TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM





Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo..., một số nhánh Kitô giáo như Công giáo Rôma, Tin Lành, tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Nền tín ngưỡng dân gian bản địa cho tới nay vẫn có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam.


Nhiều người dân Việt Nam xem họ là những người không tôn giáo, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần lại ít được quan tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 thì toàn quốc có 18.661.437 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân cư. Để quản lý nhà nước về tôn giáo, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ để phục vụ việc quản lý hoạt động của các tôn giáo, tín ngưỡng.
Tín ngưỡng hoặc không tôn giáo (73.2%)
  Phật giáo (12.2%)
  Công giáo Roma (6.8%)
  Cao Đài (4.8%)
  Tin lành (1.5%)
  Hòa Hảo (1.4%)
  Khác (0.1%)

Lịch sử
Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân tộc mình vào đó để hình thành tôn giáo mang bản sắc riêng.
Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Tuy nhiên trong các Triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn Phật giáo cũng có vai trò quan trọng trong triều đình và được các chính quyền phong kiến khuyến khích. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo).
Sau năm 1954, ở miền Bắc, vấn đề tâm linh như là một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ. Đã có thời kỳ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá. Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín dị đoan. Họ xóa đi tất cả, trong khi đáng lẽ tín ngưỡng tôn giáo là thuộc về nhu cầu, quyền cơ bản của con người. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong khoảng thời gian đó, trong miền Trung và miền Nam vẫn duy trì. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu những năm 80 đã khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian. Việc phục hồi lễ hội đang được phản chiếu dưới nhãn quan là văn hóa tinh thần mà quên đi mất phần trình diễn, phô bày nghi thức, biểu hiện của người dân đối với thần linh.
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương tự do tín ngưỡng.


Phật giáo:
Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất. Theo thống kê dân số năm 2009 thì số tìn đồ Phật giáo là 6.802.318 người trong đó 2.988.666 tín đồ ở thành thị và 3.813.652 tín đồ ở nông thôn, địa phương tập trung đông đảo tin đồ Phật giáo nhất là thành phố Hồ Chí Minh với 1.164.930 tín đồ. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y Tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử[8] và khoảng 44.498 tăng ni; hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường trong cả nước. Ngoài ra từ 80% đến 90% dân số Việt Nam mang thiên hướng Phật giáo.
Có hai nhánh Phật giáo ở Việt Nam là Đại thừa và Tiểu thừa. Phật giáo Đại thừa lần đầu tiên từ Trung Quốc vào tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng của Việt Nam từ khoảng năm 200 và trở thành tôn giáo phổ biến nhất trên toàn đất nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ Ấn Độ du nhập vào phía nam đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng năm 300 - 600 và trở thành tôn giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam.
Có thuyết khác lại cho rằng Phật giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam trong khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước công nguyên từ Ấn Độ theo đường biển chứ không phải từ Trung Hoa. Lúc đầu Phật giáo tại Việt Nam (đồng bằng châu thổ sông Hồng) mang màu sắc của Phật giáo Tiểu thừa nhưng về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa mời chuyển dần thành Đại thừa
Phật giáo Đại thừa được nhiều người thừa nhận là tôn giáo chính của người Việt, người Hoa và một số dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi phía Bắc như Mường, Thái, Tày... Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam có ba tông phái chính là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Trong thực tế Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với Đạo giáo, Khổng giáo và các đức tin bản địa như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu.
Phật giáo Tiểu thừa thì lại được coi là tôn giáo chính của người Khmer tại Việt Nam.
Công giáo Rôma
Công giáo Rôma (hay Giáo hội Công giáo Rôma), lần đầu tiên tới Việt Nam vào đầu thế kỉ 16 tại Nam Định (thời Nhà Lê trung hưng) bởi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Pháp, trước cả khi Việt Nam là một thuộc địa của Pháp. Về sau, chính quyền Pháp không khuyến khích người dân theo tôn giáo nào, nhưng họ bảo đảm quyền tự do tôn giáo lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ nơi dưới sự bảo hộ của Pháp. Nhờ vậy Công giáo cũng như những tôn giáo khác đã thoát khỏi thời kỳ bách hại lớn nhất dưới các Triều đại phong kiến kể từ thế kỷ thứ 16. Đầu tiên, tôn giáo này được lan truyền trong dân cư các tỉnh ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, sau đó lan tới vùng châu thổ sông Hồng và các vùng đô thị.
Theo thống kê năm 2009 ở Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo trong đó có 1.776.694 tín hữu ở khu vực thành thị và 3.900.392 ở các khu vực nông thôn, địa phương có đông đảo tín đồ Công giáo nhất là tỉnh Đồng Nai với 797.702 tín hữu, và khoảng 6.000 nhà thờ tại nhiều nơi trên đất nước.
Số giám mục người Việt được Tòa Thánh tấn phong trong 80 năm thời Pháp thuộc là 4 người, trong 30 năm chiến tranh (1945-1975) là 33 người ở cả hai miền, từ năm 1976 đến 2004 là 42 người. Vatican đã có thỏa thuận với chính phủ Việt Nam về việc không chỉ trích hay nói xấu lẫn nhau, không hỗ trợ bên thứ ba để chống lại nhau; khi tấn phong giám mục hoặc các chức phẩm cao hơn, Vatican sẽ tham khảo ý kiến của chính phủ Việt Nam.
Cao Đài
Cao Đài, hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là một tôn giáo bản địa Việt Nam do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, với trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh. Tôn giáo này thờ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng đế nơi Thiên Giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi.
Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2011 thì có 2,4 triệu tín đồ Cao Đài phân bố tại 39 tỉnh thành cả nước đông nhất là tại Tây Ninh và khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Úc. Đạo Cao Đài đã trở thành tôn giáo lớn thứ ba tại Việt Nam
Hòa Hảo
Hòa Hảo, hay Phật giáo Hòa Hảo, là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật giáo, do Đức Huỳnh Phú Sổ thành lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay Thị Trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, Tỉnh An Giang).
Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp. Tôn giáo này đánh giá cao triết lý "Phật tại tâm", khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời.
Theo thống kê năm 2009 có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ (Đặc biệt là An Giang với 936.974 tín đồ Phật giáo Hòa Hỏa là tỉnh có số tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đông nhất cả nước).
Tin Lành
Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được cho phép tại các vùng do Pháp quản lý và bị cấm tại các vùng khác. Đến năm 1920, Tin Lành mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Năm 2009, số tín đồ Tin Lành ở Việt Nam là 734.168. chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc và là tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số. Tỉnh có đông đảo tín đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk với 149.526 tín đồ.
Hồi giáo
Hầu hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm. Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỉ 10, 11, ở cộng đồng người Chăm. Năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh trong đó đông nhất là tại Ninh Thuận với 25.513 tín đồ. Có hai giáo phái Hồi giáo của người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni.
Các tôn giáo khác
Ngoài 6 tôn giáo lớn Việt Nam còn có nhiều tôn giáo nhỏ khác được chính quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (41.280 tín đồ), Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam (11.093), Bửu Sơn Kỳ Hương (10.824 tín đồ), Baha'i (8.000 tín đồ)[16], Minh Lý Đạo, Minh Sư Đạo.
Ngoài ra còn có một vài tin ngưỡng và tôn giáo không chính thức như:
Các tín ngưỡng bản địa ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ Thành hoàng, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đa phần các tín ngưỡng phụ này được tích hợp và chấp nhận bởi hầu hết các tín đồ Phật giáo và Phật giáo Hòa Hảo. Trong các cuộc điều tra về tôn giáo của Viện Nghiên cứu Tôn giáo tiến hành từ 1995 đến 2007 thì số người thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân số.[4]
Chính Thống giáo tại Việt Nam đại diện bởi giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống giáo Nga) ở thành phố Vũng Tàu, nơi sinh sống và làm việc của vài trăm chuyên gia nói tiếng Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các đại diện của Bộ phận liên lạc các giáo xứ ở ngoại quốc của tòa thượng phụ Moskva thường xuyên thăm giáo xứ ở thành phố Vũng Tàu để tổ chức các thánh Lễ theo lịch phụng vụ Lễ Phục sinh và các thánh Lễ tại nhà thờ khác.
Bà La Môn:
Một tôn giáo chính khác của cộng đồng người Chăm là đạo Bà la môn với 56.427 tín đồ tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận với 40.695 tín đồ.
Không tôn giáo
Chính phủ Việt Nam theo khuynh hướng thế tục, trong đó Chủ nghĩa Marx-Lênin, Chủ nghĩa dân tộc và Tư tưởng Hồ Chí Minh được nhà nước xem như hệ tư tưởng chính trị chính của đất nước, được khuyến khích trên các phương tiện thông tin và giảng dạy trong các trường học. Tính đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 3,6 triệu Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và theo số liệu năm 2007 có khoảng 6,1 triệu Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Tuy nhiên đại đa phần những người tự xác định mình là không theo bất cứ tôn giáo nào vẫn duy trì Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nhiều mức độ khác nhau.

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn