
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG
ĐẠI HỌC MỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH ---------
HỒ VŨ THUỴ
NÉT ĐẸP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NỮ
CHĂM Ở NINH THUẬN TRONG MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019 |
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT TP HỒ CHÍ
MINH
---------------------
HỒ VŨ THUỴ
NÉT ĐẸP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NỮ CHĂM
Ở NINH THUẬN TRONG MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình
Mã số:
60 21 01 02
LUẬN
VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
Người hướng dẫn
khoa học
TS: PHAN QUỐC ANH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT TP HỒ CHÍ
MINH
---------
HỒ VŨ THUỴ
NÉT ĐẸP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NỮ CHĂM
Ở NINH THUẬN TRONG MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT TẠO HÌNH
MÃ SỐ: 60 21 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS: PHAN QUỐC ANH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019
Nhận
xét của người Hướng dẫn:
Chương
I cần chỉnh sửa, bổ sung khá nhiều.
Lưu
ý những từ ngữ và câu khi viết về người Chăm và lịch sử Chăm Pa cần thận trọng.
Tư
liệu phải ghi rõ trích ở đâu? Rất nhiều đoạn văn em chép của người khác nhưng
không ghi rõ nguồn.
Thầy
đã bôi đỏ trong luận văn để lưu ý sửa
Đối tượng nghiên cứu phải xác định lại: Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là trang phục phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận và các tác phẩm tạo hình sử dụng nét đẹp
trang phục nữ Chăm.
Các số liệu về dân số, dân cư các tôn giáo, số lượng chức sắc đều đã lạc
hậu. Cần cập nhật số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng Cục thống kê
2009 hoặc gần nhất là năm 2019.
Người Chăm có hai hệ thống chức sắc (đọc
Phan Quốc Anh = nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier): Học viên có thể
trích của thầy: Chức sắc tôn giáo và chức sắc dân gian như thế nào? Cái quan
trọng là nữ chức sắc là hai loại bà bóng” Muk Pajau và Muk RiJa (nữ vũ sư –
thường múa lên đồng trong các nghi lễ). Đây là hai nhân vật quan trọng nhất và
học viên phải tập trung khai thác sự giống nhau và khác nhau của trang phục 2
chức sắc này. Đặc biệt là trong đêm lễ hội Rija Pruang, bà múa bóng RiJa thay
hàng chục bộ trang phục, mỗi điệu nhạc, điệu múa lại phải thay trang phục để
múa suốt đêm.
Không cần phải đề cập quá sâu về trang phục chức sắc các tôn giáo vì chủ
yếu đó là trang phục nam. Nếu đã đề cập đến thì phải đủ cả hai tôn giáo Bà La
Môn và Bà Ni (thiếu hẳn Bà Ni).
Việc phân chia các mục chưa hợp lý.
Nên tập trung vào trang phục nữ Chăm
Phân chia: Số mục là ví dụ:
1.2. Trang phục nữ Chăm Ahier
1.2.1. Trang phục nữ bà bóng Muk
Pajau và Muk Rija
- Áo tên áo, chất liệu, màu sắc, đặc
điểm
- Váy
- Khăn
- Đồ trang sức
1.2.2. Trang phục nữ Chăm Ahier
trong lễ hội
- Áo: tên áo, chất liệu, màu sắc, đặc điểm
- Váy:
- Khăn:
- Đồ trang sức:
- so sánh với chăm Awal
1.3. Trang phục nữ Chăm Awal
1.3.1. Trang phục nữ Chăm Awal
trong lễ hội
- Áo tên áo, chất liệu, màu sắc, đặc
điểm
- Váy
- Khăn
- Đồ trang sức
- So sánh sự khác nhau giữa trang phục trong lễ hội của nữ Chăm Ahier và
Awal.
1.3.2. Trang phục nữ Chăm Awal
trong đời thường
- Áo tên áo, chất liệu, màu sắc, đặc
điểm
- Váy
- Khăn
- Đồ trang sức
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.............................................................. 6
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 9
6. Những đóng góp mới của luận văn......................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn............................................................................ 10
Chương 1.................................................................................................... 11
TỔNG QUAN VĂN HOÁ CHĂM VÀ TRANG PHỤC NỮ CHĂM Ở
NINH THUẬN 11
1.1. Khái quát về người Chăm và văn hoá Chăm....................................... 11
1.1.1. Khái quát về người Chăm............................................................... 11
1.1.2. Khái quát về văn hoá Chăm............................................................ 13
1.2. Văn hoá trang phục Chăm.................................................................. 16
1.2.1. Nghề dệt truyền thống.................................................................... 16
1.2.2. Phân loại trang phục...................................................................... 20
1.3. Nét đẹp trong trang phục nữ Chăm ở Ninh Thuận............................... 26
1.3.1. Trang phục trong lễ hội.................................................................. 26
1.3.2. Trang phục trong sinh hoạt đời thường........................................... 28
1.3.3. Đặc trưng trang phục nữ Chăm ở Ninh
Thuận................................. 28
Tiểu kết.................................................................................................... 32
Chương 2.................................................................................................... 33
NÉT ĐẸP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NỮ CHĂM TRONG MỘT
SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI............................
2.1. Nét đẹp trang phục nữ Chăm trong hội hoạ......................................... 33
2.2. Nét đẹp trang phục nữ Chăm trong đồ hoạ.......................................... 41
2.3. Nét đẹp trang phục nữ Chăm trong điêu khắc..................................... 45
Tiểu kết.................................................................................................... 48
Chương 3.................................................................................................... 49
NHẬN ĐỊNH VÀ CẢM NHẬN NÉT ĐẸP TRANG PHỤC NỮ
CHĂM QUA SÁNG TÁC CỦA BẢN THÂN....................................................................................... 49
3.1. Nhận định nét đẹp trang phục nữ Chăm.............................................. 49
3.2. Cảm nhận nét đẹp trang phục nữ Chăm.............................................. 51
3.3. Tác phẩm tốt nghiệp.......................................................................... 52
Tiểu kết.................................................................................................... 56
KẾT LUẬN................................................................................................. 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 59
PHỤ LỤC................................................................................................... 64
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. HCM: Hồ Chí
Minh
2. H: Hình
3. Nxb: Nhà xuất
bản
4.
TS: Tiến Sĩ
5. Tp: Thành phố
6. TLTK: Tài liệu
tham khảo
7. TGLV: Tác giả
luận văn
8. SCN: Sau công nguyên
9. Tr: Trang
MỞ ĐẦU
1.
Lý
do chọn đề tài
Việt
Nam được biết đến như một trong những nền văn hóa điển hình của khu vực Đông
Nam Á, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Việt Nam còn là một quốc
gia đa tộc người, đa ngôn ngữ, các dân tộc đều có những đóng góp quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển văn hóa Việt Nam. Mỗi cộng đồng tộc người đều có những
đặc trưng về văn hóa tạo nên bản sắc riêng trong quá trình giao lưu, tiếp biến
văn hóa.
Văn hoá
truyền thống đa sắc của đất nước Việt Nam rất đặc sắc và nổi tiếng ở khu vực
Đông Nam Á – đó là của người Chăm. Hiện nay, người Chăm
là một trong 54 dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam còn gọi là người Chàm, người Chiêm hay Hời. Họ sinh sống từ nhiều thế kỷ nay đã,
đang và sẽ góp phần tạo nên sự phong phú và có giá trị cho nền văn hoá của nước
Việt Nam thống nhất.
Champa
được biết đến như một nền văn hoá nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc vượt trội
Đông Nam Á và Châu Á, bên cạnh những giá trị nghệ thuật, người Chăm còn có một
văn hoá tinh thần như: ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo đặc trưng,
họa tiết trang trí trên dệt thổ cẩm, trang phục, gốm, nghệ thuật dân ca, múa
hát… đã trở thành di sản quý của nền văn hóa rực rỡ hiện nay.
Nổi bật
là trang phục truyền thống của người Chăm, một thời từng phát triển rực rỡ trên
dải đất miền Trung thể hiện được dấu ấn văn hóa rất riêng biệt. Trang phục bị
ảnh hưởng dấu ấn Ấn Độ, tiếp nhận nhiều tôn giáo và cho đến nay trang phục
truyền thống đã chứa đựng nhiều giá trị thẩm mỹ rất đẹp. Ảnh hưởng Ấn Độ nhưng
không phải Ấn Độ và có đặc trưng riêng chỉ có ở người Chăm đúc kết được qua
lịch sử.
Người Chăm chủ đề mà
không ít họa sĩ Việt Nam đã thể hiện thành công
và nhiều tác phẩm tác phẩm đẹp ra đời. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, luận văn, khoá luận, các bài viết
về đề tài dân tộc người Chăm ở Việt Nam và nền văn hoá của họ. Đó là một phần
giúp cho tác giả cảm nhận sâu sắc hơn khi thể hiện tác phẩm của mình. Nhưng cái
mà cá nhân tác giả cảm nhận sâu sắc nhất là trang phục trong lễ hội truyền
thống của họ. Đó là kết
quả của một quá trình lao động sáng tạo lâu dài khi mà kinh nghiệm của con
người được tích lũy ở mức cao nhất. Trang phục của phụ nữ Chăm đặc trưng ở
chiếc cổ lá trầu, nền nã với những hoa văn ẩn chìm trên nền vải và mềm mại,
quyến rũ ở chất liệu tơ tằm. Những cách phối màu độc đáo của vô số loại hoa văn
tinh tế khác nhau như có hút mãnh liệt đối với những người say mê nghiên cứu.
Trong xu thế hội nhập và phát
triển, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá cũng như những giá trị truyền
thống của mỗi dân tộc là điều cấp thiết. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, những yếu tố đó dần bị
biến dạng. Kỹ thuật dệt tinh xảo không còn nữa. Nguyên liệu dệt cổ truyền dần
được thay thế bởi những nguyên liệu sẵn có trên thị trường. Kỹ thuật tạo tác
những hoa văn cổ đạt đến trình độ tinh hoa dần mất đi trước nhu cầu sử dụng có
vẻ giản lược hóa những sản phẩm dệt của các thế hệ về sau. Vì vậy, việc bảo lưu nét đẹp trang phục phụ nữ Chăm là một
trong những giá trị cần tiếp tục được khai thác trong đời sống hiện đại và
trong văn hóa nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật đương đại, góp phần vào việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một học viên cao học mỹ thuật, nhiều lần tôi đi đến điền dã tại vùng
đồng bào Chăm Ninh Thuận. Tôi thật sự bị cuốn hút bởi trang phục với những nét
hoa văn vừa đẹp về mỹ thuật vừa huyền bí về tâm linh. Những giá trị mỹ thuật
thể hiện trên trang phục truyền thống phụ nữ Chăm cần được đi sâu nghiên cứu. cũng như việc cần thiết nghiên cứu để
xem xét việc lưu giữ nét đẹp mỹ thuật trên trang phục có đi đúng hướng trong
điều kiện mới không, có hiệu quả không hay là sự phá vỡ những giá trị cổ
truyền đã được đúc kết qua bao thế hệ đến tận hôm nay. Đó cũng là lý
do khiến tác giả luận văn chọn đề tài:" Nét đẹp trang phục truyền thống nữ
Chăm ở Ninh Thuật trong mỹ thuật Việt Nam đương đại” làm đề tài nghiên cứu và
sáng tác.
2.
Tình
hình nghiên cứu của đề tài
Nhiều nhà khoa học đã tiến
hành nghiên cứu trang phục, và đặc biệt là trang phụ nữ nói chung và trang phục
nữ dân tộc Chăm nói riêng ở nhiều cấp bật khác nhau. Có thể kể đến một số lĩnh
vực cụ thể như: trang phục phụ nữ Chăm trong tôn giáo; trang phục trong nghi
lễ, lễ hội; trang phục trong sinh hoạt đời thường, trong bối cảnh phát triển
khác nhau.
Trong những năm qua, nghiên
cứu về trang phục phụ nữ Chăm trong tín ngưỡng tôn giáo, trong nghi lễ, lễ hội,
trong sinh hoạt đời thường là những lĩnh vực được đang được quan tâm, có thể kể
đến một số các công trình nghiên cứu khoa học hàng đầu Việt Nam về Mỹ thuật
Chăm từ năm 1980 đến nay. Trong đó có nhiều gợi ý quý giá cho việc nghiên cứu
nền văn hoá mỹ thuật Chăm tiêu biểu như:
Công trình “Văn hóa Chăm” của nhóm tác giả
Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp [5] (1991), “Người Chăm ở Thuận Hải” (Thuận Hải), (1989) [3], “Văn hóa cổ Champa” của Ngô
Văn Doanh (Hà Nội), (2002) [10], “Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh
Thuận” của Phan Quốc Anh (Hà Nội), (2006) [1], “Vài nét về văn hoá truyền thống Chăm” của Phan Quốc Anh (2001) [2], “Lễ hội người Chăm” của Sakaya (2003) [31],“40 năm nghiên cứu văn hoá Chăm” của Bùi Đức Hùng, Phan Quốc Anh,
Võ Công Nguyện, Phú Văn Hẳn đồng chủ biên (2015) [14]..., đã phác thảo một bức
tranh về văn hóa Chăm với những đặc trưng phong phú, đa dạng trong tiến trình
phát triển của xã hội Chăm.
Văn hoá Chăm đã để lại
nhiều thành tựu có giá trị nghệ thuật đặc sắc cao, đặc biệt là nghệ thuật
tạo hình kiến trúc và điêu khắc như công trình nghiên cứu “Điêu khắc Chàm” của Cao
Xuân Phổ (Hà Nội). (1988) [27], “Điêu
khắc Champa” của Ngô Văn Doanh, Nguyễn Thế Thục, (Nxb thông tấn xã Việt
Nam), (1988) [65]…
Đặc
biệt, công trình nghiên cứu của tác giả Vũ Khánh “ Người Chăm” (Hà
Nội), (2009) [17] giới thiệu về người Chăm ở những khía cạnh như nguồn gốc và phân bố dân
cư; tháp Chăm và nghệ thuật điêu khắc Chăm, lễ hội, phong tục tập quán, trang
phục - trang sức trong đó có 2 trang viết về trang phục của người Chăm và các
trang hình ảnh về số trang phục của người Chăm
như trang phục tôn giáo, trang phục đời thường.
“Trang phục cổ truyền các dân tộc
Việt Nam” [32] (2000), của Ngô Đức Thịnh, “Mỹ thuật
nữ phục truyền thống Việt Nam” (Hà Nội), (2011) [13] của tác giả Dương Cung
Hằng đưa ra cách thức ăn mặc cổ truyền của 54 dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong đó, tác giả trình bày về trang phục cổ truyền của dân tộc Chăm ở Ninh
Thuận, Bình Thuận. Đây là những công trình nghiên cứu đã giúp TGLV hiểu
sâu thêm về con người cũng như những nét đẹp trong văn hóa truyền thống. Đặc
biệt, là giá trị thẩm mỹ của trang phục truyền thống đặc trưng của người Chăm
nói chung và người phụ nữ Chăm nói riêng.
Các công trình nghiên cứu người Chăm và về Champa nói
trên là những tư liệu liên quan đến
vai trò, đặc trưng trang phục của phụ nữ trong cộng đồng người Chăm. Bên cạnh
đó, một số đề tài luận văn liên quan đến người Chăm. Trước hết có thể kể đến những luận văn về đề
tài Chăm tiêu biểu như : Cao Thị Được “Hình tượng phụ nữ Chăm trong nghệ thuật
tạo hình Việt Nam hiện đại” (2007), Nguyễn Thị Thuỳ Vân “Nét đẹp cuộc sống con người phụ nữ Chăm
trong nghề thủ công cổ truyền” (2008), Nguyễn Dũng An Hoà “Người
Chăm ở Ninh Thuận trong hội hoạ Việt Nam đương đại” (2009), hay những bài
viết về các họa sỹ Mai Anh Dũng, Đàng Năng Thọ..., được cho là công trình đầu
tiên tập hợp và giới thiệu về người Chăm với những tác phẩm hội họa được TGLV
quan tâm và có cái nhìn toàn cảnh về văn hóa Chăm qua những tác phẩm vẽ về
người Chăm ở Ninh Thuận này.
Ngoài ra còn rất nhiều sách, báo, tạp
chí, các trang mạng viết về đề tài này và một số công trình nghiên cứu về trang
phục. Đây là những tư liệu đáng
quý trong việc nghiên cứu về người Chăm, văn hóa Chăm, trang phục phụ nữ Chăm.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về trang phục người phụ nữ Chăm ở góc độ văn hóa nhiều hơn nhìn về góc độ
mỹ thuật. Luận văn hướng tới việc tìm hiểu, nghiên cứu để làm sáng tỏ
một số vấn đề liên quan đến trang phục truyền thống trong tổng thể các công
trình nghệ thuật Chăm. Từ đó tìm ra những giá trị thẩm mĩ riêng trên trang phục
dựa trên nền tảng mỹ thuật học. Trên cơ
sở kế thừa các tư liệu, công tình nói trên TGLV
chọn đề tài và hướng nghiên cứu này để tìm nét đặc trưng trên trang phục truyền thống nữ Chăm ở Ninh Thuận. Những công trình đề cập
ở trên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về “Nét đẹp trang phục truyền thống nữ
Chăm ở Ninh Thuận trong mỹ thuật Việt Nam đương đại” ở góc độ mỹ thuật. Vì vậy, đề tài này không trùng với các đề tài đã
công bố.
3.
Mục
đích nghiên cứu
Với đề tài “ Nét đẹp trang phục truyền thống nữ Chăm ở Ninh Thuận trong mỹ thuật Việt Nam
đương đại”, tác giả luận văn hướng tới hai mục
đích chính:
Thứ nhất: tác giả nghiên
cứu tìm hiểu những giá trị thẩm mỹ trong văn hóa trang phục của phụ nữ Chăm ở
góc độ tiếp cận mỹ thuật học.
Thứ hai: đề
tài hướng tới tổng hợp, phân tích các
giá trị về thẩm mỹ nghệ thuật qua các tác phẩm mỹ thuật đương đại nhằm làm bật
ra những thành quả về giá trị văn hóa - mỹ thuật cũng như những mặt còn hạn chế
của tác phẩm để giúp cho mọi người có được những hiểu biết nhất định khi sáng
tác, thưởng thức và đánh giá những tác phẩm về đề tài này. Từ đó đề tài thực hiện nhằm mục đích nhấn mạnh
tầm quan trọng cũng như đặc trưng nét đẹp trang phục qua các tác phẩm hội hoạ, đồ
hoạ, điêu khắc, để nói lên giá trị nghệ thuật của trang phục phụ nữ Chăm, qua
đó góp phần gìn giữ phát triển và bảo tồn trang phục truyền thống của người Chăm
ở Ninh Thuận.
4.
Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên
cứu của luận văn là trang phục phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận và các tác phẩm tạo
hình sử dụng nét đẹp trang phục nữ Chăm
Luận văn
khai thác nghiên cứu đến đời sống văn hóa trang phục truyền thống của phụ nữ trong
lễ hội, và sinh hoạt đời thường của người Chăm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
4.2.1. Không gian nghiên cứu:
Không gian
nghiên cứu của đề tài là các làng Chăm Aheir (Bà la môn) và Awal (Bà ni) ở tỉnh
Ninh Thuận trong đó tập trung ở các làng tiêu biểu như Mỹ Nghiệp (làng dệt),
Phú Nhuận, Thường Tín, Văn Lâm (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh
Thuận) với hai lễ hội Chăm Katê và Ramưwan.
4.2.2. Thời gian nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu của đề tài này là các
tác phẩm hội hoạ vẽ về phụ nữ Chăm của một số họa sĩ thông qua các tác phẩm mỹ
thuật Việt Nam đương đại từ sau 1975 đến nay.
5.
Phương
pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp thu thập thông tin,
hình ảnh, tư liệu, sách báo, trang mạng mỹ thuật, hội họa và các tác phẩm sáng
tác về đề tài người Chăm trong trang phục truyền thống. Thông qua phương pháp thể hiện, kỹ
thuật chất liệu, phong cách tạo hình nhằm xem xét để so sánh và đưa ra những nhận định chung về sự khác nhau
của trang phục truyền thống, tác giả sử dụng phương pháp tiếp cận nghiên cứu bằng phương
pháp mỹ thuật học.
Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích kết
quả nghiên cứu liên nghành dân tộc học, lịch sử, tôn giáo... để
phân tích, đánh giá tổng hợp những tư liệu và tài
liệu có liên quan đến đề tài, sắp xếp tài liệu hợp lý nhằm làm sáng
tỏ nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn
đề, đưa ra những giải pháp thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu để đưa ra
những vấn đề trọng tâm cần đối chiếu, so sánh và rút ra nhận định khoa
học. Từ đó, tác giả quy nạp hệ thống các cấu trúc dựa trên nguồn dữ liệu liên quan để tiếp cận, phân
tích tìm ra những nét tiêu biểu, đặc trưng trang phục truyền thống của phụ nữ
Chăm trong mỹ thuật Việt Nam đương đại.
6.
Những
đóng góp mới của luận văn
Luận văn cung cấp tài liệu đã được hệ thống, phân
tích những yếu tố tạo hình và tính nghệ thuật, tính thẩm mỹ của trang phục tuyền
thống của người Chăm qua một số tác phẩm hội họa tiêu biểu, và những giá trị giá trị mỹ
thuật trang phục phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận. Thực hiện đề tài này, tác
giả mong muốn giúp cho mọi
người hiểu thêm về văn hóa Chăm. Từ đó, làm cơ sở định hướng sáng tác
cho bản thân và cho các hoạ sĩ có quan tâm vẽ về đề tài Chăm hiểu sâu hơn về văn hóa trang phục
Chăm để thể hiện tốt tác phẩm của mình, ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham khảo,
nghiên cứu cũng như cho
việc giảng dạy và sáng tác hội họa.
7.
Kết
cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, kết luận và nội dung được
chia thành 3 chương với những nội dung theo trình tự sau:
Chương I: Tổng quan văn
hoá Chăm và trang phục nữ Chăm ở Ninh Thuận
Chương II: Nét đẹp trang phục truyền thống nữ Chăm trong một số tác phẩm tiêu biểu của
mỹ thuật Việt Nam đương đại
Chương III: Nhận định và cảm
nhận nét đẹp trang phục truyền thống nữ Chăm qua sáng tác của bản thân
Luận văn còn có phần danh mục các tài liệu tham khảo
và phụ lục với hình ảnh minh họa.
Chương 1
TỔNG QUAN VĂN
HOÁ CHĂM VÀ TRANG
PHỤC NỮ CHĂM Ở NINH THUẬN
1.1.
Khái
quát về người Chăm và văn hoá Chăm
1.1.1.
Khái quát về người
Chăm
Căn cứ theo sử
liệu thì người Chăm là một dân tộc có quá trình hình thành và phát triển lâu
đời. Với sự phát hiện bia Võ Cạnh thuộc thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà,
viết bằng chữ Phạn (Sanskrit) có niên đại vào khoảng thế kỉ thứ 2 sau công
nguyên (SCN), người ta biết rằng người Chăm lập quốc vào năm 192 (thế kỷ II SCN).
Trải qua quá trình lịch sử, trong cuộc chiến tranh với Đại Việt, Trung Hoa, Campuchia,
Champa bị suy yếu dần và mất hẳn vào 1832 và từ đó dân tộc Chăm trở thành một
phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Một số nhà khoa học Xô Viết cũ cho rằng người dân Nam
Đảo có nguồn gốc từ dân Bách Việt và họ xuống phía nam bằng hai con đường,
đường thứ nhất qua Philippine, Indonesia tới tận châu Đại Dương,
một bộ phận ở lại lục địa vào Malacca và Việt Nam. Có thể người Chăm và
một số cư dân Nam Đảo là sự hòa huyết giữa Ấn Độ và Đông Nam Á [39, tr.58].
Người Chăm thuộc chủng tộc Nam Á, tiếng
nói của họ rất giống với tiếng Êđê, Raglai, Churu, Jarai. Thuộc ngữ hệ Mã Lai-
Đa Đảo (Malayo -
Polynesien), họ có chữ viết riêng dựa vào chữ Phạn cổ (Ấn Độ) mà ta
còn thấy trên văn bia ngày nay. Từ chữ Phạn, người Chăm đã biến thành chữ Chăm
thông dụng như ngày nay mà người Chăm gọi là Akhar Thrah.
Người Chăm sinh sống
dọc dải đất miền Trung từ Quảng Bình cho đến phía Bắc sông Đồng Nai. Họ thường
làm nghề đi biển và nghề trồng lúa nước. Nông nghiệp người Chăm khá phát triển,
từ lâu họ đã biết đắp đập khai mương làm lúa nước mà đến nay vẫn còn tìm thấy
dấu vết của các công trình thuỷ lợi trên dải đất miền Trung như đập Do Linh
(Quảng Trị), đập Nha Trinh (Ninh Thuận).
Người Chăm có 2 thị tộc lớn,
thị tộc Cau và thị tộc Dừa. Thị tộc Dừa cai quản ở phía Bắc (Amaravati).
Thị tộc Cau cai quản phía Nam (Paduranga). Trong quá trình phát triển vương
quốc Champa hình thành 4 trung tâm chính là vùng Amaravati từ Quảng Bình cho
đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Vùng Vijaya từ Quảng Ngãi cho đến Bình Định. Vùng
Kauthara từ Phú Yên đến Khánh Hoà và vùng Pandurang là vùng Thị tộc Cau cai
quản phía Nam ngày nay. Vùng Quảng Nam - Đà Nẵng được chọn làm trung tâm chính
trong nhiều thế kỷ qua.
Người Chăm cũng theo
nhiều tôn giáo khác nhau. Ngay từ đầu công nguyên Bàlamôn giáo đã du nhập và
tiếp nhận mang đậm nét văn hoá Ấn Độ vào Champa. Họ sống tập trung thành từng làng và bảo lưu đậm nét
những tập tục văn hóa truyền thống của riêng họ. Trong đó, có 15 làng Chăm Ahier
(Chăm Bà la môn) và 7 làng Chăm Awal (Chăm Bà ni). Các nhóm người này sống tách
bạch với nhau tuy nhiên giữ hai nhóm này vẫn mang một đặc trưng văn hóa chung.
Người Chăm Ahier ở Ninh Thuận có dân số khoảng 32.152 người (số
liệu lấy ở đâu? Nguồn nào?), sinh sống ở 15 làng và tôn thờ ba đền tháp: Po Inư Nưgar, Po Kluang
Garai, Po Rame. Người Chăm Ahiêr kiêng không ăn thịt bò, khi chết họ hỏa táng,
tham dự lễ Katê và tháng 7 lịch Chăm. Đứng đầu Chăm Ahiêr có tầng lớp tu sĩ,
gọi là các thầy Paseh. Họ có sắc phục riêng (mặc áo trắng, váy trắng, búi tóc ở
đỉnh đầu, quấn khăn có biên đỏ). Hiện nay, ở Ninh Thuận có 38 vị Paseh, đứng
đầu là 3 vị cả sư (Po Dhia), phụ trách cúng lễ ở các đền tháp; đồng thời, phụ
trách cúng lễ cho các tín đồ như: lễ tang, lễ nhập Kut. Hằng năm, tu sĩ Ahiêr
cùng với các chức sắc tín ngưỡng tổ chức cúng lễ ở các đền tháp như: lễ mở cửa
tháp (pơh băng yang), lễ tế thần lửa (cuh yang apui), lễ cúng các vị thần nam
(Katê), lễ cúng các vị thần nữ (bunchatê),… [tư liệu
lấy ở đâu?]
Người Chăm Awal ở Ninh Thuận có khoảng 22.416 người, sinh sống tập trung
ở 7 làng (số liệu lấy ở đâu? Nguồn nào?),. Nhóm Chăm này không ăn thịt heo, thịt dong, có thánh
đường riêng để cầu nguyện, có tầng lớp tu sĩ là Po Acar. Tầng lớp tu sĩ này có
nhiều kiêng cử trong cuộc sống hằng ngày. Họ mặc váy, áo trắng, không để tóc,
quấn khăn có biên màu đỏ. Ở Ninh Thuận có 121 vị tu sĩ cấp Acar. Mỗi làng Chăm
Bàni đều có một thánh đường (sang mưgik) và một cả sư đứng đầu (Po Gru) để chăm
lo cúng lễ thánh đường và thực hiện các nghi lễ cho tín đồ như: lễ cắt tóc
(karơh, katát), lễ cưới (bang likhak), lễ tang (padhi), lễ hội Ramưwan,… [tư liệu lấy ở đâu?Thời gian nào?]
Người Chăm Awal ở Ninh Thuận không tôn thờ duy nhất một thánh Alla mà bên
cạnh đó còn tôn thờ các vị thần của người Chăm Ahiêr, thực hiện các nghi lễ
cúng tế liên quan tới tín ngưỡng người Chăm như: lễ hội múa Rija, lễ nghi nông
nghiệp, lễ cúng tổ tiên, vòng đời người và các vị thần Sông, thần Đất.
Ngoài hai nhóm Chăm Ahier, Awal, người Chăm ở Ninh Thuận còn có một nhóm
Chăm Hồi giáo chính thống, gọi là Chăm Islam. Nhóm này tự tách ra từ nhóm Chăm
Awal vào năm 1967. Hiện nay, nhóm Chăm Islam này có khoảng 2.000 tín đồ, thành
lập ba thánh đường riêng ở các thôn: Văn Lâm, Phước Nhơn, An Nhơn. Nhóm Chăm
này “từ bỏ tục thờ cúng tổ tiên, thờ thần
linh ở các đền tháp Bàlamôn và lễ nghi tín ngưỡng bản địa Chăm ” [31, tr.
40] họ chỉ tôn thờ duy nhất một thánh Alla.
Hiện nay, người Chăm Việt Nam có khoảng
hơn 100 ngàn người [số
liệu quá lạc hâu, phải lấy số liệu điều tra dân số năm 2009 hoặc 2019 của Tổng
cục Thống kê]. Ninh Thuận là nơi người Chăm tập trung đông nhầt với số
dân ( 58.137 người) chiếm 50% người Chăm ở VN. Còn lại sống ở các tỉnh Bình
Thuận, Tp HCM, Tây Ninh, An Giang. Họ sống tập trung thành Palei (làng) riêng
biệt và còn bảo lưu đậm nét nhiều tập tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang
ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương....và người Chăm còn có nghề
truyền thống phát triển ngành gốm và nghề dệt thổ cẩm.
1.1.2.
Khái quát về văn hoá
Chăm
Văn hóa truyền thống của người Chăm gồm nhiều lớp, lớp
văn hóa mang những truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông
Nam Á và trong diễn trình lịch sử người Chăm tiếp nhận nhiều nguồn văn hóa,
trước hết là văn hóa Ấn Độ đến các tôn giáo mà người Chăm tiếp nhận như Bàlamôn,
Ấn Độ giáo, Phật giáo, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam, Kh'me...
· Lớp văn hóa bản địa
Trước khi tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, người
Chăm cũng như các tộc người trên dải đất Việt Nam
hiện nay đã có một nền văn hóa bản địa nằm trong cơ tầng
văn hoá Đông Nam Á, một nền văn hóa mang nặng dấu ấn của tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước, chứa đựng trong mình đầy đủ
những loại hình tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Đông Nam Á. Từ gần II thiên
niên kỷ nay, người Chăm tiếp nhận nhiều tôn giáo, nhưng chính những yếu tố tín
ngưỡng nông nghiệp lúa nước đã bản địa hóa rất nhiều yếu tố văn hóa mà người
Chăm tiếp nhận. Mặc dù người Chăm tiếp nhận hai tôn giáo phụ quyền là Bàlamôn
và Hồi giáo (Bà ni), nhưng xã hội của người Chăm từ hàng nghìn năm nay vẫn là
một xã hội mang dấu ấn của chế độ mẫu hệ tồn tại cho đến ngày nay [10, tr.
66-68].
Văn hóa Champa
là sự nối tiếp của văn hóa Sa Huỳnh. Theo các tư liệu lịch sử, trước khi lập
quốc, nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, dân tộc Chăm vẫn là một dân tộc bảo
lưu nền văn hóa bản địa “phi Hoa, phi Ấn”. Tín ngưỡng dân gian giai đoạn này
được coi là lớp tín ngưỡng bản địa, mang nặng dấu ấn của tín ngưỡng nông nghiệp
lúa nước, chứa đựng đầy đủ những loại hình tín ngưỡng dân gian như, ma thuật,
bùa chú, tín ngưỡng phồn thực, v.v... Đặc biệt, việc duy trì xã hội mẫu hệ suốt
quá trình hàng nghìn năm khi tiếp nhận các tôn giáo truyền thống. Tất cả những
truyền thống văn hóa bản địa và truyền thống Bàlamôn đều chi phối sâu sắc đến
nền văn hóa Chăm.[10, tr.16]
·
Lớp văn hóa tôn giáo
Văn hoá tôn
giáo của người Chăm còn tồn tại hai cộng đồng dân cư: Chăm Ahier (ảnh hưởng Bàlamôn giáo)
và Chăm Awal (ảnh hưởng Hồi giáo). Hai tôn giáo này du nhập vào cộng đồng Chăm
ở hai thời điểm khác nhau.
Ngay từ đầu
công nguyên, Bàlamôn giáo du nhập vào Chămpa rất sớm và được người Chăm tiếp nhận. Người Chăm đã xây dựng các đền tháp thờ các vị thần:
Siva, Brahma, Vishnu,… Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh
Ninh Thuận: “có 117 vị thần linh chính
được thỉnh mời trong các lễ tục Chăm, trong đó, có những vị thần “bản địa” mang
đậm dấu ấn của chế độ mẫu hệ của người Chăm” như các đấng tạo hóa, thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar, thần Cha trời
Yang Pô Yang Amư, các vị vua – thần được thờ trong các tháp ở Ninh Thuận [30,31]. Theo Sayaka, “người Chăm tiếp thu đạo Bàlamôn và cải biến nó trên cơ sở bản địa hóa
tạo nên một đạo Bàlamôn mang sắc thái riêng Chăm” [31, tr.37].
Tuy nhiên, hệ thống thần linh của người Chăm Bàlamôn sau này không hẳn là
một hệ thống của tôn giáo Bàlamôn mà đã được bồi đắp chồng chất đời này qua đời
khác và đã hoà với các thần linh của tín ngưỡng bản địa. Đền tháp theo tôn giáo
Ấn Độ là đền thờ các đấng thần linh của Bàlamôn giáo, nhưng người Chăm đã biến
thành các đền thờ các nhân thần, có tên tuổi cụ thể như Po Rome, Po Klaung
Girai, Po Klong Chăn, v.v… Ngoài ra, trong các lễ thức dân gian gắn với văn hóa
biển và văn hóa nông nghiệp còn có các vị thần như Atâu Cơk (Thần núi), Po Tang
hok (Thần biển) v.v... Tương tự như đạo
Bàlamôn, khi du nhập vào cộng đồng Chăm, đạo Islam cũng bị biến đổi, tiếp thu
tín ngưỡng cổ truyền của người Chăm để trở thành Bàni giáo với những nét khác
biệt khác hẳn với Islam giáo chính thống.
Trong xã hội người Chăm ở Ninh Thuận, tôn giáo đóng một vai trò quan
trọng, chi phối hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong
cộng đồng. Tôn giáo trở thành tiêu chuẩn phân biệt các nhóm người Chăm, tang
lớp quy định các sinh hoạt tinh thần của họ. Chính chế độ đẳng cấp này đã ảnh
hưởng đến Islam giáo ở người Chăm Ninh Thuận, làm xuất hiện tầng lớp tu sĩ Chăm
Bàni.
Nói chung, hiện nay, người Chăm theo ba nhóm tôn giáo: nhóm Chăm Ahier
(ảnh hưởng Bàlamôn giáo), nhóm Chăm Awal (ảnh hưởng Hồi giáo) và nhóm Chăm
Islam (Hồi giáo chính thống). Nhưng người Chăm ở Ninh Thuận chỉ chịu sự tác
động của hai hệ thống tôn giáo là Bàlamôn giáo và Bàni giáo. Hai cộng đồng tôn
giáo này, tuy có mâu thuẫn nhưng không tách rời nhau mà luôn gắn bó chặt chẽ
với nhau. [66].
·
Nghệ thuật tạo hình Champa
Nền nghệ
thuật tạo hình của Champa chịu nhiều ảnh hưởng của nghệ
thuật tạo hình Ấn Độ. Đặc biệt nghệ thuật triến trúc và điêu khắc Champa là một
trong ba nền nghệ thuật kiến trúc điêu khắc nổi bật nhất của Đông Nam Á gồm
Ăngco, Java, và Champa. Trải qua nhiều thế kỷ, người ta đã được chiêm ngưỡng
kiến trúc đền tháp và điều khắc Champa mang vẻ đẹp kỳ vĩ, tuyệt mỹ nhưng
không được biết nhiều về nền hội họa chính thống của họ. Chỉ còn lại hội họa
dân gian không kém phần độc đáo, mang đậm tính dân tộc được lưu lại qua các
tranh thờ treo trong các lễ Rija, tranh vẽ trong các đám tang ma và
những hoa văn trang trí đặc sắc trên thổ cẩm của người Chăm ở Ninh Thuận.
Thành tựu
nổi bật nhất của văn hóa Champa là các công trình kiến trúc, điêu
khắc. Kiến trúc, điêu khắc Champa ngày nay đã trở thành di sản văn
hóa thế giới. Những di tích kiến trúc và điêu khắc Champa phần lớn có
liên quan đến đời sống tôn giáo và trở thành bằng chứng vật chất về lịch sử tư
tưởng của người Chăm [68, 69]. Trong khi tạo dựng nên những tháp Chăm kỳ vĩ với
một kỹ thuật còn là bí ẩn thì những tượng thần (shiva) và sinh thực khí (Linga –
Yoni) bằng đá hết sức tinh xảo và mang đầy cảm hứng nghệ thuật, người Chăm đã
bày tỏ niềm tin sâu sắc vào thế giới tôn giáo và những khát vọng sinh tồn mãnh
liệt vào chính bản thân mình.
Cho đến nay
những tác phẩm nghệ thuật Champa được tìm thấy chưa có tác phẩm
nào có niên đại trước thế kỷ thứ VII (SCN). Người ta cho rằng có lẽ là trước
thế kỷ này điêu khắc được thể hiện trên gỗ nên dễ bị hư hỏng do khí hậu khắc
nghiệt. Như vậy, trong nghệ thuật tạo hình còn nhiều khoảng trống mà ta chưa
phát hiện được và do đó, những yếu tố đầu tiên cấu thành bản sắc nghệ thuật Champa cũng chưa
được đánh giá đầy đủ.
1.2.
Văn
hoá trang phục Chăm
1.2.1.
Nghề dệt truyền thống
Từ ngàn xưa, người Chăm đã có một kho
tàng văn hóa đồ sộ và đặc sắc. Kho tàng ấy là một di sản văn hóa vô cùng phong
phú thể hiện qua nghệ thuật hát múa, lễ hội, các di sản tiêu biểu của nghề thủ
công truyền thống độc đáo như nghề dệt thổ cẩm và nghề làm gốm cổ truyền. Cư
dân Sa Huỳnh - tiền Chăm xưa ngoài kỹ thuật công nghệ chế tác đá, đồng, sắt, đã
tạo ra công cụ, vật dụng và vũ khí để sử dụng trong sản xuất săn bắn, khai thác
lâm, thủy sản, khai khoáng, làm đồ trang sức bằng đá, bằng thủy tinh... đặc
biệt là các nghề thủ công nổi tiếng là làm đồ gốm và dệt vải thổ cẩm sợi bông.
Cho đến bây giờ, các nhà nghiên cứu
vẫn chưa xác định được nghề dệt thổ cẩm Chăm hình thành và phát triển từ rất
lâu, gắn liền với một nền văn hóa đa dạng và phong phú. Một trong những tiêu
chuẩn đạo đức được Muk Thruh Palei (bà tổ quê hương) đặt ra cho phụ nữ Chăm là
phải thông thạo nghề dệt. Có thể vì điều này nên người phụ nữ Chăm nào cũng
biết dệt thổ cẩm, “Nó không chỉ đóng vai
trò quan trọng trong cuộc sống vật chất - một nhu cầu thiết yếu của con người
(ăn, mặc, ở...) mà nó còn chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần. Nghề dệt được xem như là một tiêu chí để hình thành một nhân cách, lối
sống của mẫu người phụ nữ Chăm lí tưởng” [70, tr. 64]: Nghề dệt thường được
người mẹ truyền cho con, từ đời này qua đời khác, truyền từ làng này sang làng
khác và có thể nói nghề dệt thổ cẩm được truyền bá đều khắp trong các làng
Chăm: từ Hữu Đức, Chung Mỹ, Văn Lâm ở Ninh Thuận đến các làng xa xôi nhất ở Bình
Thuận... Làng Mỹ Nghiệp (thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh
Thuận, (có tên Chăm là Ca Klaing). Làng nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm có lịch
sử phát triển lâu đời. Từ các cứ liệu này, chúng ta khẳng định rằng nghề dệt
thổ cẩm Chăm đã hình thành từ rất sớm và đã phát triển đến mức tinh xảo.
Nguyên liệu của người Chăm là bông,
tơ tằm... Người Chăm tự trồng lấy bông. Người Chăm có kỹ thuật lấy sợi và mắc
thanh cuộn sợi dọc đây là cả một qui trình khá phức tạp và công phu. Trước tiên
người thợ tách hạt bông trên giá tách rồi lấy cây cung bật bông bắn cho các thớ
bông bung ra. Sau khi bông được trải thành thớ mỏng, họ dùng thanh tre có một
đầu nhọn gọi là xa quấn tơ cuộn chúng lại thành từng con bông để rút và se sợi.
Phẩm
nhuộm: Được pha
chế từ nhiên liệu thiên nhiên như vỏ trái cây, trái cây, rễ cây, các chất tiết
ra từ côn trùng và đất, đá... Kỹ thuật nhuộm ngày xưa hầu như đã thất truyền và
không còn sử dụng nữa. Màu đen được nhuộm bằng lá chùm bầu, sau đó ngâm với bùn
non từ ba đến bảy ngày đêm liên tục. Màu nâu hoặc màu đỏ sậm lấy từ các loại vỏ
cây. Màu xanh từ cây chàm. Kỹ thuật dệt vải của người Chăm đã tiến bộ vượt bậc
so với các dân tộc khác. Trên khung dệt cổ thể hiện cùng một lúc kết hợp dệt
hai người với nhau và cùng dệt nhiều loại hoa văn vói nhiều kiểu dáng khác nhau
[30].
Hoa văn thồ cẩm Chăm: Hoa văn thổ cẩm
Chăm rất phong phú và đa dạng. Ngoài các hoa văn đã thất truyền, điểm độc đáo
của kỹ thuật dệt Chăm là: người Chăm không dùng kỹ thuật dệt thùa, cắt rời, lắp
ghép để tạo hoa văn trên vải mà họ dệt trực tiếp từng đường nét, môtíp hoa văn
trên nền vải do khung dệt qui định, kỹ thuật dệt chung không cho phép dệt được
những đường cong, tròn mà chi thay vào đó bằng hình ô vuông. Nhưng thợ dệt Chăm đã vượt xa về kỹ thuật, phá võ một nguyên lý dệt cổ truyền là đã tạo ra được những đường cong trên nền
vải thổ cẩm mà hình hoa văn ‘liêng Chăm” (hoa vẫn rồng biến thể là một bằng chúng).
Chính vì vậy mà hoa văn Chăm phong phú về kiểu dáng và loại hình. Người ta đã
tìm thấy khoảng 40 hoa văn các loại .Có hai loại hình hoa văn chủ yếu: Kiểu hoa
văn hình học và kiểu hoa văn cách điệu:
Hoa văn
hình học: Tập trung các nút chỉ tạo cảm giác thành các hình thoi, tứ giác. Các
đường kỷ hà được lặp đi lặp lại từ ngoài vào trong để tạo dáng hoa văn hoặc
nhắc lại các chu kỳ nhất định của các khối hình học. Người Chăm có sự quy ước
về loại hoa văn hình học này, khi bố trí trên toàn mặt vải hay thành các dải
song song như: hoa văn có tên gọi Bingumun (H.l.l) gồm các hình thoi lồng vào nhau, Brâu ( H.1.2)hoa
văn hình thoi được lặp lại từng khối. Các loại hoa văn này được bổ trí thành
những cụm... Ngoài ra còn có hoa văn Hum mư (H.1.3), Chah (H.1.4), Tâm um
(H1.5), Reh (H1.6),… được bố trí thành
từng dải song song, được chạy dài theo mặt sợi dọc. Lối trang trí ở hai đầu khổ
vải và hai bên đường biên tấm vải với nhiều hoa văn hình học, nhiều màu sắc tạo
nên những đường viền sặc sỡ và đẹp mắt (H.1.7).
Hoa văn cách điệu: là những mảng hoa
văn với các đường nét chấm phá, có thể nhận ra hình dáng nhiều loại Makarư, Girai (con rồng Chăm), người, Marak (chim công) (H. 1.9), Chim thần Garuda, (đã
thất truyền) thật sinh động và đẹp đẽ. Các dạng hoa văn Hoa lá (H1.8) cách điệu trên vải... Các cánh hoa cách điệu được bố trí thành
các dải xen kẽ trong toàn bộ mảnh vải.
Việc trang trí hoa văn trên các sản
phẩm của người Chăm có nhiều cách. Cách trang trí hoa văn trên vải Chăm còn
được kết hợp nhiều loại hoa văn hình học, hoa văn cách điệu thành những dải và
xen kẽ nhau tạo thành một mảnh hoa văn với nhiều dáng vẻ và màu sắc độc đáo
(H.10). Các kỹ thuật này bảo lưu nhiều yếu tố thủ công truyền thống của dân
tộc, đường nét một phần chịu ảnh hưởng các cư dân láng giềng, gần với kỹ thuật
"đan” của vùng Tây Nguyên. Nhưng hầu hết đều đã khẳng định
được mình, tạo nên bản sắc riêng đậm đà tính chất Chăm: phong phú, đa dạng và
độc đáo. Họa tiết ấy, gam màu ấy hiện hữu trên trang phục thể hiện rất rõ nét trình độ và tư duy thẩm mỹ của tộc người
Chăm – Ninh Thuận [16, tr.325]. Thổ cẩm Chăm chứa đựng “nhiều dân gian, bí quyết nghề nghiệp mang một dạng thức vô thể”
được “mẹ truyền con nói" [30.tr 221], là bí quyết nghề nghiệp được linh thiêng hóa bằng những nghi lễ. Nhưng
vẫn mang đậm sắc thái riêng và đạt đến mức độ tinh xảo.
Trang phục thổ
cẩm Chăm chỉ nhằm phục vụ cho các lễ hội cúng tế theo phong tục, tang lễ..... mang
đậm giá trị thẩm mỹ
của “hồn dân tộc” [67, tr.l10 ], tính độc đáo của dân
tộc. Một số ít sản phẩm khác từ vải thổ cẩm, nhằm đáp
ứng nhu cầu sử dụng thực tế, mở ra một hướng đi mới cho làng nghề truyền thống.
Các kiểu hoa văn trang trí cũng được cách điệu và đa dạng về chất liệu, sự tinh
xảo của các hình thức hoa văn cổ truyền mang nét đẹp đặc thù riêng của thổ cẩm
Chăm.
1.2.2.
Phân loại trang phục
Trang
phục là một trong những phương tiện để bảo vệ và làm đẹp cho con người, đồng thời
thể hiện phong tục tập quán, cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên
và phản chiếu đời sống xã hội. Trang phục là những vật phẩm mà con người mang
khoác trên cơ thể mình gồm áo, quần, giày dép, mũ nón, khăn vớ, găng tay, thắt
lưng, túi xách, bóp, đồ trang sức( vòng tay, bông tay, dây chuyền, đồng hồ...).
Người Chăm cũng phân biệt trang phục thành nhiều loại: trang phục trong ngày
thường, trang phục trong các lễ hội, trang phục theo giới tính (nam, nữ), trang
phục theo địa vị xã hội (tầng lớp thượng lưu, tầng trung lưu, chức sắc tôn
giáo, tín ngưỡng và tầng lớp lao động)...Trang phục là những sáng tạo của con
người. Con người đã tìm kiếm, trồng trọt để tạo ra nguyên liệu, làm sợi, dệt vải,
mai cắt, thêu thùa...để tạo ra các loại trang phục đặc trưng của giữa người
Chăm với các dân tộc khác trong khu vực đã hình thành các tiêu chuẩn thẩm mỹ
cho từng lứa tuổi, từng nhóm cộng đồng người Chăm.
Cộng đồng người Chăm ở miền Trung hiện nay đang tồn tại
ba giáo
phái: Bàlamôn, Hồi giáo Bàni và Hồi giáo Islam mới du nhập cách đây 40 năm. Đội
ngũ chức sắc hai giáo phái Bàlamôn và Bàni mà trong cách thể hiện quan điểm về
thái cực của mình hay gọi là Âm- Dương; Bàlamôn là Dương và Bàni là Âm, đều có
sắc phục vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Giống nhau về bản chất nhưng khác
nhau về chi tiết.
Vì vậy, chúng ta có thể phân chia trang phục truyền thống
của người Chăm theo 3 nhóm sau:
·
Trang phục truyền thống của
chức sắc tôn giáo
Chức sắc Bàlamôn:
Người Chăm
Ahier có bao nhiêu loại chức sắc tôn giáo? bao nhiêu chức sắc dân gian?. Tên gọi
là gì? Trang phục là cái để phân biệt cấp bậc chức sắc, khác nhau như thế nào?
Trang phục
nữ Chăm phải đề cập đến trang phục bà múa bóng Muh Pajau và Muh Rija (chức sắc
dân gian nữ - có vai trò rất quan trọng trong lễ nghi Chăm)
Giáo phái Bàlamôn ở Chăm còn gọi
là Shiva giáo, một loại hình đạo giáo được du nhập từ Ấn Độ, nhưng đã được Chăm
hóa thành tôn giáo bản địa. G.Maspéro, nhà sử học có uy tín người Pháp cho rằng:
“Tam vị nhất thể, Shiva là cội rễ của dân
tộc Chăm”. [7, tr.68,69].Trang phục của các vị chức sắc Bàlamôn được trang
trí hoa văn chủ yếu là “Akhăn mưthâm taibi” là loại khăn tấm, s = 1,2 X 0,5m, màu
trắng bằng vải dệt thủ công. Hai đầu tấm vải đính hai miếng thổ cẩm tua đỏ, hoa
văn “con rồng trắng” (Inư girai patith) (H. 1.9) cách điệu trên nền đỏ, hoặc hoa văn
“móng con chim diều hâu” (cakâw kalang) cách điệu, ngoài ra trên thổ cẩm còn có những
đường viền chạy song song nhiều màu như vàng, xanh và có khi lấp lánh
những sợi kim tuyến [16, tr.379].
Akhăn băr jih: là loại váy
đính thổ cẩm dệt trên khung bản địa hoa văn rồng trắng cách điệu hoặc đỏ trên
nền vàng. Akhăn băr jih trong cuộc sống tâm linh của cộng đồng Chăm có ý nghĩa
hết sức quan trọng là: Thể hiện sự uy quyền của chủ nhân trong đời sống phần
“hồn” của tín đồ Bàlamôn. Talẽi ka-ing: Đai thắt lưng được trang trí hoa văn có tên gọi là Tâm um (H. 1.5), hoa văn hình tứ giác lồng vào nhau, sợi màu vàng
cotton hoặc kim tuyến trên nền đỏ, đôi khi xen kẻ
những màu xanh, trắng trên nền đỏ [16, tr.80]
Aban bayôn: là loại váy tấm thổ cẩm, được
dệt cả mặt vải nhưng ở hai đầu khổ
vải dược dệt hoặc đính hoa văn khác. Cách
mặc bayôn được cố định một đầu ở bên hông phải, quấn sang trái quàng sau lưng
và đầu còn lại giắt vào cạp hông trái, như vậy phía thân dưới trước được hai
lớp váy chồng lên nhau. Mặc Aban bayôn thể hiện vai trò bề tôi của các thiên thần trong
các cuộc tế lễ, ngoài ra biểu thị sự trong sạch về thể xác lẫn tâm hồn.
Trang sức chưa thấy
trình bày
Tóm lại, trang phục truyền thống của
các vị tu sĩ Bàlamôn khá phong phú với gam màu đỏ. Tuy vậy gam màu này không
thể phát huy được hết khả năng của nó trên nền màu trắng do những gam màu xanh, vàng xen kẽ, nhưng một điều dễ
nhận biết là hai gam màu trắng đỏ với mảng lớn đã thể hiện hình tượng thần
quyền của tu sĩ Bàlamôn.
EM phải bổ sung Trang phục bà bóng Muh Pajau và
bà bóng Muh Rija như thế nào? 2 bà bóng đó là chức sắc gì? Thực hành
những nghi lễ gì? Giống nhau và khác nhau như thế nào? Người Chăm bảo quản
trang phục bà múa bóng đó như thế nào?
Trong lễ hội RiJa Pruang? Bà bóng sử dụng trang phục như thế nào? Em đọc thêm
các tư liệu viết thêm về vấn đề này?
Chức sắc Bàni:
Bên Bà Ni không có chức sắc dân
gian là nữ nên không cần đề cập đến nhiều.
Akhăn brăm: có
nơi còn gọi là Akhăn
đrăm hoặc Akhăn djrăm. Akhăn brăm là chiếc khăn tự dệt, màu trắng, hai đường viền dọc,
chiều dài bố trí hoặc có khi một loại, có khi nhiều hoa văn xen kẽ nhau thường là màu xanh, vàng, trắng trên nền đỏ. Hai đầu
mút người ta không đính vải băng thổ cẩm tua đỏ và thắt nút, đồng thời người ta còn thêu đan một
vài sợi ngang chỉ màu chạy song song phân cách.
Với chiếc Akhăn brăm, các vị chức sắc Chăm Bàni sử dụng rất linh hoạt: đội
đầu, choàng lúc làm lễ Thánh tẩy, thắt lưng lúc làm lễ mai táng, thậm chí để
thay phục trang sau khi tắm rửa.
Akhăn mưthâm taibi: còn được gọi là Akhăn mưthâm, chiếc khăn tấm tự dệt như
Akhăn brăm nhưng khổ vải hẹp hơn, và Akhăn mưthâm taibi đính bằng thổ cẩm tua
đỏ buông xuống hai vai khi đội như chức sắc Bàlamôn, nhưng hoa văn được bố trí
trên băng là hình con rồng cách điệu màu đỏ (Inư
girai mưriah) hoặc màu trắng ( Inư
girai patih), được đội thường xuyên trừ khi thực hiện thánh lễ.
Aw lăh: chiếc áo của chức sắc Bàni nói chung là chiếc áo dài
thụng màu trắng, xẻ ngực thẳng xuống, gài bằng 3 khuy hoặc cúc áo. Với màu áo trắng biểu tượng nổi lên mờ mờ như không
gian vũ trụ bao la mà người Hồi giáo gọi là “Alam”, nơi ngự trị của bậc chí tôn
chí đại Allah (Âwluah).
Chiếc Kakhẽi
hình tròn gồm ba bộ phận nối nhau. Hai phần trên đều dùng băng vải tự dệt xếp
hình tròn như nan hoa, phần dưới hình trụ cao chừng 3 phân tây, bên trong bằng
gỗ nhẹ, thường là trầm hương, ngoài bọc vải thổ cẩm hoa văn truyền thống như
hoặc những đóa hoa 4 cánh xen kẽ những miếng gương hình tròn li ti đính trên
kim sa hoặc hoa văn trên vải.
Akhăn bărjih: là loại váy tấm như chiếc váy
đính thổ cẩm, Akhăn bărjih của các vị chức sắc cao cấp Bàlamôn, nhưng chất liệu
phải là vải tự dệt trên khung Indonesian. Các đường viền đều đính băng hoa văn,
màu vàng, xanh trên nền đỏ, có hình con rồng cách điệu màu trắng trên nền đỏ
hoặc đỏ trên nền vàng.
Talẽi ka-ing: là chiếc đai thổ cẩm dùng để
thắt giữ chiếc váy khi mặc. Chiếc đai của các vị chức sắc Bàni nói chung không
khác gì với chức sắc Bàlamôn, hai đầu chiếc đai lưa thưa tua đỏ, hoa văn được
bố trí cả mặt đai, màu xanh, trắng, vàng trên nền đỏ.
Tóm lại, cái
chung nhất của trang phục truyền thống có bố trí hoa văn. Đường nét hoa văn cao
quí nhất của chức sắc Bàni là hình ảnh con rồng cách điệu màu trắng hoặc đỏ
(H.1.11)
·
Trang phục truyền thống của phụ nữ.
· Đây là phần nội dung chính nên phải trình bày rất kỹ.
Chăm
Bàlamôn:
Đưa trang phục hai loại bà bóng
vào đây
Trang phục lễ hội
Trang phục đời thường
Nên phân loại:
Các loại áo
Các loại váy
Các loại khăn, đai, dây thắt
lưng.
Đồ trang sức: Tai, tay, cổ, chân…
- Áo tah (áo dài): Loại áo này
ở phần trên thân áọ chạy dài từ vai xuống ngang bụng thì dừng lại. Phần thứ hai
từ ngang bụng đến qua đầu gối hoặc đến gót chân. Phần này cũng được may ghép
hai phần, ở mặt trước và mặt sau; hai cánh tay được nối lại với hai phần vai và
nách áo; và cuối cùng hai mảnh nhỏ đáp vào hai bên hông, người Chăm gọi bộ là
“Dua baong”
(H. 1.16,1.17). Cổ áo thường khoét lỗ hình tròn, bầu dục hoặc hình
trái tim., hình lá trầu. Do đó từng chiếc áo dài truyền thống Chăm ngày xưa chỉ
là những tấm vải ghép lại mà người may quay tròn để thành ống để bó thân người
mặc. Áo có nhiều màu khác nhau như màu trắng, đen, đỏ vàng... Nhưng mỗi cái áo
luôn có hai màu (đen, đỏ, xanh - trắng hoặc tím - vàng).
- Áo sah kamei (H.
1.3.3) là loại nữ phục được may bằng loại vải thô màu trắng, có xẻ một đường
dài từ dưói nách phải dọc xuống theo thân áo và một đường xẻ khác nằm xiên
chồng lên phần thân áo trước ngực tiếp giáp với phần cổ áo, tạo thành hình trái tim cho cổ áo. Khi mặc áo,
đường xẻ được kết dính lại với nhau bằng dây vải buột chặt dưới nách và hồng.
Đây là loại áo dành cho bà Pajau, bà Rija - nữ chức sắc trong lễ nghi,
tín ngưỡng của người Chăm Bàlamôm. Để phân biệt đẳng cấp bà Rija người ta dựa vào sắc phục. Áo màu
trắng là loại nữ phục đành cho bà Rija mới được tôn lên; Áo màu đỏ là
nữ phục dành cho bà Rija chính
(Pafruh
Rija).
Trang phục nữ giới, ngoài áo còn có
váy, (Aban, Akhan). Người Chăm có hai loại váy: váy kín và váy mở. Váy mở (Aban) là loại váy quấn bằng tấm vải, hai
mép vải không may dính vào nhau, khi mặc cạp váy được xếp vào và lận vào bên
trong giữ chặt eo hông. Còn váy kín (Akhan) thì hai mép
đầu vải được may dính vào thành hình ống. Phụ nữ lớn tuổi thường mặc váy mở (Aban) còn váy kín dành cho phụ nữ trẻ tuổi.
Chỉ có váy mở (Aban) có nhiều hoa văn trang trí và có may cạp váy, còn váy kín
thì không có hoa văn trang trí.
Phụ nữ Chăm sử dụng nhiều loại
khăn như khăn Kak, khăn Hluh, khăn Bram, khăn Maom, khăn Kama... tùy theo
phong tục của từng nhóm cộng đồng người Chăm.
- Khăn Kak (H. 1.16, 1.17) được phụ nữ trung niên, hoặc lớn tuổi
thuộc Chăm Ahiêr, Màu sắc khăn phổ biến là màu trơn xanh, vàng hoặc nâu. Khăn
hình vuông, được gấp chéo góc thành hình tam giác, đặt lên đầu, hai đầu khăn
được cột lại dưới cằm hoặc sau gáy. Ngoài ra còn có khăn girang là loại khăn
màu đỏ, bít hai đầu. Loại khăn này thường sử sụng trong các nghi lễ của người
Chăm.
- Dây thắt
lưng và đồ trang sức
Dây thắt lưng: các phụ nữ trẻ khi
mặc áo tah tham dự lễ hội thường choàng thêm dây thắt lưng chéo
trước ngực hoặc buộc quanh lung được phụ nữ Chăm dệt rất khéo có trang trí hoa
văn hình khối. Khăn có màu đỏ chủ đạo và được trang trí thêm bằng các màu xanh,
vàng.
Trang sức: Phụ nữ Chăm Ahiêr,
Chăm Bàni thường đeo hoa tai có đỉnh tua vải màu đỏ hình nấm, hình tròn, hình
vành khăn, làm bằng vàng, đồng thau và có đỉnh tua vải đỏ; đeo vòng cổ bằng xâu
chuỗi hột hình bầu dục, làm bằng vàng hoặc đồng thau, và đeo nhẫn có đính hột
đen được bao quanh bằng hoa 4 cánh.
Chăm Bàni:
- Áo (aw): chiếc áo truyền thống của phụ nữ Chăm
là chiếc áo dài chấm gót, chui đầu, 4 tà: trước sau và hai bên hông, các mảnh
ấy ghép nối với bốn đường may.
Những chiếc áo vá quàng
với những mảng màu lớn khác nhau ở mỗi bộ phận như tay, thân trên (ngực
và lưng) và thân dưới được xem là loại áo được trang trí hoa văn, ngược lại là
những chiếc áo dài cùng một màu hay gọi là áo trơn, thường là màu đen, xanh,
vàng (lá chuối non) và trắng. Tùy theo ở mỗi giáo phái mà “cách ưa chuộng” màu
khác nhau; người phụ nữ Bàni tinh khôi với màu áo trắng, và các gam màu lao
động: xanh biển hoặc xanh lá cây, các cụ bà hay chọn màu tím sậm hoặc nâu.(H
.1.12).
- Khăn Mbram (H. 1.19) là loại khăn quấn trên đầu của phụ nữ
Chăm Bàni. Khăn Mbrarn thường được
dệt bằng vải thô, màu trắng... có kích thước khoảng 120cm x 40cm, có may thêm
cạp vải hoa văn dọc theo hai mép khăn. Người Chăm Bàni xếp chiều rộng của khăn
gấp tư, quấn lên đầu, vòng từ sau ra trước, một phần trùm xuống đỉnh đầu, rồi
hai mép gập lại, buông chùng xuống hai tai. Thiếu nữ Chăm Bàni thường choàng
khăn Mbram trên cổ, hai đầu khăn buông xuống trước ngực. Nếu
trong gia đình đang chịu tang người thân, hai mép khăn thả ra phía sau gáy để
tưởng nhớ người quá cố.
· Trang phục truyền thống của
man giới
Trang phục nam: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc
dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng cỏ dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng
hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị
có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn
thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt
lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần đùi, ngoài quấn váy xếp (H. 1.13).
Áo ngắn nam truyền thống được may ghép vối 6 mảnh vải
khác nhau. Áo dài đến ngang mông, xẻ hai bên hông khoảng 2cm, phía trước có
những đường xẻ đính khuy và 2 bên vạt trước có 2 cái túi, cổ áo thường là cổ
con, tròn đứng, ôm sát cổ.
Áo dài nam truyền thống được dệt bằng vải thô màu trắng
và được may ghép bằng nhiều mảnh vải. Áo dài không xẻ thân phía trước, không có
hàng khuy mà chỉ xẻ một đường xuyên trước ngực, dùng dây để buộc thay nút. Áo
mặc chui đầu và phải dài đến đầu gối, áo này chính là áo truyền thống của đàn
ông Chăm nhưng hiện nay không còn mặc phổ biến, chỉ được mặc trong các nghi lễ.
Váy Chăm (Xà-rông): theo truyền thống từ xa xưa, tất
cả người Chăm đàn bà, đàn ông đều phải mặc váy. Tuy nhiên váy có nhiều loại
khác nhau. Vải dệt thổ cẩm thể hiện trên trang phục nam bình thường và nam quý
tộc cũng khác nhau. Dây thắt cũng phân biệt tầng lớp, cách buộc dây thắt lưng
là quấn một vòng thắt lưng rồi buộc gút lại, thả chùn 2 đầu có tua ra phía
trước.
Khăn đội đầu: Người đàn
ông bình thường sử dụng khăn dệt trơn bằng vải thô trắng, còn đàn ông quý tộc
đội khăn có dệt hoa văn quả trám. Họ quấn vòng lên đầu từ phía sau ra phía
trước. Đàn ông trẻ tuổi thì vắt khăn chéo vòng cổ qua vai.
1.3.
Nét
đẹp trong trang phục nữ Chăm ở Ninh Thuận
Mỗi một dân tộc đều có trang phục
truyền thống mang bản sắc riêng. Nét đẹp
con người và văn hóa Chăm thể hiện qua trang phục. Trang phục Chăm phong phú,
đa dạng về kiểu dáng, hoa văn, màu sắc. Chất liệu dùng để dệt vải chủ yếu sẵn
có trong thiên nhiên như bông, tơ tằm..., là những nguyên liệu vừa sẵn có vừa
nhẹ, mỏng, mặc thoáng, phù hợp với khí hậu nóng ẩm ở miền Trung Việt Nam. Đặc
trưng trang phục truyền thống Chăm mà chúng ta dễ nhận thấy nhất là loại áo bít
tà, kéo dài quá đầu gối, khoét cổ tròn, hình trái tim, được lắp ghép bằng nhiều
mảnh vải mang nhiều màu sắc khác nhau. Trang phục truyền thống thể hiện quan niệm thẩm mỹ và tư duy
sáng tạo của một cộng đồng, không có sự trùng lập về các chi tiết trên trang
phục với các tộc người khác ở những khu vực lân cận.
Trang phục là “tấm gương phản ánh
thời đại”. Trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, trang phục có những biểu
hiện khác nhau, phục thuộc vào các giai tầng khác nhau trong xã hội. Hiện tại,
trang phục Chăm tuy có những nét biến tấu riêng nhưng người Chăm ở vùng Ninh
Thuận vẫn duy trì được các yếu tố truyền thống trên trang phục của mình. Yếu tố
truyền thống ấy thể hiện trên trang phục chức sắc tôn giáo, trang phục nữ giới,
nam giới qua những chiếc sarong, chiếc đai thắt lưng, chiếc áo dài, chiếc khăn
đội đầu hay cả trong trang phục lễ hội và sinh hoạt đời thường.
1.3.1. Trang phục trong lễ hội
Trang phục nữ Chăm Ahier
(Bàlamôn) tham dự lễ Katê (ngày 1 tháng 7 Chăm lịch), lễ Cabur (tháng 9 Chăm lịch)... trên
các tháp, hoặc trong các ngày lễ của dòng họ, xóm làng thường mặc áo Tah, váy (ban hoặc khan), quấn khăn với những màu sắc
tươi sáng, làm sinh động thêm không khí ngày hội. Nhiều thiếu nữ Chăm Ahier đeo
hoa tai có đính tua vải màu đỏ, đeo nhiều vòng tay, nhẫn vàng, choàng lên vai
chéo qua ngang ngực và lưng một dải băng ngang, trên đó có dệt hoa văn
(taleibak) làm tăng thêm vẻ đẹp độc đáo của chiếc áo tah người Chăm. Trang phục
truyền thống với kiểu dáng và màu sắc khác nhau của người Chăm trong các lễ hội
tạo nên nét độc đáo riêng của cộng đồng Chăm.
Trang phục nữ Chăm Awal (Bàni), khi đến thánh đường
thường mặc trang phục truyền thống gồm áo aw trắng, váy khan, khăn Mbram thường vắt
trên vai phải; khi làm lễ, khăn Mbram
được quấn ngang ngực với quan niệm đang nói chuyện với thần linh, tôn kính thần
linh. Trang phục tham dự tại thánh đường phải là màu trắng thể hiện sự tôn
nghiêm, trong sạch, sự linh thiêng... lòng thành kính đối với thần thánh. Trong
các nghi lễ tại gia đình hay trong cộng đồng, phụ nữ Chăm Bàni thường mặc trang
phục truyền thống với các màu xanh, đỏ, tím...tuỳ theo độ tuổi và sở thích.
Trang phục phụ nữ Chăm Ahier và phụ nữ Chăm Awal ở
Ninh Thuận và cơ bản gần giống nhau về kiểu dáng cũng như về màu sắc (H. 1.16,
1.17). Trang phục hành lễ, phải sạch, kín đảo để tỏ lòng thành kính đối với Allah (H 1.18). Phụ nữ
mặc trang phục che kín cơ thể sẽ tránh làm ảnh hưởng đến nam giới đang cầu
nguyện. Ngày nay trang
phục Chăm có nhiều biến đổi, trang phục truyền thống của người Chăm
chỉ còn một số ít được sử dụng trong các lễ tục cúng tế. Trang
phục truyền thống chỉ còn sử dụng ở các cụ già và các vị chức sắc
tôn giáo, tín ngưỡng.
Trang phục truyền thống Chăm đa
dạng trong sắc thái biểu hiện. Nó đã trãi qua nhiều thời đại lịch sử khác nhau,
cùng ảnh hưởng nhiều yếu tố văn hoá khác nhau. Cho đến nay, mặc dù
có nhiều sự biến đổi, lai căng và có nhiều sự tác động, ảnh hưởng
từ yếu tố bên ngoài nhưng trang phục Chăm vẫn còn lưu giữ một phong
cách riêng, phong cách ấy đã góp phần quan trọng hình thành nên bản
sắc văn hoá Chăm mà không lẫn lộn được với các dân tộc khác.
Tóm lại
khăn đội đầu của phụ nữ thường dệt trơn bằng vải thô trắng có dệt loại hoa văn
quả trám (Bingu tamun) cùng màu trắng trên phủ kín mặt vải. Còn các loại khăn
khác được dùng cho phụ nữ trong hàng ngủ chức sắc cũng như để họ mặc cùng với trang phục trong
các nghi lễ. Người Chăm thường quấn lên đầu, vòng từ sau ra trước, một phần
trùm xuống đỉnh đầu, rồi hai mép gập lại, buông chùn xuông hai tai. Ngày nay
việc đội khăn truyền thống chỉ còn lại ở phụ nữ lớn tuổi trong những dịp lễ
hội.
1.3.2.
Trang phục trong sinh
hoạt đời thường
Mục này phải bổ sung vì viết đơn điệu quá
Trang phục người Chăm hiện nay
đang hướng dần ảnh hưởng trang phục phương Tây. Phần lớn phụ nữ Chăm
còn giữ được trang phục truyền thống còn lại một số phụ nữ trẻ
Chăm đã bắt đầu thay dần cái váy bằng cái quần tây, quần jean và áo
sơ mi (H.1.20). Họ chỉ sử dụng trang phục truyền thống trong các dịp
lễ hội.
Trong điều kiện lao động, học tập, lao động trên ruộng nước, đất rẫy khô, sinh sống cùng với các cộng đồng dân tộc khác... người đàn bà Chăm vẫn mặc trang
phục truyền thống của mình. Họ không mặc trang phục màu trắng trong
lao động mà chủ yếu là sử dụng vải màu, loại vải cũ trơn, không có
thêu hoa văn. Ngày nay các
thiếu nữ Chăm đã tiếp thu, ảnh hưởng phong cách mặc của người Kinh, ảnh hưởng
phong cách mặc của phương tây.
Những biến đổi trong trang phục phụ nữ Chăm vừa tuân thủ quy luật vận động
của cuộc sống, vừa tuân theo quan niệm thẩm mỹ của giới nữ người Chăm. Sự biến
đổi vừa phù hợp với nhu cầu thị hiếu thẳm mỹ hiện đại vừa phù hợp với quan niệm, tiêu chuẩn truyền thống trong
trang phục là hai yếu tố kết hợp chặt chẽ, chi phối quá trình phát triển của
trang phục từ truyền thống đến hiện đại, từ cá nhân đến xã hội.
1.3.3. Đặc trưng trang phục nữ Chăm ở Ninh Thuận
Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam, có ba nhóm người Chăm, sinh sống ở ba
khu vực khác nhau: người Chăm Hroi ở các tỉnh phía bắc Khánh Hòa, người Chăm
Ahiêr (Balamôn) – Awal (Bàni) ở Ninh Thuận, người Chăm Islam phân bố chủ yếu
Tây Nam Bộ. Người Chăm Islam cũng phân bổ ở Ninh Thuận nhưng với số lượng rất
ít so với cộng đồng người Chăm Ahiêr – Awal.
Ứng với mỗi nhóm phụ nữ Chăm là một loại trang phục khác nhau về tạo
hình. Nhìn chung, trang phục phụ nữ Chăm Ahier, Awal, ở Ninh Thuận giống nhau ở
chiếc áo dài chui đầu, bít tà, thân gồm bốn mảnh, hai mảnh nhỏ hơn ở hai bên
sườn. Chiếc áo dài phổ quát trong trang phục thường dân. Ngoài ra, chiếc áo dài
này còn là trang phục của chức sắc tín ngưỡng dân gian Muk Rija, Muk Pajau, Muk
Puk. Tuy nhiên, màu đỏ là màu đặc trưng riêng của Muk Rija, màu trắng là màu
đặc trưng của bà Muk Pajau, Muk Puk; những người dân thường không được mặc hai
loại màu sắc ấy.
Trang phục Chăm rất phong phú và đa dạng về kiểu dáng, hoa văn,
màu sắc. Chiếc váy là trang phục
truyền thống của người Chăm ở Ninh Thuận. Chiếc váy tổ hợp nhiều màu sắc và hoa
văn khác nhau trên nền vải đen hoặc chàm. Điểm khác biệt ở chiếc váy của mỗi
giai tầng trong xã hội Chăm là ở đầu biên vải. Với dân thường, diềm vải đỏ sổ
dọc hai bên sườn váy. Với chức sắc, trên nền diềm vải đỏ còn xuất hiện những
hoa văn khác nhau.
Trang phục Chăm
chủ yếu là dùng chất liệu sẵn có trong thiên nhiên như bông, tơ tằm...
dùng để dệt vải hầu như không dùng nguyên liệu từ da, lông của súc
vật. Những nguyên liệu vừa sẳn có vừa nhẹ, mỏng mặc thoáng. Phù
hợp với khí hậu nóng ẩm ở miền Trung Việt Nam. Trong cách may cắt
quần áo, thường là may áo xẻ ngực, không có cổ, váy áo may rộng,
không bó sát người. Về loại hình y phục, các kiểu may, mặc của
người Chăm cũng theo lối quấn, choàng là phổ biến hơn cả. Đó là cái
váy mảnh, xà rông, tấm choàng, tấm trùm... thực chất đó là những
mảnh vải có kích thước khác nhau, khi mặc có chung một cách là
choàng, quấn quanh cơ thể, kể cả áo dài Chăm thực chất cũng là tấm
vải may quay tròn thành hình ống bao quanh cơ thể con người.
Đặc trưng của trang phục Chăm là không trang trí hoa văn trên nền
vải áo. Hoa văn trên trang phục Chăm chủ yếu là được trang trí từng
mảnh vải rồi may ghép vào các bộ phận của trang phục như loại cạp
váy, dây thắt lưng. Loại này dùng để may dính vào cạp váy, vào khăn
trùm đầu, khăn mặt, chỉ có váy phụ nữ Chăm, hoa văn được trang trí
cả trên cạp váy và trên nền vải. Hoa văn trên trang phục Chăm chủ yếu
là hoa văn quả trám, hột đậu ván, hạt lúa nổ, mắt gà, hoa văn neo
thuyền, hoa văn mắc lưới…
Trang phục Chăm có màu sắc phong phú. Người Chăm luôn đề cao màu trắng nhưng không khắt khe
với các màu sắc khác tạo nên sự phong phú về màu sắc trong các trang phục dân
tộc. Ngày nay, màu sắc trong trang phục Chăm phong phú hơn, những gam màu tươi
sáng thể hiện sự tươi trẻ, năng động ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Hằng ngày,
phụ nữ Chăm thường mặc những gam màu sáng không có thêu hoa văn. Trong trang trí người Chăm không
pha trộn bất cứ màu nào khác với nhau nhưng họ có nghệ thuật phối màu
riêng trên nền vải. Phần
lớn hoa văn, họa tiết trang trí trên những bộ trang phục của người Chăm chỉ
dành cho các chức sắc mặc trong các nghi lễ, dùng may đồ tang, đồ mặc cho người
chết thể hiện nét truyền thống của dân tộc trên ban, khan, cạp váy, dây
thắt lưng,... rất phong
phú như hình khối (vuông, tròn, tam
giác,...), hình con rồng (khan
tham Inư girai), hình trái đậu ván (khan tham baoh ribai), khan biyon,
khan tham tuah (trun). Dây thắt lưng bằng thổ cẩm với các họa
tiết trang trí hoa văn hình khối vẫn được sử dụng trong trang phục của nữ giới
trong các lễ hội. Còn
trang phục của các chức sắc tôn giáo, thầy cúng, các cụ già thường
là mặc áo trắng. Màu trắng còn tham gia vào trong tang lễ, kể cả
trang phục người bị tang và đồ liệm cho người chết đều có mặc màu
trắng. Nếu so sánh với màu khác tỉ lệ sử dụng trang phục màu trắng
của người Chăm trong tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ hội hè, đám tang...
có yếu tố trội hơn.
Màu sắc của trang phục Chăm, ngoài mục đích trang trí để diễn
đạt cái đẹp của thiên nhiên, con người, thì màu sắc trên trang phục
của người Chăm còn thể hiện tính phồn thực. Sự phồn thực ấy chính là hai mảng
màu đối lập, trái ngược nhau giữa màu lạnh và màu nóng.
Điểm khác biệt lớn nhất trên trang phục các
nhóm phụ nữ Chăm là chiếc khăn choàng đầu ở cách quấn khăn, cách trang trí, hoa
văn dệt,… Phụ nữ Chăm Ahier quấn khăn theo lối chữ nhân, hai đầu khăn được vắt
về phía sau, trong khi phụ nữ Chăm Awal phủ khăn lên đầu, buông rủ hai đầu khăn
xuống vai. Do lối, quấn khăn khác nhau nên cách trang trí, nhấn nhá trên khăn
cũng khác nhau. Phụ nữ Chăm Ahier viền các đường chỉ khác màu ở hai đầu khăn;
trong khi đó, phụ nữ Awal đặt hai sọc đường diềm chạy song song theo biên vải.
Đai thắt lưng là điểm nhấn trên trang phục các thiếu
nữ Chăm trong các ngày hội. Thắt lưng gồm hai chiếc, một vắt qua vai, hai quấn
quanh bụng. và còn được quấn trên chiếc áo dài truyền thống của
người Chăm Ahier trong các dịp lễ ở đền tháp hay trong các dịp tết, trong ngày
tảo mộ của người Chăm Awal. Đẹp nhất là đai thắt lưng có hoa văn hai mặt giống
nhau được dùng cho những người có địa vị cao trong xã hội. (giai cấp quí tộc). Trước
đây, có sự khác biệt ở chiếc đai thắt lưng của từng nhóm người trong xã hội.
Hiện nay, chiếc đai thắt lưng được sử dụng một cách phổ cập hơn. (người dân
thường trước đây chỉ mặc thắt lưng trắng trơn, ngày nay họ mang thắt lưng có
nhiều hoa văn với những gam màu sặc sỡ mà trước đây chỉ dành riêng cho vua,
quan và giới chức sắc, tăng lữ).
Ngoài trang phục, phải kể đến trang sức Chăm. Hầu hết các di
chỉ nằm trên địa bàn cư trú người Chăm như văn hoá Sa Huỳnh đều tìm
thấy nhiều đồ trang sức mà phổ biến là khuyên tai, xâu chuỗi, còng
tay, nhẫn và vòng tay được chạm trổ
hết sức tinh tế được các thiếu nữ Chăm Awal phô bày trong ngày lễ. Trong khi
đó, chiếc khăn vắt qua vai là vật không thể thiếu của chức sắc. Đó là chiếc
khăn có hai đầu khăn gắn biên vải đỏ, thêu dệt hoa văn màu vàng, có tua chỉ đỏ
buông rủ ở hai đầu khăn. Ngày nay một số đồ trang sức ấy đã biến
mất, một số còn lại không khác xa mấy nhưng đơn giản hơn. Người Chăm
ngày nay vẫn còn thích đeo khuyên tai có đính tua vải màu đỏ, cổ đeo
xâu chuỗi, còng tay và ngón tay đeo nhẫn, đặc biệt là chiếc nhẫn Mưta
đã trở thành biểu tượng mang đặc trưng riêng của cộng đồng, phản ánh
linh hồn và bản sắc của dân tộc Chăm. Như vậy, trang sức người Chăm
hiện nay tuy đơn giản nhưng cùng với y phục, đến lượt mình trang sức
góp phần đáng kể trong việc hình thành trang phục Chăm phong phú đa
dạng.
Tiểu kết
Trang phục Chăm không chỉ là đáp ứng nhu cầu che thân, mặc đẹp
và biểu hiện cảm xúc thẩm mỹ, mà trang phục Chăm còn chứa đựng
nhiều yếu tố văn hoá tinh thần và văn hoá xã hội. Thông qua trang
phục của người Chăm, có thể phân biệt tầng lớp xã hội, đẳng cấp
của các chức sắc tôn giáo, phân biệt người giàu sang, kẻ nghèo hèn,
đàn ông và đàn bà. Chẳng hạn, chức sắc tu sĩ mới được mặc váy,
trùm khăn bằng loại hoa văn hình rồng và buộc dây lưng có dệt hoa văn
hai mặt, còn tu sĩ bình thường chỉ mặc váy, khăn không dệt hoa văn.
Các loại hoa văn và cách thức thể hiện hoa văn trên trang phục của
người Chăm đều theo qui tắc nhất định, thể hiện đựợc thẩm mỹ, phong
tục tập quán, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội Chăm. Không
chỉ dừng lại ở đó, trang phục Chăm còn hàm chứa trong đó một số
nội dung, giá trị phong phú. Nội dung ấy, ghi nhiều dấu ấn văn hoá
trên nhiều bình diện khác nhau. Qua trang phục, từ cách may mặc, cho
đến hoa văn là một bộ phận cấu thành, mang tín hiệu đặc trưng của
trang phục cho thấy, người Chăm sinh sống bằng nghề trồng lúa nước
được biểu hiện bằng những hoa văn trên trang phục như hoa văn quả trám,
hoa văn hạt lúa, hoa văn hình dích dắt, răng cưa tượng trưng cho núi,
cho sông nước và nghề đi biển như trang phục màu trắng có hoa văn mỏ
neo, hoa văn mắc lưới. Họ là cư dân nông nghiệp với tín ngưỡng đa thần,
thờ thần mặt trời (hoa văn 8 cánh trên trang phục, chiếc nhẫn Mưta là
hình mặt trời), thần núi, thần sông.
Trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng và đa dạng về sắc thái
biểu hiện. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con
người (ăn, mặc,ở...), thể hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán,
giới tính, giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội Chăm mà nó
còn tạo dấu ấn độc đáo của dân tôc, phản ánh đầy đủ về sắc thái,
diện mạo một nền dân tộc Chăm. Trang phục Chăm chính là kho tàng tư
liệu phong phú, kho tàng ấy không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất
đơn thuần mà nó còn mang một giá trị văn hoá, lịch sử, nghệ
thuật... của người Chăm, một dân tộc đã có một thời phát triển rực
rỡ ở khu vực Đông Nam Á.
Chương 2
NÉT ĐẸP TRANG
PHỤC TRUYỀN THỐNG NỮ CHĂM TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA MỸ THUẬT VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI
Trong lịch sử,
người Chăm đã ảnh hưởng văn hoá nghệ thuật Ấn Độ nhưng họ đã kết hợp với văn
hoá bản địa của mình trong sáng tạo mỹ thuật tạo nên nét độc đáo riêng. Theo
ghi nhận của mỹ thuật tạo hình Chăm ngày nay rất nhiều nghệ sỹ dân tộc hoạt
động nghệ thuật trong lĩnh vực hội hoạ, điêu khắc như hoạ sỹ Đàng Năng Thọ, Chế
Kim Trung, Đàng Lưu Chế Định, Huỳnh Đăng Viên. với nhiều hoạ sỹ khác trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Những hoạ sỹ này, với tình yêu nghệ thuật đã tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật ca ngợi con người nói chung và ca ngợi người phụ nữ
nói riêng của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận qua những tác phẩm hội hoạ mang đậm bản
sắc dân tộc.
Nghệ thuật tạo hình của Champa chịu nhiều ảnh hưởng của nghệ
thuật tạo hình Ấn Độ, nhưng họ đã kết hợp với văn hoá bản địa của
mình trong sáng tạo mỹ thuật tạo nên nét độc đáo riêng. Trải qua nhiều thế hệ. Các nghệ sỹ tìm
tòi khai thác mọi khía cạnh của cuộc sống. Nhiều họa sĩ hoạt động nghệ thuật
trong lĩnh vực hội hoạ, điêu khắc như hoạ sĩ Đàng Năng Thọ, Chế Kim Trung, Đàng
Lưu Chế Định, Huỳnh Đăng Viên. Cùng với nhiều hoạ sỹ khác trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Bằng với tình yêu nghệ thuật đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
ca ngợi con người khai thác mọi khía cạnh đẹp từ thiên nhiên, con người và cuộc
sống với những nét văn hóa truyền thống, những nét nguyên sơ, thuần phác. Từ
những trang phục truyền thống của các đồng bào dân tộc nhưng cũng nói lên nhiều
giá trị thẩm mỹ, mang đậm
tính dân tộc được lưu lại qua những cách khai thác khác nhau trên
nhiều chất liệu khác nhau. Vẻ đẹp trên trang phục của người phụ nữ Chăm mang vẻ
đẹp tổng hòa trong hình tượng người phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận.
2.1.
Nét
đẹp trang phục nữ Chăm trong hội hoạ
Trong giai đoạn giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay,
với hoạt động bảo tồn di sản văn hoá. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã có những
bước đổi mới trong sáng tác và nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu văn hoá dân
gian và đạt được nhiều thành tựu nhất định. Dưới đây là một số họa sĩ sáng tác
tác phẩm của mình với tư duy tạo hình, ý định thể hiện tác phẩm hội hoạ
mang nét đẹp của trang phục.
Hoạ sỹ Chế Thị Kim Trung là nữ họa sĩ dân tộc Chăm rất được quen biết
trong cộng đồng nghệ thuật Việt Nam. Theo Lê Quốc Bảo, nghệ thuật sơn dầu của Chế
Kim Trung ít hay nhiều đã làm chủ được chất liệu, biết khai thác hình sắc vốn
có của quê hương và cách điệu hóa hình tượng nhân vật theo mô típ tượng Chăm,
biết kế thừa nét tinh hoa nghệ thuật dân tộc theo quan niệm tạo hình ngệ thuật hiện
đại. Tất cả nhằm khắc họa cho được cảm hứng sáng tạo chủ đạo - Con người và cảnh
vật dân tộc Chăm. Nói rộng ra là không gian văn hóa-lễ hội dân tộc Chăm.
Những tác phẩm hội họa của Chế Kim Trung thể hiện
nhiều đề tài mang giá trị truyền thống của nguồn cội văn hoá Chăm Pa. Đó là văn hóa vật thể và
phi vật thể còn mãi được lưu giữ bảo tồn ở quê
hương Ninh Thuận của chị như kiến trúc đền, tháp, các lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng. Chính ở
mảng đề tài này chị đã gặt hái được nhiều thành công và trở thành hiện tượng
Chăm thật riêng, thật độc đáo trong hội họa đương đại. Có thể nói, lễ hội dân
gian Chăm là nguồn cảm hứng sáng tạo hội họa vô tận của Chế Kim Trung với nhiều
cung bậc cảm xúc thẩm mỹ khác nhau.
Trong những tác phẩm “Lễ hội Rija Praung” (sơn dầu),
(H.2.1) Chế Kim Trung vẽ lễ hội Rija Praung tôn chức vũ sư vùng biển (Rija
Praung Atau tasik) với hình ảnh vũ sư đang múa đu đưa trong nghi lễ với trang
phục áo dài truyền thống phong phú, giàu bản sắc. Cô gái (Muk Rija) mặc trang phục
truyền thống của nghi lễ dòng biển là áo dài Chăm màu vàng, váy trắng, đeo hai
dây thắt lung hoa văn thổ cẩm. Những điệu hát thánh ca và giọng điệu vải chài
với những trò diễn mộc mạc nhưng không kém phần vui nhộn. Hòa cùng điệu múa
mừng vui của các chàng trai, cô gái Chăm sôi động cuốn hút trong âm vang của
điệu nhịp trống Giăng, trống Baranưng cùng giai điệu của kèn Sanarai vang lên rộn
ràng trong không khí lễ hội. Nó hòa quyện vào nhau tạo thành một giai điệu âm
nhạc khơi dậy từ tiềm thức tâm linh của con cháu trong gia tộc thể hiện niềm
biết ơn sâu sắc đối với thượng đế, thần linh và đất trời đã phù hộ cho gia tộc
được sung túc bởi mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình hạnh phúc,
bình an.
Hội họa của chị người xem có thể
nhận ra những trang phục áo dài sắc màu Chăm vừa rực rỡ, vừa trầm buồn và như
thể nghe được cả những tiếng trống paranưng, tiếng kèn saranai trong tác phẩm
“Nghệ nhân nhạc cụ Chăm” (H. 2.2) trình tấu chung với đàn Kanhi ở trên đền tháp
qua vũ điệu Chăm trong những ngày lễ hội. Tổng
thể bức tranh là một gam màu nóng, điểm nhấn là những nhân vật với trang phục màu sắc trắng,
đỏ, vàng, xanh truyền thống cùng với nhạc cụ
dân tộc. Tác phẩm “Tình quân dân” (H. 2.3) với cách bố trí bố cục giống nhau,
nhưng thay vào đó là nhân vật người lính. Ngoài ra hàng loạt tác phẩm hội họa của
Chế Kim Trung như: “Tục cưới Chăm Bàni” (H. 2.8), “Lễ hội đầu năm” (H. 2.4),
“Lễ cầu mưa” (H. 2.5), “Lễ hội KaTê” (H. 2.6), “Vũ điệu Chăm”, “Lễ Ka Rơk”
(H.2.7), “Nguồn sống” (H. 2.9), “Bến nước” (H. 2.10)... Trong đó tác phẩm “Lễ
hội KaTê”, bằng chất liệu sơn dầu được giới chuyên môn đánh giá cao, (đoạt giải
A chuyên ngành Mỹ thuật của Hội Văn học – Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam năm 2003 và nhận giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học
– Nghệ thuật Việt Nam năm 2013). Tác phẩm đi sâu vào
diễn tả nhân vật một cách gợi tả nhẹ nhàng, để diễn tả không gian múa hát trong
nghi lễ với những hình ảnh gần gũi, tiêu biểu đặc trưng trang phục truyền thống
nhất như váy, áo, khăn, đai thắt lưng thổ cẩm của những vật dụng gắn liền với
người phụ nữ Chăm. Ở đây người xem cảm nhận được sự nhịp nhàng, uyển chuyển qua
nhân vật nam mặc áo đỏ cầm cây roi múa ở giữa tranh. Bức tranh gắn trong tổng
thể không gian nghiêng mình múa hát từ những hình ảnh múa quạt, trống Baranưng, Ginăng, kèn Sanarai
tấu nhạc trong lễ hội Katê. Thông thường khi
vẽ về người dân tộc Chăm các họa sĩ thường khai thác vẻ đẹp của trang phục bằng
những màu sắc mạnh tạo ấn tượng thị giác, nhưng với họa sỹ Chế Kim Trung là
cách diễn đạt với những mảng màu êm dịu tạo cho trang phục của người phụ nữ
mang cả tính cách của họ nhẹ nhàng, tạo cho bức tranh mang vẻ đẹp của tổng thể
hài hòa. Bên cạnh
tranh họa sỹ Chế Thị Kim Trung còn có hoạ sỹ Tô Hoài Đạt cũng quan tâm đến đề
tài người Chăm qua tác phẩm ”Múa Bóng” (H. 11) cũng xuất hiện điệu múa dân gian
mang nét tinh hoa của nghệ thuật Chăm, với kỹ thuật gợi tả tạo nên chất mộc mạc,
thô đậm chất Chăm.
Ở tác phẩm “Lễ hội người Chăm” (H. 2.12) sơn dầu của hoạ sỹ Lương Định
Quốc. Tác giả đã đưa rất nhiều nhân vật vào tranh bố và với bố cục người thành
hai nhóm, đã đưa người xem có cảm giác rất nhiều người phía sau. Nhóm bên phải là
những vị chức sắc tín ngưỡng dân gian Chăm trong trang phục trắng truyền thống
đang tấu nhạc: nhóm bên trái là những phụ nữ trẻ Chăm đang múa quạt đứng ở giữa
tranh( lễ múa Rija). Tác giả cảm nhận về những người phụ nữ Chăm bằng một tình cảm chân
thật, từng gương mặt các cụ già mỗi người một vẽ suy tư, tôn sùng, đăm chiêu
trìu mến đầy thương cảm. Những trang phục truyền thống, điểm siết bằng những
hoa văn nhiều sặc sở. Những người phụ nữ dân tộc Chăm trong tranh của Lương
Định Quốc có thể
khiến ta cảm nhận được sự chân thực trong cuộc sống bình dị nơi chỉ có gió và
cát. Trang phục trắng sáng trong tranh của ông cũng không chói lóa, nó diễn tả
cái nhìn tâm trạng, được cảm nhận và xây dựng từ cảm xúc riêng của người nghệ
sĩ đa cảm. Nét mặt diễn tả nhiều cảm xúc khác nhau toát lên nét ấm áp, tình cảm
giữa người với người. Nhân vật trong tranh ngồi quần tụ múa hát với ba nhạc cụ Baranưng, Giăng và Saranaii,
làm cho buổi lễ rộn ràng nhưng không kém phần trang nghiêm.
Tác phẩm “Lễ hội Ramưwan” (H. 2.13) của
hoạ sỹ Mai Anh Dũng tác giả thể hiện được buổi lễ trang nghiêm. Bố cục chia
ba phần: chính giữa là hình tượng thần
Vishnu, phía dưới là thầy Chang với trang phục trắng truyền thống, những chức
sắc tôn giáo của người Chăm theo đạo Bàni đang cúi đầu khấn nguyện. Ở phần hai
bên, những phụ nữ Chăm trong trang phục lễ hội nhiều màu sắc với khăn trùm đầu
trắng dài và rộng đang đội mâm lễ vật; đang làm những động tác váy lạy mời tổ
tiên ông bà về dự lễ...những vị chức sắc tôn giáo và tín ngưỡng dân gian đang
tấu nhạc ngợi ca mừng thần và đón nhận vật lễ dâng cúng trên mâm cao đặc trưng
mang đậm màu sắc của người Chăm đươc thể hiện trong tranh. Bức
tranh thể hiện bút pháp đậm chất hội họa tạo nên vẻ đẹp hài hòa cùng với giá
trị nghệ thuật tín ngưỡng đặc sắc. Cách khai thác trang phục truyền thống của
người Chăm rất mạnh mẽ, không đi sâu vào các chi tiết mà chỉ là những dáng vóc,
màu nổi bật nhằm tạo ra không khí cho ngày lễ. Các hình dáng trong tranh là sự
xấp xếp và chắt lọc tối đa nhưng không gây cho người xem cảm giác khô cứng mà
rất mềm mại nhờ cách sắp xếp bố cục của những mảng lớn, kết hợp một chút chi
tiết và màu sắc làm nổi bật lên hình ảnh những người phụ nữ trong lễ hội nhưng
mang nhiều giá trị truyền thống. Tác giả có sự sáng tạo ở thủ pháp tạo điểm
nhấn, đặt nhóm nhân vật với màu sắc đậm trên nền màu sắc sáng. Sự cách tân mạnh
mẽ tính đối lập tạo cho không gian tranh có cảm giác xôn xao, náo nhiệt nhưng
không rối mắt người xem. Nó mang màu sắc nhẹ nhàng qua những nét trang phục
truyền thống gắn kết với hoạt động sống trong một không gian thường ngày. Những
hình ảnh trong tranh giàu chất hiện thực được khắc họa rất tinh tế, tác phẩm
mang một vẻ đẹp của tổng thể hoàn chỉnh của màu sắc, hài hòa.
Song song đề tài này tác phẩm “Thăm mộ người Chăm” (H. 2.14) tác giả cũng
thể hiện với lối bố cục tượng thần ở giữa hai bên là những nhân vật nam, nữ
trong bộ trang phục truyền thống đang váy lạy, khẩn cầu tổ tiên về dự lễ. Phụ
nữ Chăm khăn trùm đầu trắng dài và rộng quấn quoanh thân khi váy lạy. Bên cạnh
là những thầy Chang ngồi trên chiếu, những khây lửa trầm đặt ở phía trước gợi
lên không khí tâm linh. Thầy Chang trong tranh Mai Anh Dũng cho người ta thấy
được đặc điểm y phục của vị tu sĩ Po Achar qua chiếc áo trắng rộng, khăn trắng
quấn trên đầu to rộng, túi nhỏ đựng trầu cau và dải khăn màu được kết hoa văn
đeo trước ngực là đặc trưng của y phục tu sĩ Chăm Bàni” Thầy Chang” (H. 2.15).
Tác phẩm “ Thiếu
nữ Chăm” (H.18) của Mai Anh Dũng, “Cô gái Chăm” (H. 2.16) của Vi Quốc Hiệp,
“Thiếu nữ Chăm” (H. 2.17) của Nguyễn Thanh Bình là những tác phẩm nói lên trang
phục của các cô thiếu nữ Chăm Bàni duyên dáng với áo dài qua đầu gối phủ lên
váy mặt, tay áo hơi bó, thân phình rộng, khăn choàng rộng và đeo dây thắt lưng
có dệt hoa văn ở trước ngực
Ở tác phẩm “Lễ
cầu mưa” (sơn dầu)(H. 2.19) của Hàng Thị Ngọc Huyền, hoạ sỹ đã sử dụng bút pháp
tượng trưng mang tính trang trí. Các vị tu sĩ Chăm được hoạ sĩ thể hiện trong
một bố cục hình tượng Kut đang đọc kinh khấn vái trong nghi thức tẩy uế đền
tháp với mâm lễ vật có nải chuối và những nắm cơm vo tròn. Màu sắc ương phản,
làm nổi bật mâm lễ vật và gương mặt đăm chiêu của các tu sĩ. Những người phụ nữ
Chăm với những động tác vái lạy trong bộ trang phục trắng. Toàn bộ tranh đã gợi
lên được không khí linh thiêng của buổi lễ. Với
sự tinh tế, bố cục rất chặt, nhịp nhàng của nhóm nguời đứng người ngồi, những
mảng trang phục sáng tối và thêm vào đó là điểm xuyến của những chi tiết trên
trang phục, cũng như những chiếc khăn đội đầu của tu sĩ và khuyên tai phụ nữ đã
làm nổi bật lên nét đẹp tổng thể của trang phục trên người những phụ nữ Chăm.
Ở tranh sơn dầu “Cưới chồng” (H. 2.20) của Hoàng Lý Bạch Tuyết, “Đám cưới
người Chăm” (H. 2.21)của Trần Thi Huệ, cả hai hoạ sỹ đều diễn tả không khí rộn
ràng của lễ cưới người Chăm đạo Bàni. Bằng chất liệu sơn dầu, tác giả đã thể
hiện một không gian trang trí đầy màu sắc tưng bừng của buổi lễ. Thông qua hình
ảnh các nhân vật trong tranh mặc y phục như áo trắng với những dải khăn màu ở
trước ngực, phụ nữ đội các mâm lễ vật. Hay trong tác phẩm “ Đám cưới Chăm” của
Lâm Nhật Thanh được vẽ bằng chấy liêu màu bột, tác giả đã xếp hai nhân vật
trong một hình tròn xung quanh là những vật phẩm trong lễ cưới như mâm tơ hồng
với trầu cau, chén rượu nồng, ngon đèn cầy...với niềm hạnh phúc vẹn toàn của
cuộc hôn nhân xứng đôi vừa lứa. Qua sự linh động tài tình của màu sắc cũng như
những mảng sáng tối của màu, đã làm nổi bật nét trang phục truyền thống của
người Chăm, một cách khai thác trang phục hết sức tinh tế và mạnh mẽ. Bút pháp
rõ ràng thể hiện được không gian gần xa, giàu tính chân thực, tác giả đã thể
hiện được sự duyên dáng của những phụ nữ Chăm, khi khoác trên mình bộ trang
phục truyền thống.
Tác phẩm sơn mài “Cô Dâu” (H. 2.22) của Nguyễn Dũng An Hoà tác giả đã giới
thiệu hình ảnh cô dâu trong đêm tân hôn với y phục trắng trinh nguyên duyên
dáng diệu dàng, đầu choàng khăn trắng, cổ đeo vòng ngọc, tai đeo hoa tai truyền
thống của người Chăm với những tua màu đỏ dài thật duyên dáng, hạnh phúc trong
ngày cưới của mình. Bên cạnh cô dâu là những vât phẩm trong ngày cưới. Tác giả
sử dung màu đỏ làm cho không gian ấm cúng, nổi bật trong phòng the của cô dâu
được trang hoàng lộng lẫy với những thổ cẩm hoa văn lóng lánh đặc trưng của dân
tộc Chăm. Trong không gian ấy người xem cảm nhận thấy một sự yên
bình trong hạnh phúc.
Đối với người
Chăm đám cưới có thể coi là một ngày nghi lễ liên quan đến dòng đời. Và hơn hết
là hình ảnh cô dâu ở trung tâm bức tranh, đang ngồi chờ hạn phúc đến với mình.
Một cách khai thác đề tài rất hay của tác giả, đi sâu vào khai thác chiều sâu
tâm hồn trong đời sống văn hóa của người Chăm. Tuy không chú tâm khai thác các
chi tiết trên trang phục của người phụ nữ nhưng ở đây ta thấy cái dụng ý nghệ
thuật là sự thăng hoa của màu sắc nhịp điệu và tính gắn kết trong tổng thể của
trang phục trong tranh. Điểm thu hút thị giác mạnh nhất là màu trắng của trứng
trên trang phục của thiếu nữ ở gần trung tâm bức tranh. Với chất liệu sơn mài
tạo ra cho bức tranh những ấn tượng sâu sắc mới lạ được tác giả khai thác trong
không gian chung và trong một vài chi tiết gợi nhưng đủ để người xem cảm nhận
mọi giá trị văn hóa hiếm có của người Chăm. Từ nét đẹp trang phục cho tới tính
cách thân thiện của con người nơi đây.
Ở một gốc nhìn khác, Cao Thị Được lại
thể hiện cho người xem những nét của thiếu nữ Chăm qua lối tạo hình riêng biệt,
nhấn mạnh về vóc dáng, hình thể đặc trưng của các cô gái Chăm với nước da bánh
mật, măt đen, chân mày dài, môi dầy trong những trang phục rực rỡ đầy màu sắc.
Các phẩm “Thiếu nữ Chăm” (H.2.23) được thể hiện bằng chất liệu sơn dầu với những
mảng màu nguyên, mạnh mẽ, tươi tắn phù hợp với màu sắc rất đẹp của trang phục
thiếu nữ Chăm nhằm gây ấn tượng mạnh cho người xem. Tranh sử dụng nhiều màu sắc
chói chang của xứ sở xương rồng, làm nổi bât lên màu nâu sẫm của da. Màu sắc trong tranh lung linh và có phần sặc sỡ bởi mảng màu nguyên và những
chi tiết nhỏ trên trang phục người phụ nữ Chăm, từ chiếc khăn trên đầu với nét
vẽ kỷ hà chắc khoẻ, gam màu tương phản hoà quyện vào nhau một cách kỳ lạ. Một
nét riêng của người Chăm, cũng như những chiếc khuyên tai, một vòng đeo cổ được
tác giả hiện chung tổng thể rất bắt mắt. Nét vẽ chắc khoẻ, đặc biệt đó là sự
chuyển động có nhịp điệu lôi cuốn người xem bởi những mảng màu đỏ, xanh chuối
tím, trắng... trên trang phục truyền thống đặc trưng của dân tộc Chăm.
Nét đẹp trang phục của phụ nữ Chăm còn được thể hiện qua tác phẩm “Chợ
Chăm” (1990) ở làng Mỹ Nghiệp vào những năm thập niên 90. Với bố cục dàng trải,
không có chính phụ, mọi nhân vật trong tranh đều diễn tả một cách tự nhiên.
Buộc người xem phải chú ý đến từng nhân vật. Những cụ già gầy guộc đàu đội
khăn, phụ nữ bồng con, phụ nữ mang bầu, đầu đội hàng hoá đi chợ. Tất cả những
nhân vật đều được tác giả chăm chúc về dáng vóc, điệu độ, và cách ăn mặc, mỗi người một dáng làm nổi bật trang phục. Đặc
điểm trang phục trong tranh là những bộ áo dài cổ truyền nhiều màu sắc, đeo
khuyên tai màu đỏ rực rỡ dưới làng tóc trắng xoá.
Những nhóm người ngồi đứng cùng trao đổi
trong sự ấm áp của màu sắc trang phục. Cách
thể hiện không gian nhẹ nhàng gần xa của những dụng cụ không thể thiếu
trong cuộc sống thường ngày như chiếc lu, ấm, bình gốm nhiều màu sắc nâu, đỏ...
Phía sau là những chiếc mái lá đơn sơ che
mưa, che nắng, một nét thân quen tại buổi chợ
của người Chăm. Không gian rõ ràng, gam màu nóng chủ đạo nhưng không gắt vì đâu
đó vẫn là cái nắng, gió cơ cực của vùng đất Ninh Thuận. Với lối diễn tả hiện
thực, tinh tế, điểm xuyến bằng những chi tiết khuyên tai, vòng cổ, những hoa
văn trên trang phục làm đậm nét truyền thống của người Chăm. Cách sử dụng chất
liệu sơn dầu tinh tế, bút pháp điêu luyện của họa sĩ đã làm cho mỗi chi tiết của
tác phẩm đều gợi lên không gian mênh mông mang đậm không khí sinh hoạt của làng
Chăm. Những nhân vật đều toát lên rất thân thiện đúng theo cảm nhận của họa sĩ,
ta dễ dàng thấy được những tình cảm mà tác giả dành cho những phụ nữ Chăm trong
tranh.
Họa sĩ Nguyễn Thị Mộng Bích cũng là một trong những họa sĩ
luôn mong muốn thể hiện phát huy nét đẹp dân tộc. Tác phẩm “ Dệt vải vùng Chăm Ninh Phước” (H.2.24), với chất liêu lụa tác
giả miêu tả một cảnh dệt vải của thiếu nữ Chăm với màu sắc rất hài hoà chủ yếu
dùng tông màu nâu vàng. Các mảng màu nâu bố trí rất chặt chẽ. Tác giả sử dụng một bố cục đặc biệt với góc nhìn từ trên
nhìn xuống tạo cho người xem ấn tượng mạnh về cách khai thác không gian trong
tranh. Những mảng lớn của sàn nhà, cọt nhà và khung dệt, khunh cưỡi cho đến
mảng màu vàng phía sau nhân vật tạo khoảng trống nhịp nhàng sống động mềm mại,
nữ tính của bức tranh. Vẫn là nét truyền thống nhưng tác giả đã xử lý rất nhịp
nhàng của màu sắc, cũng như sự uyển chuyển của người phụ nữ Chăm, những mảng
lớn của sàn nhà dù làm nền cho trang phục được bật lên. Nét đẹp đó không chỉ là
về dáng người phụ nữ Chăm khi khoác trên mình bộ trang phục sinh hoạt thường
ngày, sự kết hợp hết sức đặc biệt của những chi tiết trên khung đệt cũng như
chiếc khăn quấn trên đầu của người phụ nữ, làm cho nét duyên càng thêm duyên.
Tổng thể bức tranh là cách nhìn tinh tế của họa sĩ, với chỉ một góc sàn nhà
nhưng tác giả đã thể hiện được nét đẹp duyên dáng của người Chăm, tạo cho người
xem sự dường như miệt mài với công việc dệt vải. Màu sắc trong bức tranh thâm trầm mang lại cho người xem
cảm giác về một không gian yên tĩnh nhưng ấm cúng tình người, với người phụ nữ
Chăm trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi khoác trên mình bộ trang phục
truyền thống đã mang lại nét đẹp rất riêng qua kỹ thuật vẽ lụa hết sức điêu
luyện sự uyển chuyển, nhẹ nhàng và sâu lắng của tác giả.
2.2.
Nét
đẹp trang phục nữ Chăm trong đồ hoạ
Đồ hoạ là một chất liệu hội họa mang nhiều giá
trị truyền thống đã được khẳng định. Hiện nay, tranh đồ hoạ Việt Nam ngày nay
phong phú và mở hơn nhiều về chủ đề và kĩ thuật cũng như phong cách làm cho khả
năng biểu cảm của tranh đồ hoạ ngày càng đa dạng như tranh khắc đồng, khắc kẽm,
tranh in đá, in lưới. Đặc biệt có thêm kĩ thuật mới như: in lõm cảm quang, in
kĩ thuật tổng hợp... Ngôn ngữ nghệ thuật tranh đồ hoạ cũng đa dạng, giàu
chất trang trí ước lệ hơn tạo hình, tả thực. Thế mạnh của tranh đồ hoạ được các
họa sĩ khai thác trong mọi đề tài cuộc sống. Ở đây tranh đồ hoạ được khai thác nét
đẹp trang phục người phụ nữ Chăm với những giá trị thẩm mỹ truyền qua các tác
phẩm của các họa sĩ tiêu biểu như:
Tác phẩm “Sản xuất gốm” (H. 2.25), hoạ sỹ Nguyễn Thị Tố
Uyên đã vẽ về những người phụ nữ đang nặn gốm với bố cục hình tròn.Người xem
có thể cảm nhận trên tranh khắc gỗ với những nét đẹp truyền thống quý báu của
những người phụ nữ Chăm trong cuộc sống và trong văn hóa. Tất cả được tái hiện
một cách tinh tế, nhẹ nhàng qua những gam nâu trầm ấm. Những phu nữ trong tranh
với những bộ trang phục các kiểu choàng khăn trên đầu, mặc áo váy truyền thống
mang dáng vóc và đặc điểm đặc trưng của người Chăm ở Ninh Thuận. Những người
phụ nữ hiện lên kín đáo và nhẹ nhàng với những động tác tay chân thật nhịp
nhàng, uyển chuyển đang nặn gốm trên hòn kê. Bức tranh đẹp từ tổng thể cho tới
chi tiết, từ đường nét cho tới màu sắc, những tư thế thay đỏi rất nhịp nhàng
của những phụ nữ và những hoa văn trên trang phục cũng làm nổi bật những sắc
màu lung linh, thêm vào đó điểm xuyến bằng hoa văn trên những chiếc khăn che
đầu làm cho bộ trang phục rất chỉnh chu, lộng lẫy. Bên cạnh đó, những hoa văn
trang trí trên thân gốm đã làm cho bức tranh đẹp hơn trong sáng hơn.
Tác phẩm “ Làng nghề” (H. 2.26) khắc gỗ của Nguyễn Thị Thuỳ Vân. Bằng bố cục tẩu mã các nhân vật được sắp
sếp tứ trên xuống dưới, gian mang tính ước lệ. Tác phẩm trình bày bằng cách bố
trí con người và công việc dệt thổ cẩm trải dài trên mặt tranh. Với những gam màu
vàng nhạt trầm nhẹ được thể hiện một cách duyên dáng. Trong “ Dệt thổ cẩm Chăm”
(H. 2.27) khắc gỗ không gian giàu ước lệ có sức gợi nhiều hơn, nét lặng lẽ và
hư ảo có sức lôi cuốn riêng của nó. Nổi bật trong trang phục cũng như những
mảng màu tối là những hoa văn làm cho chi tiết thêm sinh động, tuy không đầy đủ
nhưng dưới con mắt của hoạ sĩ đã giản lược, chắt lọc, trong những tư thế rất
riêng của những người phụ nữ Chăm.
Tác phẩm “Sinh hoạt gia đình” (H. 2.28) của hoạ sỹ Đàng Lưu Chế Định Bức tranh thể hiện cảnh sinh
hoạt đầm ấm của người phụ nữ dịu dàng, tinh tế, xum vầy của ba thế hệ. Với gam
màu nhẹ nhàng, tình cảm giàu nữ tính của Ngô Thị Thanh Mai. Người xem thấy được
sự dung dị với những nét đục thô mộc, cô đọng gợi nên cái chân chất, mộc mạc. Giá
trị nguồn cội được tiếp biến kết hợp với ba thế hệ trong bối cảnh là những sản
phẩm gốmcủa làng nghề. Sự nhịp nhàng tinh tế trong bố cục của bức tranh là
những mảng sáng chuyển động, kết hợp với cách tạo hình duyên dáng. Đàng Lưu Chế
Định đã tạo ra một không gian sinh hoạt gia đình, một không gian riêng biệt đặc
trưng của người phụ nữ Chăm. Tác giả không đi sâu miêu tả chi tiết mà chỉ là
một sự gợi tả tạo cho ra một không gian sinh hoạt thanh bình của người phụ nữ Chăm.
Ở tác phẩm “Học làm gốm” (H.
2.29) của Nguyền Phương Lan, “Nặn gốm” (H. 2.30) của Lê Ngọc Tú, “Làm gốm Chăm” (H.2.31) của Ngô Bá Thục là hình ảnh
những người phụ nữ đang truyền nghề làm gốm cho người con. Không gian lao đông
nghề của ba thế hệ làm toàn bộ bức tranh sôi động với hình ảnh những thiếu nữ Chăm
uyển chuyển làm gốm. Trang phục của những người phụ nữ Chăm được nổi bật trong cách vẽ nhấn đậm
của họa sĩ, tạo thành những mảng đậm chuyển động nhịp nhàng trong tranh.
Tác phẩm “ Buổi sáng ở làng Chăm”
(H. 2.32) khắc gỗ màu của Lê Sĩ Hoàng là một nét đẹp sinh hoạt trong văn hóa
truyền thống đặc trưng. Bằng thủ pháp xây dựng tác phẩm theo lối gợi tả, làm
cho nội dung tác phẩm được thể hiện nổi bật trong ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình.
Các mảng hình, các chi tiết được họa sĩ khai thác một cách triệt để. Những phụ
nữ với dáng dấp mảnh khản, cao gầy đang phơi bó sợi chỉ dệt được tác giả thể hiện
nổi bật trên nền màu sáng chủ đạo, ẩn khuất phía sau những mảng dãi núi, chuồng
bồ câu tạo nên không gian bình minh rực rỡ với ánh nắng vàng lấp lánh. Qua bức tranh này chúng
ta cảm nhận sâu sắc hơn về một cuộc sống thanh bình, yên ả của những con người
nơi đây đã được họa sĩ Lê Sĩ Hoàng xây dựng bằng thủ pháp khắc gỗ màu. Nổi bật
hơn hết là hình tượng những thiếu nữ Chăm dịu dàng duyên dáng trong không gian
đặc trưng của làng Chăm Mỹ Nghiệp ở Ninh Thuận.
Một không khí sinh hoạt với váy áo, khăn đội đầu, tấm chăn truyền thống
và với nhiều hoạt động sinh hoạt của cuộc sống.
Tác phẩm “Hợp chợ”, (H. 2.33) khắc đồng của Trần Đức Lộc đây
là tác phẩm theo phong cách tả
thực ấn tượng. Họa sĩ thể hiện không gian buổi hợp chợ ở làng Mỹ Nghiệp trên nền
kim loại. Sử dụng màu đơn sắc trắng đen, với bố cục phân thành hai nhómtrải
dài. Mảng khối đậm nạt trên toàn bộ bức tranh rất tốt, ánh sáng trong tranh gây
cho chúng ta một cảm giác huyền ảo. Với
cách diễn tả đi sâu vào từng nhân vật làm cho người xem sự sinh động, đặc sắc của
từng nhân vật trong tranh, thông qua những dáng đứng lom khom chờ mua hang hoá.
Mỗi phụ nữ Chăm, mỗi người một vẻ, những bộ trang phụ đã lột tả lên những nét đẹp
không chỉ cho những người phụ nữ Chăm mà đó còn cho cả dân tộc Chămg. Nhưng có
sự thay đổi những bộ trang phục của người kinh như nón lá, áo sơ mi, quần ống. Bằng
cách thể hiện sắc độ đậm nhạt, xây dựng, sắp sếp bố cục khéo léo đã tạo cho
tranh khắc đồng vẫn có không khí hợp chợ đông đúc và ồn ào.
Tác phẩm
“Lễ hội Katê” khắ gỗ (H.2.34) của Nguyễn Quang Tuyến. Đây là bức tranh có bố cục độc đáo các nhân vật được sắp xếp gần
hơn với người xem, hai nhân vật chính trong tranh người phụ nữ và chàng trai
người Chăm, đang đứng múa hát thân mật. Hai dáng người trong tư thế nhảy múa giống
nhau và được diễn tả trong phong cách tranh khắc gỗ rất tinh tế, nhịp nhàng
nhưng vẫn chuẩn về tạo hình, tạo nét, tạo khối và từng tính cách nhân vật. Từ
chân dung cho tới các chi tiết trên trang phục lễ hội được họa sĩ miêu tả một
cách tinh tế, để tôn lên những hoạ tiết cũng như bộ trang phục truyền thống mang
đậm chất Chăm. Những họa tiết tuy hoạ sĩ không diễn tả nhiều nhưng vẫn làm cho
người xem cảm thấy sự chuyển động trong trang phục trên người phụ nữ, chiếc đai
thắt lưng, chiếc khăn được quấn trên đầu để lộ một ít chân dung như thể hiện sự
e thẹn của người phụ nữ Chăm cùng với tiếng trống kèn, mang tổng thể hài hoà. Tranh khắc
gỗ của họa sĩ tạo ra một phong cách tinh tế, nhẹ nhàng. Nhịp diệu của bức
tranh được tạo nên bởi nhịp điệu chuyển động của những mảng màu trắng trên
trang phục. Bức tranh khiến người xem chú ý nhiều hơn đến vẻ đẹp của trang phục
với nhiều đường nét tinh vi trên trang phục tạo nhiều hướng nhìn lạ, đẹp mắt.
Cách khai thác những đường nét trên trang phục giúp cho bức tranh sinh động đầy
biến ảo kỳ diệu.
2.3.
Nét
đẹp trang phục nữ Chăm trong điêu khắc
Điêu
khắc là một trong những thành tựu rực rỡ của văn hóa Chăm, là một trong những
đỉnh cao của nghệ thuật, đã được thế giới công nhận là di sản văn hoá dân tộc
gắn liền với các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chăm. Ngôn ngữ biểu đạt của điêu khắc rất đa dạng với
những hình khối, tượng, phù điêu, đất
nung, bằng đường nét trang trí trên những trang phục của người phụ nữ Chăm là
một đặc điểm để phát huy hết thế mạnh trong điêu khắc.
Nghệ
thuật điêu khắc Chăm thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo và bản sắc của dân
tộc Chăm. Điều đó còn khẳng định một nền nghệ thuật giàu sức sống và khát vọng,
đậm tính nhân văn. Hình tượng người phụ nữChăm cũng luôn là đề tài sáng tác của
những nhà điêu khắc, mỹ thuật hiện đại. Với sự tinh túy, chiều sâu tư duy, các
nhà điêu khắc, mỹ thuật đã thể hiện tác phẩm của mình vói nhiều cung bậc riêng
về đề tài phụ nữ Chăm. Nhà điêu khắc Đàng Năng Thọ là người con của làng Chăm
Bàu Trúc, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận với những tác phẩm điêu khắc gốm,
một chất liệu quen thuộc của quê hương. Tác phẩm “Nhọc nhằn ”(1990)
(H. 2.35) gốm, một bố cục đăng đối, bằng những hình khối đơn giản thể hiện hình ảnh người phụ nữ trong
lao động sản xuất, với vẻ mặt trầm tĩnh, tập trung vào công việc nặn gốm. Hai
bàn tay đưa lên miệng gốm, liên tưởng đến động tác xoay người để tạo nên một
chiếc bình. Bình gốm cứ xoay vòng, xoay vòng như vòng xoay cuộc đời của người
phụ nữ vẫn hằng ngày gắn bó với công việc quen thuộc - làm gốm - nguồn thu nhập
kỉnh tế của gia đinh.
Tác
phẩm “Vất vả ” (H. 2.36) thể hiện hỉnh ảnh người phụ
nữ Chăm chịu thương chịu khó, đang bước đi với một khối hàng hóa nặng nề đội
trên đầu. Tác phẩm đã thay lời nhà điêu khắc nói về sự vất vả, cơ cực của những
người phụ nữ, người mẹ, người vợ, người chị... với sự lo toan về cuộc sống.
Tác
phẩm “Đưa con
đến trường” (H. 2.37) thể
hiện hình ảnh bà mẹ đội thúng hàng trên đầu, tay trái giữ thúng hàng, tay phải
để nhẹ lên đầu con, đứa bé hait ay ôm tập trong niềm vui phấn khởi. Tác phẩm
thể hiện hình ảnh người phụ nữ vừa quan tâm đến thu nhập của gia đình vừa quan
tâm đến việc học hành của con cái.
Tác
phẩm “ Hạnh
phúc” (H. 2.38) thể
hiện người mẹ cùng những đứa con của mình, đứa đu vòng phía trước, đứa ôm cổ
phía sau, mối liên kết nói lên niềm hạnh phúc thiêng liêng của tình mẹ con.
Chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh này trong cuộc sống hằng ngày và tác giả cũng
đề cao vai trò của người mẹ trong chế độ mẫu hệ của dân tộc mình. Tác giả Đàng
Năng Thọ cũng đã sáng tác rất nhiều tác phẩm khác về đề tài phụ nữ như “Cô gái Chiêm”, “Nàng thơ”, “Phơi nắng”, “Mưa đầu nguồn”,
“Múa đôi nam nữ”, “Mẹ”, “Bà nội”, “cầu mưa”...
Hình
ảnh xuyên suốt trong các tác phẩm của nhà điêu khắc Đàng Năng
Thọ là những người phụ nữ Chăm chịu thương, chịu khó, tảo tần trong cuộc sống
hằng ngày để chăm lo cho cuộc sống gia đình. Tác giả đã tạc nên chân dung của
người phụ nữ Chăm cùng với vất vả của cuộc sống, và thấu hiểu nỗi khắc khoải
của một cộng đồng dân tộc đã qua một thời vàng son.
Ngoài
nhà điêu khắc Đàng Năng Thọ, nhà điêu khắc Đinh Rú (cũng là người Chăm, gốc
Hroi) với các tác phẩm như “Sinh
hoạt đời thường”, “Hủ gạo kháng
chiến”... Đoàn Xuân Hùng với tác phẩm “Mẹ
Chăm”, “Bập bênh”, “Chắp cánh”, “Phồn thực”, “cầu phúc”, “cầu mưa”... Tác giả Sĩ Bình với tác phẩm “Vũ điệu đạp lửa”, “Tuổi
dậy thì”...Tác giả Huỳnh Đang Viên với tác phẩm “Bà
cháu”, ”Múa quạt”, “Mẹ
đất”, “Nghề đời”, “Mẹ con”...Nhìn chung,
những nhà điêu khắc trong giai đoạn hiện nay đã đưa vào trong tác phẩm mỹ thuật của mình hình ảnh cao đẹp của
người phụ nữ Chăm trong xã hội để làm nổi bật cái hồn củan gười phụ nữ Chăm
thanh cao, duyên dáng đôn hậu, tảo tần với gia đình, xã hội.
Tác
phẩm “Gốm Chăm” (H. 1.39),
phù điêu, của Võ Thị Kim Cương,
với bố cục khá độc đáo, tác giả đã bố trí ba nhân vật với những dáng lao động
đặc trưng của nghề cùng những khoảng trống được tính toán chặt chẽ đã tạo nên
nhịp điệu sinh động. Màu sắc của phù điêu nói lên màu gốm đặc trưng của Chăm và
hơn thế nữa nó còn làm cho ta cảm nhận được cái nóng trong lò gốm với những ánh
màu vàng sáng lên như ánh lên tạo cho người xem cảm nhận được cái nóng trong
quang cảnh nung gốm.
Tác phẩm “Đội Nước” (H.
2.40), xi măng của Đoàn Khắc Tràng.
Qua tác phẩm, người xem thấy tác giả nắm vững cấu trúc cơ thể người mới có thể
tạo nên dáng dấp phụ nữ
Chăm duyên dáng, uyển chuyển
qua động tác đội nước. Trọng tâm của cơ thể được dồn về hông phải, tay trái
vươn lên, chân phải chồm về phía trước: đây là tư thế tiêu biểu khi đội một
vật. Bằng lối tả thực, người xem cảm nhận được sự e ấp, dịu dàng thể hiện trên
nét mặt, nếp áo... tất cả tạo nên tổng thể hải hòa, sống động.
Các tác phẩm tạo hình về văn hoá và con người Chăm xưa và nay, có thể thấy
đây là một thành phần hết sức quan trọng trong nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam
hiện đại. Nền văn hoá đậm chất bản địa này đã tự xây dựng cho mình từ ngàn xưa
một nền nghệ thuật đậm đà truyền thống trong đó hình tượng người phụ nữ được
thể hiện trong sinh hoạt gần gũi với đời thường, lúc được thần thánh hóa. Tạo
nên mối liên hệ giữa dân gian và tín ngưỡng linh thiêng. Một bộ phận lớn các
hoạ sỹ hiện nay đang nghiên cứu sáng tác về
văn hoá chăm, luôn tự đặt cho mình một trách nhiệm bảo tồn và lưu giữ các giá
trị còn lại trong kho tàng nghệ thuật tạo hình của người Chăm xưa tính linh
thiêng huyền thoại, sức sống mãnh liệt, tinh thần bất tử với thời gian.
Tiểu kết
Trong mỗi giai đoạn phát triển của nghệ thuật Chăm
ngày nay, hội họa nói riêng và mỹ thuật nói chung, nhiều hoạ sĩ đã sáng tạo những thành tựu mới. Sự
kết hợp hài hòa các đề tài, về kỹ thuật, chất liệu để nâng cao hiệu
quả cho khả năng diễn đạt từng chi tiết trong hội họa. là một đặc điểm nổi bật trong sáng tác . Ở đây thể hiện sự sáng tạo bất
diệt của những tài năng, trí tuệ của nhiều hoạ sĩ. Với nhiều phong
cách đa dạng, hình thức thể hiện phong phú, đã hình thành
nên một hướng sáng tác mới, phản ánh được những suy tư, khát vọng, và cả sự ngợi ca của dân tộc Chăm
đối với cuộc sống con người.
Trong các tác phẩm hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc của mỹ
thuật Việt Nam, với nhiều chất liệu như: sơn dầu, sơn mài, lụa, khắc gỗ,
in kẽm, phù điêu, tượng đất nung... với nhiều phong cách sáng tạo. Các sáng tác
thể hiện hình tượng những người phụ nữ Chăm trong trang phục đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc. Những tác phẩm có sự đa dạng
về chất liệu, để tôn lên nét đẹp của những người Chăm, mà đặc biệt là những phụ
nữ dân tộc Chăm qua cách
tạo hình nhân vật, màu sắc đường nét, không gian, mô típ trang trí đều ẩn chứa nhiều
giá trị nghệ thuật.
Chương 3
NHẬN ĐỊNH VÀ CẢM
NHẬN NÉT ĐẸP TRANG PHỤC NỮ CHĂM QUA SÁNG TÁC CỦA BẢN THÂN
3.1.
Nhận
định nét đẹp trang phục nữ Chăm
Qua các tác phẩm của các họa sĩ vẽ về đề tài
người phụ nữ Chăm, đã khái quát những nét chung về không gian, cuộc sống thường
ngày, qua nét đẹp trên trang phục của người Chăm như là một bản sắc cần gìn
giữ. Việc tìm hiểu, khai thác và thể hiện những nét đẹp truyền thống đó bằng
các tác phẩm là một việc làm rất cần thiết, không chỉ là trong hội họa, đồ hoạ,
điêu khắc hay một người họa sĩ nào, mà còn đối với các ngành nghề trong cộng
đồng xã hội.
Trong hội hoạ các sáng
tác bằng chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa có một giá trị đặc trưng riêng khi
khai thác về vẻ đẹp trên trang phục người phụ nữ Chăm. Trong những
chất liệu đã được khẳng định, hiện đang được rất nhiều thế hệ họa sĩ say mê
nghiên cứu bằng nhãn quan nghệ thuật tạo hình với mục đích định hình dấu ấn cá
nhân và thể hiện những quan niệm của mình về nghệ thuật. Phong cách thể hiện,
cũng như những đặc trưng riêng khi khai thác những vẻ đẹp trên trang phục,
người Chăm, họa sĩ đã vận dụng chất liệu để thể hiện những nét đẹp đó qua con
mắt của mình cũng như theo cảm nhận riêng. Ngôn ngữ biểu đạt từng chất liệu rất đa dạng, nhưng với những nét trang trí
trên những trang phục của người phụ nữ Chăm là một đặc điểm để phát huy hết thế
mạnh của chất liệu. Các họa sĩ đã vận dụng bảng màu son, vàng, thếp vàng, bạc... thể hiện
thành công vẻ đẹp lộng lẫy, sặc sỡ, trầm lắng với các họa tiết trên trang phục
phụ nữ Chăm.
Tranh đồ hoạ là một chất liệu hội họa mang nhiều giá trị
truyền thống, tranh đồ hoạ Việt Nam ngày nay phong phú và rộng mở hơn nhiều chất
liệu như: khắc gỗ, khắc kẽm... với nhiều chủ đề và phong cách làm cho khả năng
biểu cảm của tranh đồ hoạ ngày càng đa dạng. Những
tác phẩm giàu chất trang trí ước lệ hơn tạo hình, tả thực, được các họa sĩ khai
thác trong các họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục người phụ nữ Chăm một
cách nhẹ nhàng, uyển chuyển, tinh tế mang ngôn ngữ đặc trưng riêng.
Trong điêu khắc Chăm, hình
tượng người phụ nữ Chăm luôn là đề tài sáng tác của nhà điêu khắc, mỹ thuật
hiện đại. Ngôn ngữ điêu khắc trong phù điêu, tượng tròn mang tính chất mộc mạc,
giản dị nhưng thể hiện rõ nét văn hoá
dân tộc Chăm bằng ngôn ngữ tạo hình độc đáo.
Mỹ thuật nói chung, hội họa nói riêng có ảnh
hưởng rộng và tác động mạnh mẽ đối với nhận thức, hình thành tư duy thẩm mỹ,
môi trường thẩm mỹ của toàn xã hội. Và “Hội họa đổi mới khắc phục, phát triển
mà không phủ nhận các thành tựu của Mỹ thuật Đông Dương và Mỹ thuật hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Ngược lại nó đã phần nào biết học hỏi, tôn vinh các giá trị
tốt đẹp của hai thời kỳ trước.”[41. tr.7]. Thông qua các tác phẩm mỹ thuật cho
thấy phản ánh về mọi mặt, mỹ thuật góp phần không nhỏ vào việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam ngày càng phát triển, nhưng vẫn không mất đi bản sắc dân tộc
Trong
quá trình phát triển đã sáng tạo một nền nghệ thuật tạo hình, để có những tác phẩm mỹ thuật có giá trị cao,
người nghệ sĩ phải lao động, khả năng tư duy nghệ thuật phải khá
phong phú và đặc sắc. Hoạt động sáng
tác bắt đầu từ sự rung động trong tâm tư tình cảm của người họa sĩ trước tác
động của thực tế khách quan và đòi hỏi cấp thiết của nội tâm. Hiện
nay, trên các tác phẩm tạo hình, còn lưu lại trong các bảo tàng, tháp Champa cổ
kính cũng như những sáng tạo nghệ thuật gần đây của một số tác giả, đều có điểm
chung là tôn vinh nét đẹp người phụ nữ Chăm. Tôn vinh vẻ đẹp nữ tính - mềm mại,
uyển chuyển nhưng rất mạnh mẽ; vẻ tự nhiên, sống động nhưng rất tinh tế; trang
nhã, hiền hòa nhưng không mất đi vẻ kiên nghị; đường nét cơ thể cân đói, đầy
sức sống thể hiện chất dương tính trong đấu tranh sinh tồn với miền đất nóng và
gió. Vẻ đẹp nữ tính cũng thể hiện trên trang phục áo dài truyền thống của người
Chăm. Hình tượng phụ nữ Chăm trong các tác
phẩm hiện nay thể hiện vai trò của người bà, người mẹ, người vợ... cho những lo
toan, vất vả của cuộc sống gia đình trong cuộc mưu sinh hàng ngày, và những lo toan
cho dòng tộc thông qua các tập tục trong cộng đồng.
3.2.
Cảm nhận nét đẹp trang phục nữ Chăm
Trang phục
vốn là những sáng tạo văn hóa của con người. Trang phục truyền thống của phụ nữ
người Chăm đa dạng trong sắc thái thể hiện địa vị xã hội, giới tính, chức sắc
tôn giáo, lứa tuổi, nghề nghiệp... là yếu tố quan trọng góp phần thể hiện bản
sắc của cộng đồng dân tộc. Ngày nay khi tiếp xúc với hoá của người kinh, người
Hoa,... phụ nữ Chăm không cứng nhắc với các
loại trang phục truyền thống, mà có sự kết hợp uyển chuyển trong kiểu dáng tạo
nên sự phong phú, đậc sắc trong trang phục dân tộc.
Trang phục của người Chăm chủ yếu là áo dài, khăn
đội đầu... , đậm đà tính cách dân tộc trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật
đa dạng. Cách trang trí họa tiết trên trang phục của người Chăm còn thể hiện
sức sống, chịu khó của người Chăm trước cái nắng, gió thiên nhiên của vùng đất
Ninh Thuận
Trước những
thiên nhiên với màu sắc rực rỡ thông qua nét đẹp trang phục. Những người phụ nữ
Chăm với dáng hình mảnh dẻ, nước da
nâu thắm. Vóc đáng người Chăm, đặc biệt là phụ nữ thon thả, eo nhỏ, hông rộng,
do điều kiện địa hình đất cát nên khi di chuyển bàn chân họ bám sát mặt đất và
cần vận dụng các cơ đùi và cơ mông, đồng thời do tập quán đội nước hoặc các vật
dụng trên đầu nên tư thế khi đi lưng thẳng, đầu nghẩng cao.
Hội họa nói chung và người hoạ sĩ nói riêng là cảm xúc trào dâng khi tới
vùng đất Ninh Thuận- Phan Rang. Khởi đầu là cảm nhận người Chăm và những bộ
trang phục truyền thống. Đối tượng nghiên cứu của tác giả là những phụ nữ Chăm
trong trang phục truyền thống trong ngày
lễ nhộn nhịp của người Chăm. Những phụ nữ Chăm khoác trên mình những bộ trang
phục áo dài trắng, đầu đội khăn, cùng với những hoạ tiết hoa văn truyền thống
được trang trí trên trang phục. Những bộ trang phục đó chính tay người thợ dệt tạo nên, màu của chỉ, màu
của những miếng thổ cẩm như đan xen vào nhau, bằng ngôn ngữ
của đường nét giúp cho những sáng tác thêm sinh động đặc biệt hình là yêu cầu
quan trọng . Tất cả
những mảng màu tươi, màu đen - màu của thổ cẩm, được giữ lại bằng màu nâu của
da, màu vàng của nắng, của cát, màu xanh thẫm của xương rồng... . Ngoài
ra, yếu không gian nhộn nhịp của buổi lễ đã giúp tác giả thể hiện được màu sắc
đặc trưng nhất bằng những mảng màu lớn, không đi sâu vào chi tiết và khai thác
một cách tổng thể. Bố cục của tranh sử dụng những đường nét có tính chọn lọc
làm cho bố cục tuy đơn điệu nhưng được sắp xếp cân đối, hài hòa.
Màu sắc trên trang phục không chỉ phản ánh hiệu quả
thẩm mỹ mà còn là một tiêu chí phân biệt tộc người, các nhóm tộc người. Vì vậy,
khi tìm hiểu trang phục không thể không coi trọng việc nghiên cứu nghệ thuật sử
dụng màu sắc trang phục khác nhau, từ đó có những đánh giá về đặc điểm sử dụng
màu sắc của người Chăm. Sự phối hợp màu, sử dụng màu sắc của người Chăm khá
phong phú. Vì vậy, người họa sĩ phát hiện được cách sử dụng màu của người Chăm
càng phong phú, có đặc điểm riêng. Những cuộc sống mà chỉ có ta đến nơi mới
biết được, cảm nhận được những người đó như thế nào. Những người luôn gắn bó
với nông nghiệp, những ruộng bậc thang, những cây ngô được trồng trên sườn núi,
buôn làng luôn chân chất thật thà. Những trải nghiệm của cuộc sống và thích nghi với điều kiện địa lý
khí hậu khá khắc nghiệt của dải đất miền Trung nắng gió khô cằn, vượt qua những
khó khăn, hạn chế đó, con người, xứ sở Chăm vẫn trường tồn và phát triển mang
những nét văn hóa đặc trưng được giữ gìn khá trọn vẹn. Những cuộc sống
mà chỉ có ta đến nơi mới biết được, cảm nhận được những người đó như thế nào. Tất cả những yếu tố đó tác động
và thôi thúc tôi vẽ về nét đẹp trang phục của xứ sở con người Chăm.
3.3.
Tác phẩm tốt nghiệp
Trải nghiệm cuộc
sống với những chuyến đi thực tế rất quan trọng, vì nó giúp tác giả có ý tưởng
mới để hình thành và thể hiện tác phẩm được tốt hơn. Bởi vì nếu không có đi
thực tế thì không thể nhìn nhận đúng về con người, văn hóa và những phong tục
tập quán, cũng như phong cảnh nơi đó làm tác giả mê mẩn, nét hoang dại của
phong cảnh làng Chăm. Ở đó có những mây chiều trôi lãng đãng trên sườn núi, dãy
sương rồng ngút ngàn, phía sau là hình ảnh phụ nữ Chăm e thẹn đi lấy nước với
những bộ trang phục truyền thống. Hình ảnh trang phục phụ nữ Chăm trong thực tế
là những họa tiết trang trí với màu sắc trên những chiếc khăn, áo, váy, dây
đay, trang sức là hình ảnh đặc trưng
được lưu truyền, giữ gìn từ ngàn xưa tới nay. Đã gây một ấn tượng mạnh về thị
giác và tạo nên nguồn cảm hứng giúp hình thành nên tác phẩm: “Ramưwan” (H. 3.41)
2011, sơn mài (120x185cm). Bài tốt nghiệp Đại học Mỹ Thuật.
Tranh thể hiện
bố cục hình chữ nhật, các nhân vật được sắp xếp hàng ngang đứng, ngồi cùng nhau
trò chuyện với trang phục áo dài trắng truyền thống trong không khí nhộn nhịp
của ngày hội. Tác giả đã cố tình tạo ra không gian đơn giản nhằm mục đích gợi
tả các động tác vóc dáng thon thả, các động tác tay và các vật dụng được trang
trí hoa văn hình học nhiều màu sắc sặc sỡ. Mỗi người mỗi vẻ, ở đây tác giả đã
thể hiện theo cách nhìn hiện thực, những mảng trang phục được tạo thành từ
những mảng màu sắc vàng, trắng gay gắt trong tranh nói lên sự khắc nghiệt của
khí hậu vùng đất Phan Rang.
Tạo hình được đơn giản bằng những đường nét uốn lượn theo nhịp, chân dung
được tác giả gợi tả từng nhân vật già, trẻ tạo nét riêng gợi cảm. Những chiếc
khăn hoa văn đội trên đầu tạo nên tổng thể tranh hài hoà, làm cho bố cục thêm
chắc chắn, không gian nhộn nhịp, đơn giản như hòa quyện người với thiên nhiên
làm một. Màu sắc ấm áp nhẹ nhàng, điểm nhấn bằng những mảng màu sáng vàng trên
người, khăn, trên vật dụng hay điểm xuyến sáng bằng những vòng cổ, bông tai đỏ
thắm. Những đường nét chỉ màu chạy trên phục tạo thành nhịp cho bức tranh, và
những chiếc mâm làm nền làm cho tác phẩm thêm sinh động.
Bức tranh “Lễ
Hội” (2011), sơn mài (80x120) (H. 3.42) băng những gam màu đỏ rực nhưng trầm
lắng của sơn mài, những vóc dáng đứng mảnh dẽ tạo bức tranh xinh động của đêm
hội. Tác giả sử dụng không gian ước lệ, bụi xương rồng gợi cho cảm giác hoang
dại giữa vùng cát trắng chỉ năng và gió. Trang phục của những thiếu nữ Chăm
được đơn giản chi tiết từ mảng phẳng của trang phục, cho người xem cảm giác yên
ả trong cái sinh động, nhưng thay vào đó bằng đường nét mạnh tạo nên những sợi
chỉ chạy trên trang phục, làm cho mắt người xem cảm nhận được sự nhịp nhàng. Màu
chính trong tranh thể hiện gam màu nóng, cái nóng của vùng đất Ninh thuận- Phan
Rang rất khắc nghiệt mà vì vậy bộ trang phục với gam màu nóng là chủ đạo làm
dung hòa cho tác phẩm, xem tranh người xem có thể cảm nhận sự yên bình, nhẹ
nhàng và sự duyên dáng của những phụ nữ Chăm. Những mảng đỏ ,cũng như những
đường nét đen xung quanh làm cho tranh chắc khỏe, cũng là tạo điểm nhấn cho tác
phẩm.
Về chân dung tác
giả vẫn sử dụng lối gợi tả đơn giản, nhưng đã thêm màu sắc trên mặt được bằng
đường nét mạnh mẽ và sắc nét hơn, làm điểm nhấn cho tranh hoàn thiện hơn. Với
lối diễn tả bằng mảng, màu sắc không đi vào diễn tả hiện thực, tạo thị giác
người xem cảm thấy mạnh mẽ như con người phụ nữ Chăm luôn tiến lên phía trước.
Mạnh mẽ trong cuộc sống đó là những gì mà những người phụ nữ Chăm làm cho người xem cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp bộ
trang phục truyền thống của Chăm Bani luôn đặt lên hàng đầu.
Trang phục của
người Chăm ngày càng biến đổi, phong phú hơn nhưng vẫn giữ được đậm nét truyền
thống của họ. Trước đây, trang phục của người Chăm Bàni thường gồm màu trắng và
màu đen. Màu trắng thể hiện sự sống, sự tái sinh cuả con người và muôn loài.
Màu trắng gắn liền với thiên nhiên, là màu trung chuyển của muôn màu, màu của
sự linh thiêng trong tín ngưỡng tôn giáo. Màu đen là màu của đất, thể hiện sự
màu mỡ, tươi tốt, trù phú, cùng với những hoa văn dệt truyền thống. Các hình
ảnh trang phục nữ Chăm trong các tác phẩm trên lại một lần nữa tái hiện trong
bài tốt nghiệp cao học của tác giả.
“Đêm hội
Ramưwan” (2019), sơn mài, (120x200) (H.3.43) đây là tác phẩm gần như tác giả
bày tỏ trọn vẹn tình cảm, cảm xúc của mình về nét đẹp trang phục nữ trong các
nghi thức lễ hội truyền thống bằng ngôn ngữ tạo hình hiện đại.
Bố cục được thể
hiện với ba tấm ghép, hai tấm ghép hai bên là hai thiếu nữ với dáng vóc eo thon
thả đang từng bước tiến vào thánh đường, ở giữa là không gian trang nghiêm
chiếm phần lớn diện tích tranh, hình ảnh những người phụ nữ Chăm đang trong
nghi lễ được thể hiện một phần nhỏ trong tranh. Những mảng cổng vào thánh đường
như những ngọn tháp, được đơn giản bằng mảng hình lớn, kết hợp với hoa văn uốn
lượn tạo cho bức tranh xinh động phù hợp tổng thể tác phẩm. Với bố cục hình chữ
nhật giúp người xem cảm nhận được không gian vui nhộn, khi mà bồn thiếu nữ Chăm
đứng giữa tranh với nét mặt vui tươi, sự yêu đời và tâm hồn thơ mộng, trong cái
dáng vóc duyên dáng này cử chỉ của đôi bàn tay đang ôm vật phẩm đầy màu sắc chỉ
về hướng trọng tâm bức tranh, như muốn người xem hãy khám phá nghi lễ hoà quyện
cùng với thiên nhiên và con người nơi đây.
Màu sắc tác phẩm
được thể hiện với gam nóng là chủ đạo, gợi tả không khí nắng nóng của vùng đất
Phan Rang- Ninh Thuận. Da của các nhân vật màu nâu vàng ấm, tất cả những nhân vật là phụ nữ mặc những
trang phục, các hoạ tiết trên khăn đội đầu, trên váy, áo, màu của hoạ tiết
tương phản nhưng do hiệu quả của sự chồng lớp màu, đan xen vào nhau nên rất hài
hoà. Màu sắc nóng nhẹ nhàng là điểm nhấn bức tranh, hòa quyện trong cái màu trắng
của thiên nhiên. Bố cục gần
như đăng đối nhưng đã được phá đi bằng những vật phẩm trong nghi lễ, tạo cảm
giác vững chãi nhưng vẫn sống động bằng
nhịp của hoa văn, của những vật phẩm nhiều màu sắc trên bàn tay
và đầu của nhân vật. Với chất liệu sơn mài những bộ trang phục được
diễn tả bằng kỹ thuật cẩn trứng, sử dụng vàng, bạc cùng với son màu đỏ thắm trên
áo và khăn tạo thị giác cho người xem ảo giác về không gian nhưng vẫn có chiều
sâu, độ trầm lắng của sơn mài.
