực hiện lễ bỏ mả để tỏ lòng thành kính giữa “Người còn sống đối với người đã chết" hay "cõi dương đối với cõi âm” Có được như thế, mọi người đang sống trên cõi dương mới được toại nguyện và luôn mong sao ở còi chết sẽ ban nhiều điều phúc lành, mùa màng tươi tốt đến với họ.
2.2.1. Ngày thứ nhất
Trước ngày làm lễ bỏ mả chính thức, gia đình và họ tộc bắt tay vào dựng “Rạp lễ” để chuẩn bị cho công việc thực hành nghi lễ tại đây. Rạp lễ thường được dựng ở trước sân nhà, phên đan bằng tre, mái lợp bằng tranh, phía đầu rạp có một cái khung cây dung để treo các lễ vật. Sau khi dựng xong rạp lễ, bà con làm lễ cúng rạp, các thầy cúng ngồi lễ theo trục Đông -Tây, vuông góc hướng lễ với rạp chính (ý nói người sống luôn ở phía Đông, hướng về phía Tây là của người chết). Lễ cúng rạp thường được tiến hành vào buổi sáng của ngày thứ nhất, lúc bày con cháu trong gia tộc đã tập trung đông đủ. Lễ vật cúng gồm 03 con gà, 2 lá trầu, 2 chai rượu. Đây là lễ cúng xin phép các nhang, giàng cho gia tộc làm lễ bỏ mả, cầu xin thần linh phù hộ để lễ bỏ mả diễn ra tốt đẹp…
Sau lễ cúng rạp, gia đình và tộc họ làm một lễ cúng nhỏ tại cột cái trong nhà, gọi là Lễ mời ông bà về với hồn ma. Lễ cúng mời ông bà về với hồn ma tuy nhỏ nhưng cũng rất quan trọng, vì đây là lễ mang tính chất vừa thông báo vừa xin phép ông bà và hồn ma để các nghi lễ sau đó tiến hành được suôn sẻ, thuận lợi.
Khoảng 14 giờ mọi người theo chỉ dẫn của thầy Yanuh, mọi người chuẩn bị lễ khấn báo và đi mời “hố mả” (tức huyệt mộ đã chôn người chết) về nhà để thiết đãi và cúng Kagor. Các thầy cúng thực hiện lễ cúng báo cho "mả" và ông bà tổ tiên biết hôm nay là ngày gia đình làm lbỏ mả, khấn báo cho "hố mả" - nơi đã gửi gắm người chết - biết: Hôm nay gia tộc thỉnh mời "hố mả" về nhà để khoản đãi tạ ơn. Bây giờ xin mời ông bà, mời ngài uống rượu, ăn trầu rồi ta về rạp mả ở nhà.
Đoàn người về đến nhà, trên sạp lễ đã bày ra một mâm trầu cau, rượu đón "hố mả" và ông bà về. Các vị thầy cúng với thân nhân rót rượu mới thỉnh cầu ông bà và khách. Lúc này ông thầy Yanuh Jalat xem lại Gai toah, tra nhẫn mắt vào đúng chính giữa của "cây gậy thần”, một lần nữa trám sáp ong thật chặt vào nơi đính nhẫn mắt, sợ rằng trong khi đang múa chỉ dẫn cho mả (Tamaya atâu) mà nhẫn mắt lại xê dịch hoặc rơi ra sẽ nguy hại đến lbỏ mả: Cúng lễ không còn ý nghĩa gì. "mả” không ăn lễ được không siêu thoát về với ông bà mà sẽ lại quấy phá mọi nhà! Theo đó, ta thấy rằng Gai toah là một vật thiêng vô cùng hệ trọng trong lễ bỏ mả. Vì vậy, nghiên cứu về lễ bỏ mả của người Raglai, chúng tôi đặc biệt lưu ý nó từ khi mới có người chết cho đến giờ phút cuối cùng hai ngã chia ly, không chểnh mảng một phút nào trong quá trình hành lễ. Yếu tố này được biểu hiện trong tác phẩm Kumay Abhu (cô gái ma).
Lời cúng:“Drai pô... uni kamin ni jak Gai Toah – karaq mata, pado raun, pado kubao: sa dray raun ngă q yak kago, ngăq yak kulaq. Dua dray raun ngăq budhi kay budhi ggơq ... drai pô”
Lời dịch: “Kính cẩn các ngài... bây giờ chúng tôi cầm cây gậy thần chỉ vào heo, vào trâu: Một con heo này để đưa cúng Kagor, chim muông, hai con heo kia để cúng mả và ông bà tổ tiên của mả.... ơi bề trên”
Khoảng 16h, các thầy cúng mời tổ tiên ông bà uống rượu, rồi thưa rằng nhà mới đã xong, mọi thứ đã hoàn thành, xin ông bà chứng giám... lễ cúng Kagor. Nghi thức rước thuyền Kagor bắt đầu, lúc này các thầy cúng và bà con dòng tộc chắp tay cầu chúc Kagor vượt qua mọi trở ngại khó khăn để tiễn đưa linh hồn người đã khuất về với thế giới bên kia được bình yên, trên đường đoàn Mã la vừa đi vừa múa jakuc, lúc này thầy cúng chỉ Gai toah vào Kagor rồi chỉ lên nhà mồđể đưa Kagor lên nóc nhà mồ và thỉng mời “mả” lên khỏi mặt đất để xem “nhà mới” xem gia sản mới Kagor.
Lễ cúng Kagor (là hình tượng trên nóc nhà mồ được mô phỏng như hình con tàu, là “phương tiện” đưa hồn ma về thế giới ông bà tổ tiên như đã nói ở trên).Cùng lúc đó người ta phải thực hiện một việc không thể thiếu là đào lổ ở bốn góc để chuẩn bị trồng các cây chuối, mía, thơm... Đợt lễ kết thúc trong việc đổ, rượu lên bánh tráng đặt trên mặt đất ở đầu nhà mồ. Người Raglai cho rằng làm như vậy mới hợp với người chết ở thế giới bên dưới, đó là tục lễ.
Lời cúng:“Drai pô... uni grăm ggăk, grăm kayâu, grăm kago, grăm kulah. Hu hula, hu kayau, hu raun, hu manuq... ka ha. Da – a ha bbâk dray pu, bbâk rilo, djiuh dapai... drai pô”
Lời dịch: “Hôm nay là ngày cúng cột, cúng cây, cúng kagor, chim muông .... chúng tôi có lá, có cây, có heo, có gà cho ngài. Mời ngài hãy ăn cơm, ăn thịt, uống rượu cần cho no say, đầy đủ... ơi ngài”
Như đã phân tích, tộc người Raglai quan niệm rằng chết không phải là hết mà là sự tiếp tục của cuộc sống ở một dạng khác để rồi tiếp tục đầu thai thành người. Cuộc sống con người dù dưới dạng tồn tại khác nhau, luôn trường tồn, chứ không tan biến thành hồn ma. Cho nên, hình tượng thuyền Kagor của tộc người Raglai là song song với lễ bỏ mả, hợp thành biểu tượng và đề cao giá trị của sự sống. Kagor chính là hình ảnh cuộc sống giữa thực tại và quá khứ, là hình ảnh sức mạnh của cả cộng đồng tộc người, là dạng kiến trúc mang tính nhân văn, đặc thù của văn hóa tộc người Raglai.
Như vậy, nghi thức quan trọng nhất của lễ bỏ mả là đám rước Kagor đi vòng quanh nhà mồ và đưa lên nóc nhà, sau khi các thầy khấn vái mời thân nhân vào nhà mồ và đưa Kagor lên nóc nhà mồ, nghi lễ mới kết thúc. Từ đây, người sống đã làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm với người chết, không có sự ràng buộc với nhau, cũng không chi phối tới quan hệ các thành viên trong gia đình. Hình ảnh Kagor như là một định mệnh che chở một đời người và để rồi trồi dạt về với "đại dương vũ trụ bao la" nhập vào cõi vĩnh hằng của thế giới thần linh đầy huyền ảo.

2.2.2. Ngày thứ hai (ngày lễ chính)
Đây là ngày chính thức của nghi lễ, được bắt đầu bằng “lễ mời mả ăn”, theo quan niệm ca người Raglai, trước khi chia tay vĩnh viễn với người chết, ngoài các công việc chính như: Làm nhà mồ mới cho mả, làm Kagor để chuyên chở hồn ma sang thế giới ông bà, còn phải chuẩn bị hành trang cho ma mang theo sang thế giới bên kia. Do vậy dòng tộc dù khó khăn cũng phải cố gắng làm đúng theo phong tục ông bà. Trước khi chia tay vĩnh viễn với người chết, phải cho linh hồn ăn uống no nê. Phải chuẩn bị cho linh hồn mang theo “ăn đường”, phải chia cho người chết một số của cải để hồn ma không thể thiếu thốn ở thế giới bên kia. Do vậy, lễ mời ma ăn được bà con Raglai chuẩn bị rất chu đáo. Lễ mời mả ăn gồm 03 buổi chính, tất cả 05 lần mỗi lần khoảng 01 giờ đồng hồ. Buổi sáng mời mả ăn 3 lần, 2 lần còn lai mời vào buổi sáng hôm sau, trước lúc tiễn mả. Nghi thức mời mả ăn chủ yếu do gia chủ cúng và đội mả la thực hiện, riêng buổi chiều ngày thứ 2 trong bữa cơm chia tay giữa mả và gia đình, dòng tộc chỉ cúng chứ không thực hiện mời mả như trước đó.
Lễ mời mả ăn được tiến hành ngay tại rạp lễ, hôm nay (ngày thứ hai của lễ), thầy cúng và những người thân cận nhất vào gian nhà ngoài của gia chủ. Ba mâm lễ giành riêng khoản đãi cho "mả" và ông bà đặt trên bàn lễ được đưa xuống sàn, giữa nhà. Mọi người ngồi quanh hai mâm lễ có thịt heo luộc, thịt heo nướng, thịt gà, bánh tét, bánh tráng, cơm canh, rượu cần... Đây là bữa ăn đầu tiên tại nhà, giữa những người đã khuất với gia đình của họ.
Lời cúng:“Drai pô... huray ni ngăq yak kago kulag ka atâu, yak ya kay muk, uni da –a pô, ya kay mai, bbâk pu, yuh dapai, bbâk pu, yuh lak, dapai chako, rilo chađeq, mai tuq jrok gok đoan, a tâu ya kay gơk, dapai lu makhơh, nao ba sak.. Drai pô”
Lời dịch: “Hôm nay cúng Kagor cho mả, cúng cho ông bà biết. Bây giờ đây mời bề trên, mời mả ăn cơm, uống rượu cần, uống rượu trắng, rượu bầu, thịt miếng. Hôm nay xin mời mả đã thành ma đất dùng nhiều rượu cần, nhiều cơm trắng ăn uống no đủ rồi mời mả cùng đi về nhà... ơi bề trên”.
Ăn uống xong, ba ông thầy đi ra sạp lễ, ba vị thầy cúng bắt đầu múa lễ, mời "mả” uống rượu cần sau bữa ăn, từng chén một. Sau các vị thầy múa mời rượu, đến lượt người thân nhận các ché rượu từ tay các thầy, đem trút vào hai ống nứa trong vai atâu. Hết tiệc rượu, đến múa tặng gạo. Mỗi thầy vốc một nấm gạo trong ô lớn đưa ra phía trước, vừa nhịp nhàng múa, vừa vãi gạo về phía vai atâu. Cũng như chúc rượu, ô gạo được chuyển cho người thân mỗi người một nắm, đem tới vai atâu bỏ vào đó. Đây là lương thực để dành cho "mả" trong lộ trình sắp tới. Lễ mời rượu và tặng gạo cho "mả" kết thúc vào khoảng 21 giờ tối. Mọi người vào bữa cơm tối trong rạp lễ, ngoài đường tấp nập người qua lại, không khí hội khắp trong làng.Đêm nay, sau ngày rước mả về nhà, hầu như mọi người đều thức. Tuy giờ phút chia ly sẽ diễn ra trong ngày mai, nhưng về cơ bản đêm nay không phải là một đêm buồn, trái lại là một đêm vui, mặc dù trong giờ phút chia tay chúng ta sẽ nghe có nhiều tiếng khóc của các bà, các chị (sự bộc bạch được thoát ra từ con tim bằng tiếng khóc, tiếng khóc có làn điệu trầm bổng bày tỏ tâm tình, lòng thương tiếc của mình với người thân đã qua đời...).
Theo quan niệm của tộc người Raglai,“Bỏ mả“ là nét sinh hoạt tâm linh văn hóa độc đáo có cả phần lễ và phần hội. Tình cảm bi thương chỉ diễn ra từ ngày có người thân chết cho đến trước ngày bỏ mả, bỏ mả là những ngày vui, bởi theo thế giới quan của người Raglai, đến đây đã khô hết nước mắt rồi.
Trong thời gian vừa qua người chết đã bị thần đất giam giữ trong không gian đen tối, bị đất đè lên. Người chết không được tự do, không được lên khỏi mặt đất. Nếu trốn thần đất đi lang thang sẽ bị qủy bắt, không còn cơ hội siêu thoát, về với tổ tiên ông bà ở xứ ma trên vùng núi xa lắc, xa lơ… bây giờ đến ngày làm lễ bỏ mả, có nghĩa là “mả” được tự do, được lên khỏi mặt đất, được đãi bằng ăn uống no, say và sung sướng nhất là được siêu thoát, được về với ông bà, sống ở kiếp ma nhưng cũng có vợ, chồng, có nương rẫy, nhà cửa… Vì vậy đêm nay người ta thức uống rượu cần, tấu mả la, hát đối đáp… là dịp hiếm để có trai, gái gặp nhau trao gửi tâm tình bằng hai loại đàn môi Radik và Awăt.
Sau những nghi lễ trên, mọi người tập trung tại rạp tiếp tục tham gia các loại hình nghệ thuật dân gian. Những người ở các vùng lân cận biết được tin đã kéo về đây chia vui, đặc biệt là thanh niên nam nữ, họ học hát, tập đánh “mả la” và giao lưu cùng nhau, họ vừa tham dự lễ hội vừa để vui chơi, gặp gỡ nhau, đều được đón tiếp và tham gia từ giúp đỡ công việc đóng góp vật chất, ăn uống cộng đồng và sinh hoạt văn hóa văn nghệ.
2.2.3. Ngày thứ ba
Là ngày cuối cùng của nghi lễ, trước khi thực hiện “Nghi thức tiễn mả”. Sáng sớm, mọi người lại tiếp tục công việc chuẩn bị. Ba vị thầy cúng lại ngồi trước lễ vật, đưa hai tay ra phía trước khấn mời “mả” dùng rượu cần trong tiếng mả la. Sau vài lần ba vị thầy cúng hắt rượu về phía vai atâu, các thố rượu lại chuyển cho người trong gia tộc đem đến trút vào hai ống nứa.
Sau lễ chúc rượu cần vào buổi sáng, người nhà đem lễ vật mới từ gian bếp dọn thành hai mâm. Một mâm cho "mả", một mâm cho ông, bà và khách của ông bà, đây là lễ khoản đãi buổi sáng. Mỗi lần cúng mời lễ vật nào thì lễ vật ấy được ba thầy cúng chuyển cho người trong gia tộc đem đến bỏ vào vai atâu. Lễ khoản đãi buổi sáng kéo dài và kết thúc khoảng 11 giờ 30.
Đến khoảng 12 giờ trưa, bữa cơm đãi khách, mọi người được dọn ra kín cả rạp lễ. Ngoài cơm, thịt trâu, thịt heo, thịt gà, canh mít non nấu với xương trâu, xương heo còn có các loại bánh tét, bánh tráng và không thể thiếu được đó là rượu cần. Đến với lễ bỏ mả của tộc người là phải uống, không nhiều thì ít, không thể nào từ chối. Sau vài đợt ăn xong, đợt khác lại tiếp diễn, một bữa ăn diễn ra ít nhất phải đến vài tiếng đồng hồ.
Buổi chiều khoảng 16 giờ lễ tiễn đưa mả mới bắt đầu. Trước hết, ba vị thầy cúng và người thân trong gia tộc đoàn tụ trong gian nhà ngoài để cùng ăn chung với "mả" bữa ăn cuối cùng tại nhà trước khi tiếp tục ăn lễ tại sạp lễ. Xong bữa ăn chung trong nhà, ba vị thầy và mọi người đi ra sạp lễ. Trên sạp lễ, người nhà đã sắp đặt lễ vật “bữa ăn cuối cùng” trước lúc chuẩn bị tiễn linh hồn người chết. Lễ vật của họ hàng dâng cúng: 3 con heo, gà, rượu cần, cơm, canh.
Theo người Raglai, trước khi đi linh hồn người chết phải được ăn uống no nê để họ có sức khỏe lên đường về với tổ tiên của mình. Do đó, sau bữa ăn lớn đánh dấu sự kết thúc mối quan hệ giữa người sống và người chết nhưng họ vẫn làm 2 lễ cúng nhỏ cho linh hồn người quá cố trước khi lên đường: Chuẩn bị lên đường và lên đường.
Lời cúng:“Drai pô.. huray ni ngăq yak budhi ploq, budhi taya. Kamin ni raodq tôha pagơk ba poq ya ba jalat nao, nao truq moq, nao truq kay, nao truq aloaq, nao truq payiêng. Hura ni să q tukay huray ayah, kamin ni rapoaq pag k, tôha pagơk ba poqya, ba jalat nao, nao tơl aloaq, nao tơl payiêng, nao tala muq, nao tala kay, pagơk yiêk lung ya, yiêt lung atâu pagơk iêt tao, pagơk khao kuna, ana, ticho, lamo, kubao dray. Uni iêu kay bbâk pu, djiuh dapai, bbâk dray, djuh ai si apok titea, ana sidik, bbâk djuh atiq tani yơ... Drai pô”
Lời dịch: “Kính bề trên .... hôm nay đây làm lễ cúng cắt đứt cúng đoạn tuyệt. Chúng tôi đây là dòng họ bà con của ông, làm lễ mở đường cho ông đi qua xứ tổ tiên, đi về qua ông bà, đi qua nhan vàng (về xứ ma). Ngay nay chúng tôi xin dặn dò dòng họ bà con mở đường cho ông đi, đi về với ông bà, đi qua với sông, đi về với tổ tiên. Ông đi rồi nhưng khi về với ông bà phải ngó tới con, cháu, trâu, bò..... Giờ đây xin mời ông ăn cơm, uống rượu, no say, uống thỏa với dân làng, hãy ăn uống cho hết.... ơi bề trên”
Khi kết thúc lễ này, những người thân của gia chủ cùng 3 người hành lễ vào trong nhà để làm lễ tạ cho họ tộc bên chồng hoặc bên vợ (người chết). Trước khi tạ lễ thì gia đình vợ (chồng) có mời bữa cơm cho gia đình bên chồng (vợ). Trong bữa ăn này họ mời nhau chén rượu cần, nói những lời cảm ơn nhau. Đặc biệt trước lúc ăn, cả hai bên đều cho ít thức ăn vào vai atâu cho người chết. Ở đây linh hồn người chết sẽ chứng kiến buổi tạ lễ này. Lễ vật là một ít tiền bạc, tùy theo mỗi gia đình cho nhiều hay ít (ngày nay, lễ vật chỉ là tượng trưng - hầu như họ không còn nhận lễ vật này, mà trả lại cho gia đình gia chủ).
Theo quan niệm của người Raglai cho rằng khi còn sống, người quá cố đã bỏ nhiều công sức để phục vụ cho gia đình bên vợ hoặc chồng; chính vì vậy, khi người chồng (vợ) chết đi, ngoài việc làm lễ bỏ mả (Budhi atâu), gia đình bên vợ cũng không quên việc tạ lễ cho gia đình người chồng. Đây chính là một nét rất nhân văn của người Raglai trong mối quan hệ giữa gia đình bên vợ - bên chồng sau khi có một ai đó mất.
Khi kết thúc tạ lễ và hai bên đã ăn uống xong, gia đình 2 bên trở lại bàn lễ và tiếp tục làm lễ mời linh hồn người chết lần cuối. Tiếp đó, mỗi người lấy một ít thức ăn cho vào vai atâu (giỏ đựng thức ăn); lúc này dân làng đến rất đông để tiễn biệt linh hồn người chết. Lần lượt từng người đem gạo, rượu trắng cho vào vai atâu đựng thức ăn này và cầu chúc cho linh hồn người chết lên đường bình an.
Trong khi đó gia đình gia chủ đã chuẩn bị một cây mía đỏ để làm đòn khiêng vai atâu. Điểm đáng chú ý chính là cây mía được xỏ từ gốc đến ngọn và khi khiêng thì người khiêng gốc mía đi trước. Theo lý giải của họ, khi đi đường, linh hồn người hết sẽ ăn dần cây mía, còn gốc mía sẽ mọc lại: "mía có gốc, gốc sẽ mọc lại”.Vai atâu lúc này đã đầy ắp thức ăn, thầy chủ lễ lấy cái chén (biểu tượng cho người chết) úp vào jakuc. Sau đó dẫn đoàn mả la múa 3 vòng quanh bàn lễ.
Thầy chủ lễ cầm tấm khăn trắng trên jakuc và múa ra khỏi nhà, theo sau là giỏ vai atâu, jakuc, tiếng mả la và đoàn người tiễn đưa. Đến ngã 3 đường, họ để vai atâu thức ăn xuống, 3 người hành lễ này làm những động tác múa nhẹ nhàng, uyển chuyển và thầy chủ lễ cầm cây Gai toah chỉ hướng phía trước cho linh hồn người chết cứ theo hướng đó mà đi. Sau đó thầy chủ lễ quay lưng đi và bẻ đôi Gai toah và cắm vào jakuc để kết thúc hoàn toàn mối quan hệ giữa người sống và người chết. Lúc này tiếng nhạc mả la ngừng hẳn, tất cả đã im lặng không còn khóc lóc tiễn đưa nữa. Họ trở về nhà và 2 người khiêng vai atâu đi theo con đường ra nhà mồ mà thầy chủ lễ đã chỉ hướng.
Người Raglai quan niệm đường đi đến nơi tổ tiên - palay người chết rất xa xôi, phải đi qua nhiều đồi núi, vì thế họ cần chuẩn bị rất nhiều thức ăn cho linh hồn người chết. Linh hồn người chết chưa biết đường đi đến palay dành cho họ nên thầy chủ lễ phải chỉ hướng cho linh hồn người chết qua những động tác múa trên. Còn lý giải việc dừng ở ngã ba đường mới tiễn linh hồn người chết đi thì thầy chủ lễ cho rằng làm như vậy để linh hồn người chết không quay lại quấy phá gia đình. Vì nếu trở lại ngã ba đường đó thì linh hồn người chết sẽ không biết chọn con đường nào về, như thế linh hồn người chết sẽ trở lại con đường mà thầy chủ lễ đã chỉ hướng đi về palay dành cho người chết.
