Luận văn thạc sỹ. Học viên: Nguyễn Quang Thái Quỳnh Truyền. Hochiminhcity university of culture
Hướng dẫn khoa học: Phan Quốc Anh
1.1. Cơ sở lý luận về làng nghề truyền thống
1.1.1. Khái
niệm làng nghề
truyền thống
-
Tiêu chí
công nhận làng nghề truyền thống
-
Tiêu chuẩn
công nhận nghệ nhân
Thứ nhất, làng nghề truyền thống đã tạo ra một khối lượng hàng hóa đa
dạng phong phú phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. [8, tr.47-55]
Thứ hai, phát triển
làng nghề truyền thống là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn. [8, tr.47-55]
Thứ ba, phát triển
làng nghề truyền thống góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống
dân cư ở nông thôn và tăng tích lũy, giảm di dân tự do. [8, tr.47-55]
Thứ tư, phát
triển làng nghề truyền thống sẽ chuẩn bị đội ngũ lao động có khả năng thích ứng
với lĩnh vực công nghiệp và tạo cơ sở vệ tinh cho các doanh nghiệp hiện đại. [8, tr.47-55]
Thứ năm, phát triển làng nghề truyền thống
góp phần Bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc. [8, tr.47-55]
Hướng dẫn khoa học: Phan Quốc Anh
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề truyền thống Việt Nam ra đời từ rất lâu với vai trò,
vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân các địa
phương. Sự tồn tại của các làng nghề truyền thống không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế, cải thiện đồi sống vật chất của nhân dân, giải quyết phần lớn lực
lượng lao động tại chỗ, hạn chế vấn đề di dân mà còn có vai trò quan trọng
trong việc gìn giữ, bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của các
địa phương.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
|
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
|
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH
|
----------------------------
NGUYỄN QUANG THÁI QUỲNH TRUYỀN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG DỆT THỔ
CẨM CHĂM MỸ NGHIỆP
TỈNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Tp.Hồ Chí Minh, Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO |
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
|
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH
|
----------------------------
NGUYỄN QUANG THÁI QUỲNH TRUYỀN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG DỆT THỔ
CẨM CHĂM MỸ NGHIỆP
TỈNH
NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên
ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60 31 06 42
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN QUỐC ANH
Tp.Hồ Chí Minh, Năm 2014
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề truyền thống Việt Nam ra đời từ rất lâu với vai trò,
vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân các địa
phương. Sự tồn tại của các làng nghề truyền thống không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế, cải thiện đồi sống vật chất của nhân dân, giải quyết phần lớn lực
lượng lao động tại chỗ, hạn chế vấn đề di dân mà còn có vai trò quan trọng
trong việc gìn giữ, bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của các
địa phương.
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có số dân gần
62.000 người. Họ sống tập trung thành từng làng palei riêng biệt và bảo lưu đậm
nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục
cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề Dệt thổ
cẩm Mỹ Nghiệp. Làng dệt Mỹ Nghiệp thuộc thôn Mỹ Nghiệp và thôn Chung Mỹ,
thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước. Cách quốc lộ 1A 01 km, cách Thành Phố
Phan Rang – Tháp Chàm 10km về hướng Nam. Hiện nay có 838 hộ làm nghề dệt thổ
cẩm. Nét đặc trưng của nghề dệt thổ cẩm là nghề truyền thống, gắn liền với lịch
sử phát triển của cộng đồng người Chăm tại Ninh Thuận. Sử dụng lao động nữ và
phương pháp thủ công hoàn toàn. Được sự quan tâm của các cấp chính quyền và hơn
hết là sự nỗ lực của mỗi người thợ Mỹ Nghiệp, sản phẩm thổ cẩm Mỹ Nghiệp đã
từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường và ngày càng được người tiêu dùng biết
tiếng. Nhiều sản phẩm của làng nghề được trưng bày ở các cuộc triển lãm, hội chợ
quốc tế trong nước, được khách nước ngoài ưa chuộng. Không dừng lại ở sản phẩm
mang tính truyền thống, các cơ sở dệt trong làng còn làm ra những mặt hàng lưu
niệm với những mẫu mã và chủng loại phong phú như: cà vạt, túi xách, ví, áo ghi
lê, ba lô…để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang Nhật Bản, Đức, Pháp, Mỹ…
Nhiều hợp đồng đã được ký kết trị giá hàng trăm triệu đồng. Đồng thời, sự khởi sắc của nghề dệt
thổ cẩm còn thu hút khá nhiều lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo tại địa
phương.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thì làng nghề
cũng gặp không ít khó khăn và trở ngại, như: việc hoạt động sản xuất vẫn mang
tính cầm chừng vì đầu ra sản phẩm là vô cùng bấp bênh, không chủ động do nhu
cầu tiêu thụ chưa thực sự ổn định; tính kề thừa, truyền dạy nghề; ảnh hưởng môi
trường sống xung quanh; đặc biệt là việc phát triển làng nghề gắn với các hoạt
động du lịch. Vì, giữa làng nghề truyền thống và du lịch có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau. Tình hình tổ chức khai thác tài nguyên du lịch tại các
điểm tham quan nhằm phục vụ du khách khi đến Ninh Thuận trong thời gian qua
diễn ra rất tự phát và bị động. Các điểm tham quan thiếu chủ thể quản lý, không
có đội ngũ thuyết minh chuyên nghiệp, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu phục
vụ du khách, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, nghèo nàn, tính dịch vụ chưa cao,
các vấn đề mang tính xã hội – yếu tố cộng động – mội trường chưa được quan
tâm…; đồng thời, chưa có sự gắn kết phối hợp trong kinh doanh phục vụ du khách
giữa chủ thể quản lý các điểm tham quan và các đơn vị lữ hành đưa khách đến.
Làng dệt Mỹ Nghiệp cũng đã được du khách biết đến khi đến với Ninh Thuận. Cũng
giống như làng gốm Bàu Trúc, làng dệt Mỹ Nghiệp những năm qua đã được tỉnh Ninh
Thuận quan tâm, đầu tư một số cơ sở vật chất như: cổng làng, đường vào làng,
nhà trưng bày, đồng thời hỗ trợ quảng bá xúc tiến trên các phương tiện thông
tin. Nhưng làng dệt Mỹ Nghiệp vẫn chưa trở thành đểm du lịch nổi tiếng vì vẫn
còn một số hạn chế nhất định như: chưa có bảng hướng dẫn trên quốc lộ 1A nên
rất khó xác định mốc để vào làng. Vấn đề vệ sinh chưa được chú trọng, sự liên
kết phối hợp để cùng nhau phát triển thương hiệu chưa hiệu quả. Chưa tạo được
những mẫu mã đặc thù của người Chăm Ninh Thuận, chưa có những dịch vụ đi kèm,
do đó cần phải tiếp tục đầu tư xây dựng, tăng cường quảng bá để thu hút khách
du lịch.
Chính vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề: “Phát triển
bền vững làng nghề truyền thống Dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp tại Ninh Thuận”, là hết sức cần thiết. Chính vì
lý do đó, mà tác giả quyết định chọn vấn đề này làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên
cứu đề tài
Làng nghề truyền thống từ lâu đã là đối tượng nghiên
cứu của rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Tính đến nay, đã có nhiều
công trình viết về nghề và làng nghề truyền thống ở Việt Nam, như:
Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của tác giả
Bùi Văn Vượng, NXB Văn hóa dân tộc, 1998. Trong tác phẩm này, tác giả đã đưa ra
một số khái niệm nghề thủ công, làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam.
Cung cấp thong thong tin cho độc giả về 16 làng nghề nổi tiếng trải dài 3 miền
Nam Bắc.
Nghề cổ nước Việt Nam, của tác giả Vũ Từ Trang, NXB
Văn hóa dân tộc, 2001. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu một cách khái quát về
lịch sử hình thành nghề thủ công Việt Nam từ thời kỳ Bắc Sơn tới nền văn hóa Hạ
Long… Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số khái niệm làng nghề, phường nghề và
công nghệ của làng nghề.
Ngoài ra, việc phát triển làng nghề truyền thống
theo hướng phát triển bền vững trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường; Khái niệm phát triển bền
vững với văn hóa, cũng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, tiêu biểu có một số
công trình như:
Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng
nghề truyền thống, của nhóm tác giả Kỹ sư Nguyễn Văn Đại và PTS. Trần Văn Luận,
NXB Nông Nghiệp, 1997. Bằng những thông tin phong phú và sinh động, những kết
quả nghiên cứu trong quá trình công tác thực tiễn của nhóm tác giả, đã phần nào
khắc họa những bước phát triển thăng trầm và những kết quả đã đạt được, những
tồn tại khó khăn cần tháo gỡ để đưa các ngành nghề truyền thống ở Việt Nam phát
triển một cách bền vững trong nền kinh tế thị trường.
Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của các tác giả TS. Mai Thế Hởn – GS.TS. Hoàng
Ngọc Hòa – PGS.TS Vũ Văn Phúc, NXB Chính trị Quốc Gia, 2003. Tác phẩm nghiên
cứu làm rõ phạm trù làng nghề truyền thống, đặc điểm hình thành và vị trí, vai
trò của làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế - xã hội qua các
thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, tác phẩm còn phân tích đánh giá tiềm năng, thực
trạng của việc phát triển làng nghề truyền thống trong những năm đổi mới và
những tồn tại cần khắc phục; Vạch rõ những phương hướng và đề xuất những giải
pháp đồng bộ, xác thực nhằm phát triển mạnh mẽ làng nghề truyền thống.
Mối quan hệ con người – Tự nhiên và phát triển bền
vững ở Việt Nam hiện nay, của tác giả TS. Phạm Thị Oanh, NXB Chính trị Quốc
Gia, 2013. Tác phẩm đi sâu nghiên cứu, trình bày những hệ thống quan điểm tiêu
biểu về mối quan hệ con người – tự nhiên torng lịch sử; phân tích quan điểm của
Đảng và Nhà nước vế phát triển bền vững; đưa ra phương hướng mục tiêu và đề
xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ con người
– tự nhiên vì sự phát triền bền vững.
Văn hóa với phát triển bền vững, của tác giả TS. Hồ
Bá Thâm, NXB Văn hóa Thông tin, 2012. Cuốn sách bao gồm có 09 chương, tập trung
vào 4 nhóm vần đề có tính lý luận, phương pháp luận và phương pháp: Quan niệm
phát triển bền vững và vai trỏ của văn hóa đối với phát triển bền vững; Quan hệ
mâu thuẫn giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế và định hướng giải
quyết; Một số quan niệm và phương pháp nghiên cứu, giải quyết; Những thách
thức, định hướng phát triển và gợi mở giải pháp.
Một số công trình nghiên cứu cung cấp những thông
tin, tư liệu tổng hợp nhằm giới thiệu những nét văn hóa đặc trưng người Chăm,
như:
GS. Trần Quốc Vượng chủ biên cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (2008) đã dành một
phần nói về không gian vùng văn hóa Trung Bộ, chủ yếu đề cập về không gian văn
hóa Chăm ở khu vực này.
Tác giả Trương Văn Món với cuốn sách Nghề Dệt cổ
truyền của người Chăm (2003), Nxb Văn hóa Dân tộc, miêu tả khái quát về vùng đất, con người, ít nhiều
có đề tài đề cập đến nghề dệt truyền thống Chăm.
Tác giả Ngô Văn Doanh với cuốn sách Văn hóa Chămpa (1994), Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm (1998), Thánh địa Mỹ Sơn (2003), Lễ hội chuyển mùa của người Chăm (2006) và có nhiều bài viết khác đăng trên tạp
chí khoa học trong và ngoài nước. Những tác phẩm kể trên đã trình bày và phân
tích nhiều lễ hội văn hóa do người Chăm tiến hành hàng năm theo định kì.
Tác giả Inrasara với Văn hóa – Xã hội Chăm, NXB Văn
học, 2003. Công trình giới thiệu tổng quan về những nét đặc thù văn hóa Chăm.
Trong đó, có một phần tác giả phân tích riêng về nghề dệt thổ cẩm truyền thống
của người Chăm.
TS. Phan Quốc Anh với Nghi lễ vòng đời người của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận (2006);
tác giả Hoàng Minh Đô chủ biên tác phẩm Tín ngưỡng, tôn giáo
trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (2006)
chứa đựng nhiều tư liệu về chính sách của Đảng – Nhà nước và số liệu báo cáo về
tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu trực
tiếp đến Làng nghề truyền thống Dệt Mỹ Nghiệp như: Làng Chăm Mỹ Nghiệp, của tác
giả Văn Món; tác phẩm Nghề dệt cổ truyền người Chăm của tác giả Văn Món (2003)
đi sâu phân tích phương thức và quy trình sản xuất, các sản phẩm lảng nghề;
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Văn hóa Thành Phố Hồ Chí Minh với đề tài Nghề dệt
truyền thống của người Chăm, của tác giả Ngô Thành Hải; Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài Phát triển du lịch ở làng dệt
thổ cẩm Mỹ Nghiệp – Ninh Thuận, của tác giả Đàng Lâm Bạch Sươn (2012), đề cập
vấn đề phát triển làng nghề gắn với hoạt động du lịch tại địa phương; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Khoa của Trường Đại học Văn hóa TP.HCM với đề tài Bảo
tồn và phát triển làng nghề thổ cẩm Mỹ Nghiệp – Ninh Thuận torng nền kinh tế
thị trường, của tác giả Nguyễn Hồ Phong (2009), công trình giới thiệu sơ lược
về làng nghề và sản phẩm làng nghề, phân tích những tác động và định hướng phát
triển làng nghề trong sự tác động của cơ chế thị trường. còn có rất nhiều
chuyên trang về văn hóa, văn hóa chăm, các chuyên trang về du lịch, làng nghề.
Bên canh đó, cũng có rất nhiều bài viết, bài tham luận về các giá trị văn hóa
của dân tộc Chăm tại Ninh Thuận, cũng như nghiên cứu và giới thiệu về làng nghề
Dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp.
Song, trong giai đoạn hiện nay, làng nghề truyền
thống đang đứng trước những thách thức rất lớn. Chúng ta cần có những tổng hợp,
đánh giá và phân tích thực trạng hoạt động của làng nghề. Từ đó, nắm bắt được
điểm tích cực và hạn chế trong hoạt động làng nghề, cũng như đưa ra được các
định hướng, giải pháp, đề xuất chính sách hỗ trợ nhằm hướng làng nghề truyền
thống Dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp phát triển bền vững, ổn định lâu dài cả về mặt văn
hóa, môi trường, kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, học viên mạnh dạn chọn đây là
hướng nghiên cứu và tìm tòi để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên
cứu
Hệ thống hóa lại lý luận về làng nghề, phát triền
bền vững làng nghề kết hợp với hệ thống lý luận về hoạt động du lịch làm cơ sở
luận cho đề tài.
Khảo sát và đưa ra đánh giá về thực trạng hoạt động
và phát triển của hai làng nghề. Tiềm năng phát triền du lịch của hai làng
nghề.
Đưa ra nhận định, hướng phát triền bền vững tại làng
nghề. Đặc biệt chú trọng đến không gian làng nghề trong việc phát triển các hoạt
động du lịch.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần xây
dựng làng nghề phát triển bền vững gắn với sự phát triển, lợi ích chung của địa
phương.
4. Đối tượng và
phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Làng nghề truyền thống Dệt thổ
cẩm Mỹ Nghiệp
Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Làng nghề Dệt thổ cẩm Mỹ nghiệp – Thị
trấn Phước Dân – Huyện Ninh Phước – Tỉnh Ninh Thuận
- Thời gian: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá dựa
trên những số liệu, thực trạng hoạt động tại làng nghề trong khoảng thời gian
2010 đến 2014
5. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
của đề tài hướng đến là phân tích thực trạng các hoạt động liên quan tại làng
nghề. Từ đó, đưa ra những phân tích, nhận định, hướng giải pháp gắn với sự phát
triển bền vững. Do đó, quá trình khảo sát thực tế, thu thập tài liệu có vai trò
quyết định đến nội dung đề tài. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu của đề tài như
sau:
Phương pháp tiếp cận và phân tích hệ
thống; Phương pháp khảo sát thực địa; Phương pháp phỏng vấn trực tiếp; Phương
pháp đối chiếu, so sánh; Phương pháp tổng hợp và kế thừa các kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã công bố.
6. Đóng góp của luận văn
Phân tích phương thức sản xuất, dòng đời sản phẩm làng nghề
tại làng nghề truyền thống trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Khảo sát thực tế, đánh giá một cách khách quan, thực trang
hoạt động và những tiềm năng phát triển của các làng nghề truyền thống Chămpa
tại Ninh Thuận.
Đưa ra những đề xuất, chương trình & dự án cụ thể trong
việc quản lý và phát triển làng nghề truyền thống Chămpa gắn với phát triển bền
vững tại địa phương.
Với mong muốn, kết quả của luận văn sẽ là cơ sở khoa học để
góp phần phát triển làng nghề trong thực tế, giao đoạn từ nay đến năm 2020.
Ngoài các phần: mục lục (),
danh mục các bảng (), phần mở đầu(), kết luận () và danh mục các tài liệu tham
khảo (), thì luận văn có () trang được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn
đề nghiên cứu
Chương 2: Làng nghề truyền thống Dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp và Thực trạng hoạt động
Chương 3: Quan
điểm và giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống Dệt thổ cẩm Chăm
Mỹ Nghiệp tỉnh Ninh Thuận
Chương 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về làng nghề truyền thống
1.1.1. Khái
niệm làng nghề
truyền thống
Các làng nghề truyền thống ở nước ta vốn có từ lâu đời với hàng nghìn
nghề khác nhau. Từ xa xưa, các nghề truyền thống luôn gắn bó với cư dân Việt
Nam trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm của các làng nghề truyền
thống trước hết đáp ứng nhu cầu cho sinh hoạt và đời sống với trình độ thẩm mỹ
ngày càng được nâng cao. Khi sản xuất chưa phát triển, các nghề truyền thống
mang đậm tính chất tự sản, tự tiêu, đáp ứng nhu cầu của một cộng đồng người
nhất định, phạm vi bị bó hẹp do nhiều điều kiện khác nhau. Chỉ sau này khi mà
sản xuất đã phát triển, nhu cầu xã hội ngày àng tăng lên, lúc đó mới hình thành
nên các làng chuyên nghề.
Về sản phẩm của các làng nghề truyền thống ở nước ta đã nổi tiếng từ xa
xưa và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới từ thế kỷ thứ 14, 15.
Sản phẩm nghề truyền thống vừa có giá trị kinh tế cao, vừa mang đậm bản sắc văn
hóa và truyền thống của dân tộc, vừa là cầu nối và tăng cường sự hiểu biết và
quan hệ giữa dân tộc ta với các dân tộc khác trên toàn thế giới. Các nghề
truyền thống có khả năng thu hút nhiều lao động, góp phần tích cực giải quyết
việc làm cho lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn. Phát triển mạnh nghề truyền
thống sẽ tạo them nhiều sản phẩm đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu tiêu dung trong
nước và xuất khẩu, tăng thu nhập quốc dân và tăng nguồn tích lũy bằng ngoại tệ
cho đất nước [5].
Truyền thống là thuật ngữ dùng để
chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của một cộng đồng người hay của xã hội lưu
giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống thể
hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử.
Truyền thống được biểu hiện ở hình thức như truyền thống học tập, lễ hội truyền
thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống v.v.
Khái niệm “Làng
nghề truyền thống” được khái quát dựa trên hai khái niệm, đó là: “Làng nghề” và “Ngành nghề truyền thống”.
Làng nghề:
Làng nghề là một thiết chế xã hội có từ rất lâu đời
trong lịch sử nước ta, nó cũng thăng trầm cùng với quá trình phát triển của dân
tộc. Nói đến làng nghề cần chú ý trước tiên đến hai nhân tố cấu thành, đó là
làng và nghề [5]. Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều
cho thấy, làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng
như đời sống dân cư ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,
những lệ làng, phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì,
phát triển đến ngày nay. Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời, nó thường
gắn liền với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học:
Làng xã Việt Nam xuất hiện từ thời các Vua Hùng dựng nước; những xóm làng định
canh đã hình thành, dựa trên cơ sở những công xã nông thôn. Mỗi công xã gồm một
số hộ gia đình sống quay quần trong một khu vực địa giới nhất định. Đồng thời
làng là nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ước sinh hoạt cộng đồng,
tâm thức tín ngưỡng, lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhăm liên kết với nhau
trong quá trình sản xuất và đời sống [8].
Cùng với quá trình phát triển đời sống kinh tế xã
hội đòi hỏi sự hình thành và phát triển các nghề thủ công phục vụ các nhu cầu
của bản thân con người. Vì vậy, nếu làng xã bảo lưu nền tự quản hay kinh tế tự
cung tự cấp thì làng xã càng gắn bó với nghề. Tình hình đó chưa phải đã là làng
nghề nhưng là cơ sở cho sự hình thành các làng nghề với tư cách làng chuyên
nghề. Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống
và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa, văn minh dân tộc. Quá
trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp
ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả họ và sau
đó lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra những quy ước như:
Không truyền nghề cho người làng khác, không truyền nghề cho con gái, hoặc uống
rượu ăn thề không để lộ bí quyết nghề nghiệp v.v.
-
Một số quan niệm
về làng nghề:
Quan niệm thứ
nhất: “Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho nghế
ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Nhưng với quan niệm như vậy thì làng nghề
ấy hiện nay không còn nhiều”. [8, tr.11].
Quan niệm thứ
hai: làng nghề là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây không nhất thiết
tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công, nhiều khi cũng làm
nghề nông. [8,
tr.11].
Nhưng do nhu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất
hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác. Nhưng quan
niệm về làng nghề như vậy là chưa đủ, để xác định làng đó có phải làng nghề hay
không thì cần phải xem xét tỷ trọng lao động hay số hộ làm nghề so với toàn bộ
lao động và hộ ở làng hay tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề so với tổng thu nhập
của thôn (làng).
Quan niệm thứ
ba: “Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và
nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ
trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề”. [8, tr.12]. Song ở đây chưa phản ánh đầy
đủ tính chất của làng nghề, nó là một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và
phát triển lâu đời trong lịch sử, là một đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có
tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội một cách tích cực.
Từ những cách tiếp cận trên chúng ta có thể thấy
khái niệm làng nghề liên quan đến các nghề thủ công cụ thể. Tên gọi của làng
nghề gắn với tên gọi của các nghề thủ công như nghề dệt vải, tơ lụa, đúc đồng,
gốm sứ v.v. Trong làng nghề sẽ có làng có một nghệ và làng nhiều nghề tùy thuộc
vào số lượng ngành nghề thủ công nghiệp dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế trong làng.
Vậy, “Làng nghề là một cụm dân cư sinh
sống trong một thôn (làng) có một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản
xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng
giá trị sản phẩm của toàn làng” [8, tr.12].
- Việc phân loại
làng nghề gặp nhiều khó khăn bởi tính đa dạng về quy mô, lĩnh vực và lịch sử
hình thành; có thể phân loại làng nghề theo các tiêu chí sau:
Theo lịch sử hình
thành và phát triển các làng nghề.
Theo ngành nghề
sản xuất kinh doanh.
Theo quy mô làng
nghề.
Theo loại hình kinh doanh của làng nghề có tính phổ
biến ở Việt Nam.
Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng
nghề.
-
Tiêu chí công nhận làng
nghề
Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
·
Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các
hoạt động ngành nghề nông thôn.
·
Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm
tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
·
Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ngành nghề
truyền thống
Dân tộc ta có nhiều nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi
tiếng, gắn liền đến quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa, văn minh
Việt Nam. Ngành nghề thủ công suy cho cùng là nghề truyền thống, với con mắt và
bộ óc sang tạo của nghệ nhân. Phạm trù ngành nghề truyền thống hiện nay đang là
vấn đề tranh luận sôi nổi và có rất nhiều tên gọi khác nhau: nghề truyền thống,
nghề cổ truyền, nghề phụ, nghề tiểu thủ công nghiệp.
-
Đối với ngành nghề được
xếp vào ngành nghể thủ công truyền thống nhất thiết phải có các yếu tố sau:
·
Đã hình thành, tồn tại và phát triển từ lâu đời ở nước ta.
·
Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề.
·
Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề
đông đảo.
·
Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt Nam.
·
Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước là chủ yếu.
·
Sản phẩm mang tính chất truyền thống và độc đáo của Việt Nam,
có giá trị và chất lượng cao, vừa là hang hóa vừa là sản phẩm văn hóa, nghệ
thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hóa của dân tộc, mang bản
sắc văn hóa Việt Nam.
·
Là nghề nghiệp nuôi sống bộ phận dân cư của cộng đồng, đóng
góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.
-
Tiêu chí công nhận nghề truyền thống
Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thì Nghề được công nhận là nghề
truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau [21]:
·
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến
thời điểm đề nghị công nhận;
·
Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc;
·
Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc
tên tuổi của làng nghề.
Từ những quan niệm trên ta có thể hiểu rằng: “Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của
nước ta, còn tồn tại đến ngày nay, bao gồm cả ngành nghề mà phương pháp sản
xuất được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất,
nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống” [8, tr.17].
-
Có nhiều cách
phân loại nghề, tuy nhiên có thể xem xét một số cách như sau:
Phân loại theo trình độ kĩ thuật:
·
Loại nghề có
kĩ thuật đơn giản như đánh sợi, đan võng xã Đức Chánh (Mộ Đức), sản xuất chổi
đót ở Phổ Phong (Đức Phổ), sản xuất bánh tráng Thi Phổ, sản xuất gạch ngói Đức
Nhuận (Mộ Đức)… sản phẩm của những nghề này có tính chất thông dụng, phục vụ
nhu cầu hằng ngày của dân cư nông thôn.
·
Loại nghề có
kĩ thuật phức tạp như gốm Chẩu Ổ (Bình Sơn), gốm Phổ Khánh (Đức Phổ), đúc đồng
xã Đức Hiệp (Mộ Đức)v.v. Các nghề này không chỉ có kĩ thuật công nghệ phức tạp
mà còn đòi hỏi nhiều ở người thợ sự sáng tạo và khéo léo. Sản phẩm có giá trị
kinh tế, vừa mang tính văn hóa; không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn có thể
xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.
Phân loại theo tính chất kinh tế
·
Loại nghề
thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, đây là nghề phụ của hầu
hết gia đình nông dân, sản phẩm ít mang tính chất hàng hóa, chủ yếu là phục vụ
nhu cầu tại chỗ như: chế biến nông sản, sản xuất công cụ như cày bừa, liềm hái.v.v.
·
Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp,
những nghề này được phát triển bởi sự tiến bộ của trình độ kĩ thuật công nghệ
và trình độ tay nghề của người thợ, sản phẩm thể hiện tài năng sáng tạo và sự
khéo léo của người thợ, đặc biệt sản phẩm tạo ra trở thành hàng hóa, đem lại
thu nhập cao cho người sản xuất, tiêu biểu là: nghề dệt, gốm sứ, kim hoàn.v.v
Tuy nhiên, cách phân
loại trên chỉ phụ thuộc trong điều kiện trước đây, ngày nay trong nền kinh tế
thị trường, nhiều nghề đã phát triển mạnh.
Dựa vào giá trị sử dụng của các sản phẩm, có thể
phân loại các ngành nghề truyền thống theo các nhóm chính như sau:
·
Các ngành
nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm sứ, chạm khảm gỗ, chạm khắc
đá, thêu, vàng bạc.v.v.
·
Các ngành
nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, nhôm,
sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ.v.v.
·
Các ngành
nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như: dệt vải, dệt chiếu, khâu nón.v.v..
·
Các ngành
nghề chế biến lương thực thực phẩm như: xay xát, làm bún bánh, nấu rượu, nấu đường
mật, chế biến thủy sản.v.v.
Từ những phân tích từ hai khái niệm “Làng nghề” và “Ngành nghề truyền thống”, có các quan niệm như sau về “Làng nghề truyền thống”: [8, tr.13-15]
Quan niệm thứ
nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân cư, cư trú trong phạm vi một
địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một
hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một hoặc nhiều
loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này chỉ mới thể hiện được
yếu tố truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, nhưng tuân
thủ yếu tố truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ
hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm nghề thủ công có truyền
thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ. Bởi
vì khi nói đến làng nghề truyền thống ta không thể chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà
phải chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan
tâm đến hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, torng đó yếu tố quyết định là
nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất, và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ
ba: Làng nghề truyền thống là những làng có tuyệt đại bộ phận dân số làm nghề
cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử,
được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít
nhất cũng tồn tại hang chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có
nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát
triển nghề. Đồng thời sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo,
nổi tiếng và đậm nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập, tiểu thủ
công nghiệp ở làng chiếm 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu thập của làng
trong năm. Đây
là một quan niệm tương đối đầy đủ.
Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên có thể định nghĩa: “Làng nghề truyền thống là những thôn làng có
một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản
xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những
nghề thủ công đó được truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế hệ.
Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề
nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu
bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị
trường”.[8]
-
Tiêu chí
công nhận làng nghề truyền thống
·
LNTT phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống theo quy định.
·
Đối với những làng chưa đạt tiêu chuẩn (1), (2) của tiêu
chí công nhận làng nghề nêu trên nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được
công nhận theo quy định thì cũng được công nhận là LNTT.
-
Tiêu chuẩn
công nhận nghệ nhân
Thông tư liên tịch số 41/2002/TTLT/BNN-BLĐTBXH-BVHTT ngày
30/5/2002 giữa Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Lao động –TBXH và Bộ Văn hoá-Thông
tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn về tiêu chuẩn, thủ tục
xét công nhận danh hiệu và một số chính sách đối với nghệ nhân. Trong đó, công
dân Việt Nam làm việc trong các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, thủ công mỹ
nghệ truyền thống của Việt Nam được xét danh hiệu nghệ nhân nếu đủ các điều
kiện sau:
·
Là người thợ giỏi, có trình độ kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp điêu luyện, có khả năng sáng tác mẫu mã và sao chép mẫu đạt trình độ
nghệ thuật cao mà người thợ bình thường khác không làm được.
·
Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, có phẩm chất đạo đức được những người trong nghề, trong lĩnh
vực người đó hoạt động tôn vinh, thừa nhận.
·
Có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao, đoạt huy chương
vàng, huy chương bạc trong các cuộc thi, triển lãm quốc gia hoặc quốc tế.
·
Đối với những người không có điều kiện tham gia các cuộc
thi, triển lãm thì phải có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao được Hội đồng
cấp Trung ương xét công nhận danh hiệu Nghệ nhân công nhận tương đương.
·
Có công đóng góp trong việc giữ gìn, phát triển, đào tạo
và truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ.
Thông tư số 01/2007/TT-BCN ngày 11/1/2007 của Bộ Công
Nghiệp (nay là Bộ Công Thương) hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và
hồ sơ xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú; trong đó đối
tượng được đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú phải đạt các tiêu chuẩn
sau:
·
Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có
phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề, gương mẫu, thực sự là tấm gương sáng
cho mọi người và đồng nghiệp noi theo.
·
Là người thợ giỏi tiêu biểu được đồng nghiệp thừa nhận,
có thâm niên trong nghề tối thiểu 15 năm, có trình độ kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp điêu luyện, sáng tác thiết kế được 10 mẫu sản phẩm đạt trình độ nghệ
thuật cao đã trực tiếp làm ra trên 15 tác phẩm có giá trị kinh tế, kỹ thuật, mỹ
thuật.
·
Là người có ảnh hưởng rộng rãi trong ngành và xã hội.
·
Có nhiều thành tích trong việc giữ gìn, truyền nghề, dạy
nghề cho trên 100 người, sáng tạo và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ.
·
Là nghệ nhân đầu đàn tiêu biểu được đồng nghiệp thừa
nhận, quần chúng mến mộ, kính trọng.
·
Có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao, được tặng giải
(loại vàng hoặc bạc) tại các hội chợ triển lãm quốc gia hoặc quốc tế.
1.1.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Thứ nhất, làng nghề truyền thống đã tạo ra một khối lượng hàng hóa đa
dạng phong phú phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. [8, tr.47-55]
Phát triển làng nghề truyền thống là
giải pháp hết sức quan trọng nhằm huy động tối đa nguồn lực sẵn có ở nông thôn
như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu, phế phẩm của nông nghiệp được
huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh; cũng như khai thác có hiệu quả
nguồn vốn torng nhân dân, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như những kỹ năng kỹ xảo
của người lao động.
Trong quá trình phát
triển, các làng nghề đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu
nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Khi nghề thủ
công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có kinh tế nông
nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch
vụ cùng tồn tại và phát triển.
Xét trên góc độ phân
công lao động thì các làng nghề đã có tác động tích cực tới sản xuất nông
nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho khu vực nông nghiệp mà còn
có tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Mặt
khác, kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản lượng cao
hơn so với sản xuất nông nghiệp; do từng bước tiếp cận với kinh tế thị trường,
năng lực kinh doanh được nâng lên, người lao động nhanh chóng chuyển sang đầu
tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là những ngành mà sản phẩm có
khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước và thế giới.
Làng nghề phát triển đã
tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt
động, thu hút nhiều lao động, khác với sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các
làng nghề là một quá trình liên tục, đòi hỏi một sự thường xuyên cung ứng dịch
vụ vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ
với nhiều hình thức đa dạng phong phú, đem lại thu nhập cao cho người lao động.
Sự phát triển của làng
nghề có tác dụng rõ rệt với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH. Sự phát triển lan tỏa của làng nghề đã mở rộng
qui mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều
làng nghề đạt 60 - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
Thứ hai, phát triển
làng nghề truyền thống là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn. [8, tr.47-55]
Sản xuất nông nghiệp, bản thân nó không thể có khả năng giải quyết số
lượng lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Cho nên trong điều kiện đất đai
canh tác ít, nguồn vốn hạn hẹp, lao động dư thừa, việc tìm ra giải pháp hữu
hiệu để giải quyết việc làm cho người lao động là đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa
chính trị, xã hội to lớn hiện nay. Và một trong những giải pháp hữu hiệu và có
tính chiến lược là phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn với nhiều
ngành nghề đa dạng phong phú, có khả năng phát triển rộng khắp trong nông thôn.
Nhiều làng nghề không
những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa phương mà còn tạo việc làm cho nhiều
lao động ở các địa phương khác.
Hơn
nữa, sự phát triển của các làng nghề đã phát triển và hình thành nhiều nghề
khác; nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới,
thu hút nhiều lao động. Mặt khác, việc phát triển các ngành nghề tại các làng
nghề ở nông thôn sẽ tận dụng tốt thời gian lao động, khắc phục được tính thời
vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bổ hợp lí lực lượng lao động nông
thôn. Vai trò tạo việc làm của các làng nghề còn thể hiện rất rõ ở sự phát
triển lan tỏa sang các làng khác, vùng khác, đã giải quyết việc làm cho nhiều
lao động, tạo ra động lực cho sự phát triển KT-XH ở vùng đó.
Đặc biệt, việc mở rộng
thị trường xuất khẩu sản phẩm truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng. Trên
phương diện kinh tế, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đã đem lại
kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD mỗi
năm. Trên phương diện xã hội, xuất khẩu hàng thủ công truyền thống là
nhân tố quan trọng để kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng
triệu lao động thủ công chuyên nghiệp và nhàn rỗi. Qua tổng kết thực tiễn, đã
tính toán được rằng cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo
việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 - 4000 lao động.
Như vậy, vai trò của
làng nghề rất quan trọng, được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm
cho người lao động, đồng thời góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động. Ở
nơi có làng nghề phát triển thì ở đó có thu nhập và mức sống cao hơn so với
vùng thuần nông.
Thứ ba, phát triển
làng nghề truyền thống góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống
dân cư ở nông thôn và tăng tích lũy, giảm di dân tự do. [8, tr.47-55]
Khác với một số ngành
nghề công nghiệp, đa số các nghề thủ công không đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, bởi
rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ do thợ thủ công tự sản xuất
được; đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là qui mô nhỏ, cơ cấu vốn và
lao động ít nên phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của
các gia đình, đó là lợi thế để các làng nghề có thể huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do đặc điểm sản xuất lao động
thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên
bản thân nó có khả năng tận dụng và thu hút nhiều lao động, từ lao động thời vụ
nông nhàn đến lao động trên độ tuổi hay dưới độ tuổi lao động, trẻ em vừa học
và tham gia sản xuất dưới hình thức học nghề hay giúp việc, lực lượng này chiếm
một tỉ lệ đáng kể trong tổng số lao động làng nghề.
Sự phát triển của làng
nghề đã có vai trò tích cực trong việc hạn chế di dân tự do ở nông thôn. Quá
trình di dân tự do hình thành một cách tự phát do sự tác động của qui luật cung
cầu lao động; diễn ra theo hướng di chuyển từ nơi thừa lao động và giá nhân
công rẻ đến nơi thiếu lao động với giá nhân công cao, từ nơi có đời sống thấp
đến nơi có đời sống cao. Quá trình này xét trên bình diện chung của nền kinh tế
đã có những tác động tích cực làm giảm sức ép việc làm ở khu vực nông thôn, đáp
ứng nhu cầu lao động giản đơn ở thành phố; đồng thời làm tăng thu nhập, nâng
cao đời sống xã hội, giảm bớt đói nghèo cho người dân nông thôn. Tuy nhiên, nó
lại có những tác động tiêu cực tới đời sống KT-XH, gây áp lực đối với dịch vụ,
cơ sở hạ tầng xã hội ở thành thị và là một khó khăn lớn trong vấn đề quản lí đô
thị.
Việc
phát triển các làng nghề được thúc đẩy ở khu vực nông thôn, ngoại thị là chuyển
biến quan trọng tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông
dân. Phát triển làng nghề theo phương châm “Ly nông, bất li hương” không chỉ có
khả năng giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn có
vai trò tích cực trong việc hạn chế dòng di dân tự do ra đô thị.
Thứ tư, phát
triển làng nghề truyền thống sẽ chuẩn bị đội ngũ lao động có khả năng thích ứng
với lĩnh vực công nghiệp và tạo cơ sở vệ tinh cho các doanh nghiệp hiện đại. [8, tr.47-55]
Đa dạng hóa kinh tế nông
thôn là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hóa nông thôn. Đa
dạng hóa kinh tế nông thôn là biện pháp thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở nông thôn
phát triển, tạo ra sự chuyển biến mới về chất, góp phần phát triển KT-XH khu
vực nông thôn. Vì vậy, phát triển làng nghề là một trong những giải pháp quan
trọng để thực hiện quá trình đô thị hóa.
Một khi làng nghề truyền thống nông thôn
phát triển mạnh mẽ, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp
nghệ nhân mới. Chính thong qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ khoa học
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất
lượng cao hơn, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như
vậy, làng nghề truyền thống cáng phát triển mạnh mẽ, nó càng có điều kiện để đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa, khi cở sở vật chất kỹ thuật
được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao
động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật.
Thứ năm, phát triển làng nghề truyền thống
góp phần Bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc. [8, tr.47-55]
Lịch
sử phát triển của làng nghề truyền thống gắn liền với lịch sử phát triển văn
hóa của dân tộc, nó là nhân tố góp phần tạo nên nền văn hóa ấy; đồng thời là sự
biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc. Các làng nghề phát triển sẽ bảo
tồn, duy trì và phát triển nhiều ngành nghề và các giá trị văn hóa của dân tộc.
Sản
phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật
chất và lao động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo
của người thợ thủ công. Các sản phẩm của các làng nghề chứa đựng những phong
tục, tập quán, tín ngưỡng... mang sắc thái riêng có của dân tộc Việt Nam, nhiều
sản phẩm làng nghề có giá trị, có tính nghệ thuật cao, trong đó hàm chứa những
nét đặc sắc của văn hóa dân tộc, những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi
làng nghề và được coi là biểu tượng nghệ thuật truyền thống của dân tộc đồng
thời có giá trị minh chứng sự thịnh vượng của quốc gia, cũng như thể hiện những
thành tựu, phát minh mà con người đạt được.
Nghề truyền thống, đặc
biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản văn hóa quý báu mà các thế hệ cha
ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thể hệ sau. Cho đến nay, nhiều sản
phẩm làng nghề là hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo, độc đáo, đạt trình độ bậc cao về mỹ thuật còn được lưu giữ, trình
bày tại nhiều viện bảo tàng nước ngoài.
1.2. Phát triển
bền vững
1.2.1. Khái niệm
phát triển bền vững
Hiện nay, thuật ngữ phát triển bền vững được sử dụng phổ biến
trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường, v.v. Lúc đầu, khái niệm “phát triển” chỉ được hiểu đơn thuần là
phát triển về cơ học [9]. Chẳng hạn như sự tăng trưởng của kinh tế thông qua
các con số cụ thể, các thống kê về chất lượng cuộc sống, tốc độ phát triển của
công nghệ và ứng dụng của nó torng đời sống xã hội. Tuy nhiên sau đó, người ta
thấy rằng “phát triển” là một hiện
tượng phức tạp, nó không đơn thuần chỉ là đo đếm bằng những con số thống kê cụ
thể hay đánh giá về sự tăng trưởng của kinh tế, công nghiệp, chất lượng cuộc
sống. Chính sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, mục đích thái quá
về tăng trưởng kinh tế đã dần phá vỡ thế cân bằng vốn của của môi trường, tức
là xuất hiện mâu thuẫn giữa phát triển với môi trường tự nhiên.
Những ý tưởng và hàm ý phát triển bền vững sớm xuất hiện trong
xã hội loài người nhưng phải đến thập niên đầu của thế kỷ XX, những hàm ý này
mới phát triển, chuyển hóa thành hành động và cao hơn là phong trào xã hội.
Trong những năm 1970, thuật ngữ xã hội bền vững tiếp tục xuất
hiện trong các công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây. Đầu những năm
1980, thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu tiên được sử dụng trong chiến lược
bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc
tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và chương trình môi trường Liên hiệp quốc đề
xuất, cùng với sự giúp đỡ của UNESCO và FAO.
Khái niệm phát triển bền vững được phổ biến rộng rãi vào năm
1987 nhờ báo cáo Brundtland () của Ủy ban Môi trường và phát triển
thế giới – WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Theo Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa
mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai” [1]. Về tính thực tế của định nghĩa này có những
điểm cần phải bàn, chẳng hạn, con người hiện tại khai thác tài nguyên để thỏa
mãn nhu cầu của mình nhất định sẽ làm tài nguyên cạn kiệt. Như vậy, nhất định
sẽ “tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu
của các thế hệ mai sau” [9]. Khái niệm này có sự đối lập giữa hiện thực
cuộc sống với mơ ước, khát vọng của con người. Nhưng rõ ràng khái niệm này đã
rung lên một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ báo động hai mặt đối lập của tương lai
cuộc sống con người, khiến con người phải lưu tâm nghiêm túc.
Nội hàm phát triển bền vững được Liên Hiệp Quốc tái khẳng
định và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Rio 1992, Hội nghị Johannesburg
2002 và Hội nghị Rio+20 diễn ra vào tháng 6 năm 2012. Tại các hội nghị này,
khái niệm phát triển bền vững được mở rộng và cụ thể hóa bao gồm các vấn đề xóa
bỏ nghèo nàn, chênh lệch mức sống, quyền phụ nữ, bình đẳng xã hội, việc làm,
các mối quan hệ Bắc – Nam. Vấn đề dân số cạn kiệt tài nguyên không còn là trọng
tâm mà trọng tâm được đề cập là con người.
Bảng so sánh sự biến đổi căn bản trong quan niệm về phát
triển của loài người, từ phát triển truyền thống tới phát triển bền vững: [4,
tr.63]
STT
|
Tiêu chí
|
Phát triển truyền thống
|
Phát triển bền vững
|
1
|
Trụ
cột
|
Kinh tế
|
Kế
hợp hài hòa các mặt của sự phát triển
|
2
|
Quan
hệ con người với tự nhiên
|
Khai
thác tự nhiên, con người đối lập với tự nhiên
|
Bảo
tồn, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, con người thống nhất, hài hòa với
tự nhiên
|
3
|
Điều
kiện cơ bản
|
Tài
nguyên thiên nhiên
|
Tài
nguyên con người
|
4
|
Mục
tiêu, thực chất của sự phát triển
|
Tăng
về của cải, hàng hóa là mục tiêu duy nhất
|
Phát
triển con người, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển
|
5
|
Phương
thức tác động vào tự nhiên
|
Kinh
tế truyền thống (thủ công, cơ khí)
|
Kinh
tế tri thức (công nghệ hiện đại với hàm lượng trí tuệ cao)
|
6
|
Quan
hệ giới
|
Nam
quyền
|
Bình
đẳng nam – nữ
|
7
|
Quan
niệm tiếp cận
|
Phiến
diện, đơn ngành, liên ngành thấp
|
Toàn
diện, liên ngành cao
|
Khi nghiên cứu lý luận phát triển bền vững, một số hướng tiếp
cận khác nhau có thể nhấn mạnh mặt này hay mặt kia tạo nên những xu hướng khác
nhau. Xu hướng nổi bật bắt đầu vào khoảng giữa thế kỷ XX, lấy nhà nước, xã hội
công dân và thị trường là ba yếu tố căn bản, trụ cột của sự phát triển xã hội.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX và cho đến ngày nay, yếu tố sinh thái ngày càng
nổi lên cấp bách, do vậy, có xu hướng cho rằng, sự phát triển của xã hội phải
dựa trên bốn trụ cột là nhà nước, xã hội công dân, thị trường và sinh thái.
Hiện nay, yếu tố văn hóa cũng đã được chú trọng. Tuy nhiên, quan điểm chủ đạo
và được sự ủng hộ nhất trên thế giới là quan điểm của Liên hợp Quốc về phát
triển bền vững với nhóm các trụ cột chính sau: [4, tr.59-62]
·
Phát triển bền vững về môi trường
·
Phát triển bền vững về kinh tế
·
Phát triển bền vững về xã hội
·
Phát triển bền vững về văn hóa
·
Phát tiển bền vững về chính trị - thể chế
·
Phát triển bền vững về con người
1.2.2.
Quan niệm phát triển bền vững tại Việt Nam
Việt Nam là một trong số gần 200 nước tham gia chương trình
nghị sự 21 tháng 9 năm 2002, Việt Nam đã giới thiệu dự thảo lần đầu phát triển
bền vững, tại Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững toàn cầu họp tại
Johanesburg (Cộng hòa Nam Phi).
Ngày 17 tháng 8 năm 2004 Việt Nam đã có quyết định số
153/2004/QĐ-TTg phê duyệt và ban hành “Định hướng phát triển bền vững ở Việt
Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững đất nước
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường. Theo đó, đưa ra những nguyên tắc Phát triển
bền vững ở Việt Nam dựa trên 8 nguyên tắc:
·
Con người là trung tâm của phát triển bền vững.
·
Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn
phát triển sắp tới, đảm bảo an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền
vững, kết hợp chặt chẽ hợp lý hài hòa với phát triển xã hội, khai thác hợp lý,
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh
thái và bảo vệ môi trường.
·
Bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không
thể tách rời của quá trình phát triển.
·
Quá trình phát triển phải đảm bải đáp ứng một cách công bằng
nhu cầu kế thừa của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các
thế hệ tương lai.
·
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh mạnh và bền vững đất nước.
·
Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính
quyền, cán bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan doanh nghiệp, đoàn thể xã
hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
·
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
·
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.
Trên cơ sở 8 nguyên tắc, định hướng phát triển bền vững ở
Việt Nam bao gồm 5 phần:
·
Phần 1: Phát triển bền vững – con người tất yếu ở Việt Nam
Xác định mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc chính và hoạt động
ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
·
Phần 2: Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát tiển bền
vững
Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
Thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện
với môi trường.
Thực hiện quá trình “Công nghiệp hóa sạch”, phát triển nông
nghiệp và nông thôn bền vững.
·
Phần 3: Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền
vững
Nỗ lực xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội.
Tiếp tục giảm mức tăng dân số và tạo them nhiều việc làm cho
người lao động.
Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhăm phát triển bền
vững các đô thị, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng.
Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao trình độ dân trí và
trình độ nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển đất nước.
Phát triển số lượng, nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh môi trường.
·
Phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường và kiểm soát ô nhiễm
Chống suy thoái đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên
đất.
Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.
Bảo vệ môi trường biển, ven đảo, hải đảo và phát triển tài
nguyên biển.
Bảo vệ phát triển rừng.
Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại
của biến đổi khí hậu, phòng và chống thiên tai.
·
Phần 5: Tổ chức thực hiện phát triển bền vững
Hoàn thiện vai trò lãnh đạo của nhà nước trong lĩnh vực tổ
chức thực hiện phát triển bền vững.
Huy động toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững.
Hợp tác quốc tế để phát triển bền vững.
1.2.3. Phát triển bền
vững làng nghề truyền thống tại Việt Nam
1.2.3.1. Khái niệm phát triển bền vững làng nghề truyền
thống tại Việt Nam
Khái niệm Phát triển bền vững làng nghề truyền thống cũng
không thể tách rởi nội hàm của khái niệm Phát triển bền vững, có thể hiểu: “Phát triển bền vững làng nghề truyền thống
là quá trình phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng (sản xuất, kinh doanh,
bảo tồn v.v) và ngày càng phát triển của thế hệ hiện tại, mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai”.
1.2.3.2. Các yếu tố tác động đến phát triển bền vững
làng nghề truyền thống tại Việt Nam
Thực chất sự phát triển bền vững của làng nghề truyền thống
bao gồm rất nhiều mặt:
·
Về mặt kinh tế: đó là sự tăng trưởng kinh
tế, tăng năng xuất lao động (được đo lường bằng số lượng sản phẩm làm ra trên
một đơn vị thời gian hoặc rút ngắn thời gian làm ra sản phẩm) trong thời gian
dài dựa trên sự phát triển và ứng dụng của khoa học công nghệ, sản phẩm sản
xuất ra ổn định, sức tiêu thụ sản phẩm ngày càng tăng, đảm bảo thu nhập người
dân. Góp phần tích cực vào sự phát triển chung của cộng đồng, của quốc gia.
Phát triển bền vững làng nghề truyền thống về kinh tế là tăng
năng suất lao động, gia tăng giá trị sản lượng, thu hút lao động vào ngành nghề
phi nông nghiệp, nâng cao thu nhập, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, thay đổi mô
hình sản xuất tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững.
·
Về mặt xã hội là nâng cao chất lượng
cuộc sống, trình độ dân trí, các chuẩn mực giá trị đạo đức dựa trên sự phát
triển chung của làng nghề truyền thống. Tăng thu nhập cho lao động nông thôn,
giải quyết lao động không chỉ trong làng nghề mà còn thu hút lao động ở các
vùng lân cận. Phải thực hiện được quá trình đô thị hóa nông thôn, do các làng
nghề phát triển ổn định sẽ góp phần tạo ra nguồn tích lũy ổn định cho ngân sách
địa phương giúp việc thực hiện tái cơ cấu và cơ sở hạ tầng nông thôn tại địa
phương được thực hiện hóa tốt hơn. Ổn định xã hội, thu hẹp dân khoảng cách giàu
nghèo.
·
Về mặt môi trường là hạn chế ô nhiễm môi trường
sản xuất, môi trường sống. Hạn chế bệnh nghề nghiệp, có ý thức nâng cao chất
lượng môi trường sinh thái làng nghề. Làng ngề truyền thống hướng đến sử dụng
nguyên liệu nhân tạo, đa dạng hóa và thay thế nguồn nguyên liệu.
·
Về mặt văn hóa là giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống thông qua phương thức sản xuất, hoa văn thể hiện trên
sản phẩm. Những giá trị văn hóa dân tộc là sự kết tinh của lao động vật chất và
lao động tinh thần, dưới bàn tay tài hòa và óc sáng tạo của người thợ thủ công.
·
Mô
hình mối quan hệ:
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, dưới
sự tác động của nền kinh tế thị trường thì việc bảo tồn và phát triển các làng
nghề truyền thống theo hướng phát triển bền vững, ổn định lâu dài là một thách
thức không nhỏ. Đòi hỏi sử chung tay của cả cộng đồng, các cơ quan liên ngành,
đặc biệt là phải có chiến lước phát triển lâu dài. Trong tình hình đó, có thể
nhận thấy có các yếu tố chính sau đây, tác động đến việc phát triển làng nghề
truyền thống:
·
Đầu ra sản phẩm: Đây là vấn đề sống còn
đối với mỗi làng nghề. Vì nếu không giả quyết tốt vấn đề đầu ra sản phẩm thì sẽ
không tạo được động lực để thúc đẩy và tái sản xuất trong làng nghề truyền thống.
Ban đầu, các sản phầm trong làng nghề chỉ đáp ứng nhu cầu nhất định, phạm vi và
số lượng bị bó hẹp, thị trường đầu tiên là chợ làng. Tuy nhiên, càng về sau này
thì thị trường ngày càng mở rộng, sức tiêu thụ ngay tại địa phương không cao,
diễn ra chậm, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều nhưng nhu cầu thị trường không
có, vấn đề mở rộng thị trường sản phẩm là dấu hỏi lớn. Bên cạnh đó, phương thức
thanh toán chủ yếu là trao tay, thỏa thuận miệng là chính chứ không có các hợp
đồng kinh tế. Chính vì vậy, phần thiệt luôn thuộc về các hộ sản xuất tại làng
nghề, thị trường không ổn định, tình trạng chèn ép giá diễn ra thường xuyên.
·
Vốn đầu tư: muốn có phát triển kinh
tế phải có tăng trưởng kinh tế, yếu tố đầu tiên trong việc tăng trưởng kinh tế
đó là vốn. Vốn là toàn bộ tài sản dùng để sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện
kinh tế hội nhập quốc tế, cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các cơ sở sản xuất kinh
doanh trong làng nghề phải có lượng vốn lớn và ổn định để sản xuất, đầu tư công
nghệ, trang thiết bị ở một số công đoạn sản xuất phủ hợp góp phần tăng năng
xuất lao động, giảm về thời gian. Vốn thường tồn tại dưới hai hình thức đó là:
vốn tài chính và vốn hiện vật (bao gồm
hai dạng: vốn vật chất, vốn phi vật chất). Vốn tài chính chính là tiền mặt.
Vốn hiện vật tồn tại dưới dạng vật chất của quá trình sản xuất trong làng nghề
như: cơ sở vật chất của các Hợp tác xã, máy móc, nguyên liệu v.v. Ngoài ra còn
có nguồn vốn phi vật chất, không kém phần quan trọng là kinh nghiệm, tay nghề
của những nghệ nhân, người làm nghề lâu năm.
Nguồn vốn này, thường làng nghề truyền thống huy động từ 3
nguồn chính:
Vốn có sẵn: là nguồn vốn của các chủ thể sản xuất kinh doanh được
tích lũy qua thời gian. Những nguồn vốn này thường nhỏ bé, không ổn định, ít
được tích lũy và sử dụng vào việc tái sản xuất kinh doanh mà thường được dùng
vào việc chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày, đáp ứng nhu cầu mua sắm, xây dựng
nhà cửa. Nguồn vốn này rất hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu mở rộng kinh
doanh theo tình hình mới. Chính vì vậy, đây cũng là một hạn chế, tạo ra suy
nghĩ thường trực tại các hộ sản xuất nhỏ lẻ trong làng nghề là chỉ sản xuất cầm
chừng tùy thuộc vào thời gian rỗi, tạo nếp nghĩ chỉ dám sản xuất nhỏ lẻ.
Nguồn vốn tính dụng phi chính thức: Đây có thể xem là hình
thức góp vốn của nhiều hộ gia đình trong một cộng động, an hem, dòng họ, bạn
bè. Việc thỏa thuận chỉ bằng miệng, mối quan hệ vì thế thường đi kèm rùi ro.
Tính ổn định lâu dài không có. Nhưng hình thức này lại đang rất phổ biến vì
tính linh hoạt, nhanh, không thủ tục hành chính.
Nguồn vốn tín dụng chính thức: Đây là nguồn vốn từ các dự án,
chính sách hỗ trợ của Đảng và nhà nước, chính quyền địa phương; các nguồn vay
từ các ngân hàng. Hạn chế của nguồn vay này là nguồn vốn cho vay vẫn bị hạn
chế, thủ tục phức tạp nên các hộ sản xuất còn e ngại.
·
Khoa học Công nghệ: là yếu tố góp phần nâng
cao sản lượng sản phẩm làm ra hoặc rút ngắn thời gian làm ra sản phẩm. Việc áp
dụng công nghệ vào quá trình sản xuất sẽ tạo thuận lợi, tăng giá trị kinh tế
trong quá trình sản xuất. Việc áp dụng công nghệ được hình thành tự phát trên
cơ sở các thiết bị công nghệ truyền thống, một số người lao động, hộ thủ công
đã tách ra chuyên sữa chữa, cải tiến một số công đoạn cho hiệu quả hơn. Hoặc
một số hộ có vốn dồi dào chuyển sang buôn bán máy móc, thiết bị trong phạm vi
làng.
Nguồn lực khoa học công
nghệ được biểu hiện trên ba tiêu chí cơ bản sau:
Trình độ người lao động, đội ngũ các nhà nghiên cứu.
Cơ sở vật chất tiến bộ phục vụ nghiên cứu, triển khai sản
xuất.
Khả năng tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ.
·
Con người: thành phần lao động trong
làng nghề truyền thống được phân hóa như sau: lực lượng cơ bản nhất ở tại địa
phương bao gồm lao động địa phương chuyên nghiệp; lao động địa phương bán
chuyên nghiệp là những người tham gia sản xuất không thường xuyên tùy thuộc vào
thời gian rỗi, chủ yếu là tập turng các công đoạn đơn giản không đòi hỏi yếu tố
chuyên môn cao; lao động làm thuê ở các địa phương khác đến nhưng chủ yếu là
hợp đồng theo mùa vụ. Những lao động chuyên nghiệp, tay nghề cao, các nghệ nhân
làng nghề thường là những người đã có gia đình, tuổi tác cao, rất ít lao động
trẻ nên cũng chịu tác động rất nhiều từ các yếu tố bên ngoài.
Trình độ người lao động thường không cao. Nên việc triển
khai, áp dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất rất khó khăn.
Sự tác động kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chung tại địa phương, tác động rất lớn đến việc chọn theo nghề truyền thống của
tầng lớp trẻ ngay tại địa phương. Vì vậy, việc truyền dạy nghề đang là vấn đề
lớn, sự mai một lớp nghệ nhân kế cận đang là bài toán nan giải.
Cách thức tổ chức, quản lý trong các hộ kinh doanh tại làng
nghề mang tính tự phát, tính khoa học không cao. Việc áp dụng khoa học quản lý,
kiến thức Marketing, Quản trị kinh doanh làm phương thức bổ trợ và tổ chức hoạt
động tại làng nghề vẫn còn nhiều hạn chế. Chính việc chậm cập nhật thông tin,
tri thức này hạn chế rất nhiều torng việc giới thiệu, đưa sản phẩm làng nghề
phát triển rộng khắp.
·
Kết cấu hạ tầng cơ sở: Hạ tầng ở nông thôn nói
chung và các làng nghề nói riêng còn nghèo nàn. Đặc biệt là vấn đề về hệ thống
giao thông tại địa phương, các công trình điện nước, thông tin liên lạc, hệ
thống dịch vụ thông tin. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ thúc đẩy phát triển chung, du
lịch làng nghề phát triển, chi phí sản xuất giảm giúp giá thành sản phẩm giảm
tạo nên tính cạnh tranh trên thị trường; hệ thống dịch vụ thông tin tốt sẽ giúp
các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề nắm bắt kịp thời những thông tin
về nhu cầu, giá cả mẫu mã, chất lượng, thị hiếu để có sự điều chỉnh kịp thời
v.v.
·
Hệ thống chính sách hỗ trợ
và quản lý của nhà nước: đây là yếu tố quan trọng, là bệ đỡ trong việc thúc đẩy hay
kìm hãm sự phát triển các làng nghề truyền thống. Những chính sách hỗ trợ kịp
thời, đặc biệt về vấn đề vốn, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất v.v tạo
động lực để làng nghề truyền thống đứng vững trong nền kinh tế thị trường, với
sự cạnh tranh ngày càng cao. Sự phát triển làng nghề truyền thống một cách tự
phát, không có tổ chức, quản lý của Nhà nước, tự do cạnh tranh, chẳng những
không phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển, không nâng cao được năng lực
cạnh tranh của làng nghề truyền thống với thị trường trong và ngoài nước.
Đặc biệt, cần chú trọng hệ thống chính sách ưu đãi dành cho
các nghệ nhân; các lớp truyền nghề dạy nghề; đầu ra sản phẩm v.v
·
Tính văn hóa, bản sắc
riêng:
trong nền kinh tế thị trường, chúng ta rất dễ cuốn theo dòng chảy của kinh tế,
và lợi nhuận trước mắt mà đánh đổi những giá trị vô cùng quan trọng. Làng nghề
truyền thống cũng vậy. Nếu như không có tính định hướng, công tác bảo tồn cụ
thể rõ ràng với những chiến lược dài hơi thì cái hồn của làng nghề truyền thống
sẽ dần mai mốt và sẽ mất đi trong tương lai gần. Giá trị văn hóa của làng nghề
truyền thống chính là cái tạo ra sự khác biệt, cuốn hút mọi người đến với làng
nghề, nếu không giữ được cái hồn đó chúng ta sẽ không tạo được nét riêng biệt,
rát dễ hòa tan. Chúng ta có thể phát triển sản xuất, cải tiến công nghệ nhưng
về cơ bản thì giá trị văn hóa cần được giữ gìn và phát huy, như công tác sưu
tầm hoa văn truyền thống, công tác truyền dạy nghề thủ công theo phương thức
sản xuất truyền thống v.v. Vì mỗi một làng nghề truyền thống gắn với một vùng
văn hóa, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với cung cách sản xuất và sáng
tạo sản phẩm riêng. Việc du khảo các làng nghề truyền thống là để thấy rõ bản
sắc cũng như đặc trưng kinh tế, văn hóa của mỗi vùng. Việc tổ chức gắn kết các
ngành du lịch, văn hóa với các làng nghề truyền thống cấn được quan tâm và đầu
tư một cách có trọng điểm. Tính truyền thống của làng nghề tạo nên uy tín lan
truyền qua bao thế hệ rộng lớn.
1.3. Khái quát
về thị trấn Phước Dân – Huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mỹ nghiệp còn gọi là làng “Nha
Tranh” (Nha Trinh), người Chăm gọi là “Palei chakling” (Chăkleng)
thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Cách trung tâm
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm khoảng 10km về phía Nam. Con đường vào làng
được nối với quốc lộ 1A khoảng hơn 1km về phía Đông. Với vị trí này, việc đi
lại tương đối thuận lợi với người dân trong làng và những nơi khác.
