VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CA MÚA NHẠC DÂN GIAN CHĂM
PGS.TS,
nhạc sĩ Phan Quốc Anh
Nguyên
Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh Ninh Thuận,
Giảng viên Đại học Văn hóa Tp Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Dân tộc Chăm là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam. Người Chăm ngày nay là con cháu
của cư dân Champa xưa, sinh sống lâu đời trên mảnh đất Việt Nam. Người Chăm đứng thứ 17 về dân số ở Việt Nam, có 178.948
người, cư trú đông nhất ở các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Đây cũng là nơi người Chăm
đang lưu giữ những tinh hoa quý báu nhất, lâu đời nhất của kho tàng di sản văn
hóa Chăm nói chung, di sản nghệ thuật ca múa nhạc dân gian nói riêng. Văn hóa Chăm được
quan tâm bảo tồn và phát huy ở các lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu, thành lập các
thiết chế văn hóa Chăm và đẩy mạnh phong trào ca múa hát dân gian ở các làng
Chăm, phát huy vai trò của các thế hệ nghệ nhân trong việc tự bảo tồn, truyền
dạy vốn văn hóa độc đáo của mình. Nghệ thuật ca múa nhạc dân gian Chăm ngày
càng được tôn vinh và phát triển mạnh mẽ. Người Chăm ngày càng tự hào về
những nét đặc sắc của di sản văn hóa quý báu của mình. Nhưng bên cạnh đó, cũng
tồn tại một số vấn đề cần bàn thảo về định hướng bảo tồn và phát huy các
giá trị của nghệ thuật ca múa nhạc dân gian Chăm trong phát triển bền vững
đất nước
Từ
khóa: Bảo tồn; Phát huy; Văn hóa dân
gian, Văn hóa Chăm; Ca múa nhạc dân gian Chăm.
Lời mở
Dân tộc Chăm là một trong 54 dân tộc ở
Việt Nam. Người Chăm ngày nay là con cháu của cư dân Champa xưa, sinh sống lâu
đời trên mảnh đất Việt Nam. Về nguồn gốc
tộc người, các nhà khoa học xếp người Chăm vào tiểu chủng Mongoloid phương Nam,
nhóm loại hình Nam Đảo. Về ngôn ngữ, tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam
Đảo), đại chi Malayo - Polynesian (Mã lai - Đa đảo), chi Westen Malays -
Polynesian, tiểu chi Sundic, nhóm Malayic, nhóm Achinese - Chamic, tiểu nhóm
Chamic. Cùng chung tiểu nhóm này, ở Việt Nam còn có các dân tộc Êđê, Giarai,
Churu, Raglai... Có thuyết cho rằng các tộc người này là con cháu của cư dân
đến từ Thế giới đảo. Cũng có ý kiến khác cho đó là cư dân ở vùng phía Nam Trung
Quốc di chuyển vào[1].
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở
năm 2019, người Chăm đứng thứ 17 về dân số ở Việt Nam, có 178.948 người, cư trú
ở một số tỉnh ở Nam Trung bộ và Nam bộ Việt Nam. Trong đó, đông nhất là ở tỉnh
Ninh Thuận 67.517 người, Bình Thuận 39.557 người, Phú Yên 22.813 người, tiếp
đến là An Giang 11.171 người, Tp Hồ Chí Minh 10.509 người, Đồng Nai 8.603 người
và Tây Ninh 4.014 người[2].
Có thể thấy, người Chăm cư trú đông nhất ở các tỉnh Cực Nam Trung Bộ gồm Phú
Yên, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đây cũng là nơi người Chăm đang lưu giữ những
tinh hoa quý báu nhất, lâu đời nhất của kho tàng di sản văn hóa Chăm nói chung,
di sản nghệ thuật ca múa nhạc dân gian nói riêng.
Bên cạnh di sản nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đồ sộ, phong phú, người
Chăm hiện đang lưu giữ kho tàng ca múa nhạc dân gian đặc sắc. Ở đó chứa đựng những
lớp văn hóa ngoại sinh và nội sinh, vừa có dấu ấn của văn hóa Ấn Độ, vừa đậm nét văn hóa bản địa trong cơ tầng văn hóa
Đông Nam Á.
Trải qua quá trình lịch sử đầy biến động, thời gian và chiến tranh đã tàn
phá các di tích và làm mai một khá nhiều kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể
Chăm. Chỉ từ sau năm 1975, với các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về
xây dựng và phát triển văn hóa, văn hóa Chăm mới được tập trung nghiên cứu để bảo
tồn và phát huy. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ
động đổi mới tư duy, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó có văn hóa. Đến năm 2014, Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”. Đây là những Nghị quyết thể hiện rất rõ chủ trương, đường lối của
Đảng về văn hóa, việc thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa của các dân tộc, các địa phương có
nhiều thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện.
Việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội vùng đồng
bào Chăm có những nét đặc thù riêng, nhất là vùng đồng bào Chăm ở các tỉnh vùng
cực nam Trung Bộ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách riêng đối với đồng
bào dân tộc Chăm, trong đó có Chỉ thị số 121 – CT/TW ngày 26 tháng 1 năm 1981 của
Hội đồng Bộ Trưởng, Thông tri số 03-TT/TW ngày 17 tháng 10 năm 1991 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về Công tác đối với
vùng đồng bào Chăm và Chỉ thị số 06/2004/CT-TTg ngày 18 tháng 2 năm 2004 của
Thủ tướng Chính phủ về “Tiếp tục đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm an ninh-trật tự đối với vùng đồng bào Chăm
trong tình hình mới”. Trong quá trình tổ chức thực hiện, bên cạnh lĩnh vực
kinh tế - xã hội, các địa phương đã tập trung sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa Chăm, trong đó có nghệ thuật ca múa nhạc dân gian.
Qua quá trình thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, bên cạnh sự phát triển kinh tế, xã hội, đời sống của người Chăm được nâng
lên rõ rệt. Các chỉ số phát triển kinh tế, xã hội được nâng lên rất nhanh. Từ
những làng quê nghèo khổ trên vùng đất khô hạn ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ,
vùng đồng bào Chăm sinh sống hôm nay thực sự đã thay da đổi thịt, phát triển mạnh
mẽ. Văn hóa Chăm được quan tâm bảo tồn và phát huy, các lễ hội dân gian được tổ
chức ngày càng lớn, đời sống văn hóa tinh thần được cải thiện. Nghệ thuật ca
múa nhạc dân gian Chăm ngày càng được tôn vinh và phát triển mạnh mẽ. Người
Chăm cũng tự hào về những nét đặc sắc của di sản văn hóa quý báu của mình.
1. Khái quát về quá trình bảo tồn
và phát huy nghệ thuật ca múa nhạc dân gian Chăm
1.1. Việc
sưu tầm, nghiên cứu
Văn hóa Chăm độc đáo, đã thu hút
sự chú ý của nhiều học giả trong và ngoài nước trong vài thế kỷ qua. Đáng chú ý
là các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học người Pháp từ thế kỷ XIX như
J. Crawford, A. Bastian, E. Aymonier, H. Parmentier, E.M. Durand, L. Finot, A.
Cabaton, G.L. Maspéro... Các công trình của người Pháp tập trung nhiều vào lĩnh
vực ngôn ngữ, văn bia, khảo cổ học, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đền tháp, lịch
sử, bang giao, đến tín ngưỡng, tôn giáo. Sau năm 1975, các công trình nghiên cứu
về người Chăm được giới khoa học quan tâm nghiên cứu ngày càng nhiều. Đặc biệt
là các nhà khoa học của Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Viện
KHXH vùng Nam Bộ). Việc tái lập Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận[3], thành
lập Trung tâm Văn hóa Chăm huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận là một sự đầu tư
đúng trọng điểm về nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Chăm.
Nghệ thuật ca, múa, nhạc dân gian Chăm trước đây chỉ tồn tại trong các lễ
nghi tôn giáo, tín ngưỡng, hầu như không được phổ biến. Từ năm 1975, văn hóa
Chăm nói chung, nghệ thuật ca múa nhạc dân gian nói riêng được đầu tư sưu tầm
nghiên cứu, bảo tồn và phát triển. Hệ thống lễ hội được khôi phục và kèm theo
đó là sự phục hồi các đội nhạc lễ, múa lễ và hát lễ. Từ đây, nghệ thuật dân
gian Chăm không chỉ bó hẹp trong các nghi lễ mà đã bước ra đời sống sinh hoạt
văn hóa văn nghệ quần chúng. Ở các tỉnh cực Nam Trung bộ Việt Nam – nơi có đông
người Chăm cư trú lâu đời nhất đã hình thành nên các đoàn nghệ thuật dân gian
Chăm chuyên nghiệp. Nghệ thuật ca múa nhạc dân gian của người Chăm Phú Yên
(Chăm H’roi) được sưu tầm, nghiên cứu, xây dựng các tiết mục cho Nhà hát Sao Biển.