Về đến nhà, mọi người lại tiếp tục tham gia vào phần hội  của đám bỏ mả. Lúc này, niềm vui mới thật sự chọn vẹn vì tất cả mọi người đều cảm thấy mình đã làm tròn bổn phận, trách nhiệm với người đã khuất. Rượu cần và thức ăn được người nhà mang ra tiếp đãi bà con, ở những đám bỏ mả lớn cuộc vui có thể kéo dài đến vài ngày.
Phần văn nghệ lúc này mới thực sự sôi nổi với sự tham gia của tất cả mọi người, đặc biệt có sự tham gia của các nghệ nhân từ khắp các làng. Với tài nghệ của mình, họ đã đóng góp cho hội những tiết mục đặc sắc mang tính nghệ thuật cao. Đến với hội mọi người vừa được tham gia vừa được thưởng thức vừa được giao lưu học hỏi những làn điệu độc đáo của dân tộc mình. Đây còn là dịp để mọi người vừa thực hành vừa tích lũy thêm vốn văn hóa nghệ thuật của tộc người. Từ những cuộc giao lưu văn nghệ, trình độ âm nhạc của bà con được nâng lên, tình cảm bà con càng được gắn bó bền chặt. Cũng từ cuộc giao lưu này, trai gái có cơ hội để tìm hiểu, thành vợ, thành chồng sau này.
Như đã trình bày, tộc người Raglai tuy kinh tế còn chậm phát triển so với tộc người khác, nhưng có thể nói họ có một nền văn hóa dân gian vô cùng độc đáo và đa dạng. Đặc biệt là nghệ thuật âm nhạc, người Raglai rất có năng khiếu về âm nhạc, nhất là về ca hát và hát đối đáp, sử thi. Đối với người Raglai, âm nhạc luôn song hành suốt cả cuộc đời của mỗi con người. Nhất là trong các nghi lễ đánh dấu mốc quan trọng của một đời người, từ lúc chào đời đến khi nhắm mắt, ở từng giai đoạn, không lúc nào là không có sự góp mặt của âm nhạc. Âm nhạc là phương tiện giúp người Ragai thể hiện tình cảm, bày tỏ quan điểm, giúp giao tiếp với thần linh (ở giai điệu các bài khấn của thầy cúng, giai điệu của các bài mả la trong khi thực hành các nghi lễ...) một cách tinh tế và sâu sắc. Theo quan niệm của người Raglai xã Phước Chiến, lễ bỏ mả là môi trường hội tụ các loại hình nghệ thuật: Nghệ thuật diễn xướng qua giai điệu các bài cúng, nghệ thuật hát các làn điệu dân ca, nghệ thuật biểu diễn nhạc cụ mả la, khèn bầu... rất phong phú và độc đáo. Tuy nhiên hiện nay, ở một số vùng đồng bào Raglai, do nhiều nguyên do, trong phần hội của nghi lễ bỏ mả đang có nguy cơ bị mai một và biến đổi, bởi trong thời buổi toàn cầu hóa, giao lưu và tiếp biến với nhiều loại hình nghệ thuật khác.
Tiểu kết chương 2

Lễ bỏ mả của tộc người Raglai nói chung và ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận nói riêng là một nghi lễ tiêu biểu chứa đựng nhiều giá trị văn hóa trong hệ thống các nghi lễ vòng đời người truyền thống của người Raglai còn tồn tại đến ngày nay. Đây là một nghi lễ thể hiện đầy đủ những quan niệm của người Raglai về sự sống và sự chết. Đến ngày nay, nghi lễ thể hiện một cách đầy đủ, đậm nét bản sắc văn hóa của tộc người Raglai.
Diễn trình lễ bỏ mả diễn ra trong 3 ngày với những quy định khá chặt chẽ và khắt khe được duy trì cho đến ngày nay. Trong đó, ngày thứ hai được coi là ngày lễ chính. Theo quan niệm của tộc người Raglai,“Bỏ mả“ là nét sinh hoạt tâm linh văn hóa độc đáo có cả phần lễ và phần hội. Tình cảm bi thương chỉ diễn ra từ ngày có người thân chết cho đến trước ngày bỏ mả. Khi hoàn tất lễ bỏ mả, người Raglai coi như đã hoàn thành nhiệm vụ giải thoát được linh hồn cho người chết về thế giới bên kia. Vì vậy, sau khi làm xong nghi lễ cuối cùng, người Raglai tổ chức phần “hội” bằng các hình thức uống rượu cần, đánh mã la, nhảy múa để “mừng” cho linh hồn người quá cố được giải thoát và từ nay không còn thờ cúng gì nữa.

Nghi lễ bỏ mả phản chiếu đời sống vật chất và tin thần, tâm linh của người raglai, những khát vọng vươn tới cái cao đẹp được thể hiện rõ nét qua quan niệm về cái chết và linh hồn, hình tượng nhà mồ, hình tượng Kagor và về thái độ ứng xử văn hóa nghệ thuật, nhân văn sâu sắc thông qua các loại hình nghệ thuật truyền thống... Đồng thời nghi lễ còn hàm chứa những giá trị nhân văn, đạo đức, là môi trường giáo dục đạo lý và ý thức cộng đồng. Qua đó có tác dụng to lớn trong việc củng cố sức mạnh tình đoàn kết của cộng đồng tộc người Raglai, mặt khác, lễ bỏ mả còn là môi trường giúp người Raglai bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. 














Chương 3
 SỰ BIẾN ĐỔI TRONG LỄ BỎ MẢ CỦA NGƯỜI RAGLAI
3.1. Đi tìm những giá trị văn hóa trong lễ bỏ mả của người Raglai
Lễ bỏ mả của người Raglai thể hiện một cách rõ nét văn hóa truyền thống, góp phần hình thành phát triển bản sắc của tộc người này. Bởi, phần lễ với các nghi thức được quy định chặt chẽ mang niềm tin tâm linh, tính thiêng sâu sắc và cũng là môi trường tạo nên sự đoàn kết hài hòa. Nội dung và cách thể hiện ở phần lễ đã hình thành một không gian mang giá trị văn hóa tâm linh linh thiêng trở thành cầu nối gắn kết mọi người tham dự. Các hoạt động văn hóa trong nghi lễ mang tính nguyên hợp của các thành tố dân gian, và còn là môi trường phát huy sự sáng tạo, giáo dục, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật của tộc người Raglai này.
Mặt khác, lễ bỏ mả phản ánh đời sống vật chất và tinh thần, tâm linh của người Raglai, hướng tới những khát vọng vươn tới cái cao đẹp được thể hiện rõ nét qua các quan niệm tâm linh, sự tham gia của các thành viên trong gia đình, dòng họ, bà con lối xóm, qua việc chuẩn bị các lễ vật, làm nhà mồ… Do vậy, có thể nói, nghi lễ bỏ mả là môi trường hội tụ một cách đầy đủ những nét văn hóa truyền thống cũng như những văn hóa truyền thống hết sức đặc sắc của người Raglai xã Phước Chiến nói riêng và các tỉnh Nam Trung bộ nói chung.
3.1.1. Giá trị văn hóa tâm linh
Lễ hội của tộc người Raglai được hình thành từ tín ngưỡng mang tính sơ khai nguyên thủy, được hòa chặt vào nhau trong đời sống tinh thần, tâm linh và cả đời sống vật chất. Trong đó, yếu tố tâm linh giữ vai trò chủ đạo, tác động và chi phối nhiều nhất đến tất cả các hoạt động vật chất lẫn tinh thần của tộc người Raglai. Sở dĩ lễ bỏ mả còn tồn tại cho đến ngày nay do nó hàm chứa nhiều giá trị văn hóa, trong đó giá trị tâm linh giữ vai trò quyết định. Bởi, xuyên suốt trong quá trình diễn ra nghi lễ là những hoạt động quan niệm về vũ trụ, quan niệm về linh hồn, về cái chết, về tái sinh… đến biểu tượng văn hóa như: Nhà mồ, Kagor, mả la. Trong các hành động thầy cúng, lời khấn, điệu múa tất cả điều mang tính “thiêng”, mang niềm tin thể hiện rõ nét đặc trưng trong văn hóa tâm linh của người Raglai. 
Lễ bỏ mả không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất mà còn giúp thỏa mãn về đời sống tinh thần, giúp họ cân bằng hài hòa trong cuộc sống. Đến tham dự nghi lễ, mọi người đều tin rằng người chết sẽ có cuộc sống no đủ ở thế giới bên kia, được trở lại làm người nếu được gia đình, dòng tộc tổ chức lễ bỏ mả một cách chu đáo, đúng với phong tục. Chính vì điều này có ý nghĩ tích cực trong việc động viên, an ủi tinh thần với những người thân trong gia đình, dòng tộc, giúp họ vượt qua những mất mát, đau thương. Mặt khác, các quan niệm tâm linh trong nghi lễ còn giúp điều chỉnh hành vi, đạo đức, lối sống, hướng tới cái cao cả, cái đẹp… Mặc dù hiện nay đời sống tâm linh của người Raglai có sự biến đổi do tác động bởi nhiều yếu tố, song nếu chúng ta biết khơi gợi những giá trị tâm linh tích cực, thì không chỉ giúp cho tộc người Raglai phát triển phong phú về đời sống tinh thần mà còn giúp họ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của họ.
2.1.2. Giá trị nhân văn, đạo đức
Qua tìm hiểu nghi lễ bỏ mả của tộc người Raglai, chúng tôi nhận thấy nghi lễ có sự tham gia tích cực của mọi người trong cộng đồng, trong làng, ngoài làng… điều đó cho thấy tính cộng đồng thể hiện rất rõ nét, bởi cùng chung tín ngưỡng, niềm tin tâm linh “chết không phải là hết” mà là sự khởi đầu cho cuộc sống mới. Như vậy, lễ bỏ mả là vì con người, vì cuộc sống của cá nhân và của cả cộng đồng, nên hàm chứa giá trị nhân văn sâu sắc. Có thể nói, nghi lễ bỏ mả biểu đạt sự khát vọng của người Raglai về một cuộc sống xã hội no đủ, tốt đẹp của con người và được thể hiện rõ nét mối quan hệ huyết thống của chế độ mẫu hệ.
Mặt khác, nghi lễ còn là môi trường giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Raglai. Bởi, nghi lễ thể hiện một cách rõ nét sự ứng xử trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội. Mỗi người tham dự lễ hội có thể tìm cho mình một bài học về đạo đức, đạo lý của dân tộc. Đó chính là lòng yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình, tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng thể hiện qua sự chung tay chăm sóc của con cháu trong dòng họ, bà con lối xóm và cả những người khác họ từ làng khác đối với người đã khuất… Ngoài ra, nghi lễ còn hàm chứa nhiều giá trị đạo đức khác, tạo nên cốt cách của người Raglai, như tính khiêm tốn, lòng thủy chung, tính trung thực, long nhân ái…
3.1.3. Giá trị văn hóa nghệ thuật
Cũng như bao dân tộc khác, một trong những môi trường nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật dân gian của người Raglai chính là lễ hội. Bởi lẽ, môi trường lễ hội không chỉ là nơi hội tụ một cách đầy đủ những nghệ thuật tiêu biểu, mà còn giúp bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật văn hóa dân gian của mỗi nền văn hóa.
Lễ bỏ mả của người Raglai thể hiện tính nghệ thuật nguyên hợp phong phú, đa đạng và độc đáo. Ngoài ý nghĩa về tâm linh, đó còn là sự phối kết hợp hài hòa các loại hình nghệ thuận dân gian ở cả phần lễ và phần hội như: Hát đối đáp, nghệ thuật diễn xướng, biểu diễn nghệ thuật đánh mả la, kèn bầu, làn điệu dân ca… bên cạnh đó nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc, trang trí qua hình tượng nhà mồ và Kagor được thể hiện rõ nét, trình độ và quan điển của người Raglai.
Có thể nó qua nghi lễ bỏ mả ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc là môi trường hội tụ của các loại hình nghệ thuật độc đáo mang tính nhân văn, tính nghệ thuật sâu sắc. mặt khác, lễ hội chính là môi trường giáo dục văn hóa nghệ thuật, thể hiện qua sự truyền nghề của các nghệ nhân, giúp họ bảo tồn văn hóa dân gian, giúp người dân kế thừa và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật của tộc người.
3.2. Sự biến đổi trong lễ bỏ mả và những nguyên nhân
Sự biến đổi
Nguyên nhân
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của thời đại đã tạo ra những biến đổi có tính chất đột biến đối với nền văn hóa cổ truyền. Trong đó, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang bị phá hủy hoặc tự phá hủy và đỗ vỡ. Nếu không kịp thời nghiên cứu, bảo tồn, nó sẽ mai một và biến mất. Sự biến mất đi những giá trị văn hóa cổ truyền và sự tiếp thu thiếu chọn lọc từ những nền văn hóa khác đang làm cho phong tục tập quán bị đảo lộn, làm suy đồi đạo đức, nhận thức và lối sống, làm cho các dân tộc tự đánh mất sắc thái văn hóa riêng của mình. Hậu quả của nó không thể đong đếm bằng vật chất và sẽ là lực cản của sự phát triển chung.
Văn hóa truyền thống của tộc người Raglai được thể hiện qua các sinh hoạt lễ hội phong tục tập quán, các trò chơi dân gian, nghệ thuật diễn xướng... Nét văn hóa truyền thống còn được thể hiện qua các hình thức văn hóa nghệ thuật như những bản trường ca, như âm nhạc, lời ca, điệu múa với các nhạc cụ truyền thống độc độc đáo như Mã la, khèn bầu Sarakel, đàn Chapi, đã tạo nên một nét riêng biệt, độc đáo của tộc người Raglai và là tài sản quí báu của văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, bảo tồn các di sản văn hóa tộc người nói chung và lễ bỏ mả của tộc người Raglai trở thành vấn đề đặc biệt quan tâm, theo xu hướng phù hợp cho sự phát triển của đất nước.
Đất nước ta đang đổi mới, dân trí ngày càng nâng cao, chắc chắn đã và đang tác động đến lễ hội cổ truyền, làm cho lễ hội có thêm những nội đung mới,lễbỏ mả của tộc người Raglai cũng vậy. Để thích nghi với thời đại, lễ hội cũng cần được biến đổi chứ không phải là cái nhất thành bất biến. Bởi lẽ, lễ hội chính là dịp để giao tiếp, biểu thị sự cộng cảm, người đến với lễ hội vừa xem, vui chơi, vừa tham gia vào các trình tự của lễ hội. Tuy nhiên, duy trì hay loại bỏ bất kỳ một yếu tố nào của lễ hội đều phải tuân theo nguyên tắc kế thừa có chọn lọc một cách thận trọng, không vội vã, không lạm dụng để rồi đánh mất bản sắc dân tộc, tạo ra sự lai căng xa lạ với phong tục tập quán. Việc sáng tạo văn hóa trong lễ hội chính là hoạt động tích cực nhất để loại trừ yếu tố văn hóa độc hại. Lễ hội trở thành sinh hoạt tinh thần không thể thiếu của nhân dân. Thu hút đông đảo quần chúng tham gia lễ hội, kích thích năng lực sáng tạo của họ, người làm công tác tổ chức, quản lý lễ hội mới đạt đến nghệ thuật trong việc tổ chức quản lý và quần chúng - người sáng tạo nên những giá trị tinh thần mới gìn giữ những tinh hoa của lễ hội làm cho nó mỗi ngày một dân tộc hơn, hiện đại hơn.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam có nhiều tộc người sinh sống và mỗi tộc người có những bản sắc văn hóa riêng. Nhờ đó, nó đã tạo ra sự phong phú về những giá trị văn hóa. Phải nói rằng, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung, mỗi tộc người nói riêng được trải qua những biến cố, thăng trầm trong lịch sử. Để rồi, những giá trị còn lại, tồn tại và bền vững đã tạo nên một bản sắc riêng. Như vậy, bản sắc văn hóa không phải ngẫu nhiên được hình thành mà nó phải trải qua bề dày của lịch sử. Nó tạo ra cho mỗi tộc người những phong cách, những lối sống, thông qua đó, giúp chúng ta nhận diện về tộc người ấy.

Mặc dù vậy, những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung, mỗi tộc người thiểu số không phải bất di bất dịch mà nó cũng thay dổi những giá trị nhất định dưới sự tác động của thời cuộc. Trong cuộc sống của cơ chế kinh tế thị trường, các giá trị văn hóa thay đổi một cách nhanh chóng, khiến cho chúng ta không khỏi chạnh lòng trước những thay đổi ấy. Nhìn tổng thể vớibức tranh chung, những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, lễ hội của tộc người thiểu số nói chung, tộc người Raglai Ninh Thuận nói riêng cũng có sự thay đổi đáng kể, khiến cho một số giá trị tốt đẹp trước đây đã thay đổi thậm chí “hòa tan” cùng dòng chảy với sự hội nhập và giao lưu văn hóa. Đứng trước tình trạng ấy, câu hỏi “làm thếnào để gìn giữ những bản sắc vănhóa và những yếu tố nào tác động đến sự thay đổi đó”.
3.2.1. Chính sách phát triển kinh tế- xã hội
Chính sách phát triển kinh tế - hội cũng góp phần tác động sự biến đổi những giá trị văn hóa thông qua lễ bỏ mả. Bởi lẽ, chính sách tái định cư cho đồng bào dân tộc Raglai là một chủ trương mang tính nhân đạo nhằm đảm bảo đời sống cho họ. Song, chính sách này chưa chú trọng đến việc đảm bảo không gian sống của đồng bào Raglai. Họ phải từ bỏ những ngôi nhà sàn, rời bỏ không gian sống trước đó để đến một không gian sống mới. Đến đó, họ cảm thấy xa lạ và lạc lõng giữa cộng đồng mới, cách sống mới. Vì thế, một số không ít đã từ bỏ và trở lại cuộc sống trước đó. Như vậy, chính sách tái định cư có phần không hiệu quả. Đến đây, khi ban hành và thực chính sách cần có sự tham gia của đồng bào Raglai để tìm hiểu nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của con cần gì và đồng thời, đảm bảo không gian sống của họ không bị phá vỡ. Có như thế, đồng bào Raglai có cơ hội giữ gìn những giá trị văn hóa mang tính độc đáo của mình.
3.2.2. Không gian sng bị phá vỡ
Như bao tộc người thiểu số khác, tộc người Raglai sinh sống ở những vùng núi cao. Rừng núi là không gian sinh sống của họ tự bao đời nay. Họ sống và tồn tại nhờ vào những vật sản của thiên nhiên ban tặng. Do vậy, họ tỏ lòng tri ân bằng cách tôn thờ các vị thần như thần núi, thần sông, thần suối... đã mang lại cái ăn, cái mặc. Có thể nói, trong tâm trí tiềm thức của tộc người Raglai, hình ảnh con sông, con suối... đã ăn sâu vào suy nghĩ và là những người bạn thiên nhiên gần gũi với họ. Chính vì họ sống hòa mình với thiên nhiên nên tính cách, phong cách sống của họ cũng mộc mạc, hiền hòa như cái sông, cái suối ở đó.
Có thể nói, tộc người Raglai chủ yếu sinh sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, họ cảm giác đuối sức và bất lực. Họ chỉ là những sinh linh vô cùng nhỏ bé trong vũ trụ bao la và thế giới siêu nhiên. Để rồi,tín ngưỡng, thờ thần hình thành từ đó và nó tạo ra một niềm tin mạnh mẽ ở họ.
Hiện nay, không gian sống của tộc người thiểu số nói chung, tộc người Raglai Ninh Thuận nói riêng có phần nào đã bị phá vỡ. Thật vậy, trước hết, chúng ta có thể thấy rằng núi rừng không còn thần bí như trước đó; sản vật thiên nhiên ngày càng cạn dần. Cuộc sống mưu sinh, lợi ích đề cao, con người đã tàn phá rừng một cách vô tội vạ. Để rồi, diện tích rừng bị thu hẹp; Thứ đến, vì sức ép của dân số, nhiều dòng người di cư lên vùng núi cao để khai thác rừng làm nơi sinh sống của họ. Điều này cũng đồng nghĩa rằng, bức tranh về cuộc sống không còn bình yên của tộc người Raglai ở núi rừng. Cuộc sống của họ bắt đầu giao thoa với nhiều tộc người khác và rồi, những giá trị văn hóa được coi là bản sắc riêng họ cũng dần dần bị ảnh hưởng, thậm chí có xu hướng kinh hóa.
Đến đây, chúng ta thấy rằng một khi không gian sống bị phá vỡ, đồng nghĩa rằng, những phong tục, tập quán cũng có phần thay đổi. Như phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy xu hướng chung là không gian sống của người Raglai dần dần bị thu nhỏ. Kéo theo đó, không gian sinh hoạt đời sống tâm linh của người Raglai cũng thu hẹp lại. Cụ thể, nhà mồ là nơi sinh hoạt đời sống tinh thân và thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người Raglai. Qua quan sát, chúng tôi thấy rằng nhà mồ dường như cũng được xây dựng nhỏ lại chứ không lớn và rộng như trước đó. Hoặc, cùng với sự phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa, chất liệu để xây dựng nhà mồ dường như cũng bị thay đổi, nếu trước đây, chất liệu chủ yếu bằng gỗ, bây giờ, nhà mồ được bê tông, cốt thép. Hoặc, những nghi lễ vòng đời, trong đó có lễ bỏ mả đã có xu hướng giản lược so vớitruyền thống. Tất cả những thay đổi ấy đã làm cho những giá trị truyền thống mang ý nghĩa tâm linh, mang màu sắc riêng không còn nữa, thậm chí bị mai một.
Như vậy, sự phá vỡ không gian sống của tộc người Raglai đã dẫn đến sự thay đổi đời sống tâm linh của họ, đặc biệt, thấy rõ nhất là những nghi lễ vòng đời, trong đó có lễ bỏ mả. Đây là lễ quan trọng nhất trong vòng đời của một con người trong kiếp nhân sinh. Ấy vậy mà, nó vẫn bị xoáy theo sự thay đổi của thời cuộc. Do đó, để gìn giữ và bảo tồn giá trị mang bản sắc riêng của tộc người Raglai, những nhà lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách về văn hóa cần chú ý đến làm thế nào để đảm bảo không gian sống của người Raglai. Có như vậy, bản sắc văn hóa của tộc người Raglai được tồn tại và bền vững với thời gian.
3.2.3. Kinh tế thị trường và sự thay đổi phương thức sản xuất.
Sau thời kỳ đổi mới, nước ta bước vào giai đoạn phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Phải khẳng định rằng, cơ chế kinh tế thị trường đã tạo ra lực đẩy rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Nhờ đó, cuộc sống của người dân được nâng cao, nhu cầu về đời sống tinh thần ngày càng cao hơn. Song, cơ chế ấy cũng tạo ra không ít những thách thức đối với kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta hiện nay.
Ninh Thuận là tỉnh nằm ở cực Nam Trung Bộ; là ngã ba giao thông Bắc- Nam và Tây nguyên. Trong xu hướng thay đổi như thế, Ninh Thuận cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Tỉnh Ninh Thuận đã và đang “chào mời” nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào góp phần đưa tỉnh đi lên. Nhờ đó, đời sống của nhân dân cũng được cải thiện, nhu cầu tinh thần của họ cũng được nâng cao. Song, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng làm không ít thách thức đối với người dân nơi đây.
Trong xu hướng chung, tộc người Raglai ở Ninh Thuận cũng không ngoại trừ. Cơ chế thị trường đã tác động mạnh đến đời sống của họ. Trước đây, họ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ theo phương thức tự cung, tự cấp. Bây giờ, người Raglai cũng đã biết trồng cây gì, nuôi con gì để có thể trao đổi và buôn bán. Nhờ đó, bộ phận không nhỏ người Raglai đã vươn lên thoát nghèo. Đến đây, chúng ta có thể khẳng định cơ chế thị trường đã làm thay đổi phương cách sản xuất của người Raglai.
Bên cạnh đó, cơ chế kinh tế thị trường còn làm thay đổi nhận thức và hành vi của tộc người Raglai về những giá trị văn hóa truyền thống của họ. Thật vậy, do cuốn theo dòng chảy của thời cuộc, người Raglai đã thay đổi tư duy về cách sống và họ cũng bận rộn hơn trong việc kiếm sống để mưu sinh cho nên những nghi lễ truyền thống ít được chú ý. Để tìm kiếm cơ hội đổi đời, do đó, họ càng dễ dàng đón nhận nhiều luồng văn hóa mới. Từ đó, khiến cho họ “nhạt” dần với những lễ nghi truyền thống vì họ cho rằng nó không còn phù hợp.
Như đã nói, lễ bỏ mả là nghi lễ quan trọng nhất trong nghi lễ vòng đời của tộc người Raglai. Khi làm lễ bỏ mả, các thành viên trong gia đình và cộng đồng đều quây quần bên nhau để đưa tiễn linh hồn người đã khuất về thế giới bên kia một cách bình yên. Song, vì công việc, vì cuộc sống mưu sinh, một bộ phận trong số họ đã không làm được điều đó hoặc lãng quên và thậm chí xem đó không cần thiết nữa.
Như vậy, thanh niên là nguồn lực xung mãn để bảo tồn các giá trị văn hóa của cộng đồng. Thế nhưng, dưới tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận thanh niên của tộc người Raglai đã quay lưng với truyền thống. Đây chính là vấn đề xã hội trong việc bảo ton giá trị văn hóa của tộc người Raglai.
Một tác động có thể nhắc đến nữa đó là thời gian và nghi thức của lễ bỏ mả cũng bị thay đổi về nghi thức, so với trước đó, nghi lễ bị giản lược rất nhiều. Bởi vì, có nhiều nghi thức rườm rà, phức tạp. Ví dụ các thầy cúng hành lễ nhiều lần, cho mả ăn nhiều lần... về thời gian, thời gian nghi lễ cũng bị rút ngắn lại bởi hai lý do: Do giản lược về nghi lễ, do cuộc sống mưu sinh và bận rộn với công việc nên sự tham gia của các thành viên trong gia đình và cộng đổng bị hạn chế. Lẽ đó, thời gian thực hiện nghi lễ bỏ mả rút ngắn lại chỉ còn từ 1-2 ngày, thay vì 3-5 ngày như trước đây. Mặc dù, có thể nói, đây cũng là sự biến đổi có xu hướng tiết kiệm về thời gian, kinh phí. Song, không vì thế, đánh mất đi ý nghĩa thiêng liêng của nghi lễ bỏ mả. Bởi lẽ, ai dám chắc rằng, trong tương lai sẽ còn giản lược nữa hoặc sẽ biến mất. Do đó, chính quyền và các nhà quản lý văn hóa có những chiến lược bảo tồn và gìn giữ giá trị của nghi lễ bỏ mả nhằm góp phần làm cho bản sắc văn hóa của tộc người Raglai không bị mai một và “lãng quên”.
           3.2.4. Biến đổi cấu trúc xã hội truyền thống
Cấu trúc xã hội truyền thống của tộc người Raglai được hình thành từ lâu đời. Đó là cấu trúc theo địa bàn cư trú cơ sở mà người Raglai gọi là palay(buôn, làng), ở đó hiện hữu bền vững những tộc họ gắn kết với nhau theo chế độ mẫu hệ. Những năm gần đây, quá trình phát triển, giao lưu đã làm xuất hiện những hôn nhân giữa người Raglai với các dân tộc khác, kéo theo sự biến đổi phong tục tập quán của chế độ mẫu hệ truyền thống, biểu hiện trong những việc như khai sinh, đăng ký họ, tên.... Do đó, tính thuần hóa không còn nữa, hệ quả, nó làm cho mai một đi những giá trị của tộc người Raglai. Vì, khi đã kết hôn với người ngoài tộc thì đồng nghĩa rằng, họ phải theo chồng hoặc vợ sinh sống ở một cộng đồng của tộc người khác, thậm chí, có vài trường hợp kết hôn xong, họ di cư đến vùng khác sinh sống, từ đó, họ ít có cơ hội tham gia vào những sinh hoạt tâm linh của người Raglai. Theo thời gian và cộng với những tác động khác, sẽ làm cho tín ngưỡng nói chung, lễ bỏ mả nói riêng của tộc người Raglai dần bị thay thế, thậm chí bị nhạt nhòa đi.
Đến đây, chúng ta thấy rằng, công việc giáo dục về ý thức gìn giữ và dung hòa các giá trị văn hóa giữa các tộc người là rất cần thiết. Bởi lẽ, nó giúp cho mỗi tộc người sẽ tôn trọng những giá trị của nhau. Dù có kết hôn với tộc người nào đi nữa, người chồng hoặc vợ vẫn khuyến khích và nhắc nhở nhau trong quá trình phát huy những giá trị truyền thống của tộc người mình.
3.3. Những sắc thái văn hóa qua nghi lễ bỏ mả
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, bất cứ một sự biểu hiện quan niệm về một phong tục tập quán hay một tín ngưỡng nào đều thể hiện bản chất của nền văn hóa của nó. Hay nói cách khác, đó chính là tái tạo nền bản sắc văn hóa, khu biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác, thể hiện sự đa dạng văn hóa. Quan niệm về linh hồn, vì vậy cũng thể hiện bản chất văn hóa, hay nói đúng hơn, quan niệm về linh hồn của một tộc người thể hiện văn hóa tiếp nhận qua thái độ của họ đối với những thứ được gọi là linh hồn đó [tr. 37].
Trong quan hệ tộc người, người Chăm được xem là có quan hệ gần gủi về văn hóa với tộc người Raglai và được coi như anh, em. Nhưng về nghi lễ tang ma, hai tộc người này đều có sự khác biệt, theo tác giả Phan Quốc Anh, trong công trình “Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận”: “Điểm khác biệt căn bản nhất giữa người Chăm và các dân tộc Nam Đảo, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và người Việt trong nghi lễ vòng đời người là ở nghi lễ tang ma” [4, tr. 320].Tuy nhiên, quan niệm về linh hồn, về cái chết, về sự tái sinh giữa người Chăm, Raglai, Ê Đê, Gia Rai, người kinh... có sự tương đồng rất lớn. Hầu hết các tộc người nói trên đều quan niệm, trong mỗi con người đều có thể xác và linh hồn, thể xác mất đi nhưng linh hồn vẫn tồn tại vĩnh cửu, điểm khác biệt là về quan niện số lượng linh hồn của mỗi tộc người có sự khác nhau.
Quan niệm về cái chết cũng như thế giới người chết, các dân tộc thiểu số trong nhóm Nam Đảo và Tây Nguyên đều có chung quan niệm, chết không phải là hết, mà chỉ là giai đoạn chuyển tiếp của con người, người chết sau khi trải qua hai giai đoạn chính của nghi lễ tang ma và nghi lễ bỏ mả sẽ được đầu thai trở lại làm người. Điểm khác biệt trong quan niệm của người Raglai về linh hồn so với các tộc người nói trên là, trong khi các dân tộc trên quan niệm sau khi chết, linh hồn sẽ trú ngụ ngoài nghĩa địa hoặc ngoài mả, thì người Raglai cho rằng linh hồn người chết sẽ trú ngụ trong Gaituh và do thầy cúng thực hiện thông qua nghi thức thu hồn người chết. Vì vậy mà trong thời gian chờ làm lễ bỏ mả, các tộc người số ở Bắc Tây Nguyên, hàng ngày vẫn mang cơm ra mả “nuôi mả”, người Raglai mỗi năm chỉ thăm mả hai lần, còn hàng ngày mời cơm mả tại nhà vào các bữa ăn trong vòng một năm sau khi làm lễ bỏ mả.
Cũng như các tộc người Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru… người Raglai quan niệm sau khi làm lễ bỏ mả, linh hồn sẽ về sống với tổ tiên, ông bà ở một ngôi làng xa xăm gọi là làng của ông bà, tổ tiên và chờ đến ngày ông bà cho đi “nhận kiếp đầu thai”. Với người Ê đê và Gia Rai cho rằng, sau lễ tang “Hồn vẫn sống lang thang ở nghĩa địa và được gia đình nuôi cho ăn uống và chỉ sau làm lễ bỏ mả, linh hồn người chết mới ra đi một chuyến dài, lần này để vĩnh cửu đến nơi trú ngụ một thế giới khác, nơi dành riêng cho linh hồn người chết do công, bà Băng Bdung, Băng Badai cai quản gọi là làng ma” [35, tr. 40]. Như vậy, có thể thấy rằng, “ngôi nhà ma” của người Raglai tuy không thật sự cụ thể, rõ ràng như người Bắc Tây Nguyên, nhưng lại rất gần gủi với họ, đó là ngôi làng mà ông bà, con cháu của người Raglai, sau khi qua đời đều “quy tụ” về đây và cai quản ngôi làng này, không ai xa lạ mà chính ông bà, tổ tiên của người Raglai. Quan niệm này cũng thể hiện sự thống nhất trong đời sống tín ngưỡng của người Raglai. Như chúng tôi đã đề cập ở phần trên, tín ngưỡng của người Raglai là “vận vật hữu linh”, tuy nhiên đối với người Raglai, ông bà tổ tiên là các vị thần quan trọng nhất, gần gủi nhất, có sự chi phối nhiều nhất trong đời sống tâm linh của họ.
