Tóm tắt: Cồng chiêng cũng
là một nhạc cụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc người Việt nam. Nhưng
với người Tây Nguyên, cồng chiêng là đại diện, là nguồn sống, là tín ngưỡng tâm
linh. Âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc, hòa quyện với tiếng suối,
tiếng gió và với tiếng lòng sẽ sống mãi cùng với đất trời và con người Tây
Nguyên. Do đó âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà có chức năng phục
vụ một sự kiện đặc biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày.
Không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung và ở Gia lai nói riêng là giá trị
văn hóa dân gian tổng hợp nhiều loại hình, gắn với nghi lễ, lễ hội, trong đó cồng
chiêng trước hết là linh khí để con người giao tiếp với thần linh trước khi
giao tiếp với nhau. Vì lẽ đó, văn hóa cồng chiêng không đơn thuần chỉ là âm nhạc
cồng chiêng, là nghệ thuật đánh cồng chiêng mà bao gồm cả không gian lễ hội,
nghi thức đánh chiêng và điều kiện cụ thể cho việc sử dụng từng bài chiêng…
Từ khóa: không gian văn hóa cồng chiêng, đặc trưng văn hóa, Tây Nguyên.
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trên địa bàn tỉnh
Gia
Lai gồm năm dân tộc Kinh, Jrai,
Tày, Mường, Bana,
Nùng cùng chung sống chan hòa gần gũi
xen kẽ lẫn nhau, tạo nên sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, mặc dù vậy nhưng
người Gia Rai còn bảo lưu được những giá trị văn hóa riêng của dân tộc mình.
Đặc biệt, người
Jrai ở tỉnh Gia Lai họ bảo
lưu rất tốt về không gian văn hóa cồng chiêng, nó mang ý nghĩa to lớn về đời sống tinh thần to lớn về đời
sống văn hóa tinh thần của người Jrai ở tỉnh Gia
Lai nói riêng và cả người Jrai Tây Nguyên chung từ xưa mà cha ông để lại.
Văn hóa cồng chiêng của người Jrai ở tỉnh Gia Lai rất đa dạng phong phú, vì thế nhiều bài nghiên cứu đã được
công bố và sách, báo đưa tin. Tuy nhiên, một bài tìm hiểu xoay quanh về vấn đề
bảo tồn và phát huy nghệ thuật không gian văn hóa cồng chiêng của người Jrai tỉnh Gia Lai vẫn chưa có người tìm hiểu sâu.
Bài nghiên cứu
không chỉ giới thiệu khái quát chi tiết làm rõ bản sắc văn hóa cồng
chiêng người Jrai ở Gia Lai và
còn đưa vấn đề cấp bách để bảo tồn và phát huy nghệ thuật
không gian văn hóa cồng chiêng
đang đứng trước mặt nguy cơ mai một.
2. Mục đích nghiên cứu
Văn hóa cồng chiêng đã được tồn tại và phát triển đến hôm nay chủ yếu nhờ
vào phương pháp múa từ thế hệ này sáng thế hệ khác. Mai một theo thời gian bởi các giao
lưu công cụ nhạc hiện đại lấn át,
theo thời gian các loại hình nghệ thuật tinh hoa làm cho
nghệ thuật đánh cồng chiêng cũng
sẽ mai một dần.
Việc bảo tồn, Giữ
gìn và phát huy các nghệ thuật đánh cồng chiêng đặc biệt nghệ thuật đánh cồng chiêng người Jrai ở tỉnh Gia
Lai.
Giúp cho người Jrai có thể hiểu hơn về giá trị văn hóa nghệ thuật
đánh cồng chiêng có truyền thống đối
với bản sắc riêng của dân tộc mình.
3. Lịch sử nghiên cứu
Từ những kết quả
nghiên cứu trước đây của nhiều tác giả, nhà khoa học trong và ngoài nước đã được
công bố nhiều công trình về dân tộc học, lịch sử dân tộc người,... của người Jrai
Tây Nguyên. Nhưng nhìn chung
trên hầu hết chỉ đề cập dến các sử học,... và thiên về ghi chép, mô tả cuộc sống
của người dân bản địa.
4. Đối tượng nghiện cứu
Văn hóa Cồng Chiêng trong đời sống người Jrai ở Gia Lai
5. Phương pháp nghiên cứu
Cần tìm tài liệu
liên quan và các nguồn tư liệu lịch sử, nghệ thuật múa cồng
chiêng, văn hóa dân gian, dân tộc học,
tôn giáo,... Tổng hợp thông tin đa dạng và thiết thực
hơn.
Để thực hiện
nghiên cứu đề tài tôi đã tiến hành phân tích về nghệ thật múa
cồng chiêng người Jrai ở tỉnh Gia Lai, tổng hợp tư liệu và so sánh từ nguồn tài liệu thu thập được để đưa những
bài viết thiết thực.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề
tài có thể sử dụng làm tài liệu học tập và giảng dạy.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp
thông tin giúp mọi người có cái nhìn đa chiều và khách quan, cũng như góp phần
phát triển nghệ thuật văn hóa cồng chiêng Gia
Lai.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU
1.
Đặc
trưng văn hóa cồng chiêng
Nhạc cụ là những dụng cụ chuyên
dùng để khai thác những âm thanh âm nhạc và tạo tiếng động tiết tấu,
được sử dụng cho việc biểu diễn âm nhạc. Mỗi nhạc cụ có âm sắc
riêng biệt về âm vang, có cường độ âm thanh riêng và âm vực khác nhau.
Cồng, chiêng là loại nhạc cụ biểu diễn nghệ
thuật gắn liền với lịch sử, văn hóa của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại. Thời gian qua, tỉnh Gia Lai đã có các giải pháp hữu hiệu bảo tồn
và phát huy di sản Không gian văn hóa cồng, chiêng Tây Nguyên.
Khi nghe tiếng Cồng chiêng, chúng ta có thể
phát hiện các tầng giai điệu được đan xen và đối ứng với nhau bên cạnh phần đệm
hòa âm trong các bài bản liên quan đến lễ hội cúng bến nước, lễ hội mừng được
mùa, lễ hội cầu mưa, nghi thức đón khách hay kết nghĩa... Âm thanh mở đầu của
tiết tấu Cồng chiêng thường là chuỗi âm thanh tạo nên một tổng phổ âm nhạc vừa
tinh tế, vừa đầy đặn và sâu lắng. Điều này cho thấy, Cồng chiêng Tây Nguyên là
sự hòa quyện giữa hai loại nghệ thuật âm nhạc chủ điệu và đa điệu theo lối tư
duy hòa âm được hình thành từ chính bản chất bồi âm đa thanh của tự nhiên. Đặc
tính hợp tấu và hòa tấu của âm nhạc đã xác định tính diễn xướng tập thể của cồng
chiêng qua mối quan hệ tương tác với cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong
dòng chảy lịch sử.
2.
Giới
thiệu về tỉnh Gia Lai
Năm 2021 dân số toàn tỉnh Gia Lai đạt hơn 1.5
triệu người. Toàn tỉnh Gia Lai có 38 dân tộc cùng người nước ngoài
sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh chiếm nhiều nhất với 713.403 người, người
Gia Rai có 372.302 người, người Ba Na có 150.416 người, người
Tày có 10.107 người, người Nùng có 10.045 người, tiếp theo
là người Mường có 6.133 người, người Thái có 3.584 người, người
Dao có 4.420 người.
Giáo
dục:
Tính đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn
toàn tỉnh Gia Lai có 530 trường học phổ thông trong đó Trung học phổ thông 41
trường, Trung học cơ sở 229 trường, Tiểu học 226 trường. Bên cạnh đó còn có 236
trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh
Gia Lai cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn
tỉnh.
