NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY; MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong thời gian qua, kinh tế số
Việt Nam phát triển mạnh cả về nền tảng hạ tầng và thị trường kinh doanh.
Internet đã trở thành một phần thiết yếu của các ngành thương mại dịch vụ, như:
ngân hàng, giao thông, y tế..., ước tính mức độ đóng góp của Internet là khoảng
2 - 3% GDP của Việt Nam và dự báo sẽ tăng đến 40 - 50% GDP trong tương lai. Năm
2007, số người sử dụng Internet Việt Nam là 17,7 triệu người; đến năm 2020 đã
tăng lên 68,17 triệu, xấp xỉ 70,3% dân số.
Theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông
Nam Á 2020”, năm 2020 nền kinh tế số Việt Nam đạt 14 tỷ USD, dẫn đầu khu vực
Đông Nam Á cùng với Indonesia. Theo Tập đoàn Miniwatts Marketing, Việt Nam hiện
xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng Internet đông nhất thế
giới. Dự kiến đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam đạt 52 tỷ USD, bao gồm các
lĩnh vực: Thương mại điện tử (TMĐT), du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến
và gọi xe công nghệ.
Sự phát triển của nền kinh tế số ở
Việt Nam hiện nay có những thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam đã
có nhiều chính sách, thể hiện quyết tâm lớn trong định hướng, hành động và tận
dụng mọi cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế số ở Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam có tỷ lệ dân số
trẻ cao, cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Với lợi
thế dân số trẻ, cách thức tiêu dùng, có nền tảng toán học và công nghệ thông
tin tương đối tốt, người Việt Nam lại yêu thích và nhanh nhạy tiếp cận với công
nghệ mới, đây chính là chìa khóa thành công để thúc đẩy kinh tế số ở Việt Nam
phát triển.
Thứ ba, nền tảng hạ tầng kinh tế
số của Việt Nam khá thuận lợi cho việc chuyển đổi và ứng dụng sổ. Việt Nam có mạng
lưới hạ tầng mạng viễn thông, hạ tầng công nghệ thông tin và internet phát triển
nhanh chóng, bao phủ rộng khắp và hiện đại không thua kém các nước tiên tiến
trên thế giới. Tỷ lệ người dân sử dụng internet và điện thoại thông minh cao, nằm
trong top đầu các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Thứ tư, thời gian gần đây, các
phát triển đa dạng, và có xu hướng hình thức của kinh tế số ở Việt Nam phát triển
mạnh mẽ hơn trong những năm tới. Xu hướng số hóa, chuyển đổi và ứng dụng công
nghệ số trên nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại đến giao thông, ngân
hàng, y tế, giáo dục, du lịch, giải trí, quảng cáo và các dạng ứng dụng trực
tuyến... Trong đó, TMĐT phát triển nhanh cả về quy mô lẫn hình thức.
Thứ năm, hệ thống chính trị và nền
kinh tế vĩ mô Việt Nam luôn duy trì ổn định. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế
nhanh và một nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, sự gia tăng
thu nhập của người dân, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và thị trường rộng lớn
với gần 100 triệu dân. Đây thực sự là nền tảng thúc đẩy kinh tế số nói chung và
TMĐT nói riêng phát triển.
Thứ sáu, dịch bệnh Covid-19 trên
phạm vi toàn cầu và Việt Nam, bên cạnh những thách thức đồng thời cũng là chất
xúc tác” thúc đẩy các doanh nghiệp và Chính phủ thúc đẩy nhanh chóng, tích cực,
mạnh mẽ hơn quá trình chuyển đổi số, nhất là kinh tế số. Do tác động của đại dịch,
kinh tế số không còn chỉ là sự lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với
mỗi quốc gia, doanh nghiệp, trong đó có Việt Nam để tồn tại và phát triển trong
bối cảnh tình hình mới.
2. Khó khăn
(1) Hệ thống thể chế, chính sách
cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh chấp và hiệu lực của cơ quan
thực thi liên quan đến phát triển kinh tế số còn chưa đồng bộ và hiệu quả nên
chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số; (2) Cơ sở dữ liệu của
nhiều bộ, ngành, địa
phương đang xây dựng còn manh mún
và phân tán, không có sự kết nối liên thông; (3) Các doanh nghiệp kinh tế số ở
Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh của doanh nghiệp nước ngoài; (4) Kinh tế số
nói chung và TMĐT nói riêng vẫn có một khoảng cách lớn giữa thành thị với các
khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, thiểu số của nước ta; (5) Nhận thức vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc của người dân và một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước
về kinh tế số còn hạn chế, kỹ năng sử dụng internet tốc độ phát triển của công
nghệ; (6) an toàn thấp và chưa theo kịp với Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng
yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số. Việt Nam đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông.
3. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam trong thời
gian tới
Văn kiện Đại hội XII xác định, đến
năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ trong 20% GDP, đến năm 2030, kinh tế số chiếm khoảng
30% GDP. Để đạt mục tiêu trên, Văn kiện cũng nhấn mạnh yêu cầu cải thiện môi
trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực,
các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học công
nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tập trung hoàn thiện thể chế,
chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát
triển kinh tế số, xã hội số.
Phát triển mạnh hạ tầng công nghệ
thông tin, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa
phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội
số...
Để phát triển kinh tế số ở Việt
Nam, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
(1) Xây dựng, hoàn thiện thể chế,
pháp luật, chính sách nhằm tạo khuôn khổ cho phát triển kinh tế số. (2) Đẩy mạnh
cải cách và số hóa các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp, bao
gồm việc xây dựng kết cấu hạ tầng dữ liệu quốc gia, xây dựng chiến lược quản trị
số. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính như đơn giản hóa, số hóa, điện tử hóa,
minh bạch hóa thông tin để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Tập trung vào việc
phát triển chính phủ điện tử, ngân hàng điện tử, giao dịch điện tử và TMĐT. (3)
Hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời
chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như
thích ứng với hội nhập vào thị trường thế giới trong thời kỳ mới. (4) Khuyến
khích và thúc đẩy mạnh việc thanh toán điện tử trong nền kinh tế. (5) Trang bị
kiến thức, thống nhất tư tưởng và hành động về kinh tế số, từ đó làm chuyển biến
mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý cũng như điều hành kinh tế - xã hội trong điều
kiện kinh tế số. (6) Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực cho
nền kinh tế số. Trong đó tập trung phát triển, thu hút các chuyên gia về công
nghệ số, các doanh nhân số...
4. Công tác tuyên truyền số ở Việt Nam, cần chú trọng một số nội dung
sau
Một là, thông tin, tuyên truyền về
tầm quan trọng của nền kinh tế số Việt Nam hiện nay, trong đó chú trọng tuyên
truyền những cơ hội, thách thức đặt ra đối với nền kinh tế số ở Việt Nam.
Hai là, tuyên truyền các giải
pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới, trong
đó nhấn mạnh nội dung đẩy mạnh cải cách và số hóa các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như các doanh nghiệp; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực
cho nền kinh tế số.
Ba là, tuyên truyền nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về kinh tế số, khuyến khích
các tầng lớp nhân dân tham gia vào nền kinh tế số, trước mắt là sử dụng các
phương thức thanh toán điện tử hiện đại như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện
tử qua điện thoại di động, sử dụng các dịch vụ Internet Banking của hệ thống
ngân hàng....
nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế
(Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung
ương)