Về tái sinh, cũng như các tộc người nói trên, thì người Raglai quan niệm sau khi chết, linh hồn của người chết sẽ về thế giới bên kia sống với ông bà, tổ tiên một thời gian và sau đó được đầu thai trở lại làm người. Tuy nhiên, trong quan niệm này cũng có điểm khác biệt. Bà con Raglai ở xã Phước Chiến tin rằng, khi còn sống, nếu ăn ở hiền lành, tốt bụng thì khi về với ông bà tổ tiên sẽ được đầu thai sớm bằng cách được ông bà cho nhập vào bào thai của người mẹ, được trở lại làm con cháu trong dòng họ và mang dáng vẻ của người quá cố; còn theo quan niệm của tộc người Gia Rai và Ba Na thì, linh hồn của người chết không đi hẵn, không sống hẵn ở thế giới bên kia, mà sau một thời gian linh hồn đó sẽ trở lại – tái sinh trở lại – làm người bằng cách nhập vào thể xác của những đứa trẻ [9, tr 29]; người Ê Đê thì cho rằng “sau khi chết hồn sẽ biến hóa 7 lần rồi trở thành giọt sương “hồn”, giọt sương trở lên mặt đất, nhập vào đưa trẻ sơ sinh là con cháu thuộc dòng máu của hồn trong lễ đặt tên “nhận hồn cho trẻ” [9, tr 45]. Như vậy có thể thấy “quy trình nhập kiếp đầu thai” của người Raglai tương đối đơn giản so với các tộc người nói trên. Chính từ quan niệm về linh hồn, về cái chết, về thế giới người chết, về tái sinh… như trên tộc người Raglai đã thể hiện các ứng xử với linh hồn có nhiều khác biệt so với tộc người trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo – Tây Nguyên nói riêng và các tộc người Đông Nam Á nói chung.
Như đã trình bày ở phần trên quan niệm về lễ bỏ mả của người Raglai có nhiều tương đồng so với các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên. Theo PGS.TS Ngô Văn Doanh, trong công trình lễ hội bỏ mả của tộc người Bắc Tây Nguyên: “Người Gia Rai và Ba Na cũng như một số tộc người khác ở Tây nguyên có tục làm lễ bỏ mả cho người chết, để người chết thanh thản về thế giới bên kia và cũng để cho người sống khỏi ràng buộc với người chết” và “làm lễ cho người chết hồi sinh và bắt đầu sống lại ở một trạng thái khác, ở một thế giới khác” [9, tr. 46]. Người Raglai cũng quan niệm, bỏ mả là cắt đứt mọi quan hệ ràng buộc giữa người chết và người sống, giúp cho linh hồn người chết được siêu thoát, được tái sinh trở lại trần gian dưới hình hài một con người mới. Tuy nhiên, đối với người Raglai, lễ bỏ mả ngoài mục đích chính là làm cho linh hồn
Người chết được đầu thai, còn là dịp để người thân gia đình, bà con, làng xóm báo hiếu, báo tình đối với người chết. Qua đó, có thể thấy cách nghĩ của người Raglai có điểm khác biệt đôi chút so với người thiểu số Bắc Tây Nguyên. Dù rằng, bỏ mả là cắt đứt hoàn toàn quan hệ giữa người sống và người chết, người chết về với tổ tiên ông bà chờ ngày “nhập kiếp đầu thai”, người sống hoàn toàn được giải phóng, trở lại cuộc sống bình thường, có thể tự do lấy vợ, cưới chồng, làm nhà … nhưng không vì thế mà làm một cách đại khái, làm cho “đủ thủ tục” mà phải chuẩn bị hết sức chu đáo, phải làm cho đúng “phong tục ông bà”… phải chăng vì có sự khác biệt trong quan niệm như trên mà trong lễ bỏ mả, người Raglai không có tục nối dây, không làm lễ giải phóng như người thiểu số Bắc Tây Nguyên (?)
Một điểm khác biệt nữa là ở thái độ ứng xử với linh hồn của người Raglai. Theo các nhà nghiên cứu, quan niệm về linh hồn của một tộc người thể hiện sắc thái văn hóa của tộc người đó. Các tộc người Đông Nam Á đều có thái độ gần giống nhau đối với linh hồn: Kính trọng và sợ hãi [37]. Người Raglai rất tôn trọng linh hồn, nhưng không sợ hãi linh hồn một cách thái quá. Bằng chứng là, trong thời gian chờ làm lễ bỏ mả, người Raglai vẫn giữ linh hồn người chết trong nhà. Trong các nghi thức tang ma đối với người chết xấu, trong khi các tộc người khác không mang xác về nhà, thì người Raglai vẫn mang về và tiến hành nghi lễ với đầy đủ các nghi thức như người chết thường. Cũng như quan niệm của người Kinh: “nghĩa tử là nghĩa tận”, người Raglai khi lo tang lễ cho người chết không phân biệt người chết lành và người chết xấu, kể cả người chết khi sống ăn ở không tốt với gia đình, bà con làng xóm, khi chết cũng được gia đình, họ tộc và bà con tổ chức tang lễ chu đáo với các đầy đủ nghi thức, lễ trình như người chết lành. Đây cũng là cách ứng xử đầy tính nhân văn của người Raglai. Trong các nghi thức cúng tế linh hồn người chết, các thầy cúng (đại diện cho gia đình, họ tộc), ngoài việc khấn tế, mời ma ăn uống, còn uống rượu, cười đùa với ma. Cách mời hồn ma ăn uống của người Raglai cũng rất khác biệt, độc đáo so với các tộc người khác: Trong nghi thức mời hồn ma ăn uống, chủ cúng cầm gai tuah chỉ vào các mâm cúng khi mời các hồn ma, nhằm tránh hồn ma ăn nhầm vào mâm của người khác. Phải chăng hành động này thể hiện sự tôn ti, tôn trọng, cách ứng xử văn hóa trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, cộng đồng của người Raglai (?) (Trong lễ bỏ mả, ngoài “nhân vật chính” là mả, được ưu tiên, còn có các thần, hồn ma ông bà, hồn ma con cháu và kể cả hồn ma ngoài dòng họ cũng đều được mời ăn, mời uống với những lễ vật dành riêng cho mình).
Một điểm khác biệt nữa trong nghi lễ bỏ mả của người Raglai với các tộc người nói trên, đó là, các nghi thức của lễ bỏ mả của người Ê Đê, Gia Rai… thường được tiến hành tại khu mộ địa, trong khi người Raglai thực hiện các nghi thức chủ yếu tại nhà. Với người Raglai, văn hóa gia đình, dòng họ, làng xóm (cộng đồng) thể hiện bản sắc rất đậm nét trong văn hóa tộc người nói chung, trong nghi lễ tang ma nói riêng, trong đó văn hóa gia đình, dòng họ giữ vai trò chủ đạo. Trong nghi lễ bỏ mả, ngoài rạp lễ, nơi diễn ra các nghi thức chính, người Raglai còn tổ chức nghi thức chia tay giữa hồn ma với gia đình, tộc họ bên trong nhà, ngay dưới cột cái nhà, sau đó mới tiến hành nghi thức chia tay với bà con, hàng xóm ngoài rạp lễ. Đây cũng là một nét văn hóa rất đặc trưng và độc đáo, thấm đẫm nhân văn của người Raglai.
Nếu người Ê Đê, Gia Rai… phần lễ và phần hội của lễ bỏ mả có sự đan xen, sự tham gia của nhiều người vào phần lễ, thì ở người Raglai, nghi lễ bỏ mả có phần tách biệt giữa phần lễ và phần hội. Ở phần lễ, những hành động nghi lễ chủ yếu được thực hiện bởi các thầy cúng và đội mả la (đội đánh mả la cũng được chuẩn bị tập luyện trước để tránh sai sót trong quá trình thực hành nghi lễ); vào đêm thứ hai của lễ bỏ mả, khi chưa tiễn mả, bà con chỉ được sinh hoạt văn nghệ bên ngoài rạp lễ,…
Một nét văn hóa đặc trưng nữa trong nghi lễ bỏ mả của người Raglai là quan niệm về nhà mồ và cách làm nhà mồ. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, quan niệm về lễ bỏ mả của người Raglai gần giống với các tộc người Nam Đảo và Bắc Tây Nguyên: Bỏ mả là cắt đứt hoàn toàn mọi quan hệ, ràng buộc với người chết, để người chết có thể đầu thai trở lại làm người. Và do vậy, các tộc người nói trên không làm lăn miếu, đền thờ hay bàn thờ và cũng không có tục thờ cúng tổ tiên. Điểm khác biệt là, người Raglai không có khu nghĩa địa riêng như người Ê Đê, Gia Rai, mà khi người thân qua đời, con cháu trong dòng họ thường chôn cất người chết ở những nương rẫy của dòng họ, vì vậy sẽ không có hình ảnh một “rừng tượng mồ” như các tộc người Bắc Tây Nguyên. Nhà mồ của người Raglai tuy không tạo nên một “môi trường không gian hoành tráng”, không tạc nhiều hình tượng như nhà mồ của người Bắc Tây Nguyên [9, tr.137)], nhưng cũng thể hiện quan niệm thẩm mỹ qua nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí mang nét đặc trưng riêng của tộc người này. Tiếc rằng, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về lĩnh vực này.
Có thể nói, nét đặc sắc ở nhà mồ của người Raglai chính là hình tượng Kagor trên nóc nhà mồ. Theo tác giả Phan Quốc Anh, trong công trình Văn hóa Raglai những gì còn lại, thì: “Gây ấn tượng nhất, đẹp nhất và có ý nghĩa văn hóa nhất vẫn là chiếc thuyền (Kagor) trang trí trên nóc nhà mồ” [3, tr.193]. Đây cũng chính là biểu tượng văn hóa đặc trưng khu biệt trong nghi lễ bỏ mả của người Raglai nói riêng, đời sống tinh thần, tâm linh của người Raglai nói chung (ngoài việc làm Kagor trong lễ bỏ mả, người Raglai, trong các nghi lễ cầu cúng khác cũng làm hình tượng Kargor nhưng ở mức độ đơn giản hơn).
Các hình vẽ, tượng người, chim, thú, trang trí trên Kagor, ngoài ý nghĩa biểu đạt sự khát vọng về một cuộc sống đầy đủ, sung túc, hạnh phúc của người Raglai, còn thể hiện thế giới quan, quan điểm thẩm mỹ của tộc người này.
Không gian sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong phần hội của lễ bỏ mả cũng là nét đặc trưng riêng của tộc người Raglai. Nếu các tộc người thiểu số ở Bắc Tây Nguyên, phần hội của lễ bỏ mả thường diễn ra tại khu nghĩa địa, thì với người Raglai chỉ thực hiện tại nhà của tang chủ.
Góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc của người Raglai qua nghi lễ bỏ mả chính là phần sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ở phần hội. Như đã trình bày ở các phần trên, tộc người Raglai, tuy đời sống kinh tế còn thiếu thốn, song đời sống tinh thần lại rất phong phú và đa dạng. Người Raglai có thể có tâm lý tự ti, mặc cảm với phong tục tập quán của mình, song với nền văn nghệ dân gian, nhất là âm nhạc, là niềm tự hào của họ. Người Raglai có một tài sản văn nghệ dân gian rất phong phú, đa dạng và đặc sắc. Sự phong phú và đa dạng thể hiện rõ nhất là ở hệ thống nhạc cụ, các làn điệu dân ca, sử thi, truyện cổ tích, câu đó, thành ngữ, tục ngữ… Trong đó, nghệ thuật âm nhạc mang nhiều nét đặc trưng nhất. Đó là cách thể hiện, trình diễn các thể loại âm nhạc và đặc biệt là cách sử dụng âm nhạc trong nghi lễ hết sức độc đáo, tinh tế và sâu sắc qua giai điệu các bài dân ca, khóc tế, hòa tấu nhạc cụ…
Như vậy có thể thấy rằng, cũng như các tộc người Chăm, Ê Đê, Gia Rai .. tộc người Raglai có sự tương đồng rất lớn về các quan niệm về linh hồn, về cái chết và thế giới người chết, về tái sinh… tuy nhiên, trong từng quan niệm cũng thể hiện sự khác biệt. Mục đích chính của các nghi lễ tang ma nói chung, nghi lễ bỏ mả của các tộc người trên nói riêng là nhằm cho người chết được đầu thai trở lại làm người, nhưng do có sự khác nhau trong quan niệm tang ma, dẫn đến những hành động, cách tổ chức thực hiện các nghi lễ của các tộc người thể hiện có sự khác biệt, và chính sự khác biệt này góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của người Raglai.
3.4. Những vấn đề đặt ra
Nghi lễ bỏ mả là nghi lễ cuối cùng trong hệ thống nghi lễ vòng đời của tộc người Raglai và cũng là nghi lễ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Raglai ở xã Phước Chiến.  Cũng như các dân tộc khác ở cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, văn hóa truyền thống của tộc người Raglai đã và đang biến đổi, nhiều yếu tố văn hóa truyền thống dần bị mai một, dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống. Biểu hiện của sự biến đổi và mai một văn hóa truyền thống rõ nhất trong đời sống tinh  thần của người Raglai; các lễ hội ngày càng ít đi, các loại hình nghệ thuật dân gian theo đó cũng mai một dần.
Vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc đang được xã hội hết sức quan tâm, nhất là những nhà nghiên cứu văn hóa. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, tộc người Raglai ở Phước Chiến hiện đang đứng trước những thách thức lớn, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa văn hóa dân tộc?. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc phải dựa trên nguyên tắc phát triển. Nghĩa là việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống phải chọn lọc, chỉ nên bảo tồn và phát huy yếu tố văn hóa truyền thống nào cho phù hợp, có khả năng thúc đẩy cho sự phát triển, còn yếu tố nào không phù hợp, cản trở sự phát triển thì phải dần loại bỏ.
Tuy nhiên, như đã trình bày, văn hóa của mỗi tộc người đều có sự tương đồng và khác biệt, điều này hình thành nên bản sắc văn hóa tộc người. Do vậy khi nhìn nhận, đánh giá cũng như lựa chọn yếu tố văn hóa như: Các giá trị, các chuẩn mực… của mỗi dân tộc cần phải khách quan và cẩn trọng. Cần chú ý đến đa dạng, thống nhất của văn hóa trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. bởi“Văn hóa có tính tương đối của nó không có thấp thua, hơn kém, tốt, xấu. Vì vậy không thể lấy giá trị,chuẩn mực của dân tộc này để đánh giá văn hóa dân tộc khác [38].
Quan khảo sát, nghiên cứu lễ bỏ mả của tộc người Raglai xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, chúng tôi nhận thấy, ngoài những giá trị truyền thống mang tính tích cực nêu trên, vẫn còn một vài yếu tố hạn chế. Mặc dù không phức tạp và tốn kém nhiều thời gian, tiền của như nghi lễ tang ma của Chăm. Nhưng nghi lễ tang ma của tộc người Raglai nói chung, cũng làm hao tốn không ít thời gian, công sức của cải của người dân; Những hành động bói toán của thầy cúng trong việc tìm ra nguyên nhân do người chết xấu cũng gây xáo trộn đời sống của người dân. Những kiêng kỵ cũng ảnh hưởng phần nào đến sinh hoạt của người dân… vì vậy, trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của tộc người Raglai, cần thiết phải chọn lọc, phân biệt những yếu tố tích cực, phù hợp cho sự phát triển thì bảo tồn và phát huy, những yếu tố nào lạc hậu, không phù hợp thì nên dần loại bỏ.
3.4. Một số giải pháp

Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề văn hóa xã hội, trong những năm qua đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội các dân tộc thiểu số như: Chỉ thị số 27 - CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), số 03-NQ/TW, ngày 16 tháng 7 năm 1998, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước … theo báo cáo của Tỉnh ủy Ninh Thuận chỉ rõ: “Cần phải quan tâm nghiên cứu, chắt lọc tinh hoa văn hóa để phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Chăm, Raglai, tạo điều kiện để làm sao giúp đỡ bà con khắc phục gánh nặng về những hủ tục lạc hậu đang làm cản trở bước phát triển của đồng bào trong sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà".
Qua việc nghiên cứu lễ bỏ mả của tộc người Raglai xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc, để góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người Raglai, tôi đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là,Văn hóa truyền thống Raglai từ xưa đến nay ít thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Giai đoạn sau năm 1975 tuy văn hóa Raglai bước đầu đã được nghiên cứu, nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu thường chỉ dừng lại ở tính khái quát, ít có công trình nào đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể. Những vấn đề nóng của thực trạng đời sống văn hóa, xã hội của cộng đồng người Raglai ít được chú ý. Do vậy, trong định hướng cơ bản, cần có một chương trình kế hoạch ở tầm quốc gia để bảo lưu những giá trị văn hóa Raglai một cách có hiệu quả, tránh sự manh mún, tự phát.
Hai là,tiến hành đồng thời chương trình mục tiêu "Sưu tầm, bảo tồn và pháthuy các giá trị văn hóa xây dựng ngân hàng dữ liệu văn hóa tộc người Raglai". Những công trình cần đi sâu nghiên cứu cấp bách gồm:Hình thành các công trình nghiên cứu về âm nhạc dân gian Raglai bao gồm: Hệ thống nhạc cụ, cách làm, tính năng nhạc cụ, kí âm, hệ thanh các điệu mã lavà các nhạc cụ khác, các làn điệu dân ca, các làn điệu hát ru, hát đốiđáp, sử thi...Tập trung sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch và xuấtbản, phổ biến tạivùng đồng bào Raglai về tác phẩm văn học dân gian Raglai như: Truyện cổ Raglai, những truyện cổ về sự tích các dòng họ Raglai, thơ ca, câu đố, thành ngữ Raglai....Công trình nghiên cứu về nghề truyền thống, trang phục, nhà ở cổtruyền của người Raglai.
Ba là,đầu tư các hoạt động văn hóa truyền thống, duy trì và khôi phục các lễ hội truyền thống, quan tâm đến đời sống của các nghệ nhân, tạo điều kiện cho các nghệ nhân gặp gỡ giao lưu sinh hoạt văn hóa, nghệ thuận. Đồng thời tiến hành duy trì hoạt động và mở các lớp truyền dạy: Nhạc cụ, hát dân ca, nghệ thuật diễn xướng... nhằm khai thác vốn văn hóa truyền thống từ các nghệ nhân, cũng là để bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Bốn là, tiếp tục khai thác thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả, vận động bà con thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi. Bên cạnh đó, việc quy hoạch đầu tư xây dựng, hỗ trợ bà con tái định cư phải được nghiên cứu phù hợp với điều kiện phong tục tập quán  tìm hiểu nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của con, đồng thời, đảm bảo không gian sống của họ không bị phá vỡ. Có như thế, đồng bào Raglai có cơ hội giữ gìn những giá trị văn hóa mang tính độc đáo của mình.
Năm là, coi việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Raglai là trách nhiệm không chỉ riêng của mỗi cá nhân hay một tổ chức xã hội nào mà đó là trách nhiệm của toàn xã hội. Bởi lẽ, nó là cái bản sắc để phân biệt tộc người Raglai với tộc người khác và góp phần làm cho văn hóa Việt Nam thêm phong phú hơn. Bên cạnh đó, nó còn làm cho nền văn hóa Việt Nam có những đặc trưng riêng. Do đó, mỗi cá nhân, tổ chức cần thực hiện một cách có trách nhiệm đối với công tác gìn giữ và phát huy bản sắc của dân tộc nói chung và tộc người Raglai nói riêng.
Tiểu kết chương 3
Lễ bỏ mả truyền thống của tộc người Raglai ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận, thể hiện rõ nét văn hóa truyền thống với những giá trị văn hóa của người Raglai nói chung. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, một số tác động đến các nghi lễ của tộc người đã có phần nào bị mai một, song lễ bỏ mả vẫn tồn tại với thời gian và cho tới bây giờ. Bởi, lễ vẫn thể hiện rõ nét sắc thái văn hóa đặc trưng của người Raglai nơi đây. Xuất phát từ những quan niệm về linh hồn và cách ứng xử giữa người sống với linh hồn người đã chết qua cách thực hiện các nghi lễ, đến diễn ra các hoạt động văn hóa nghệ thuật, đã góp phần tích cực vào sự hình thành diện mạo văn hóa của tộc người Raglai. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, lễ bỏ mả của người Raglai đến nay đã có nhiều biến đổi.
Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi là quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa và sự hòa nhập, hội nhập với các dân tộc cận cư, cộng cư. Bên cạnh đó, những chính sách văn hóa và sự thực hiện các chính sách đó chưa thật sự hiệu quả cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên sự biến đổi văn hóa truyền thống, trong đó có lễ bỏ mả của người Raglai. Điều đáng lo ngại chính là sự biến đổi quan niệm về thế giới thần linh, quan niệm về sự sống và cái chết, sự suy giảm lòng tin vào thần linh, sự hoài nghi về thế giới bên kia, những yếu tố “vô thần” len lỏi vào trong đời sống tâm linh của một dân tộc đã bao đời nay chung sống với tín ngưỡng nông nghiệp, vạn vật hữu linh. Cùng với sự suy giảm lòng tin đó kéo theo những hệ lụy về lối sống, đạo đức và tính nhân văn của đời sống tâm linh truyền thống.
Do tác động bởi nhiều yếu tố, văn hóa Raglai nói chung và nghi lễ bỏ mả nói riêng đã có phần nào biến đổi, nhưng các giá trị văn hóa truyền thống trong nghi lễ vẫn ẩn chứa những triết lý và mang giá trị văn hóa nghệ thuật, tâm linh, đạo đức và cố kết cộng đồng sâu sắc.
Tuy nhiên, ngoài những giá trị văn hóa mang tính tích cực, nghi lễ vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa phù hợp với điều kiện  hiện nay. Do vậy việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Raglai, đòi hỏi phải có sự hoạch định, nghiên cứu  một cách cụ thể và có những giải pháp phù hợp, để góp phần trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.












KẾT LUẬN
1. Lễ hội là một trong những di sản văn hóa với những giá trị truyền thống mang tính tâm linh. Những nghi lễ gắn với vòng đời người là một hệ thống lễ hội quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Những nghi lễ ấy thể hiện tín ngưỡng, đời sống tâm linh, thể hiện quan niệm về sự sống và sự chết và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các tộc người. Người Raglai là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam có lễ bỏ mả - một trong những nghi lễ cuối của vòng đời người được coi là quan trọng nhất khi con người từ giã cõi trần về với thế giới bên kia.
