Bài tham gia
hội thảo trong ngày hội VH Chăm tại An Giang
NGHỆ THUẬT CA MÚA NHẠC DÂN GIAN CHĂM
VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TS. Phan Quốc Anh[1]
Lời mở
Nghệ thuật dân gian của mỗi dân tộc được coi như những
viên ngọc đã được sàng lọc, chau chuốt lâu đời qua thời gian, trong không gian
và mang đậm tính bản sắc. Đối với dân tộc Chăm cũng vậy, nghệ thuật dân gian
Chăm giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng người
Chăm. Vì vậy, làm tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân gian
Chăm là một trong những biện pháp có hiệu quả góp phần ổn định đời sống xã hội
Chăm.
Nếu như khu di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn hấp dẫn các
nhà khoa học và khách du lịch bởi những phế tích của nghệ thuật kiến trúc, điêu
khắc Chăm Pa cổ thì vùng đất Ninh - Bình Thuận (Panduranga) lại hấp dẫn ở góc độ văn hoá phi vật thể, bởi đây là
một bảo tàng sống của cộng đồng người Chăm, nơi đang lưu giữ di sản văn hóa dân
gian Chăm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật ca múa nhạc.
Trong suốt quá trình lịch sử, người Chăm đã sáng tạo nên
một nền văn hóa phát triển cao, một nền nghệ thuật dân gian đậm nét riêng.
Ngoài những giá trị văn hóa vật thể như hệ thống đền đài, tháp cổ, những bức
phù điêu, tượng đá, bia ký rải rác khắp miền Trung, cộng đồng người Chăm hiện nay
đang lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể đa dạng, phong phú. Trong bài
viết nhỏ này, tác giả chỉ xin đề cập đến nghệ thuật ca, múa, nhạc dân gian Chăm
và ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Ninh –
Bình Thuận.
Nghệ thuật ca, múa, nhạc dân gian trước đây chỉ tồn tại
trong các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng. Vì vậy, hầu như nó không được phổ biến,
phát triển và bị rơi rụng, mai một đi nhiều. Sau khi đất nước được giải phóng,
với đường lối chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng về văn hóa dân tộc, văn
hóa Chăm bắt đầu được chú trọng đầu tư sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát
huy. Ngoài việc kiểm kê, trùng tu, bảo tồn hệ thống đền đài, tháp cổ thì văn
hóa phi vật thể, trong đó có nghệ thuật dân gian cũng được sưu tầm nghiên cứu
và phát triển. Hệ thống lễ hội được khôi phục và kèm theo đó là sự phục hồi các
đội nhạc lễ, múa lễ và hát lễ. Từ đây, nghệ thuật dân gian Chăm không chỉ bó
hẹp trong các nghi lễ mà đã bước ra đời sống sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần
chúng cùng với sự hình thành các đội ca, múa, nhạc ở các palei Chăm trong các
phong trào xây dựng hợp tác xã, các đoàn thể và phong trào xây dựng làng văn
hóa, xây dựng nông thôn mới. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật sớm thấy được những
giá trị quí báu của nghệ thuật dân gian Chăm. Ngay từ đầu những năm 80, viện Âm
nhạc - múa Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thuận Hải triển
khai thực hiện các công trình nghiên cứu về âm nhạc, múa dân gian Chăm. GS.TS.
Ngọc Canh trong công trình “Nghệ thuật
biểu diễn truyền thống Chăm” đã
thu thập và hệ thống các tư liệu về nghệ thuật biểu diễn dân gian Chăm. Sở VHTT
Ninh thuận năm 1995 đã cho xuất bản cuốn "Nhạc
cụ truyền thống Chăm". Việc
thành lập Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm, Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm Ninh
Thuận và đội văn nghệ Chăm huyện Bắc Bình…đã như một cứu cánh luồng sinh khí
mới thổi hồn vào nghệ thuật dân gian Chăm, tạo điều kịên thuận lợi cho việc sưu
tầm, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả văn hóa truyền thống Chăm vào sự nghiệp
văn hóa nghệ thuật đương đại.
1. Vài nét về nghệ thuật ca múa nhạc dân gian Chăm
1.1. Âm nhạc có vai
trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người Chăm. Âm nhạc luôn gắn
chặt với múa trong các nghi lễ dân gian và nghi lễ tôn giáo. Trước đây, âm nhạc
và múa đều mang nặng tính thiêng, chỉ để phục vụ nghi lễ, không được sử dụng
làm chức năng vui chơi giải trí có tính chất trần tục.
Hệ thống nhạc cụ
Chăm tương đối phong phú và đủ các bộ cho một dàn nhạc. Bộ gõ có trống basanưng,
trống ghi năng, chiêng, chũm chọe, đàn đá, mõ, kà rồng (dây lục lạc); bộ dây có
đàn ka nhi (nhị mu rùa), đàn chămpi, bộ hơi có kèn saranai, tù và bằng sừng
trâu, khèn bầu, sáo… Các vị chức sắc giải thích rằng những nhạc cụ chính trong
dàn nhạc lễ Chăm là biểu tượng của một thể thống nhất các bộ phận của vị thần.
Trong đó, kèn Saranai là biểu tượng cho phần đầu, trống basanưng là phần bụng
(ôm vào bụng ngồi vỗ), đôi trống ghi năng là hai chân (luôn để bắt chéo và ngồi
biểu diễn, một tay vỗ vào mặt trống phía trên và một tay cẩm dùi để đánh phía
dưới).
Nếu so sánh với
những nhạc cụ thể hiện trên các mảng điêu khắc của người Chăm còn lại đến hôm
nay, chúng ta thấy đã thất truyền một số nhạc cụ như sáo dài nhiều lỗ, đàn
“Harpe” , trống lớn, trống nhỏ Hagar1.
Âm nhạc Chăm có tiết tấu rất phong phú, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh
Thuận đã sưu tầm, ký âm và thống kê được 75 điệu trống Ghinăng, có các tiết tấu
nhanh, thuận phách và nghịch phách, sôi nổi bốc lửa nhưng cũng có những tiết
tấu chậm, trữ tình, tự sự.
Người Chăm đang lưu
giữ một kho tàng dân ca với những làn điệu, cung bậc có quan hệ mật thiết với
dân ca người Việt và các làn điệu dân ca của các dân tộc sống cộng cư, cận cư
khác. Nhiều điệu hát trữ tình, đằm thắm như “thay mai”(ai đến phía xa), “ainich
lo”, “lekdiphik”, hay những làn
điệu như “dohdamdara” (hát đối đáp), klaymrailopan (sợi chỉ đủ màu) đều mang
những âm hưởng trữ tình, đặc sắc. Người Chăm còn có các làn điệu Ariya, là hình thức hát trường ca theo
dạng kể chuyện, hát lối bằng thơ và có một kho tàng các làn điệu hát ru. Kho
tàng nhạc lễ, hát lễ được các tu sĩ Balamôn lưu truyền và hát ở các nghi lễ,
đây là nhạc lễ có nguồn gốc tôn gíáo Balamôn từ Ấn Độ xa xưa: “Trong kinh VêĐa từ thế kỷ XX trước công
nguyên có "Samma Vêđa" là tập ca khúc dùng để hát xướng khi cúng bái,
tổng cộng 1549 bài, nội dung chủ yếu của Phuốc Vêda là nói rõ trong khi cúng tế
nên dùng các thi ca này và tiến hành cúng tế như thế nào"2.
1.2. Người Chăm có
nền nghệ thuật múa dân gian đặc sắc. Trong nghệ thuật múa dân gian Chăm, múa
“thiêng” chiếm giữ một vị trí quan trọng. Thậm chí, có cả một hệ thống lễ hội
mang tên là lễ múa như: Rija Nưgar – lễ múa xứ sở đầu năm; lễ Rija Harei – lễ
múa ban ngày; Lễ Rija dayau – lễ múa ban đêm; Lễ Rija Praung – lễ múa lớn. Hầu
hết các lễ hội Chăm đều có sự tham gia của các vũ sư như Ong Kaing (ông bóng),
bà Muk pajow (bà bóng khu vực tôn giáo), bà bóng Muk Rija (bà bóng của dòng họ
– bản thân tên gọi chức sắc cũng đã là bà múa: Rija trong tiếng Chăm có nghĩa
là múa).
Những phong cách
múa truyền thống Chăm còn thể hiện trên các mảng điêu khắc như Vũ nữ Trà Kiệu,
Apsara và các tượng thần Ấn Độ giáo như Siva, Uma, Brahma, Visnu… Các nhà biên
đạo đã từng bước nghiên cứu những động tác múa cơ bản của múa dân gian, múa lễ
Chăm và sử dụng vào các tác phẩm múa và gọi đó là múa cung đình. Tuy nhiên, để
hiểu và để có những tác phẩm múa đích thực phát triển từ tâm hồn Chăm, các nhà
biên đạo cần đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tín ngưỡng của những điệu múa thiêng
như các điệu múa phồn thực cầu mưa trong lễ Rija nưgar, múa lên đồng đạp lửa
của ông bóng (On kaing), bà bóng (Muk rija và Muk Pajau), múa chèo thuyền (Po
tanghoh) trong các nghi lễ như Rija Nưgar, Rija praung, Rija djau, Rija haray
v.v...Tiếc rằng, cho đến nay, chưa có một nhà biên đạo múa nào nghiên cứu sâu
và phát triển các điệu múa thiêng trong nghi lễ của người Chăm.
Ngoài những điệu
múa thiêng, người Chăm còn có những điệu múa sinh họat, hội hè. Múa quạt là
điệu múa phổ thông mà bất cứ thiếu nữ hay phụ nữ Chăm nào cũng biết múa. Các vũ
nữ dùng những chiếc quạt vải có rua nhiều màu sắc và khăn dài, tượng trưng cho
những cánh chim như những điệu múa Piđiềng (chim công), Kamang (galôi), Marai
(chim trĩ)… Múa Chăm luôn đi đôi với âm nhạc, tên các tiết điệu trống đồng thời
cũng là tên các điệu múa. NSND Đặng
Hùng đã tổng kết: "Múa và âm nhạc
Chăm luôn đồng điệu với nhau giữa động tác và nhịp trống, điệu nhạc Piđiềng thì
có động tác múa Piđiềng, điệu trống Patra thì có điệu múa Patra, điệu trống
Tiong thì có múa Tiong"2.
2. Vài nét về sự phát triển nghệ thuật ca múa nhạc dân gian
Chăm
2.1. Với đường lối
văn hóa, văn nghệ đúng đắn của Đảng, những giá trị văn hoá dân gian Chăm đã
được sưu tầm, bảo tồn và phát huy. Các Đoàn nghệ thuật ca múa nhạc chuyên
nghiệp từ trung ương đến các tỉnh miền trung như Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm Ninh
Thuận, (Biển Xanh) Bình thuận, Hải đăng (Khánh Hòa), Sao biển (Phú yên), Chim
Yến (Quảng Ngãi), Đoàn Nghệ thuật Quân khu V... đều có sử dụng chất liệu ca múa
nhạc dân gian Chăm. Sự hình thành Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm Ninh thuận, đội
văn nghệ Chăm huyện Bắc Bình với những nghệ nhân, diễn viên người Chăm là điều
kiện tốt để khai thác bảo lưu kho tư liệu quí giá này, làm nơi sưu tầm khai
thác và cung cấp tư liệu ca múa dân gian cho nghệ thuật chuyên nghiệp. Nhà biên
đạo múa NSND Đặng Hùng, NSƯT Thọ Thái, NSƯT Thu Vân, Đàng Quang Dũng, Dương Tấn
Đức là những người có công đầu trong việc khai thác chất liệu múa dân gian Chăm
và chuyên nghiệp hóa ngôn ngữ múa dân gian. Nhiều nhạc sĩ đã thành công trong
việc sử dụng các cung bậc, âm hưởng của âm nhạc dân gian Chăm để làm chất liệu
sáng tác như nhạc sĩ Amư Nhân, Hoài Sơn, Phan Quốc Anh v.v… và gặt hái những
thành công nhất định.
2.2. Tuy nhiên,
hiện nay có một xu hướng rất cần được bàn thảo, đó là hiện tượng các nhà biên
đạo múa sáng tạo nên những tác phẩm múa bằng cách biến tấu các phù điêu, tượng
đá, hóa thân thành những vũ nữ bằng xương bằng thịt bước ra khỏi đền đài tháp
cổ như các điệu múa “Shiva” , “Apsara, vũ nữ Chăm”. Những điệu múa này có nhiều
động tác, hình tượng mô phỏng các tư thế dáng dấp của các vị thần Ấn Độ giáo
nhưng lại chưa nghiên cứu sâu về tín ngưỡng tôn giáo. Thậm chí, trang phục và
các động tác của các vũ nữ (tượng Shiva cách điệu và bước ra sân khấu) không
đảm bảo được tín ngưỡng thờ cúng thần linh của người Chăm và đã từng bị các nhà
nghiên cứu văn hóa người Chăm lên tiếng phản đối. Một số Đoàn nghệ thuật từ
Trung ương đến địa phương, từ chuyên nghiệp đến không chuyên, dàn dựng nhiều
tác phẩm múa Chăm, nhưng những động tác múa (thậm chí cả trang phục, âm nhạc)
không dựa trên ngôn ngữ cơ bản của múa và âm nhạc dân gian Chăm mà do các biên
đạo, nhạc sĩ “bịa ra” mới hoàn toàn. Điều nghịch lý là đa số những tác phẩm
“múa Chăm” này lại thường đoạt những giải cao, vì đó là múa “mang màu sắc dân
gian, dân tộc”, và vì các giám khảo cũng không am tường thấu đáo về nghệ thuật
ca múa nhạc dân gian Chăm, nên cứ thấy có màu sắc dân gian, dân tộc là cho điểm
cao. Vì vậy, theo chúng tôi, cần có những công trình khoa học chuyên ngành
nghiên cứu sâu và phổ biến rộng rãi các lĩnh vực của nghệ thuật dân gian Chăm
(và của cả các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam) về âm nhạc, múa. Trong đó cần
chú trọng đến yếu tố “thiêng” trong tín ngưỡng tôn giáo của từng dân tộc. Có
như vậy, chúng ta mới bảo tồn và phát huy đúng hướng di sản văn hóa nghệ thuật
dân gian các dân tộc.
2.3. Hiện nay, có
một thực tế là những tư liệu văn hóa dân gian Chăm, trong đó có ca múa nhạc dân
gian đang thất truyền hàng ngày hàng giờ. Những nghệ nhân tài giỏi, chứa đựng
nhiều kho tàng tri thức dân gian, những nghệ nhân hát dân ca, chế tác và sử
dụng điêu luyện nhạc cụ truyền thống đã và đang ra đi và vĩnh viễn. Nguy cơ mai
một những tư liệu ca múa nhạc dân gian Chăm là rất lớn.
2.4. Các Chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công
tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc. Thực hiện các
Chỉ thị 121 năm 1982, Thông tri 03 năm 1991, Chỉ thị 06 của Ban Bí thư về xây
dựng và phát triển văn hóa xã hội Chăm, vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận – Bình
Thuận đã có nhiều cố gắng để thực hiện, đã thành lập các thiết chế văn hóa như
Đoàn Nghệ thuật dân gian Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, Trung tâm Nghiên cứu Văn
hóa Chăm Ninh Thuận và có thể thấy hiệu quả rất rõ trong quá trình hoạt động
của các thiết chế văn hóa này. Đáp ứng yêu cầu nghiên cứu bảo tồn, phát huy văn
hóa, nghệ thuật dân gian các dân tộc. Đồng thời cần có kế hoạch ứng dụng những
tư liệu này vào việc xây dựng các chương trình ca múa nhạc vừa hiện đại, vừa
mang đậm tính dân tộc.
2.5. Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch đã phối hợp với UBND tỉnh Ninh Thuận tổ chức thành công Ngày
hội Văn hóa Chăm toàn quốc lần thứ nhất năm 2000, lần thứ hai được tổ chức
hoàng tráng hơn vào năm 2012, và năm nay 2016 được tổ chức tại An Giang. Đây là
dịp để các địa phương có người Chăm sinh sống báo cáo những việc đã làm được
trong những năm qua về việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
Chăm, là dịp để các vị chức sắc, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ dân gian Chăm
có dịp gặp nhau trao đổi, thảo luận và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền
thống Chăm.
3. Từ những vấn đề
trên, chúng tôi xin đưa ra những kiến nghị, những giải pháp cụ thể từ nay đến
2010 như sau:
3.1. Tăng cường các
đề tài nghiên cứu sâu về ngôn ngữ cơ bản của các loại hình âm nhạc và múa của
các dân tộc, trong đó dân tộc Chăm. Những tư liệu nghiên cứu được bổ sung vào
giáo trình của các trường văn hoá nghệ thuật. Ví dụ, giáo trình của nhạc viện
cần có những ngôn ngữ cơ bản của âm nhạc dân gian Chăm, các làn điệu dân ca,
các điệu trốn v.v…trường múa cần bổ sung những
động tác cơ bản của múa dân gian Chăm.
3.2. Các nhạc sĩ,
biên đạo cần có những đợt điền dã, đi sâu vào các vùng đồng bào Chăm để nghiên
cứu cơ bản về nghệ thuật âm nhạc và múa dân gian Chăm, từ đó sẽ chọn lọc và sử
dụng những cung bậc, động tác cơ bản của gốc rễ đích thực dân gian Chăm vào
việc sáng tác những tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật (mang tính hàn lâm,
bác học), mang hơi thở của thời đại.
3.3. Tăng cường đầu
tư cho Đoàn Nghệ thuật dân gian Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận, đẩy mạnh phong
trào văn nghệ quần chúng trong các palei Chăm, tạo không khí vui tươi, phấn
khởi để góp phần vào xây dựng đời sống tinh thần của bà con Chăm trong công
cuộc xây dựng nông thôn mới. Phong trào này sẽ là cái nôi bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống Chăm.
3.4. Tăng cường đầu
tư xây dựng, củng cố Trung tâm nghiên cứu văn hoá Chăm Ninh Thuận để Trung tâm
thực sự trở thành nơi nghiên cứu, cung cấp tư liệu văn hoá dân gian Chăm về mọi
mặt.
Kết luận:
Văn hoá được coi
như cái van để điều chỉnh sự phát triển cân bằng giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần. Xã hội muốn phát triển, trước hết phải ổn định. Muốn ổn định,
phải xây dựng được đời sống/nền tảng vật
chất và tinh thần xã hội ổn định.
Nghệ thuật ca múa nhạc dân gian Chăm đang giữ một vai trò quan trọng trong việc
xây dựng đời sống tinh thần trong cộng đồng người Chăm. Vì vậy, cần tăng cường
hơn nữa vào việc đầu tư nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa nghệ thuật dân
gian Chăm, góp phần vào việc củng cố nền tảng tinh thần xã hội của các dân tộc
Việt Nam.
Ninh Thuận mùa chay Ramưval, tháng 6/2016
TS
Phan Quốc Anh