Y
tế:
Theo số liệu thống kê từ Sở Y tế, tỉnh Gia
Lai có 5 bệnh viện, 2 chi cục (là Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình và An toàn Vệ sinh Thực phẩm), 7 trung tâm y tế dự phòng, trường
trung cấp y tế, trung tâm giám định sức khỏe và ban quản lý dự án đầu tư Chuyên
ngành Y tế. Có 17 Phòng Y tế, 17 Trung tâm Y tế huyện, 17 Trung tâm Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình, 220 xã, phường, thị trấn có y tế hoạt động, trong đó có 208
trạm y tế xã và 14 trạm y tế trung tâm cấp xã.
2.3.
Phong tục lễ hội người
Jrai ở tỉnh Gia Lai
Với
những nét đặc sắc trong nghệ thuật đánh cồng chiêng, kèm theo đó là tín ngưỡng
thờ cúng ý nghĩa trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
Lễ cầu mưa là nét văn hóa dân gian đặc
trưng của đồng bào dân tộc Jrai với mục đích cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu, mong cho dân làng có sức khỏe tốt, cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Lễ
cầu mưa tại thôn Plei Rbai, xã Ia Piar, huyện Phú Thiện được duy trì thường
xuyên hàng năm vào cuối tháng 4 Dương lịch, đây cũng là một trong những sản phẩm
du lịch thế mạnh của huyện nhà.
Hình 1: Lễ cầu
mưa huyện Phú Thiện.
Mừng lúa mới là một phong tục lâu đời của
đồng bào Jrai, Bahnar trên địa bàn tỉnh Gia Lai, có ý nghĩa tôn vinh hạt thóc của
Yàng ban cho dân làng và tập tục cúng Yàng, cúng các vị thần trời đất, các thần
sông suối, thần núi, thần mưa, thần sấm, thần mùa màng với mong ước mang lại cuộc
sống ấm no cho cộng đồng. Năm nào cũng vậy, vào tháng 1-2 dương lịch, khi toàn
bộ lúa chín ngoài đồng đã được thu hoạch hết, cũng là lúc người dân các làng
chuẩn bị lễ vật để mừng lúa mới. Lễ mừng lúa mới là lễ hội mang đậm tín ngưỡng
vạn vật hữu linh.
Lễ bỏ mả hay còn gọi là lễ pơ thi của người
Bahnar và Jrai ở Gia Lai là lễ hội lớn nhất và tinh túy nhất của văn hóa lễ hội
Tây Nguyên. Đây là một trong những lễ hội truyền thống và thiêng liêng, có ý
nghĩa đưa tiễn linh hồn người chết về với tổ tiên. Lễ hội bỏ mả hàng năm thường
diễn ra trong 3 ngày, khi mùa mưa vừa chấm dứt và luôn phải trải qua ba bước: Dựng
nhà mồ, lễ bỏ và lễ rửa nồi (giải phóng linh hồn). Có thể nói lễ bỏ mả là một lễ
hội không chỉ mang tính nghệ thuật cao mà còn đầy chất nhân văn: Tái sinh cho
người chết và giải phóng cho người sống khỏi những ràng buộc với người chết.
CHƯƠNG III: KHÁI QUÁT CHUNG VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG NGƯỜI JRAI Ở TỈNH
GIA LAI
Cồng chiêng Tây Nguyên có tiếng anh là
gong. Về nguồn gốc cồng chiêng có thể là “hậu duệ” của đàn đá trước khi có sự
xuất hiện của đồng thì người xưa đã chế tác ra các nhạc cụ bằng đá, tre như đàn
đá, cồng đá, chiên đá, tre…
Đến thời kì đồ đồng thì các nhạc cụ cồng
chiêng đồng cũng theo đó mà ra đời. Từ thuở sơ khai tiếng cồng chiên được xuất
hiện trong tất cả các lễ hội trong năm từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ
mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu, xuống đồng,
mừng lúa mới, hay trong một số buổi nghe khan tiếng chiên dài hơn đời người, âm
thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối,
tiếng gió và với tiếng lòng người như là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên
hay kết nối các thế hệ.
Cồng chiêng Tây Nguyên biểu hiện cho sự
quyền lực và giàu có. Theo quan niệm của người dân Tây Nguyên thì đằng sau mỗi
chiếc Cồng chiêng điều ẩn chứa một vị thần chiếc Cồng chiêng càng cổ thì quyền
lực vị thần đó càng cao.
Đã có thời một chiếc chiêng có giá trị
ngan bằng 2 con voi hay 20 con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng
người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng
chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo.
Cồng chiêng Tây Nguyên đã gióp phần tạo
nên những sử thi đi vào những áng thơ ca đậm chất tây nguyên vừa lãng mạng vừa
hùng tráng khẳng định giá trị tồn tại trên mãnh đất Tây Nguyên từ hàng ngàn đời
nay.
2. Văn hóa cồng chiêng thể hiện trong
đời sống văn hóa tinh thần người Jrai
Đến với Gia Lai vào mùa lễ hội, ta có thể
hòa mình vào âm thanh cồng chiêng khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm
hùng, hòa quyện với đất trời, với tiếng lòng của đồng bào Jrai – những chủ nhân
đang sở hữu Di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này.
Đồng bào nơi đây xem cồng chiêng là tài sản
vô giá. Tiếng chiêng ngân vang trong mọi lễ hội, niềm vui, nỗi buồn, tiếng nói
của tâm linh hay kể cả những sinh hoạt hàng ngày của họ đều được thanh âm của cồng
chiêng truyền tải một cách tinh tế. Khi những bản hòa tấu cồng chiêng vang lên,
những chủ nhân của Di sản Không gian văn hóa cồng chiêng say sưa thể hiện bản sắc,
vẻ đẹp từ các buôn làng, từ những con người mộc mạc, chất phác nơi vùng đất đầy
nắng và gió.
Cồng chiêng là văn hóa độc đáo của người
Jrai. Từ ông bà, cha mẹ ngày xưa đã truyền lại cho con cháu. Bài chiêng
này ý nghĩa là mừng lúa mới vì dân làng làm việc trong 1 năm có lúa mới ấm no.
Giai điệu múa theo đúng nhịp của nó, thể hiện sự vui mừng.
Cồng chiêng là nét văn hóa đặc sắc của người
Jrai. Đồng bào Jrai không được bỏ cồng, chiêng, nếu ai bỏ cồng, chiêng là như bỏ
ông bà, cha mẹ mình vậy.
Mảnh đất Gia Lai dù đã trải qua nhiều đổi
thay theo sự phát triển chung của đất nước, song Gia Lai vẫn giữ lại cho mình một
vẻ đẹp hoang sơ vốn có của đại ngàn.
Nói đến Gia Lai, chúng ta không thể nào
quên được với những trang sử thi hào hùng mà cũng rất đời thực; những tập tục,
lễ hội đã gắn bó với người dân bản địa nơi đây từ bao đời nay, làm nên cái hồn
của người dân Tây Nguyên và cũng là nét độc đáo riêng có ở Gia Lai.
Nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng Gia Lai được
thể hiện rất đa dạng và độc đáo. Nghệ nhân Jrai có thể dùng cồng chiêng theo
dàn, theo bộ cồng chiêng. Mỗi bộ có từ 2 đến 12 chiếc, cũng có bộ 18 đến 20 chiếc,
hoặc dùng đơn lẻ. Mỗi dân tộc một âm điệu, mỗi dân tộc một cách diễn tấu khác
nhau.
Đó cũng là nét độc đáo, mang bản sắc riêng
trong sử dụng nhạc cụ truyền thống của đồng bào Churu- một trong 3 dân tộc sinh
sống lâu đời ở Lâm Ðồng. Khác với chiêng của người K’Ho, Mạ là bộ chiêng
6 thì chiêng của người Churu là bộ chiêng 3. Và trong dàn hòa tấu các nhạc
cụ, trống có vai trò giữ nhịp làm cho lời dân ca thêm ngọt ngào, những vũ điệu
dân vũ thêm uyển chuyển, nhịp nhàng.
Lễ hội Cồng chiêng là một lễ hội được tổ
chức hằng năm và luân phiên giữa các huyện có văn hóa Cồng chiêng của người
Jrai.
Lễ hội Cồng chiêng người Jrai không chỉ
đơn thuần là một hoạt động văn hóa mà còn mang ý nghĩa tâm linh rất lớn đối với
người dân Gia Lai.
Đến với lễ hội Cồng chiêng ngoài thưởng thức
các nghệ nhân trình diễn những vũ điệu kết hợp với tiếng Cồng chiêng mà còn được
tham gia các hoạt động văn hóa khác như phục dựng nghi lễ, lễ hội truyền thống
của các dồng bào dân tộc, sinh hoạt văn nghệ dân gian, ẩm thực Gia Lai.
Vào từng năm tùy vào đơn vị tổ chức mà thời
gian diễn ra lễ hội văn hóa cồng chiêng khác nhau. Cồng chiêng người Jrai không
chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần
mà nó còn là "tiếng nói" của con người và của thần linh theo quan niệm
"vạn vật hữu linh".
3. Giá trị Văn hóa cồng chiêng thể hiện
đời sống xã hội Người Jrai ở tỉnh Gia Lai
Ở phần lớn người Gia Rai Thì cồng chiêng
là nhạc cụ dành riêng cho nam giới. Mỗi giai điệu mỗi bản nhạc cồng chiêng đều
có một ý nghĩa khác nhau cho mỗi sự kiện quan trọng những tiếng cồng chiêng kết
hợp với những tiếng hò reo tạo nên không khí vui tươi những giai điệu đi theo họ
từ lúc sinh ra (lễ thổi tay) gắn liền đời sống hằng ngày qua các lễ hội đến khi
họ mất (lễ bỏ mả).
Thanh âm của cồng chiêng là tiếng nói gắn
kết giữa con người với thần linh. Mỗi sự kiện khác nhau thì giai điệu, bước múa
cũng khác nhau.
Người Jrai có hai cách đánh cồng chiêng. Một
cách đánh bằng dùi, một cách đánh bằng cườm tay. Dùi chiêng có hai loại, một loại
dùi mềm và một loại dùi cứng.
Loại dùi mềm thường làm bằng gốc cây dứa dại
khô hoặc làm bằng gỗ có bọc vải. Lọa dùi cứng thường làm bằng nhánh gỗ khô hoặc
thân cây sắn tươi. Mỗi loại dùi chiêng khi tác động lên mặt chiêng tạo ra âm sắc
chiêng khác nhau. Loại dùi mềm cho âm thanh tròn trĩnh, vang ngân, trầm hùng.
Loại dùi cứng cho âm thanh sắc nhọn, nghe
có tiếng va chạm của kim khí và sự mãnh liệt của âm thanh. Còn cách đánh bằng
cườm tay cho ta một cảm giác âm thanh xa xăm, bí ẩn.
Khi đánh chiêng, tay phải cầm dùi, hoặc cườm
tay kích vào mặt chiêng tạo âm thanh, tay trái lúc chặn vào mặt chiêng, lúc rời
khỏi mặt chiêng sẽ tạo ra âm chiêng (nốt nhạc chiêng).
Sự kết hợp nhuần nhuyễn hai tay phải và
trái của người đánh chiêng sẽ tạo ra một âm chiêng hoàn chỉnh. Nhưng để có thể
tham gia diễn tấu được một bài chiêng thì vấn đề còn phức tạp hơn rất nhiều. Mỗi
thành viên tham gia vào dàn chiêng giữ vị trí một cao độ và tiết tấu khác nhau.
Do vậy họ phải nắm rất chắc thời khắc gõ
chiêng của mình làm sao cho đúng thời khắc tiết tấu, đúng gai điệu, đúng âm sắc.
Và điều kì diệu của bản nhạc chiêng chính là sự đồng cảm, sự tập trung, sự hào
hứng của những "tâm thức chiêng" khi cùng nhau trình diễn một bản nhạc
cồng chiêng.
Tiếng chiêng là tiếng nói của con người
giao tiếp với thần linh. Để thỏa mãn tiếng nói giao tiếp ấy, các dân tộc ở Gia
Lai đã sáng tạo ra rất nhiều các bài nhạc chiêng khác nhau. Mỗi bài nhạc chiêng
ứng với một lễ thức, một tiết lễ trong lễ thức, mỗi lễ thức ứng với một dàn
chiêng.
Lễ đâm trâu người dân Gia Lai sẽ chơi dàn
chiêng honh chơi các bài Cheng, Spo, Pru là những bài chiêng hùng tráng như muốn
mô tả những cuộc chiến đấu dũng cảm của các vị tù trưởng và dân buôn khi xảy ra
chiến tranh bảo vệ lãnh thổ.
Lễ bỏ mả chơi dàn chiên Arap Vào đếm cuổi
cùng khi mọi việc đã hoàn tất, con cái, người thân quỳ lại trước Pnang than
khóc linh hồn người đã khuất và nói lời từ biệt linh hồn và mong linh hồn đừng
quay về quấy rầy con cái. Khi ông thầy lễ dứt bài khấn, các chàng trai đánh bài
chiêng Xoang. Bài chiêng có tiết tấu rộn rã cuốn hút mọi người vào vòng Xoang
sôi động và vui vẻ.
Ngoài những bài chiêng đánh trong các lễ
thức lớn như lễ Đâm trâu, lễ Bỏ mả, các dân tộc ở Gia Lai có có rất nhiều các
bài chiêng đánh trong lễ Cúng bên nước, lễ Cúng cơm mới, lễ Dựng nhà, lễ Thổi
tai, lễ Rước kpan, lễ Cúng đất v.v... Người Mnông Gar có các bài chiêng:
Booc-ngăn, Rơ-le, Bar-đăn, Đol-rơ-la, Goong-Yowl, Táp-tốp, Tiêng, Par-mây. Người
Ê-đê có các bài chiêng: Chiêng gọi buôn làng, Chiêng gọi hồn lúa, Chiêng ngày
mùa, Chiêng Chi-ria, Chiêng thác đổ, chiêng Tông-gát. Người Cơ-ho có các bài
chiêng: Voa-nắc (chiêng đón khách), Bắc-đơn, Pép-ê-zun (săn nai), Ti-tắp-tắp,
Dăn pắc - Dăn Điếp, Chinh boch, Po-trim-po. Người Ba-na Rơngao có các bài
chiêng: Kă-kơ-pô, Pơ juăr (đuổi ma)...
6. Giao lưu văn hóa cồng chiêng người
Jrai
Festival Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được
diễn ra năm 2018 tại Gia Lai:
Lễ hội Cồng chiêng nơi này được tổ chức
hàng năm nhằm quảng bá hình ảnh Không gian văn hóa Cồng Chiêng nơi đâyđã được
UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Đó không những
là một sự kiện quan trọng của người dân tại mảnh đất này mà còn cả với đất nước
Việt Nam.
Festival Văn hóa Cồng chiêng năm 2018 diễn
ra vào tháng 5 tại TP. Plei Ku – Gia Lai với sự tham gia của hơn 800 nghệ nhân
của 11 cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên.
Theo đề án dự thảo, Festival Văn hóa Cồng
chiêng lần này có những nội dung chính đặc sắc hấp dẫn như: Lễ hội đường
phố, Phục dựng một số nghi lễ, lễ hội truyền thống có yếu tố cồng chiêng của
các dân tộc thiểu số tại chỗ. Trình diễn nghệ thuật chỉnh chiêng, Tạc tượng gỗ
dân gian, đan lát, dệt thổ cẩm, Diễn xướng sử thi Tây Nguyên, Hội thảo về bảo tồn
giá trị văn hóa cồng chiêng, Triển lãm, trình diễn trang phục dân tộc.
Đây là một lễ hội lớn mang đậm màu sắc nên
nó thường được giới thiệu trong các chương trình du lịch Tây Nguyên. Những lễ hội
dân gian đặc sắc của các dân tộc sẽ được dựng lại, nhằm kêu gọi cộng đồng cùng
chung sức bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của cư dân các dân tộc. Đồng
thời giới thiệu với du khách những thành tựu về kinh tế, văn hóa và tiềm năng
du lịch của các dân tộc Tây Nguyên.
CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG VÀ PHÁT TRIỂN BẢO TỒN PHÁT HUY VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG NGƯỜI JRAI Ở TỈNH
GIA LAI
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc bảo
tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng vẫn còn những thực trạng lo ngại như:
Một là, chưa có một đề án tổng thể, quy hoạch
văn hóa cồng chiêng người Jrai cho bài bản, chiến lược. Qua báo cáo của
các huyện ở Gia Lai, các cấp chính quyền, cơ quan quản lý của các tỉnh đã vào
cuộc nhưng chưa đồng bộ: về kinh phí, về các biện pháp, phương pháp thực hiện. Mục
tiêu của các đề án, dự án đã triển khai thực hiện đã trúng và đúng nhưng chưa đủ. Chưa
có một cuộc khảo sát và đánh giá tổng thể một cách thực chất về thực trang văn
hóa cồng chiêng ở Gia Lai hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có có giải pháp tổng
thể, đồng bộ. Đó là phải Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần xây dựng một đề án
tổng thể, trong đó cần quan tâm đến nhu cầu của cộng đồng đối với di sản mà họ
đang sở hữu. Trong bối cảnh 4.0, không thể đòi hỏi không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên nói chung, văn hóa cồng chiêng ở Gia Lai nói riêng phải quay
trở lại như những gì trong quá khứ từng có, mà cần căn cứ vào thực tiễn cụ thể
của mỗi địa phương để có những định hướng chung nhất, để những giá trị ấy không
cần hiện hữu đầy đủ nhưng cũng sẽ không mất đi.
Hai là, chưa có hoạt động bảo tồn, quảng
bá định kỳ. Trong 15 năm qua, các tỉnh Tây Nguyên mới tổ chức được 5 kỳ
Festival Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên vào các năm 2007, 2017 (tại TP. Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk); năm 2009, 2018 (tại TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) và năm 2015
(tại TP. Kon Tum, tỉnh Kon Tum). Có thể nhận thấy các festival này chưa được định
hướng thống nhất, chưa định kỳ, mà còn manh mún, tùy thuộc vào điều kiện của
các địa phương, tỉnh nào thuận lợi thì làm và cũng không có quy định chương
trình khung. Việc này đang rất cần sự chỉ đạo chính thức từ Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch để kỳ Festival Văn hóa cồng chiêng ở Gia Lai được tổ chức định
kỳ với những nội dung phong phú, thiết thực.
Ba là, chưa có một cú hích thật sự. Môi
trường sống thay đổi, xuất hiện các yếu tố văn hóa mới đã làm thay đổi, mai một
nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng, tác động không nhỏ tới hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa Cồng
chiêng, không gian diễn xướng bị mất hoặc thu hẹp. Chính sách đãi ngộ đối với
nghệ nhân, người có công trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản còn hạn
chế và bất cập. Kinh phí hỗ trợ cho các đội cồng chiêng, đội văn nghệ, hỗ trợ
trang phục, mở lớp truyền dạy còn hạn chế. Thiếu những quy định cụ thể về nội
dung, mức chi hỗ trợ cho các nghệ nhân, cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo
vệ và phát huy giá trị di sản.
2.
Đề xuất hướng phát triển và phát huy bảo tồn văn hóa cồng chiêng truyền thống người
Jrai
Thiết nghĩ, ở góc độ quản lý nhà nước,
trong thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên:
(1) Chủ trì xây dựng Đề án bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng ở Gia Lai nói riêng và
Tây Nguyên nói chung giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030,
trong đó cần phân công, phân cấp rõ trách nhiệm của địa phương để các huyện ở
Gia Lai có căn cứ triển khai thực hiện.
(2) Có văn bản chỉ đạo chính thức để các tỉnh
Tây Nguyên định kỳ tổ chức Festival cồng chiêng định kỳ 2 - 3 năm/lần luân
phiên giữa các tỉnh với nhiều nội dung phong phú, khoa học, thiết thực, thu hút
sự quan tâm không chỉ của khách du lịch mà còn thu hút giới khoa học trong và
ngoài nước.
(3) Tham mưu với Chính phủ có chính sách hỗ trợ cụ thể (hằng tháng) đối với các nghệ nhân trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng, nhất là đối với các nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú. Có thực hiện những giải pháp căn cơ và đồng bộ nhưng cũng rất cụ thể như vậy, văn hóa cồng chiêng mới có thể phát huy tốt hơn nữa giá trị quý báu của mình trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đưa Tây Nguyên ngày càng phát triển bền vững.
Hiện nay, kinh tế - xã hội phát triển đã
và đang tạo ra sự biến đổi lớn về không gian, môi trường văn hóa, tác động sâu
sắc đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng trong cộng
đồng các dân tộc ở Gia Lai. Việc bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng trong bối
cảnh đương đại là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp và cấp bách. Tại hội thảo quốc tế
với chủ đề “Sự thay đổi đời sống kinh tế - xã hội và bảo tồn văn hóa cồng
chiêng ở Việt Nam và khu vực Đông - Nam Á” (năm 2009) và gần đây nhất là hội thảo
“Bảo vệ và phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” (năm
2018) được tổ chức tại TP Pleiku (Gia Lai), đã đưa ra nhiều giải pháp giá trị
thiết thực. Trong đó, quan điểm và mục tiêu “đưa di sản thành tài sản” để người
dân được hưởng lợi mang tính bảo tồn bền vững nhận được sự đồng tình của nhiều
nhà khoa học và nghiên cứu văn hóa. Nếu bảo tồn chỉ dựa trên nguồn vốn ngân
sách hạn chế thì rất khó, trong khi nếu biết huy động nguồn lực và sự chung tay
của cộng đồng thì công việc này sẽ hiệu quả và lâu dài hơn. Khi di sản đem lại
lợi ích vật chất và tinh thần thiết thực cho cộng đồng, người dân sẽ tự giác
cùng tham gia giữ gìn, bảo vệ, phát huy mà không cần hô hào, vận động.
Lễ hội Festival được tổ chức nhằm quảng bá
hình ảnh Không gian văn hóa Cồng Chiêng Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói
chung đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Tại đây, những lễ hội dân gian đặc sắc của các dân tộc ở tỉnh Gia Lai được dựng
lại, nhằm kêu gọi cộng đồng cùng chung sức bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa của đồng bào các dân tộc. Cồng Chiêng ở tỉnh Gia Lai là nơi tiết tấu và
giai điệu gặp nhau. Mỗi nhạc công chơi một nốt và một mô hình tiết tấu, kết hợp
lại thành bè, thành giai điệu.
Nguồn
intenet:
1.
https://dulichvn.org.vn/index.php/item/gia-lai-giu-gin-di-san-cong-chieng-tay-nguyen-46491
2.
https://gonatour.vn/van-hoa-cong-chieng-tay-nguyen.html
3.
https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/van-hoa-cong-chieng-tay-nguyen-nhung-dieu-tran-tro-133459