Tộc người Raglai ở xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc là một trong số địa bàn xuất hiện người Raglai đầu tiên ở tỉnh Ninh Thuận, thuộc dân cư bản địa của vùng Nam Trung bộ. Nằm trong nhóm ngữ hệ Nam Đảo Malayo – Peoolinedi ở Việt Nam, trong tiến trình lịch sử và phát triển tộc người Raglai đã hình thành nền văn hóa dân tộc với những nét đặc trưng riêng và những nghi lễ, tập tục, tín ngưỡng vô cùng phong phú, góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc vùng duyên hải Nam Trung bộ. Là cư dân nông nghiệp, tộc người Raglai vẫn còn lưu giữ những phong tục tập quán cổ truyền tốt đẹp, những nghi lễ mang tính nhân văn cao, kết thành bản sắc văn hóa tộc người. Bên cạnh những loại hình văn học nghệ thuật đặc sắc, nhất là lễ bỏ mả, một phong tục mang đậm nét của tín ngưỡng đa thần - là đỉnh cao trong nền văn hóa tộc người Raglai, bởi đây là nơi kết tinh những giá trị, tinh hoa văn hóa đặc sắc nhất của người Raglai từ kiến trúc, lễ nghi và triết lý.
2. Lễ bỏ mả của tộc người Raglai nói chung và ở xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận nói riêng là một nghi lễ tiêu biểu chứa đựng nhiều giá trị văn hóa trong hệ thống các nghi lễ vòng đời người truyền thống của người Raglai còn tồn tại đến ngày nay. Đây là một nghi lễ thể hiện đầy đủ những quan niệm của người Raglai về sự sống và sự chết. Đến ngày nay, nghi lễ thể hiện một cách đầy đủ, đậm nét bản sắc văn hóa của tộc người Raglai.
Diễn trình lễ bỏ mả diễn ra trong 3 ngày với những quy định khá chặt chẽ và khắt khe được duy trì cho đến ngày nay. Trong đó, ngày thứ hai được coi là ngày lễ chính. Theo quan niệm của tộc người Raglai,“Bỏ mả“ là nét sinh hoạt tâm linh văn hóa độc đáo có cả phần lễ và phần hội. Tình cảm bi thương chỉ diễn ra từ ngày có người thân chết cho đến trước ngày bỏ mả. Khi hoàn tất lễ bỏ mả, người Raglai coi như đã hoàn thành nhiệm vụ giải thoát được linh hồn cho người chết về thế giới bên kia. Vì vậy, sau khi làm xong nghi lễ cuối cùng, người Raglai tổ chức phần “hội” bằng các hình thức uống rượu cần, đánh mã la, nhảy múa để “mừng” cho linh hồn người quá cố được giải thoát và từ nay không còn thờ cúng gì nữa.
Qua nghiên cứu tại xã Phước Chiến, đây là một xã miền núi có vị trí địa lí mang nét đặc thù riêng so với các địa bàn cư trú của người Raglai trong tỉnh Ninh Thuận. Không gian và môi trường sống của người dân nơi đây vừa có rừng, có sông, có suối và cách biển không xa, được coi là chiếc nôi của tộc người Raglai trên địa bàn tỉnh. Do vậy, tộc người Raglai nơi đây đã hình thành nên một nền văn hóa truyền thống với những nét rất đặc trưng riêng, đó là nền văn hóa vừa có những nét văn hóa của núi rừng Tây Nguyên, vừa mang nét văn hóa của cư dân ven biển Nam Trung Bộ và là nơi giao thoa gần gủi với nền văn hóa của các tộc người phía Nam tỉnh Khánh Hòa.
3. Lễ bỏ mả của người Raglai là một nghi lễ tiêu biểu và quan trọng nhất trong hệ thống các nghi lễ truyền thống của người Raglai. Bởi lẽ, nghi lễ bỏ mả của người Raglai thể hiện một cách đầy đủ, rõ nét bản sắc, sắc thái văn hóa đặc trưng của người Raglai. Do vậy, có thể nói, lễ bỏ mả phản chiếu toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần, tâm linh của người Raglai. Thông qua nghi lễ họ khát vọng vươn tới cái cao đẹp, được thể hiện rõ nét qua các quan niệm về linh hồn và thái độ ứng xửvới linh hồn; qua các loại hình nghệ thuật truyền thống...Bên cạnh việc thể hiện sắc thái, bản sắc văn hóa dân tộc, nghi lễ còn chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống; giá trị nhân văn sâu sắc, những triết lý về nhân sinh quan và là môi trường lý tưởng trong việc hình thành, phát triển các loại hình văn hóa văn nghệ dân gian. Những hình ảnh trang trí trên Kagor được biểu hiện sự sinh sôi, nảy nở giúp cho linh hồn người chết có đầy đủ điều kiện vật chất cũng như tinh thần để yên tâm sống nơi cõi vinh hằng.Thông qua lễ bỏ mả, tộc người Raglai đã khắc họa bức tranh toàn cảnh trong tâm linh của họ. Thông qua chiếc thuyền Kagor và những nghi thức cúng tế có thể nhận thấy tâm linh của người Raglai về một thế giới trong đó có thế giới của thần linh (lagar yang), thế giới trần tục và thế giới tổ tiên (lagar mokkei). Bên cạnh đó đây cũng là môi trường giáo dục, lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống một cách thiết thực và hiệu quả nhất của tộc người Raglai.
                   Hiện nay do tác động từ nhiều yếu tố, lễ bỏ mả nói riêng, văn hóa của người Raglai ở Phước Chiến đã và đang có những biến đổi. Mặc dù có nhiều biến đổi, song có thể nói những yếu tố trong văn hóa truyn thống của người Raglai nơi đây vẫn còn lưu giữ và chi phối các hoạt động tinh thần lẫn vật chất trong đời sng xã hội, bởi, lbỏ mả của người Raglai như là một điểm sáng trong việc lưu giữ những giá trị văn hóa của tộc người mình.
Song song những giá trị, văn hóa truyền thống của người Raglai đang có nguy cơ bị mai một và biến đổi. Dù rằng sự biến đổi kinh tế xã hội nói chung và biến đổi văn hóa nói riêng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Song biến đổi như thế nào để phù hợp và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng dân tộc Raglai hiện là vấn đề nan giải. Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp thiết thực, phù hp trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Raglai hiện nay.Mặc dù văn hóa của người Raglai đang có nhiều biến đổi, nhưng có thể nói, cái còn lại trong văn hóa truyền thống của người Raglai chính là lễ bỏ mả. Do vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Raglai hiện nay phải xuất phát từ nghi lễ bỏ mả.
Mặt khác, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường, dân cư mới từ bên ngoài vào, đặc biệt là sự du nhập của những yếu tố mới của tôn giáo. Lễ bỏ mả không tránh khỏi những biển đổi, một số sắc thái truyền thống đang dần nhạt đi thay thế vào đó là những cái mới, chính cái mới đó đã làm cho một lễ hội truyền thống bị mai một khi người dân không biết chọn lọc và tiếp thu nó một cách đúng đắn. Vậy để gìn giữ nó thì mỗi người trong cộng đồng biết kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, biết tiếp thu một cách chọn lọc thì không làm mất đi bản sắc văn hóa mà nó còn bổ sung cho nhau, làm cho cuộc sống của người dân ngày càng tiến bộ phù hợp với thời đại mới nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng văn hóa truyền thống và đậm đà bản sắc trong lễ bỏ mả của tộc người Raglai.
4. Qua đó nghiên cứu lễ bỏ mả, tại xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Chúng tôi mong muốn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Raglai, đồng thời cũng hy vọng trong thời gian tới, cùng với sự phát triển của đất nước, người Raglai ở xã Phước Chiến sẽ có đời sống phát triển hài hòa về kinh tế, xã hội và văn hóa. Từng bước xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.




























TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.       Đào Duy Anh (1951), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn
2.       Phan Quốc Anh (2010), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội
3.       Phan Quốc Anh (2007), Văn hóa Raglai những gì còn lại, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
4.       Toan Ánh (1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam, nếp cũ, tết, lễ, hội hè, Nxb Thanh niên, Hà Nội
5.      Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ (1998),Văn hóa và Xã hội người Raglai ở Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội
6.      Bộ Văn hóa Thông tin (1995),Nếp sng phong tục Tây Nguyên,Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
7.       Lê Ngọc Canh (1999), Văn hóa dân gian những thành t, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
8.       Ngô Văn Doanh (1995), L hội bỏ mả Bắc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
9.       Mai Văn Hai (cb) (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
10.   Nguyễn Quang Khải (2001), Tập tục và kiêng kỵ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
11.  Nguyễn Thế Sang (1993), Truyện cổ RagLai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
12.  Bùi Quang Thắng (2001),Quan điểm và phương pháp nghiên cứu Hên ngành trong văn hóa học,Luận án tiến sĩ, Hà Nội
13.   Ngô Đức Thịnh (cb) (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
14.   Ngô Đức Thịnh (cb) (1993), Văn hóa vùng và phân vùng Văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
15.   Trương Đình Tín (1999), Phong tục Việt Nam (Quan-Hôn-Tang-Tế), Nxb Đà Nng
16.   Chmaliaq Tiẻng, Trần Kim Hoàng (2010), Truyện cổ Raglai, Nxb Dân Trí
17.   Nguyễn Tuấn Triết (1991), Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Tp. Hồ Chí Minh
18.  Hoàng Vinh (2002),Những vấn đề về văn hóa trong lịch sử truyền thống dân tộc Việt Nam,Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
19.   Viện nghiên cứu văn hóa (2004), Kho tàng sử thi Tây Nguyên-Sử thiAkhat-Jncar RagLai, ƯDAI-UJÀC, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
20.   Viện nghiên cứu văn hóa (200Ố), Nghi lễ và phong tục các dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
21.  Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
22.   Trần Quốc Vượng (cb) (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
23.  Http://forum.fìclond.infor/showthreadhp/4690..., Quan niệm về linh hồn con người ở Đông Nam Á
24. Http://vanhoahoc.edu.vn/..Bàn thêm về mối quan hệ giữa giá trị văn hóa và bản sắc văn hóa
25. Vũ Ngọc Khanh (cb) (1990),Sơ lược truyền thống các dân tộc thiểu s Việt Nam,Nxb Giáo dục
26.  Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội
27.  Nguyễn Quang Lê (2004), Văn hóa ẩm thực trong lễ hội Việt Nam (Khảo cứu phong tục và tri thức dân gian về cổ, lễ vật trong lễ tết, lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
28.  Hải Liên , 2001, Trang phục cổ truyền Raglai, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
29. Hải Liên, Hông Sơn (2009),Nhạc cụ tiêu biu của người Raglai cực Nam Trung Bộ,Nxb Thế giới
30.  Đặng Văn Lung, Nguvễn Sông Thao, Hoàng Văn Trụ (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
31.  Phan Đăng Nhật (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu Sổ-Những giá trị đặc sắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
32. Phan Đăng Nhật (cb) (2003),Luật tục Chăm và luật lục Raglai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
33.  Nhiều tác giả (2006), Văn nghệ dân gian Khánh Hòa-tác giả tác phẩm, hội văn học nghệ thuật Khánh Hòa
34.  Nhiều tác giả (2003), Những vấn đề về văn hóa và ngôn ngữ Raglai, Nxb Đại học Quốc gia, tp HCM
35.  Inrasara (2008),Văn hóa xã hội Chăm-nghiên cứu và đi thoại,Nxb Văn học, Hà Nội



văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn