TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP.HCM
KHOA
ĐÀO TẠO, QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
TIỂU
LUẬN
MÔN:
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
Đề
tài:
QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ HIỆN NAY
Giảng viên: PGS.TS. Phan
Quốc Anh
Học viên: Nguyễn Quang
Thể
Lớp: Cao học Quản lý văn
hóa - Khóa 9
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2020
Môn học: Quản lý hoạt động Quảng cáo
Giảng viên: PGS.TS Phan Quốc Anh
Học viên: Nguyễn Quang Thể
Lớp: Cao học Quản lý văn hóa - Khóa 9
Đề tài: Các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động báo chí hiện nay
MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng, báo
chí có vai trò hết sức quan trọng, báo chí được coi là “Quyền lực thứ tư”, có nhiệu vai trò khác nhau, tuy nhiên xét nhiều
góc độ nó có 5 vai trò chính như sau:
- Bản thân học viên đang công tác tại Trung tâm
Văn hoá, Thông tin và Thể thao huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng, là đơn vị có chức
năng:
+ Sản xuất và phát
sóng các chương trình truyền thanh bằng tiếng việt và bằng các tiếng dân tộc
thiểu số trên hệ thống loa truyền thanh, thiết bị phát sóng phát thanh được
trang bị nhằm tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tập trung vào sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền địa phương, các hoạt
động cơ sở, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội,
công tác an ninh trật tự, gương người tốt, việc tốt, gương điển hình tiên tiến
tới nhân dân theo đúng quy định của pháp luật;
+
Tiếp sóng và phát sóng các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng phục vụ nhu cầu tiếp nhận thông tin của
nhân dân theo quy định của pháp luật;
+
Trực tiếp quản lý hệ thống kỹ thuật chuyên ngành để thực hiện việc tiếp sóng,
phát sóng các chương trình phát thanh theo quy định của pháp luật. Phối hợp với
Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Lâm Đồng sản xuất các chương trình phát
thanh, truyền hình phát sóng trên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh;
+
Quản lý, vận hành các đài phát lại truyền hình, đài phát sóng phát thanh trên
địa bàn huyện theo sự phân công. Hướng dẫn về mặt chuyên môn, kỹ thuật đối với
các Đài Truyền thanh xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
- Báo chí làm đẹp, làm giàu cho vốn văn hóa của dân tộc:
Đây chính là vai trò vô cùng quan trọng của báo chí trong lĩnh vực văn hóa. Vì
báo chí thể hiện được mọi khía cảnh văn hóa – xã hội của đất nước, nhất là ngôn
ngữ, báo chí lại cũng là nơi gìn giữ và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật ngữ mới
không phải chỉ mình trong cách viết, cách thể hiện và còn được thể hiện rõ và
đậm nét trong ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Mặt khác báo chí cũng thể hiện rõ
quan điểm bảo vệ và phát huy các bản sắc, truyền thống lâu đời vốn có từ ông
cha ta để lại để tuyên truyền người dân phát huy chọn lọc các nền văn hóa tiến
bộ trên khắp thế giới. Chính vì vậy, trong lĩnh vực văn hóa thì báo chí có tầm quan
trọng và ảnh hưởng vô cùng lớn.
- Báo chí hướng
tới sự nhân văn: Nhờ vai trò này của báo chí mà người dân không chỉ biết đến
làm mà còn biết đến cả sự hưởng thụ. Qua đó nhân dân được tiếp cận, chiêm
ngưỡng đến nhiều tác phẩm nghệ thuật, khoa học, âm nhạc…Để từ đó nâng tầm nhận
thức, hiểu biết hơn nữa về cuộc sống của những con người khác trên thế giới.
Trước đây người dân chưa được tiếp cận nhiều thông tin khác ngoài nơi mình
sống, bởi vậy nhờ có báo chí thì người dân được mở mang đầu óc, cũng như có thể
thông qua báo chí để biết được rằng đất nước mình đang phát triển như nào.
Mặt khác báo chí đăng tải nhiều
tác phẩm văn học nghệ thuật để dạy cho người dân hướng đến cái đẹp, đạo đức,
sống văn mình lành mạnh. Hay như với lĩnh vực âm nhạc thì giúp người dân được
thư thả, thoải mái hơn. Đối với khoa học thì cũng giúp cho người dân đọc báo,
xem báo có thể thấy rõ hiện tại công nghệ đang phát triển tới đâu. Đây cũng
chính là vai trò vô cùng quan trọng của nghề làm báo chí.
- Báo chí giúp con người tiếp cận các tri thức văn hóa trên thế giới: Tầm quan trọng của báo chí truyền thông không phải chỉ
hướng đến ở những đổi mới trong nước, mà ở đây báo chí còn giúp cho người dân
biết được những thông tin khác trên toàn thế giới. Thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng thì người dân không những được tiếp cận các phương diện của
đời sống xã hội mà ngoài ra còn có thể biết được tri thức dân tộc trên thế
giới. Từ đó thì có thể tiếp cận thông tin, các mô hình thiết thực từ nước ngoài
để tự học tập và làm theo để góp phần phát triển cho quê hương đất nước.
Một xã hội muốn phát triển thì
nhất định phải có sự hiểu biết, trình độ tri thức của người dân phải luôn luôn
được nâng cao và đặt mục tiêu hàng đầu. Và chính báo chí sẽ làm tốt vai trò đó.
Người dân có thể chỉ cần đọc báo, hay là bật Tivi lên thì có thể thấy rõ ràng
và nắm bắt được thông tin của những đất nước khác trên thế giới. Từ đó có tầm
nhìn rộng hơn, cũng tiếp thu được những văn hóa lành mạnh và tiên tiến hơn.
- Báo chí góp phần nâng cao văn hóa: Một điều không
thể phụ nhận được đó là vai trò của báo chí rất
lớn trong việc nâng cao văn hóa, giải trí, làm cho con người ngày càng hiểu và
xích lại gần nhau hơn. Con người ở đây không phải là giữa những người trong một
đất nước, mà còn là giữa các đất nước khác nhau. Để từ đó đôi bên cùng tìm
hiểu, học tập, chia sẻ những tâm sư, tình cảm đồng thời cũng làm phong phú,
tiếp thu những nền văn hóa đa dạng của các dân tộc khác để làm giàu có đất nước
mình. Hiện nay báo chí ngày càng đổi mới và tiến bộ rõ rệt trong sự hội nhập ra
thế giới. Từ đó thì báo chí nước nhà có thể quảng bá, giới thiệu về đất nước,
văn hóa con người của đất nước Việt Nam đến các bạn bè năm châu. Để từ đó các
nước trên thế giới hiểu rõ về đất nước Việt Nam hơn. Bởi vậy nên báo chí có vai
trò rất quan trọng trong việc nâng cao văn hóa giữa con người với con người.
- Báo chí lên án chống lại tham nhũng, tiêu cực trong xã hội:
Đây chính là vai trò quan trọng mà chỉ có báo chí mới có thể làm được. Chúng ta
có thể thấy được rằng thực tế thì nạn tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhiều. Mà
chỉ có báo chí mới có thể đưa tin và chống lại những hành vi tham nhũng đó. Hãy
thử tưởng tượng xem nếu như hằng ngày không có thông tin về tham nhũng báo chí
khui ra thì sao người dân biết được bộ máy nhà nước đang hoạt động như nào. Bởi
vậy nên nhờ tính công khai, tính trung thực khi đưa tin báo chí nên sẽ giúp cho người dân có
cái nhìn tổng quát hơn. Đặc biệt thông qua báo chí, người dân cũng có thể tố
cáo, trình bày quan điểm về các vấn nạn tham nhũng hiện nay. Cũng như giúp
người dân ý thức nạn tham nhũng và từ đó có nếp sống lành mạnh hơn.
Mặt
khác trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới có
những biến động phức tạp, mau lẹ; khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin có những bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra những thời cơ, đồng thời
cũng tạo ra những thách thức lớn đối với báo chí. Cách thức thu nhận, trao đổi
thông tin nhiều chiều và tức thì mang tính toàn cầu qua mạng interrnet đã tạo
ra những ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến hoạt động báo chí và quản lý nhà
nước về báo chí. Những năm gần đây, các thế lực thù địch thúc đẩy diễn biến hòa
bình, trong đó lợi dụng những tác động, ảnh hưởng của báo chí là một chiêu bài
được đẩy mạnh. Ngày nay, báo chí trở thành mục tiêu quan trọng trong tiến trình
tác động đến sự thay đổi của các hệ tư tưởng, các xu hướng chính trị. Thông tin
trên báo chí ngày càng thể hiện tính định hướng dư luận. Do vậy, việc quản lý
nhà nước về báo chí ngày càng phải đáp ứng yêu cầu cao hơn, khó khăn, phức tạp
hơn.
Trong khi đó, công tác quản lý nhà nước chưa
thực sự theo kịp. Những sai phạm trong hoạt động báo chí thời gian gần đây cho
thấy những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước về báo chí. Đó là những hạn
chế từ cơ chế, chính sách chưa linh hoạt, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp
ứng được yêu cầu, nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp,… đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hơn nữa. Công cuộc đổi mới và hội nhập của đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đưa nước ta chuyển đổi
từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của của Nhà nước.
Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế
này, vai trò của Nhà nước dần thay đổi, quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề
với hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, trong đó có quản lý nhà nước về báo
chí. Những tác động đa chiều của quá trình hội nhập đòi hỏi hoạt động quản lý
nhà nước về báo chí phải được nghiên cứu. Trong điều kiện hội nhập; trong
bối cảnh công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện phát triển vượt
bậc, nghiên cứu để đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về báo chí phù hợp,
hiệu quả hơn nhằm tiếp tục tạo điều kiện cho báo chí phát triển đúng hướng là
cần thiết.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về hoạt động báo chí hiện nay”.
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Một số khái niệm
Theo Luật Báo chí số 103/2016/QH13 ngày 5/4/2016:
- “Báo
chí”: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời
sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản
định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại
hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
- “Hoạt
động báo chí”: Là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí,
sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản hồi thông
tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo
in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình.
- “Báo in”: Là
loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện
in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.
- “Báo
nói” Là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được
truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác
nhau.
- “Báo
hình”: Là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng
nói, âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật
ứng dụng công nghệ khác nhau.
- “Báo
điện tử”: Là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh,
được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử.
- “Tác
phẩm báo chí”: Là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo chí, có
nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, gồm tin, bài được thể hiện bằng chữ
viết, âm thanh hoặc hình ảnh.
- “Sản
phẩm báo chí”: Là ấn phẩm, phụ trương của báo in; nội dung hoàn chỉnh
của báo điện tử; bản tin thông tấn; kênh phát thanh, kênh truyền hình; chuyên
trang của báo điện tử.
2. Mục đích và ý
nghĩa của công trình nghiên cứu
Bản thân làm tiểu luận này nhằm:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học về báo chí và quản
lý nhà nước về báo chí ở nước ta trong thời gian qua.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về báo chí ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ đạo để hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí ở nước ta trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về báo chí ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (từ sau năm 1986).
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
I. Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam
1. Nguyên tắc Quản lý nhà nước về báo chí ở nước
ta
Theo tinh thần Hiến
pháp nước Cộng hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 việc quản lý nhà nước về
báo chí phải theo nguyên tắc:
- Bảo đảm yêu cầu, nguyên tắc Đảng lãnh đạo; Nhà
nước quản lý báo chí.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải tạo điều kiện
thuận lợi cho báo chí làm tốt nhiệm vụ chính trị.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bảo đảm quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải theo pháp
luật, bảo đảm báo chí hoạt động đúng pháp luật.
- Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí phải
thúc đẩy báo chí phát triển, hội nhập với báo chí thế giới.
2. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí
Theo quy định tại Điều 6 Luật Báo chí 2016 thì
nội dung quản lý nhà nước về báo chí bao gồm:
- Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí.
- Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông
tin của báo chí.
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính
trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan
báo chí và cán bộ quản lý báo chí.
- Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực báo chí.
- Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt
động báo chí và thẻ nhà báo.
- Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý
hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động
của báo chí nước ngoài tại Việt Nam.
- Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý hệ thống
lưu chiểu báo chí quốc gia.
- Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo,
thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
về báo chí.
II. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí
1. Quá trình phát triển và công tác quản lý nhà
nước về báo chí ở nước ta từ năm 1986 đến nay
a)
Kết quả đạt được
Sau khi nước ta tiến hành mở cữa, xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1986), cùng với các lĩnh vực khác báo
chí có bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Năm 1986, cả nước có 200 tờ báo và
tạp chí, đến năm 1992, cả nước có 350 cơ quan báo chí (136 báo, 214 tạp chí);
năm 1997, có 153 cơ quan báo, 337 tạp chí (từ năm 1997, với sự ra đời của Tạp
chí Quê hương điện tử, báo chí Việt Nam đã có đủ 4 loại hình báo chí là báo in,
phát thanh, truyền hình, báo điện tử); năm 2001, có 154 báo, 334 tạp chí.
Tính đến tháng 12/2014, số lượng báo in ở Trung ương là 579 (84 báo; 495 tạp
chí); các cơ quan báo chí in ở địa phương là 240 (97 báo, 143 tạp chí). Cả nước
có 01 đài phát thanh trung ương là Đài Tiếng nói Việt Nam và 63 đài phát thanh
ở địa phương; 01 đài truyền hình trung ương là Đài Truyền hình Việt Nam, 64 đài
truyền hình ở địa phương và 3 trung tâm truyền hình thuộc các bộ, ngành. Đến
hết tháng 12/2013, cả nước có 90 báo, tạp chí điện tử. Đến hết năm 2018, cả
nước hiện có 844 cơ quan báo chí in với 184 báo in, 660 tạp chí in, 24 cơ quan
báo chí điện tử độc lập, 189 giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng
hợp được cấp cho các cơ quan báo chí in, phát thanh, truyền hình. Có 67 đài
phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương; 5 đơn vị hoạt động truyền
hình...
Để thực hiện quản lý nhà nước về báo chí ngày 28 tháng 12 năm
1989 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành luật số
29-LCT/HĐNN8 về báo chí; năm 1999 ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật
báo chí; năm 2016 Quốc hội ban hành luật Báo chí mới; các văn
bản trên là văn bản pháp luật cao nhất về quản lý nhà nước về báo chí.
Ngày 09/02/2017, Thủ tướng Chính phủ
ký ban hành Nghị định số 09/2017/NĐ-CP quy định chi tiết việc phát ngôn và cung
cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước. Sau khi Thủ tướng
Chính phủ ban hành nghị định các bộ, ngành Trung ương, chính quyền các cấp đã kịp
thời ban hành quy chế phát ngôn của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Tổ chức và hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương và địa phương: Trong 30 năm qua có sự tách, nhập. Bộ Thông tin và Truyền thông:
được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí. Các cục
chuyên ngành như: Cục Báo chí, Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện
tử, Cục Thông tin đối ngoại dần được hình thành đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động quản lý ngày càng chuyên nghiệp hóa, hiệu quả ngày càng cao hơn. Các
bộ, cơ quan ngang bộ: cũng đã được quy định trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông
tin và Truyền thông để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí ở địa phương: Trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí ở địa
phương được giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh, mà cơ quan chuyên môn tham mưu là Sở
Thông tin và Truyền thông. Các Sở Thông tin và Truyền thông cũng thiếu ổn định
từ tổ chức bộ máy đến đội ngũ cán bộ do việc tách nhập; việc chủ động thông tin
bằng hình thức giao ban báo chí hằng tuần ở nhiều nơi không được duy trì thường
xuyên; việc xử lý vi phạm nhiều nơi chưa thực sự nghiêm minh, chưa đủ tính răn
đe...
Công tác chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và phát triển sự nghiệp báo chí được quan tâm, ngày 3/4/2019,
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 362/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.
Hàng tuần Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông
tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao tổ chức giao ban báo chí nhằm định hướng
thông tin, cung cấp thông tin, đồng thời nhắc nhở các cơ quan báo chí khi có vi
phạm, thông báo những sai phạm và hình thức xử lý đối với các cơ quan báo chí.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo
chí từ năm 2007 (Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007). Tuy nhiên, theo
đánh giá chung: việc cung cấp thông tin, định hướng thông tin của cơ quan quản
lý có lúc còn hạn chế.
Trình độ, năng lực của người làm báo và người
quản lý báo chí ngày càng được nâng cao, Đa số cán bộ quản lý hiện nay đều nhận
thức rõ những yêu cầu của thời kỳ mới, cộng với chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ của Đảng, Nhà nước nên trình độ, năng lực quản lý, ý thức trách nhiệm
đều được nâng lên, tính chuyên nghiệp ngày càng thể hiện rõ hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ
luật trong thời gian qua được thực hiện một cách bài bảncũng đã góp phần giữ kỷ
luật, kỷ cương trong hoạt động báo chí, giúp cho việc quản lý báo chí bằng pháp
luật ngày càng hiệu quả. Bên cạnh việc kiểm tra, xử lý các vi phạm, Ban, Bộ
cũng biểu dương kịp thời các cơ quan báo chí đã thực hiện tốt việc tuyên truyền
về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
b)
Hạn chế tồn tại
- Việc quản lý các ấn phẩm phụ, hoạt động liên
kết và các hoạt động khác của các cơ quan báo chí còn bị buông lỏng: hàng loạt
tờ báo đã liên danh, liên kết với các công ty để xuất bản các ấn phẩm chuyên
đề, bán khoán các ấn phẩm phụ, tổ chức các cuộc thi, trao giải, trao cup dưới
hình thức phối hợp tổ chức nhưng thực chất là bán danh nghĩa để các công ty tổ
chức sự kiện kêu gọi tài trợ nhằm thu lợi nhuận kinh tế; nhiều cơ quan báo chí
cố tình để diện tích, số lượng quảng cáo vượt quá quy định cho phép; dễ dãi
trong kiểm duyệt nội dung, cá biệt có đối tác còn gây áp lực ngược lại với cơ
quan báo chí khi bình chọn trong các cuộc thi, các chương trình làm mất lòng
tin của khán giả, độc giả, mất uy tín của cơ quan báo chí, gây khó khăn cho
hoat động quản lý của nhà nước.
- Việc cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí,
thẻ nhà báo, văn phòng đại diện, cơ quan thường trú ở các tỉnh chưa hiệu quả:
do phụ thuộc vào chủ quan của cơ quan quản lý nên chỉ cần có mối quan hệ riêng
là có thể được phép ra báo, tạp chí. Việc lập văn phòng đại diện, cơ quan thường
trú ở các tỉnh mới chỉ được quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong
Luật. Chính vì vậy, không ít cơ quan báo chí sử dụng cả những người không được
đào tạo về chuyên môn báo chí, không có thẻ nhà báo để làm việc.
- Các quy định về kiểm tra báo chí lưu chiểu;
quản lý kho lưu chiểu báo chí chưa phù hợp thực tiễn, nhất là đối với báo chí
điện tử, phát thanh, truyền hình.
- Việc quản lý hoạt động báo chí liên quan đến
nước ngoài và hợp tác quốc tế về báo chí cần được đưa vào Luật Báo chí: về hành
lang pháp lý đã cơ bản có, tuy nhiên thì những quy định này cần được đưa vào
Luật Báo chí như một phần không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước về
báo chí ở Việt Nam.
- Trong thời kỳ đổi mới, báo chí ở nước ta phát
triển một cách mạnh mẽ, đa dạng, phong phú cả về hình thức lẫn nội dung thông
tin. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có không ít cán bộ báo chí, nhà báo lạm dụng
làm những việc trái với pháp luật… Một số cán bộ báo chí chạy theo xu hướng
thương mại hoá, vì mục tiêu lợi nhuận đơn thuần mà xao nhãng chức năng và các
nguyên tắc hoạt động của báo chí. Tuy nhiên, khi được Đảng và Nhà nước quan
tâm, định hướng thông qua việc ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, sửa đổi Luật
thì nhiều cán bộ báo chí và nhà báo cũng xác định rõ hơn các nhiệm vụ và quyền
hạn để hoạt động theo hiến pháp, pháp luật, xác định rõ hơn trách nhiệm và
nghĩa vụ của cán bộ báo chí và nhà báo đối với xã hội.
- Về nội dung cơ bản bao quát được các nội dung
quản lý nhà nước về báo chí tuy vẫn chưa thực sự toàn diện, chưa đồng bộ còn
thiếu thống nhất và chưa phù hợp với thực tiễn, tính hiệu lực của hệ thống pháp
luật chưa cao.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ: cũng đã được quy
định trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông để thực hiện thống
nhất quản lý nhà nước về báo chí. Tuy nhiên, sự phối kết hợp chưa thực sự khăng
khít, hiệu quả chưa cao. Trong từng bộ, cơ quan ngang bộ chưa có bộ phận chuyên
trách, cán bộ chuyên trách việc quản lý khối báo chí, thường chỉ được tổ chức
như một phần nhỏ trong vụ thi đua hoặc văn phòng.
2. Nguyên nhân hạn chế và những bài học kinh
nghiệm
a) Nguyên nhân những hạn chế
Nguyên nhân được xác định là: sự tác động của
bối cảnh trong nước và quốc tế với những diễn biến phức tạp, nhanh chóng. Bên
cạnh đó là những lúng túng, bất cập trong phương thức, năng lực lãnh đạo, quản
lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí; năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước về báo chí chưa cao; công tác nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn quản lý nhà nước về báo chí, công tác quy hoạch báo chí
còn chậm.
b) Bài học kinh nghiệm
- Trong bất kỳ điều kiện nào, quản lý nhà nước
về báo chí cũng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật, phải xây dựng
một hành lang pháp lý đủ mạnh để tạo cơ sở quan trọng cho hoạt động quản lý đạt
hiệu quả cao.
- Thường xuyên đổi mới hoạt động quản lý cho phù
hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn.
- Luôn coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cả về
năng lực quản lý và phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho những người làm
công tác quản lý báo chí.
- Bảo đảm nguồn lực tài chính.
- Tích cực mở rộng quan hệ với các nước để học
hỏi, tiếp thu các kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Thường xuyên, thanh tra, kiểm tra hoạt động
báo chí. Nghiêm túc xử lý khi có vi phạm; đồng thời biểu dương khen thưởng kịp
thời.
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà
nước về báo chí
Báo chí nước ta là báo chí cách mạng, được hình
thành và phát triển trên nền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam; vừa là tiếng
nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, vừa là diễn
đàn của nhân dân. Dự báo chung báo chí sẽ phát triển theo hướng truyền thông đa
phương tiện (multi media) và truyền thông đa kênh (multi platform).
- Về báo chí in: sẽ tiếp tục khó khăn, nhưng sẽ
không mất đi chỗ đứng quan trọng, công nghệ thông tin sẽ góp phần củng cố vai
trò của báo in.
- Về phát thanh, truyền hình: công nghệ kỹ thuật
phát triển và sẽ được ứng dụng mạnh mẽ hơn nữa trong phát thanh, truyền hình.
- Về báo chí điện tử: sẽ phát triển mạnh. Sự
phát triển của internet và các ứng dụng công nghệ sẽ tăng thời lượng trung bình
của người truy cập báo chí điện tử. Dự báo báo điện tử sẽ bắt kịp và vượt thời
lượng dành cho truyền hình.
Báo chí phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động
quản lý, trong đó có quản lý nhà nước về báo chí theo hướng chặt chẽ, liên tục,
toàn diện và đồng bộ hóa các công cụ quản lý nhà nước, phù hợp với từng giai
đoạn phát triển, với thông lệ quốc tế mà chúng ta ký kết và tham gia; Đáp ứng
yêu cầu phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân; Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013.
II. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
báo chí
1. Hoàn thiện và phát huy hiệu lực hệ thống luật
và văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí
a) Trước mắt tập trung vào sửa đổi, bổ sung Luật
Báo chí theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Cụ thể:
- Về cơ quan chủ quản, đối tượng được thành lập
cơ quan báo chí và các điều kiện thành lập cơ quan báo chí: cần được mở rộng
hơn. Tuy nhiên, các điều kiện, tiêu chí để được cấp phép xuất bản lại cần có
những quy định cụ thể hơn liên quan đến kỹ thuật, công nghệ, giải pháp bảo đảm
an ninh thông tin.
- Về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí: Luật
Báo chí là văn bản luật cơ bản, nền tảng của hệ thống pháp luật về báo chí phải
cụ thể hóa các quyền này để áp dụng trong thực tiễn, làm cơ sở các văn bản dưới
luật khác.
- Về cung cấp thông tin cho báo chí và quy định
thông tin trên báo chí phải trung thực, khách quan: Các quy định cụ thể về cung
cấp thông tin cho báo chí cần đưa vào luật chứ không phải Quy chế phát ngôn,
đồng thời mở rộng đối tượng phải cung cấp thông tin cho báo chí ra cả các tổ
chức, đối tượng khác; quy định như một quyền của nhà báo, như một phần trách
nhiệm của các bộ, ban, ngành và nếu không thực hiện phải có chế tài xử lý đối
với từng cá nhân cụ thể. Việc thông tin trên báo chí cũng phải bảo đảm trung
thực, khách quan. Đây là điểm quan trọng cần quy định rõ hơn trong luật, nên bổ
sung các chế tài khác ngoài yêu cầu cơ quan báo chí phải cải chính khi thông
tin thiếu chính xác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự cá nhân, tổ chức… Ví dụ: nên
quy định các mức xử lý từ xử phạt hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự,
thậm chí phải bồi thường thỏa đáng khi gây thiệt hại.
- Về quy định thẩm quyền, trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan báo chí: đối với các cơ quan báo chí chỉ có báo in hoặc chỉ có báo
điện tử thì gắn trách nhiệm với cá nhân tổng biên tập; đối với các cơ quan báo
chí vừa có báo in vừa có báo điện tử, gắn trách nhiệm với người đứng đầu các ấn
phẩm; đối với các đài phát thanh, truyền hình gắn với trách nhiệm người được
giao phụ trách các kênh…; nghiên cứu có quy định riêng về biên tập viên trong
Luật để gắn trách nhiệm với cá nhân.
- Về quyền tác giả: cần quy định rõ các chế tài
xử phạt đủ tính răn đe nếu không thực hiện các quy định về quyền tác giả theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Sở hữu trí tuệ năm 2010.
- Về các quy định liên quan đến hoạt động liên
kết: cần đưa vào Luật Báo chí và quy định rõ các loại đối tác liên kết trong
nước và nước ngoài để có những điều khoản cụ thể khác nhau.
- Các quy định liên quan đến tài chính của các
cơ quan báo chí: có thể nghiên cứu mô hình khi phân chia rõ những cơ quan báo
chí chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chính trị, ít quảng cáo thì được xét hỗ trợ ngân
sách từ nhà nước; đối với các tờ báo có tính thương mại, mang tính giải trí,
nhiều quảng cáo thì phải tự cân đối thu - chi.
- Về các hoạt động báo chí có yếu tố nước ngoài:
cần phải đưa vào Luật Báo chí, một số điểm cần quy định thêm là phải tuân theo
các quy định của Bộ Ngoại giao.
b) Về các luật, pháp lệnh liên quan: Bổ sung,
sửa đổi các Luật Quảng cáo,, Luật Tiếp cận thông tin, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật
nhà nước…
c) Về xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu các văn
bản pháp luật về báo chí: hệ thống hóa theo từng danh mục: các văn bản đã hết
hiệu lực, còn hiệu lực; cần bãi bỏ; cần sửa đổi, bổ sung; văn bản mới ban hành…
Trên cơ sở đó loại bỏ, sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp, nhất là những
văn bản trái với Hiến pháp năm 2013.
2. Nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí
a) Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương và địa phương: Xác định rõ các nguyên
tắc làm việc và quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; Áp dụng
phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý hiện đại; Quy hoạch tổng thể các cơ
sở có đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí; Triển khai thực hiện tốt, đúng
tiến độ Đề án Quy hoạch Phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025;
Xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài; Nâng cao chất lượng công tác
dự báo.
b) Đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực
quản lý của cơ quan chủ quản và người đứng đầu cơ quan báo chí: Đề cao vai trò,
trách nhiệm cơ quản chủ quản, đặc biệt là thông qua công tác cán bộ. Tuân thủ
nghiêm các quy định về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí,
đồng thời đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí. Bố trí bộ phận
riêng, cán bộ chuyên trách quản lý các cơ quan báo chí trực thuộc trên cơ sở có
sự ràng buộc trách nhiệm. Thường xuyên kiểm tra, giám sát toàn diện để có hỗ
trợ kịp thời cả về nhân lực, vật lực…
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động phát ngôn báo
chí, cung cấp thông tin cho báo chí
Các cấp, các ngành xây dựng quy chế hoạt động
của người phát ngôn báo chí, chủ động cung cấp thông tin cho báo chí, thông báo
kịp thời cho Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông (đối với
báo chí trung ương, bộ, ngành), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Thành ủy và Sở Thông
tin và Truyền thông (đối với báo chí địa phương) về các bài báo phản ánh sai sự
thật, thiếu khách quan, chủ ý làm sai sự thật… để có biện pháp xử lý kịp thời.
Phối hợp tốt với các sở, ban, ngành, UBND cấp dưới thực hiện tốt chế độ cung
cấp thông tin cho báo chí; theo dõi xử lý kịp thời thông tin trên báo chí.
4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
nhà nước về báo chí
Phải xác định nhu cầu về đội ngũ cán bộ, trên cơ
sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cả cho ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn; Phải lấy chất lượng làm đầu dựa vào các tiêu chí, tiêu chuẩn của một nhà
quản lý báo chí. Đối với từng lĩnh vực cũng phải có những tiêu chí riêng; Đổi
mới phương thức, cách thức, nội dung tuyển dụng; Nâng cao hiệu quả sử dụng đội
ngũ cán bộ thông qua việc dùng người đúng khả năng, đúng vị trí, đúng trình độ,
có chế độ đãi ngộ thỏa đáng; Nâng cấp các trường đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới
chương trình dạy và học; Nâng cao trình độ quản lý ngang bằng với các nước
trong khu vực và trên thế giới về mọi mặt.
5. Tăng cường các nguồn lực tài chính
Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích
hợp. Nhà nước cần có chính sách tài chính quốc gia. Có thể nghiên cứu phương
thức Nhà nước trợ cấp có điều kiện, trợ cấp không hoàn lại hoặc cho vay ban đầu
với lãi suất thấp... cho các cơ quan báo chí địa phương vùng sâu, xa, khó khăn,
đặc biệt là các chương trình phát sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của các dân
tộc thiểu số...
6. Tăng cường hợp tác quốc tế
Trên cơ sở xác định những “điểm yếu”, đề ra
những giải pháp mang tính đột phá: Về kinh tế báo chí: lập nên những tập đoàn
báo chí mạnh để hỗ trợ về lực cho việc hội nhập; Về năng lực quản lý, năng lực
chuyên môn: phải được nâng cao để tiếp cận cái mới; Về ý thức đạo đức nghề: đề
cao thông tin trung thực, chính xác, nhanh nhạy, khi đó chính kiến của nhà báo
rõ ràng hơn, tiếng nói của báo chí Việt Nam sẽ có sức nặng hơn trên trường quốc
tế.
7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ
quan báo chí, xuất bản theo đúng quy định của pháp luật hiện hành, phát hiện
kịp thời các vi phạm Luật Báo chí, Luật Xuất bản và các văn bản quy định khác
về báo chí để chấn chỉnh, xử lý hoặc kiến nghị với cơ quan chủ quản kịp thời
uốn nắn, chấn chỉnh khi có sai phạm. Tăng cường đầu tư trang thiết bị cần
thiết, bổ sung đội ngũ cán bộ thanh tra cả về số lượng và chất lượng. Nghiên
cứu quy định mỗi cơ quan báo chí có quy chế hoạt động riêng phù hợp đặc thù
riêng để có biện pháp ngăn chặn sớm các sai phạm.
KẾT LUẬN
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đối với
báo chí là vấn đề không mới trong lý luận cũng như trong thực tiễn báo chí Việt
Nam. Đây được coi là nguyên tắc bất di bất dịch của hoạt động báo chí. Thực tế
trong nhiều bối cảnh khác nhau, đã chứng minh sự đúng đắn của nguyên tắc này.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, một số ý kiến trái chiều bày tỏ sự hoài
nghi, phê phán, thậm chí đòi xóa bỏ nguyên tắc này của báo chí cách mạng Việt
Nam. Với những phân tích, đánh giá, dự báo, cần khẳng định lại cả về mặt lý
luận và thực tiễn nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đối với báo chí.
Cần phải có những điều chỉnh trước hết về tư duy quản lý, sau là về nội dung và
phương thức quản lý. Trước thực tế, ngay trong đội ngũ những người làm
báo vẫn có những nhà báo không hiểu hết quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, dẫn đến đi chệch định hướng. Do vậy, hơn bao giờ
hết, không chỉ cần bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phải tập
trung nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ những người làm báo, để chính
những người làm công tác thông tin, tuyên truyền thực sự trở thành những người
truyền tải những thông tin trung thực, chính thống, vì lợi ích của đất nước và
nhân dân. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí. Thực tiễn hoạt động báo chí Việt Nam đang ngày càng đa dạng và sinh
động, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, những năm gần đây một số hạn chế
trong công tác lãnh đạo, quản lý đã và đang tạo ra những “lỗ hổng” mà từ đó các
thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Do
vậy, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường hơn nữa hoạt động quản lí báo chí. Có như
vậy, báo chí mới hoàn thành được nhiệm vụ phục vụ chế độ, phục vụ nhân dân, đi
đúng hướng là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã
hội và là diễn đàn của nhân dân.
Đánh giá chung trong gần 30 năm đổi mới vừa qua
cho thấy, hoạt động quản lý nhà nước về báo chí cơ bản đã tạo ra những điều
kiện thuận lợi, giúp cho báo chí làm tốt nhiệm vụ chính trị; quản lý nhà nước
về báo chí bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quản lý nhà nước về
báo chí đã được thực hiện theo pháp luật, bảo đảm báo chí hoạt động đúng pháp
luật; Họat động quản lý nhà nước đã góp phần thúc đẩy báo chí phát triển, hội
nhập với báo chí thế giới. Hệ thống lại, hoạt động quản lý nhà nước về báo chí
trong thời gian qua bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế, bất
cập cần sớm được khắc phục.
___________________
Giảng viên: PGS.TS. Phan
Quốc Anh
Học viên: Nguyễn Quang
Thể
Lớp: Cao học Quản lý văn
hóa - Khóa 9 - 2020