Việc thể hiện
nét đẹp trang phục nữ Chăm trong trang phục truyền thống với phong cách gợi tả
đơn điệu của tác giả thể hiện mang tính chắt lọc về hình, dựa trên hình tượng
người phụ nữ Chăm đưa về mảng miếng không diễn tả sâu mà chỉ gợi tả hiện thực
nhằm tôn lên những nét đặc trưng trong các dáng vẻ được chắt lọc một cách đơn
giản nhất để thấy sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên. Luận văn là một
sự định hình phong cách sáng tác của bản thân trong cách thể vẻ đẹp của hình
thức trong sáng tác mà còn truyền tải được những vẻ đẹp trang nghiêm của sự
linh thiêng trong tín ngưỡng tôn giáo, trong đời sống sinh hoạt thường ngày của
người phụ nữ Chăm. Hình ảnh
người phụ nữ Chăm trong sinh hoạt đời thường là sự bình yên của một vùng đất
huyền thoại tinh thần chân chất đáng yêu của một
dân tộc có truyền thống văn hoá ngàn đời. Đã được tác giả cảm nhận và khai thác
một phần trong các tác phẩm.
Tiểu kết
Trong tất cả các
tranh về đề tài phụ nữ Chăm mà tác giả đã thể hiện, là những trải nghiệm của đời
sống lao động nghệ thuật. Các tác phẩm được thể hiện xoay quanh nét đẹp trang
phục và con người phụ nữ về cuộc sống tâm linh của dân tộc Chăm qua cách cảm
nhận riêng của tác giả. Nghiên cứu và thể hiện những tác phẩm mang nét đẹp
trang phục phụ nữ Chăm thông qua chất liệu sơn mài của tác giả cũng là nghiên
cứu nét đẹp nghệ thuật truyền thống của dân tộc Chăm ngày nay.
KẾT LUẬN
Người Chăm là một trong
năm mươi bốn dân tộc sinh sống lâu đời trên mảnh đất Việt Nam.
Trong lịch sử hình thành
và phát triển, người Chăm được biết đến như một cộng đồng có trình độ phát
triển văn hoá đặc trưng trong khu vực Đông Nam Á. Nền văn hoá phong phú, đa
dạng của người Chăm được thể hiện trong các lĩnh vực như kiến trúc, điêu khắc,
trong kho tàng văn hoá dân gian như ca dao, tực ngữ, luật tục,... Phụ nữ Chăm
đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của một số nền văn hóa các dân tộc trong khu vực
và trên thế giới một cách có chọn lọc và đã bản địa hoá nhiều yếu tố có nguồn
gốc từ bên ngoài.
Do khoảng
cách địa lý và điều kiện giao lưu tiếp xúc với môi trường xã hội, đặc điểm lịch
sử và văn hóa Chăm ngày nay không đồng nhất mà mang tính đặc thù theo địa
phương. Tín ngưỡng và tôn giáo giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng khá toàn diện
đến đời sống văn hoá tinh thần, văn hoá vật chất, từ hoạt động tổ chức đời sống
cá nhân đến tổ chức cộng đồng xã hội, và từ văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên đến văn hóa ứng xử.
Ngày nay xã hội càng phát triển, đời sống của tất cả các
đồng bào dân tộc được cải thiện tốt hơn nên việc ăn mặc cũng được quan tâm hơn. Vì vậy bên cạnh những
bộ trang phục truyền thống của mình thì sự giao lưu giữa dân tộc này với dân
tộc khác ngày một rộng rãi hơn, việc tiếp thu những trang phục của những dân
tộc khác cũng cần được phát triển. Nhưng trang phục của người Chăm cũng như những dân
tộc khác đều có ảnh hưởng văn hóa đan xen bên trong, cho nên sự tiếp thu hay
giao thoa giữa những bộ trang phục phải có chọn lọc để cho phù hợp đặc điểm
riêng với môi trường xã hội.
Qua những tác phẩm nghệ thuật vẽ về người Chăm ở Ninh Thuận. Nét đẹp
trang phục người Chăm nói chung và nét đẹp trang phục phụ nữ Chăm nói riêng được
rất nhiều họa sĩ làm đề tài để thể hiện với nhiều cách khác nhau. Đối với những
phụ nữ Chăm bộ trang phục như gắn liền với cuộc đời của họ, mỗi bộ trang phục
đều nổi bật lên ý nghĩa biểu tượng rõ rệt, đó là những cảm xúc tâm hồn mà khắc
sâu vào đời sống tinh
thần người phụ nữ Chăm. Những tác phẩm thể hiện rõ tình cảm dân tộc, ca ngợi
con người, ca ngợi xứ sở quê hương. Đó không chỉ là hiện tại cuộc sống mà xuyên
suốt lịch sử phát triển của cả dân tộc. Từ đó, các tác phẩm đã truyền được cảm xúc chung của những cảm nhận về
nhiều góc độ khác nhau, gây được một tình cảm với người xem ở
nhiều cung bậc cảm xúc từ sự gần gũi, giản dị, đến sự ngạc nhiên, thán phục...
qua nhiều cách diễn đạt bằng ngôn ngữ tạo hình.
Trải qua những biến cố của lịch sử cùng với sự sáng tạo mạnh mẽ trên các tác phẩm hội họa đương đại Việt Nam về cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận đã
có những thay đổi về lối sống riêng biệt, đặc thù của dân tộc. Việc giữ gìn, phát huy
bản sắc dân tộc trong phong cách sáng tác là yếu tố quan trọng. Thực tế cho thấy phụ nữ người Chăm đã
có một cái nhìn mới, tích cực hơn đối với trang phục của mình với thời đại.
Cùng với sự với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như sự hội nhập của các
nền văn hoá trên thế giới, người Chăm nổ lực khôi phục và phát triển, tiếp tục
lưu giữ bản sắc văn hoá đặc trưng của mình để hòa nhập mà không hòa tan./.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1.
Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người
Chăm Ahiêr
ở Ninh Thuận, Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2.
Phan Quốc Anh (2001), “Vài nét về văn hoá truyền thống Chăm ”, tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 9(207), tr. 14 -17.
3. Phan Xuân
Biên chủ biên (1989), Người
Chăm ở Thuận Hải Sở
Văn hóa thông tin Thuận Hải, Thuận Hải.
4. Phan Xuân
Biên (1989), “Góp phần tìm hiểu các loại hình tổ chức xã hội cổ truyền của
người Chăm ở Thuận Hải”, Người Chăm ở Thuận Hải, Sở VHTT Thuận Hải, tr
128-163.
5. Phan Xuân
Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991), Văn hóa
Chăm, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Phan Xuân
Biên (1989), “Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Thuận Hải”, Người
Chăm ở Thuận Hải, Sở VHTT Thuận Hải, tr 164 200.
7.
Ngô Văn Doanh (1994), “Văn hóa Champa - Huyền
thoại và sự
thật”, Hà Nội
8. Ngô Văn
Doanh (1998), “Lễ hội Rija Nưgar của người
Chăm”,
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
9. Ngô Văn
Doanh (2002), “Lễ hội
chuyển mùa của người Chăm”,
Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
10. Ngô Văn
Doanh (2002), “Văn hóa
cổ Champa”, Hà Nội,
2002.
11. Ngô Văn
Doanh (2011), “Thành cổ
Champa những dấu ấn của
thời gian”, Thế Giới, thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thị Đức (1998), “Văn hoá trang phục từ truyền thống đến hiện đại”, Văn hóa thông tin.
13. Cung Dương Hằng (2011), “Mỹ thuật nữ phục truyền thống Việt
Nam”, Văn hóa thông tin, Hà Nội.
14. Bùi Đức Hùng, Phan Quốc Anh, Võ Công
Nguyện, Phú Văn Hẳn
đông chủ biên (2015), “40 năm nghiên cứu văn hóa Chăm”, Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
15. Trần Ngọc Khánh (2003), Hoa văn thổ cẩm Chăm,
luận án tiến sĩ
lịch sử, Tp. Hồ Chí Minh.
16. Đinh Bá
Hoa – Trương Hiến Mai. “Gốm cổ
và hoa văn trên trang phục của người Chăm”, Hội
văn hoc dân gian Việt Nam.
17. Vũ Khánh (2009), Người Chăm, Thông
Tấn Hà Nội.
18.
Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Đại học
quốc gia, thành phố Hô Chí Minh.
19.
Anh Minh (2006), “Cảm hứng
phồn thực trong điêu khắc
Chăm”, tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, số 4, tr.
110.
20. Văn Món (2001), “Nghề gốm cổ
truyền của người Chăm Bàu
Trúc - Ninh Thuận”, Văn hóa thông tin, Hà Nội.
21.
Nguyễn Xuân Nghĩa, “Phụ nữ, tôn giảo và
vấn đề phát triển”,
tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số
l(37)/2006.
22. Nguyễn Xuân Nghĩa, Phan Văn Dốp
(1987), “Vài suy
nghĩ về
văn hóa Chăm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam ”, Một số vấn đề phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu sổ, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (2011), Ngôn ngữ Chăm thực trạng và giải
pháp,
Phụ nữ, thành phố Hồ Chí Minh.
24. Phan Đăng Nhật (2003), “Luật tục Chăm
& luật tục Raglai,” Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
25. Phan Đăng Nhật (1998), “Nghĩ về bản sắc dân tộc qua tranh tượng của Đàng Năng Thọ”, Mỹ thuật thời nay, số (4-
1998), tạp chí của HMT Việt Nam, Hà Nội, tr 28-30.
26. Phutra Noroya (2005), “Huyền thoại Po Inư Nưgar”, Tagalau
5, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr 109-113.
27. Cao Xuân Phổ (1988), “Điêu khắc Chàm”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr 195-217.
28. Lương Ninh (2006),
Vương quốc Chămpa, Đại học Quốc gia Hà Nội.
29.
Võ Công Nguyện (1996), Nghề thủ công truyền
thống của
người Chăm ở Việt Nam, Luận văn
Phó tiến sĩ Khoa học Lịch Sử, thành phố Hồ Chí Minh.
30. Sakaya (2003), Nghề
dệt cổ truyền của người Chăm, Văn hóa
dân
tộc, Hà Nội.
31. Sakaya (2003),
“Lễ hội của người Chăm”, Hà
Nội, Văn
hóa dân
tộc, Hà
Nội.
32. Ngô Đức Thịnh (2000), “Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt
Nam”, Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Thu, Thập Liên Trường, Phạm Văn Thành (2010),
“Lễ nghi Nông nghiệp truyền
thống tộc người Chăm Raglaỉ Ninh Thuận”, Nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh.
34. Phan Xuân Biên (4/1990), “Tính đa
dạng trong văn hó”a, Tạp chí KHXH.
35. Nguyễn Văn Tỷ (2004),“Thực trạng xã hội Chăm - một số giải pháp
chính”, Tagalau 4, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr
119-165.
36. Nguyễn
Văn Tỷ (2008), “Khái quát về
văn hoá Chăm”, Taugalau 9, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Phú Hậu (2004), “Nắng lửa gốm Bầu Trúc”, Tạp chí Mỹ
Thuật số 106, trang 16-17.
38. Đức Hòa (2000), “Biến hóa của nét trong tranh dân gian Đông Hồ”, Tạp chí Mỹ
thuật- số 84, trang 55.
39. Trần Phương Kỳ (2000), “Tư liệu về Nghệ thuật Chăm”, Tạp chí Mỹ
thuật số 05 - 06 (34 - 35).
40. Ngô Văn
Lệ (2003), “Một số vấn để về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông
Nam Á”, Nxb Đại
Học Quốc Gia.
41. Nhiều tác giả (2008), Mỹ
thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
42. Văn Món (2003), “Lễ hội của người Chăm”,
Nxb Văn hỏa thông tin.
43. Huỳnh
Quốc Thắng (2004), “Phân loại và xác định cơ chế giữ gìn, phát huy di sản văn hóa phi vật
thể”, tài liệu tham khảo.
44. Trần Ngọc Thêm
(2006), “Tìm về bản sắc
văn hoá Việt Nam”, Nxb Tổng hợp.
45. Chu Quang Trứ (2002), “Văn hóa Việt
Nam nhìn từ Mỹ Thuật”, Nxb Mỹ Thuật.
46. Chu Quang
Trứ (2002), “Vài nét về mỹ thuật dân gian
của dân tộc Chàm ở Ninh Thuận”, Văn
hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật, tập 2, Viện Mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật,
Hà Nội, tr 450-471.
47. Chu Quang Trứ (2002), “Vài phong tục chính của người Chàm”, hóa
Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật, tập 2, Viện Mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, tr 472-484.
48. Văn kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam
(1965), Văn kiện của
Đảng về chính sách dân tộc, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
49. Lâm Vinh (2002), “Mỹ học”, Trường Đại học
Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
50. Ngô Văn Doanh (2006), “Lễ
hội chuyển mùa của người Chăm”, Nxb Trẻ, thành phố Hổ Chỉ Minh.
51. Ngô Văn Doanh, “Thánh
địa Mỹ Sơn”, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
52. Đình Hy (1989), “Bản
sắc văn hóa và vấn đề xây dựng văn hóa vùng dân tộc Chăm ờ Thuận Hải”, Người
Chăm ở Thuận , Sở VHTT Thuận .
53. Inrasara
(2005), “Múa Chăm”, Tagalau, Nxb Văn
nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr 132-135.
54. Inrasara (2006), Ariya Cam – “Trường ca Chăm”, Nxb Văn
nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
55. Phan Ngọc Khuê (2003), “Nghệ thuật điêu khắc, tranh thờ của dân tộc Chăm”, Mỹ
thuật , số 82(54X6-2003), tạp chí của HMT Việt Nam, tr 10-12.
56. Phan Ngọc Khuê (2003), “Bức tranh trong lễ Rija Proong cùa người Chăm”, Nghiên cứu Mỹ thuật số 3(7) tháng 9/2003, ĐHMT Hà
Nội Viện Mỹ thuật, Hà Nội, tr 72-75.
57. Chế Vỹ Tân (2008), “Tản mạn về nếp sống văn hóa Chăm”, Tagalau
9, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr 140-148.
58. Nguyễn Quân- Phan Cẩm Thượng (1991). “Mỹ thuật ở làng”, Nxb Mỹ thuật.
59. Ngô Đức Thịnh (1994), “Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam”, Nxb, VHDT Hà Nội.
60. Nguyễn Đỗ
Cung (1978), “Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc để sáng tạo một nền nghệ thuật
tạo hình xã hội chủ nghĩa của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật số 1, Tr. 47157.
61. Ma Ngọc Dung (2014), “Trang phục truyền thống các tộc người nhóm ngôn ngữ Nam Đảo và việc bảo tồn giá trị văn hóa trang phục”, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
62. BCH trung ương Đảng khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
V (2008): về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
63.
Phan Quốc Anh (2002), “Những quan niệm
trong tang ma của người Chăm Bàlamôn”, tạp chí Văn
hoá Nghệ thuật, số 6 (84), 27 -
31.
64. Ngô Văn Doanh - Nguyễn Thế Thục (2004), “Điêu khắc Champa”, Nxb Thông tấn xã Việt Nam.
65. Nguyễn Đức Toàn (1995), “Tín ngưỡng dân gian Chăm và tín
ngưỡng
của các dân tộc Nam Đảo ở Việt
Nam”, tạp chí Văn học nghệ thuật, số
7, tr. 64-66.
66.
Phú Văn Hẳn (cùng các cộng tác
viên) (2013), “Văn hoá người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh”, Văn hoá dân tộc, Tp. Hồ Chí Minh.
67.
Trần Đình Phương (1987), Phần giới thiệu trong Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Nxb Ngoại văn, Hà Nội.
68.
Lê Đình Phụng (2005), “Tìm hiểu lịch sử kiến trúc
tháp Chăm”, Nxb. Văn hoá – Thông tin
& Viện văn hoá, Hà Nội.
69.
Inrasara (1996), “Trường ca”, Nxb VHDT, Hà Nội.
70.
Phú Văn
Hẳn ( cùng các cộng tác viên) (2013), “ Văn hoá người Chăm ở thành phố Hồ Chí
Minh”, Văn hoá dân tộc, Tp. HCM
71.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thể_loại:Lễ_hội_của_người_Chăm
72.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Người_Chăm
73.
https://congthuong.vn/van-hoa-cham-o-ninh-thuan-47154.html
74.
https://www.nguoicham.com/blog/1795/khám-phá-văn-hóa-chăm-ở-ninh-thuận/
75.
http://baoninhthuan.com.vn/quehuong/32384p0c142/den-ninh-thuan-tim-hieu-van-hoa-cham.htm
76.
https://tagalau.com/khai-quat-ve-van-hoa-cham-nguyen-van-ty/
77.
https://dantocmiennui.vn/van-hoa/ninh-thuan-bao-ton-va-phat-huy-ban-sac-van-hoa-truyen-thong-cac-dan-toc/170844.html
78.
https://ngotoc.vn/Van-hoa-Doi-song/tim-hieu-van-hoa-nguoi-cham-tai-vn-389.html
79.
https://text.123doc.org/document/2251190-nghe-thuat-dieu-khac-cham-pa.htm
80.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ_thuật_Chămpa
81.
https://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/hội-họa-dieu-khắc/page/5/
82.
https://dantocmiennui.vn/54-dan-toc-viet-nam/trang-phuc-cua-nguoi-cham-o
ninh-thuan-va-binh-thuan/131143.html
83.
http://zoomtravel.com.vn/home/Bai-viet/CAM-NANG/CAC-LOAI-TRANG-PHUC-CUA-DAN-TOC-CHAM/vn
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: HÌNH ẢNH
Hình ảnh minh hoạ chương 1
Hình ảnh minh hoạ chương 2
Hình ảnh minh hoạ chương 3
PHỤ LỤC 2: TỪ TIẾNG CHĂM TRONG
LUẬN VĂN
PHỤ LỤC 1
HÌNH ẢNH MINH HOẠ CHƯƠNG 1
PHỤ LỤC 2: TỪ TIẾNG CHĂM TRONG
LUẬN VĂN
STT |
TIẾNG CHĂM |
TIẾNG VIỆT |
1 |
Akhar thrah |
Chữ tharh, sarh; một loại chữ viết của người Chăm có
gốc từ Ấn Độ, hiện đang sử dụng ổ Ninh Thuận và Bình Thuận |
2 |
Amaravati |
Amaravati thị tộc Dừa cai quản ở phía Bắc (Quảng Bình
cho đến Quảng Nam, Đà Nẵng) |
Vijaya (Quảng Ngãi cho đến Bình Định) |
||
Kauthara (Phú Yên đến Khánh Hoà) |
||
3 |
Paduranga |
Thị tộc Cau cai quản phía Nam (Thị tộc Cau cai quản phía Nam) |
4 |
Bàlamôn, Blamon |
Tôn giáo Bàlamôn (góc Ấn Độ) |
5 |
Shiva/ Siva |
Thần Shiva (huỷ duyệt) |
6 |
Bhrama |
Vị thần gốc Bàlamôm được tôn vinh trong tiếng Chăm
(sáng tạo) |
7 |
Vishnu |
Thần Vishnu (bảo tồn) |
8 |
Palei/ Play |
Làng |
9 |
Y-A-NA Po Inư Nưgar |
Thần Mẹ Xứ
Sở hay Thiên Y Thánh Mẫu-Bà chúa sứ |
10 |
SaktBhagavati |
Vợ của Shiva |
11 |
Uroja |
Vua phía
Bắc |
12 |
Visitrasaga |
vua phía
Nam |
13 |
Y-A-NA Po Inư Nưgar Po Inư Nưgar |
Thần Mẹ Xứ Sở hay Thiên Y Thánh Mẫu-Bà chúa sứ (sai) Thần mẹ xứ sở |
14 |
Rija |
Lễ Rija |
15 |
Muk Thruh
Palei |
Bà tổ quê
hương |
|
Muk Pajau |
Bà bóng Ahier |
|
Muk Rija |
Bà bóng dòng tộc |
16 |
Ca Klaing |
Làng Mỹ
Nghiệp |
17 |
Makarư, Girai |
Con rồng
Chăm |
18 |
Marak |
Chim công |
19 |
Garuda |
Chim thần |
20 |
Malayo – Polynesian |
Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (cách viết của người Malaysia) |
21 |
Inư girai patith |
Con rồng
trắng |
22 |
Cakâw
kalang |
Móng con
chim diều hâu |
23 |
Akhan |
Váy kín |
24 |
Aban |
Váy mở |
25 |
Cabur, Chabun |
Lễ Cabur của người Chăm vào tháng 9 âm lịch |
26 |
Allah |
Ala, thượng đế Ala, thượng đế của người Islam, người
đứng đầu cao nhất của tôn giáo Islam. |
27 |
Bàni |
Tên của một cộng đồng Chăm Bàni |
28 |
Chăm Ahiêr |
Người Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo |
29 |
Champa |
Tên gọi của vương quốc Champa |
30 |
Islam |
Tôn giáo Islam, người Việt quen gọi là Hồi giáo |
31 |
Kak |
Tên một loại khăn của người Chăm Ahiêr |
32 |
Katê |
Lễ Katê truyền thống vào ngày 1 tháng 7 âm lịch Chăm
(Ninh Thuận- Bình Thuận) |
33 |
Khan |
Một loại váy của người Chăm |
34 |
Pandurangga |
Địa danh xưa của Phan Rang |
35 |
Ramưwan |
Lễ hội của cộng đồng Chăm Bàni |
36 |
Rija Nưgar |
Lễ hội đầu năm của người Chăm |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|