Trong đó, đáng chú ý là nghệ thuật “trống đôi, cồng năm, chiêng ba”, một nghệ
thuật kết hợp giữa âm nhạc và múa đặc sắc[4].
1.2. Âm nhạc
dân gian Chăm
Âm nhạc có vai trò rất quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Chăm. “Âm nhạc và múa của người Chăm
vừa có lớp văn hóa tôn giáo vừa có lớp bản địa, tạo nên một nghệ thuật dân gian
đặc sắc”[5].
Âm nhạc luôn gắn chặt với múa trong các nghi lễ dân gian và nghi lễ tôn giáo. Âm
nhạc và múa đều mang nặng tính thiêng.
Hệ thống nhạc cụ Chăm tương đối phong
phú và đủ các bộ cho một dàn nhạc. Bộ gõ có trống basanưng, trống ghi năng,
chiêng, chũm chọe, đàn đá, mõ, kà rồng (dây
lục lạc); bộ dây có đàn ka nhi (nhị
mu rùa), đàn chămpi, bộ hơi có kèn saranai, tù và bằng sừng trâu, khèn bầu,
sáo… Các vị chức sắc giải thích rằng những nhạc cụ chính trong dàn nhạc lễ Chăm
là biểu tượng của một thể thống nhất các bộ phận của vị thần Brahma. Trong đó, kèn Saranai là biểu tượng cho phần đầu,
trống basanưng là phần bụng (ôm vào
bụng ngồi vỗ), đôi trống ghi năng là hai chân (luôn để bắt chéo và ngồi biểu
diễn, một tay vỗ vào mặt trống phía trên và một tay cẩm dùi để đánh phía dưới)[6].
Nếu so sánh với những nhạc cụ
thể hiện trên các mảng điêu khắc của người Chăm còn lại đến hôm nay, chúng ta
thấy ngày nay đã thất truyền một số nhạc cụ như sáo dài nhiều lỗ, đàn “Harpe” , trống lớn, trống nhỏ
Hagar1.
Âm nhạc Chăm có tiết tấu rất phong phú, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh
Thuận đã sưu tầm, ký âm và thống kê được 75 điệu trống Ghinăng, có các tiết tấu
nhanh, thuận phách và nghịch phách, sôi nổi bốc lửa nhưng cũng có những tiết
tấu chậm, trữ tình, tự sự.
Dân ca, dân nhạc: Người Chăm đang
lưu giữ một kho tàng dân ca với những làn điệu, cung bậc có quan hệ mật thiết
với dân ca người Việt và các làn điệu dân ca của các dân tộc sống cộng cư, cận
cư khác. Nhiều điệu hát trữ tình, đằm thắm như “thay mai”, “ainich lo”, “lekdiphik” (tình yêu đôi lứa), hay những
làn điệu như “dohdamdara” (hát đối
đáp), klaymrailopan (sợi chỉ đủ màu)
đều mang những âm hưởng trữ tình, đặc sắc. Người Chăm còn có các làn điệu Ariya, là hình thức hát trường ca theo
dạng kể chuyện, hát lối bằng thơ và có một kho tàng các làn điệu hát ru. Kho
tàng nhạc lễ, hát lễ được các tu sĩ Balamôn lưu truyền và hát ở các nghi lễ,
đây là nhạc lễ có nguồn gốc tôn gíáo Balamôn từ Ấn Độ xa xưa: “Trong kinh Vê Đa từ thế kỷ XX trước công
nguyên có "Samma Vêđa" là tập ca khúc dùng để hát xướng khi cúng bái,
tổng cộng 1549 bài, nội dung chủ yếu của Phuốc Vêda là nói rõ trong khi cúng tế
nên dùng các thi ca này và tiến hành cúng tế như thế nào"2.
1.2. Múa truyền thống Chăm
Múa truyền thống Chăm là một kho tàng các điệu múa dân gian rất đa dạng,
phong phú và có bản sắc riêng tồn tại và phát triển từ lâu đời. Ngoài những điệu
múa dân gian hiện còn lưu giữ trong cộng đồng đồng bào Chăm, các di sản văn hóa
vật thể rải rác khắp miền Trung cho chúng ta thấy nghệ thuật múa Chăm đã từng
phát triển rực rỡ trong lịch sử, thể hiện trên các phù điêu, tượng đá, là các
vũ nữ Trà Kiệu, vũ nữ Apsara và các vị thần được điêu khắc
trong dáng múa. NSND, biên đạo múa Đặng Hùng cho rằng: “...múa dân gian của dân
tộc Chăm trước ngày thống nhất đất nước chưa tách khỏi mối quan hệ sinh hoạt của
dân tộc, chưa phải là loại hình nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu”[7].
Múa sinh hoạt
Múa quạt: Múa quạt là điệu múa phổ thông mà bất cứ thiếu nữ hay
phụ nữ Chăm nào cũng biết múa. Các vũ nữ dùng những chiếc quạt vải có rua nhiều
màu sắc và khăn dài, tượng trưng cho những cánh chim như những điệu múa Pi dền – Pi điềng (chim công), Kamang (galôi), Marai (chim trĩ)… Múa Chăm luôn đi đôi với âm nhạc, tên các tiết
điệu trống đồng thời cũng là tên các điệu múa. NSND Đặng Hùng đã tổng kết: "Múa
và âm nhạc Chăm luôn đồng điệu với nhau giữa động tác và nhịp trống, điệu nhạc
Piđiềng thì có động tác múa Piđiềng, điệu trống Patra thì có điệu múa Patra,
điệu trống Tiong thì có múa Tiong"2.
Múa Đoa pụ: Đoa pụ có nghĩa là đội bình gốm, có thể múa đơn, cũng có thể
là múa tập thể. Các động tác tạo hình của đôi tay chủ yếu là tiếp thu từ các
kiểu múa quạt như Pi diên, Kmăng, Btra mà
ra.
Múa thiêng
Trong các lễ hội, các nghi lễ của người Chăm đều có múa, có hát, có nhạc.
Thậm chí có cả một hệ thống lễ múa Rija
(Rija Nưgar - lễ múa xứ sở, Rija Pruang - lễ múa lớn, Rija harei - lễ múa ban ngày, Rija dayaud - lễ múa ban đêm). Trong hệ
thống nghi lễ, vai trò của bà múa bóng là rất quan trọng. Những điệu múa trong
các nghi lễ do các vũ sư múa gồm ông bóng (On
Kaing) và bà bóng (Muk Pajau - bà
bóng khu vực tôn giáo; Muk Rija - bà
bóng dòng họ). Múa Rija được trình diễn
trong các lễ hội Rija. Lễ Rija Praung (còn gọi là múa vải chài) là
lễ múa nhiều nhất. Múa Rija trong lễ Rija Praung là hình thức tổng hợp giữa
nghệ thuật múa và nghệ thuật sân khấu (diễn tả lại cảnh gặp nhau giữa người
Chăm và người Java trên biển). Trong lễ hội Rija
Nưgar, On Kaing có các điệu múa gồm
múa kiếm, múa roi, múa chèo thuyền, múa đạp lửa.
Múa
Chăm hiện đại
Sau ngày giải phóng, phong trào văn
hóa nghệ thuật quần chúng vùng đồng bào Chăm phát triển mạnh. Viện Khoa học xã
hội tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các đoàn nghiên cứu về các lĩnh vực của
văn hóa, xã hội Chăm. Các biên đạo múa cũng tìm về nghiên cứu văn nghệ dân
gian, diễn xướng dân gian Chăm. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Canh và Tô Đông Hải công
bố công trình “Nghệ thuật diễn xướng dân gian Chăm” [8]. Để phát triển múa Chăm, các biên đạo múa đã kết hợp các
động tác múa dân gian Chăm với hình ảnh, đường cong của các vũ nữ trên các phù
điêu tượng đá Chăm để sáng tạo ra những tác phẩm múa hiện đại Chăm. Nghệ sĩ
nhân dân Đặng Hùng cho ra đời một loạt các tác phẩm múa Chăm gây tiếng vang lớn
ở các kỳ hội diễn Ca múa nhạc chuyên nghiệp những năm thập kỷ 80 – 90 như “Múa quạt”, “Được mùa”, “Niềm vui mới”,
“Đoa pụ” (đội nước), múa “Khát vọng”, “Ước mơ” [9].
Biên đạo Thọ Thái với tác phẩm “Gốm thắm
tình người”, kịch múa “Lửa tình yêu”,... Biên đạo Đàng Quang Dũng, Dương Tấn
Đức, Trung Kiên, Thu Vân tiếp tục sáng tác nên các tác phẩm múa Chăm cho Đoàn
Ca múa nhạc Ninh Thuận, Bình Thuận; Đoàn Nghệ thuật Dân gian Chăm, Đoàn Nghệ
thuật Quân khu V. Tuy nhiên, đây là những sáng tạo mới có dựa trên các mô típ
phù điêu, tượng đá của các vị thần Ấn Độ giáo và các động tác múa dân gian Chăm
nên nếu gọi đó là múa cung đình cũng cần cân nhắc.
Múa của người Chăm H’roi có đặc điểm
chung là động tác khỏe, vận động toàn cơ thể. Múa Chăm H’roi có ba loại: Múa hội
làng (Mo chư rung cô), múa đâm trâu (Krông pao), múa đám cưới (Nhung prui). Về thể loại múa xoang có samơk, xoang Pơ Sat, xoang Grong, xoang Khieel, xoang Tưnôi. Múa tôm tắc thường được dùng trong các lễ đâm
trâu xoáy cột, đám cưới. Ngoài ra còn có các điệu múa như múa đinh chinh, múa pakua đinh chinh, múa tahara,
múa trống đôi, cồng ba, chiêng năm.
Hoạt động nghệ thuật của người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ bị hạn
chế bởi tín ngưỡng Islam nên những hoạt động nghệ thuật như ca, múa, kịch,… chỉ
được cộng đồng Chăm Islam ủng hộ trong những ngày Raya kết thúc tháng Ramadan,
sinh nhật Mohamet, hoặc nhân dịp cưới hỏi,… cộng đồng.
Người Chăm có nền nghệ thuật múa dân gian đặc sắc. Trong nghệ thuật múa dân
gian Chăm, múa “thiêng” chiếm giữ một vị trí quan trọng. Thậm chí, có cả một hệ
thống lễ hội mang tên là lễ múa như: Rija
Nưgar – lễ múa xứ sở đầu năm; lễ Rija
Harei – lễ múa ban ngày; Lễ Rija
dayau – lễ múa ban đêm; Lễ Rija
Praung – lễ múa lớn. Hầu hết các lễ hội Chăm đều có sự tham gia của các vũ
sư như On Kaing (ông bóng), bà Muk pajow (bà bóng khu vực tôn giáo), bà
bóng Muk Rija (bà bóng của dòng họ –
bản thân tên gọi chức sắc cũng đã là “bà
múa”: Rija trong tiếng Chăm có
nghĩa là múa).
Những phong cách múa truyền
thống Chăm còn thể hiện trên các mảng điêu khắc như Vũ nữ Trà Kiệu, Apsara và các tượng thần Ấn Độ giáo như Siva, Uma, Brahma, Visnu… Các nhà biên
đạo đã từng bước nghiên cứu những động tác múa cơ bản của múa dân gian, múa lễ
Chăm và sử dụng vào các tác phẩm múa và gọi đó là múa cung đình. Tuy nhiên, để
hiểu và để có những tác phẩm múa đích thực phát triển từ tâm hồn Chăm, các nhà
biên đạo cần đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tín ngưỡng của những điệu múa thiêng
như các điệu múa phồn thực cầu mưa trong lễ Rija
Nưgar, múa lên đồng đạp lửa của ông bóng (On kaing), bà bóng (Muk rija
và Muk Pajau), múa chèo thuyền (Po Tang
hoh) trong các nghi lễ như Rija
Nưgar, Rija praung, Rija djau, Rija haray v.v...Tiếc rằng, cho đến nay,
chưa có một nhà biên đạo múa nào nghiên cứu sâu và phát triển các điệu múa
thiêng trong nghi lễ của người Chăm.
2. Quá trình bảo tồn, phát huy các giá trị nghệ thuật ca
múa nhạc dân gian Chăm
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Căn cứ vào
những quan điểm sự chỉ đạo của Trung ương, các địa phương vùng đồng bào Chăm
sinh sống đã phát triển rõ rệt trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Đối với việc
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, trong đó có nghệ thuật ca múa nhạc dân
gian, các địa phương đã tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng còn những vấn đề cần được bàn thảo, đầu tư nghiên cứu và đầu
tư các nguồn lực để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong nghệ thuật ca
múa nhạc dân gian Chăm tốt hơn.
2.1. Một số thành tựu
Với đường lối văn hóa, văn nghệ
đúng đắn của Đảng, những giá trị văn hoá dân gian Chăm đã được sưu tầm, bảo tồn
và phát huy. Các Đoàn nghệ thuật và Nhà hát ca múa nhạc chuyên nghiệp từ trung
ương đến các tỉnh miền trung như Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm Ninh Thuận[10],
Nhà hát Ca múa Nhạc Biển xanh (tỉnh Bình thuận)[11],
Đoàn Hải đăng (tỉnh Khánh Hòa), Nhà hát Ca múa nhạc Sao biển (Phú yên), Đoàn Ca
múa nhạc Chim Yến (Quảng Ngãi), Đoàn Nghệ thuật Quân khu V... đều có sử dụng
chất liệu ca múa nhạc dân gian Chăm. Sự hình thành Đoàn nghệ thuật dân gian
Chăm Ninh thuận, đội văn nghệ Chăm huyện Bắc Bình với những nghệ nhân, diễn
viên người Chăm là điều kiện tốt để khai thác bảo lưu kho tư liệu quí giá này,
làm nơi sưu tầm khai thác và cung cấp tư liệu ca múa dân gian cho nghệ thuật
chuyên nghiệp. Nhà biên đạo múa NSND Đặng Hùng, NSƯT Thọ Thái, NSƯT Thu Vân,
Đàng Quang Dũng, Dương Tấn Đức là những người có công đầu trong việc khai thác
chất liệu múa dân gian Chăm và chuyên nghiệp hóa ngôn ngữ múa dân gian. Nhiều
nhạc sĩ đã thành công trong việc sử dụng các cung bậc, âm hưởng của âm nhạc dân
gian Chăm để làm chất liệu sáng tác như nhạc sĩ Amư Nhân, Hoài Sơn, Phan Quốc
Anh v.v… và gặt hái những thành công nhất định.
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
đã phối hợp với các địa phương có đồng bào Chăm sinh sống đã tổ chức định kỳ
Ngày hội Văn hóa Chăm toàn quốc 3 năm một lần. Đây là dịp để các địa phương có
người Chăm sinh sống báo cáo những việc đã làm được trong những năm qua về việc
sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Chăm, là dịp để các vị chức
sắc, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ dân gian Chăm có dịp gặp nhau trao đổi,
thảo luận và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống Chăm.
2.2. Một số vấn đề cần quan tâm
2.3.1. Vấn đề “sáng tạo, cải biên”trong xây dựng tác phẩm ca múa nhạc dân
gian Chăm ở các Đoàn Nghệ thuật.
Những năm gần đây có một xu
hướng rất cần được bàn thảo, đó là hiện tượng các nhà biên đạo múa sáng tạo nên
những tác phẩm múa bằng cách biến tấu các phù điêu, tượng đá, hóa thân thành
những vũ nữ bằng xương bằng thịt bước ra khỏi đền đài tháp cổ như các điệu múa
“Shiva” , “Apsara, vũ nữ Chăm”. Những điệu múa này có nhiều động tác, hình
tượng mô phỏng các tư thế dáng dấp của các vị thần Ấn Độ giáo nhưng lại chưa
nghiên cứu sâu về tín ngưỡng tôn giáo. Thậm chí, trang phục và các động tác của
các vũ nữ (tượng Shiva cách điệu và bước ra sân khấu) không đảm bảo được tín
ngưỡng thờ cúng thần linh của người Chăm và đã từng bị các nhà nghiên cứu văn
hóa người Chăm lên tiếng phản đối. Một số Đoàn nghệ thuật từ Trung ương đến địa
phương, từ chuyên nghiệp đến không chuyên, dàn dựng nhiều tác phẩm múa Chăm,
nhưng những động tác múa (thậm chí cả trang phục, âm nhạc) không dựa trên ngôn
ngữ cơ bản của múa và âm nhạc dân gian Chăm mà do các biên đạo, nhạc sĩ “nghĩ
ra - bịa ra” mới hoàn toàn. Điều nghịch lý là đa số những tác phẩm “múa Chăm”
này lại thường đoạt những giải cao, vì đó là múa “mang màu sắc dân gian, dân
tộc”, và vì các giám khảo cũng không am tường thấu đáo về nghệ thuật ca múa
nhạc dân gian Chăm, nên cứ thấy có màu sắc dân gian, dân tộc là cho điểm cao.
Vì vậy, theo chúng tôi, cần có những công trình khoa học chuyên ngành nghiên
cứu sâu và phổ biến rộng rãi các lĩnh vực của nghệ thuật dân gian Chăm (và của
cả các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam) về âm nhạc, múa. Trong đó cần chú
trọng đến yếu tố “thiêng” trong tín ngưỡng tôn giáo của từng dân tộc. Có như
vậy, chúng ta mới bảo tồn và phát huy đúng hướng di sản văn hóa nghệ thuật dân
gian các dân tộc.
2.3.2. Việc bảo tồn tư liệu và nghệ nhân dân gian trong lĩnh vực nghệ thuật
Các địa phương vùng đồng bào
Chăm sinh sống đã có nhiều cố gắng để thực hiện, đã thành lập các thiết chế văn
hóa như Đoàn Nghệ thuật dân gian Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, Trung tâm Nghiên
cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận và có thể thấy hiệu quả rất rõ trong quá trình hoạt
động của các thiết chế văn hóa này. Đáp ứng yêu cầu nghiên cứu bảo tồn, phát
huy văn hóa, nghệ thuật dân gian các dân tộc. Đồng thời cần có kế hoạch ứng
dụng những tư liệu này vào việc xây dựng các chương trình ca múa nhạc vừa hiện
đại, vừa mang đậm tính dân tộc.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề nổi
ở các thiết chế văn hóa cấp tỉnh. Ở các làng Chăm hiện nay, có một thực tế là
những tư liệu văn hóa dân gian Chăm, trong đó có ca múa nhạc dân gian đang thất
truyền hàng ngày hàng giờ. Làn sóng công nghệ thông tin thổi những luồng gió
nghệ thuật hiện đại.
Những nghệ nhân tài giỏi, chứa
đựng nhiều kho tàng tri thức dân gian, những nghệ nhân hát dân ca, chế tác và
sử dụng điêu luyện nhạc cụ truyền thống đã và đang ra đi và vĩnh viễn. Nguy cơ
mai một những tư liệu ca múa nhạc dân gian Chăm là rất lớn. Những chính sách
hiện nay về bảo tồn tư liệu gốc, và ưu đãi các nghệ nhân trong việc trao truyền
các “bí truyền” trong nghệ thuật dân gian đã có nhưng còn rất khiêm tốn.
3. Một số đề xuất, khuyến nghị
3.1. Tăng cường các đề tài
nghiên cứu sâu về ngôn ngữ cơ bản của các loại hình âm nhạc và múa của các dân
tộc, trong đó dân tộc Chăm. Những tư liệu nghiên cứu được bổ sung vào giáo
trình của các trường văn hoá nghệ thuật. Ví dụ, giáo trình của nhạc viện cần có
những ngôn ngữ cơ bản của âm nhạc dân gian Chăm, các làn điệu dân ca, các điệu
trống v.v…trường múa cần bổ sung những động tác cơ bản của múa dân gian Chăm.
3.2. Các nhạc sĩ, biên đạo cần
có những đợt điền dã, đi sâu vào các vùng đồng bào Chăm để nghiên cứu cơ bản về
nghệ thuật âm nhạc và múa dân gian Chăm, từ đó sẽ chọn lọc và sử dụng những
cung bậc, động tác cơ bản của gốc rễ đích thực dân gian Chăm vào việc sáng tác
những tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật (mang tính hàn lâm, bác học), mang
hơi thở của thời đại.
3.3. Tăng cường đầu tư cho lĩnh
vực Nghệ thuật dân gian Chăm ở các tỉnh Nam Trung Bộ, đẩy mạnh phong trào văn
nghệ quần chúng trong các palei Chăm, tạo không khí vui tươi, phấn khởi để góp
phần vào xây dựng đời sống tinh thần của bà con Chăm trong công cuộc xây dựng
nông thôn mới. Phong trào này sẽ là cái nôi bảo tồn các giá trị văn hoá truyền
thống Chăm.
3.4. Tăng cường đầu tư xây
dựng, củng cố Trung tâm nghiên cứu văn hoá Chăm Ninh Thuận để Trung tâm thực sự
trở thành nơi nghiên cứu, cung cấp tư liệu văn hoá dân gian Chăm về mọi mặt.
Kết luận:
Văn hoá được coi như cái van để
điều chỉnh sự phát triển cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Xã hội muốn phát triển, trước hết phải ổn định. Muốn ổn định, phải xây dựng
được đời sống/nền tảng vật chất và tinh thần xã hội ổn định. Nghệ thuật ca
múa nhạc dân gian Chăm đang giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời
sống tinh thần trong cộng đồng người Chăm. Vì vậy, cần tăng cường hơn nữa vào
việc đầu tư nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật dân
gian Chăm, góp phần vào việc củng cố nền tảng tinh thần xã hội của các dân tộc
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Quốc Anh, (2019), Giáo trình văn hóa Chăm, Nxb Đại học Quốc Gia, Trường Đại học Văn
hóa TP HCM.
2. Phan Quốc Anh (2010), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội, Tr.119.
3. Lê Ngọc Canh (1999), Văn hóa dân gian, những thành tố, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.52.
4. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải
(1995), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
5.
Ban Bí thư
Trung ương Đảng CSVN (1991) Thông tri số
03-TT/TW ngày 17 tháng 10 năm 1991 về Công
tác đối với vùng đồng bào Chăm.
6.
Ban Chấp hành Trung ương (1998)
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”,
ngày 16/7/1998.
7.
Ban Chấp hành Trung ương (1998) Nghị quyết số
33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” .
8.
Đặng Hùng (1998) Bước đầu tìm hiểu, phục hồi múa cung đình
Chăm. Trung tâm văn hóa dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
9. NSND Đặng
Hùng (2010) Nghệ thuật múa Việt Nam trong
tôi, Nxb Văn nghệ Tp HCM, tr.30
10.
Bùi Đức
Hùng, Phan Quốc Anh, Võ Công Nguyện, Phú Văn Hẳn (đồng chủ biên);(2015), 40 năm nghiên cứu văn hóa Chăm, Nxb Văn
hóa dân tộc.
11.
Hội đồng Bộ trưởng (1981), Chỉ
thị số 121 – CT/TW ngày 26/01/1981 về Công
tác đối với vùng đồng bào Chăm.
12.
Sở VHTTDL tỉnh Ninh Thuận (2021)
Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam đến năm 2020”.
13.
Tổng cục Thống kê (2020): Kết quả toàn bộ tổng điểu tra dân số và nhà ở
năm 2019, Nxb Thống kê.
14.
Thủ tướng
Chính phủ (2004), Chỉ thị số 06/2004/CT-TTg ngày 18 tháng 2 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội bảo đảm an ninh-trật tự đối với vùng đồng bào Chăm trong tình
hình mới”.
15.
Hoàng Tâm
Xuyên ( chủ biên). Mười tôn giáo lớn trên
thế giới. Nxb CTQG, tr 158.
[1]
Bùi Đức Hùng, Phan Quốc Anh, Võ Công Nguyện, Phú Văn Hẳn (đồng chủ
biên)-(2015), 40 năm nghiên cứu văn hóa
Chăm, Nxb Văn hóa dân tộc.
[2]
Tổng cục Thống kê (2020): Kết quả toàn bộ
tổng điểu tra dân số và nhà ở năm 2019, Nxb Thống kê.
[3]
Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận là một Trung tâm nghiên cứu
về văn hóa một dân tộc cấp tỉnh duy nhất trong cả nước.
[4]
Phan Quốc Anh, (2019), Giáo trình văn hóa Chăm, Nxb Đại học Quốc Gia, Trường
Đại học Văn hóa TP HCM.
[5]
Phan Quốc Anh (2010), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội, Tr.119.
[6]
Tham khảo thêm Lê Ngọc Canh (1999), Văn hóa dân gian, những thành tố, Nxb Văn
hóa Thông tin, tr.52
1 Trống có dáng hình trụ dài làm bằng một khúc gỗ
nguyên khóet rỗng, mặt trống làm bằng da bò hoặc da trâu.
2 Hoàng Tâm Xuyên ( chủ biên). Mười tôn giáo lớn
trên thế giới. Nxb CTQG, tr 158.
[7]
NSND Đặng Hùng (2010) Nghệ thuật múa Việt Nam trong tôi, Nxb Văn nghệ Tp HCM,
tr.25.
2 Đặng Hùng. Bước đầu tìm hiểu, phục hồi múa cung đình Chăm. Trung tâm văn
hóa dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1998, tr 106
[8] Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải (1995), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
[9]
NSND Đặng Hùng (2010) Nghệ thuật múa Việt Nam trong tôi, Nxb Văn nghệ Tp HCM,
tr.30
[10]
Đoàn Nghệ thuật dân gian Chăm tỉnh Ninh Thuận nay đã sáp nhập với Đoàn Ca múa
nhạc tỉnh Ninh Thuận, lấy tên là Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh Ninh Thuận.
[11]
Nhà hát Ca múa nhạc Biển xanh tỉnh Bình Thuận có 2 Đoàn. Đòan ca múa nhạc và
Đoàn nghệ thuật dân gian Chăm.