Diện tích huyện Ninh Phước là 341,03km2,
số dân toàn Huyện là 135.146 người (thành thị 24.144 người, nông thôn 111.002
người), mật độ dân cư là 396 người/km2, thành phần dân tộc: chủ yếu
là người Kinh, Chăm. Ninh Phước hội tụ cả ba điều kiện địa lí: có núi, sông,
biển và cả đồng bằng. Tuy nhiên nền kinh tế Ninh Phước chưa được phát triển, là một
huyện nằm ở hạ lưu dòng sông Dinh nên thường xuyên bị ngập lụt vào khoảng tháng
10 - 11 hằng năm. Nền nông nghiệp chủ yếu của Ninh Phước là trồng nho, tuy nhiên trong vài
năm gần đây có vài thay đổi trong canh tác nông nghiệp. Người dân dần dần
chuyển qua các hình thức canh tác khác như trồng táo và thanh long.
Huyện Ninh Phước có vị trí giao thương quan trọng không chỉ riêng với huyện
mà còn là một trong những vùng thuộc tỉnh Ninh Thuận có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế, xã hội. Điều đó được thể hiện rõ nét với hệ thống giao thông liên khu
vực hết sức thuận lợi với sự hiện diện của Quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc
Nam đi ngang qua địa bàn huyện, việc thông thương với vùng cao nguyên Di Linh,
Lâm Viên và ra các tỉnh phía Bắc hoàn toàn thuận lợi. Với hệ thống giao thông
liên vùng, liên khu vực hiện hữu đã tạo cho huyện các điều kiện hết sức thuận
lợi để phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng.
Vì nằm trong khu vực của vùng đất Ninh
Thuận, nên đặc điểm về môi trường địa lý,
khí hậu…của làng Mỹ Nghiệp cũng mang những nét chung của khu vực, là một
vùng đồng bằng khô cằn nhất trên dải đất Miền Trung. Khí hậu tại đây rất khắc
nghiệt, chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Trữ lượng mưa trung bình chỉ khoảng
695mm/ năm và chỉ mưa trong vòng 60 ngày trong ba tháng, từ tháng 9 đến tháng
11, nhưng lại thường xuyên gây ra lũ lụt và sạt lở đất, nguyên nhân do có nhiều
đồi núi, độ dốc lớn. Ngược lại mùa khô rất nóng và kéo dài từ tháng 12 đến
tháng 8 năm sau. Nhiệt độ trung bình từ 29 - 33 độ C. Lượng bức xạ lớn, lượng
nước bốc hơi gấp hai lần lượng mưa. Độ ẩm trung bình hàng năm là 80,3%. Ở Ninh
Thuận hầu như gió thổi quanh năm, từ trung tuần tháng 10 đến tháng 4 dương lịch
có gió mùa Đông Bắc, từ trung tuần tháng 4 đến tháng 10 năm sau có gió mùa Tây
Nam. Hằng năm, hai ngọn gió trên thường đem lại nhiều mưa cho các tỉnh trong cả
nước, nhưng đến Ninh Thuận lại bị chắn bởi những ngọn núi chung quanh, làm cho
hơi nước do gió biển đưa vào tụ lại thành mưa ở những triền núi, Vì vậy, gió
thổi vào Ninh Thuận chỉ là những cơn gió khô, lạnh và nóng bức [22; tr.7].
Khu vực cư trú của người Chăm nói chung
và làng Mỹ Nghiệp nói riêng nằm trong miền nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu vùng
này được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng
11, trùng với thời gian của gió mùa Đông Nam. Thời gian còn lại là mùa khô, mùa
khô chiếm khoảng thời gian dài hơn mùa mưa từ một đến hai tháng.
Đặc
điểm thổ nhưỡng của vùng này chủ yếu là loại đất thịt pha cát, trên nền là một
lớp đất sét. Đất có màu nâu xám, độ thoát nước trung bình, độ dày có lớp đất
mùn nhiều nhất là 0,5m. Với loại đất này, thường thích hợp cho việc trồng lúa
nước nhiều vụ trong năm và các loại cây hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày như:
bông vải, thuốc lá, đặc biệt thời gian gần đây cây nho đang được trồng rất phổ
biến được nhiều người trong và ngoài nước biết đến.
Làng Mỹ Nghiệp nói riêng, vùng đồng bào
người Chăm Ninh Thuận nói chung có môi trường sinh sống khá khắc nghiệt. Đó là
vùng đất cằn cỗi, khô hạn, ít mưa, nhiều nắng, thảm thực vật và động vật nghèo
nàn. Sản xuất nông nghiệp là nguồn sinh sống chủ yếu cùa đồng bào ở đây, nhưng
môi trường về đất đai, thời tiết, khí hậu đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc
canh tác và các hoạt động kinh tế khác của họ.
1.3.2. Điều kiện xã hội
1.3.2.1. Dân cư, dân số
“Theo điều tra dân số ngày 01/4/1999,
người Chăm ở Việt Nam có số dân là 137.133 người. Trong đó ở Ninh Thuận là
61.359 người, Bình thuận là 29.359 người, Bình Định, Phú Yên là 20.687 người,
Châu Đốc - An Giang có 23.285 người, ngoài ra người Chăm còn sống rãi rác ở một
số nơi khác như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước... với
số dân khoảng 3000 người” [dẫn theo 1; tr.29].
Ở Ninh thuận, người Chăm sống tập trung
thành từng làng (palei) riêng biệt ở 13 xã, phường, thị trấn thuộc các huyện:
Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, Thuận Nam, Thuận Bắc và thành phố Phan Rang-
Tháp Chàm. Trong đó ở huyện Ninh Phước có nhiều đồng bào người Chăm sinh sống
đông nhất, với 7972 hộ người Chăm, gần 50.000 nhân khẩu, chiếm khoảng 30% dân
số trong toàn huyện. Riêng làng Mỹ Nghiệp có số dân là 3.463 nhân khẩu, sống
trong 693 hộ, trong đó số hộ người Chăm là 658 hộ, chiếm 74,7%, còn lại là số
hộ người Kinh và các dân tộc khác (thống kê trong dự án phát triển làng nghề,
tháng 7/2010 của tỉnh Ninh Thuận). Số hộ này sống xen kẽ với người Chăm, với
những sinh hoạt có nhiều điểm tương đồng với người Chăm trong làng.
1.3.2.2. Kinh tế, xã hội
Ở Ninh Thuận có tất cả 28 palei Chăm và
được chia thành 2 cộng đồng: Chăm Ahiêr - Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo và
Chăm Awal - Chăm ảnh hưởng Hồi giáo. Mỗi cộng đồng tôn giáo lại sống thành
từng palei riêng, trong đó có 18 palei Chăm Ahiêr và 10 palei Chăm Awal [23, tr.25].
Mặc dù cùng một dân tộc, nhưng chia thành 2 nhóm Chăm, ảnh hưởng đạo giáo khác
nhau, sống tách biệt nhau. Tuy vậy, hai nhóm này cùng mang mang một đặc trưng
văn hóa.
Trong mỗi palei Chăm đều có một đền thờ
thần (sang pôyeang) và ở đầu làng có nhà làng (sang palei). Cách palei không xa
thường có một nghĩa địa (kút, ghôr). Mỗi palei Chăm đều có đơn vị quản lý hành
chính thôn, Đoàn thanh niên, Hội nông dân. Bên cạnh đó còn có Hội đồng phong
tục (Hội đồng già làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính quyền tham gia giải
quyết những vụ bất đồng của các thành viên trong làng liên quan đến phong tục
tập quán. Palei Chăm có luật riêng gọi là “adat”. Nếu như palei Chăm là
đơn vị cư trú cổ truyền mang tàn dư của công xã nông thôn thì gia đình lại là
bộ phận hình thành đặc trưng ấy. Gia đình trong palei Chăm được tổ chức theo
hình thái gia đình mẫu hệ, bao gồm gia đình lớn (mưn ngawon pruang) và gia đình
nhỏ (mư ngawon sít). Thành viên cơ bản trong gia đình được tính theo huyết
thống bên mẹ. Trong mỗi gia đinh có đàn bà lớn tuổi đứng đầu gọi là “Pô sang”
(chủ nhà). Các gia đình có cùng chung một mẹ sinh ra thường bố trí chung nhà
trong một khuôn viên. Tương tự như vậy, các gia đình chung một dòng họ phía mẹ
thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. Mỗi dòng họ có một tộc trưởng đứng đầu
gọi là “Akauk gơp”. Ngày xưa trưởng tộc là đàn bà, ngày nay được thay
thế bởi người đàn ông. Nhiệm vụ của người tộc trưởng là quản lý các thành viên,
giải quyết các vấn đề thắc mắc giữa các thành viên và chăm lo tổ chức cúng tế
trong những lễ nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. Mỗi dòng họ trong làng
được phân biệt với nhau bằng nghĩa địa của dòng họ mẹ. Mỗi dòng họ có một vật
thờ tổ gọi là “Chiết a tâu” () [25].
Đơn vị căn bản của hệ thống họ tộc người
Chăm là mẫu hệ dân tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan hệ thân tộc và quan
trọng nhất. Tổ tiên được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền thừa kế tài sản
thuộc về con gái út. Phụ nữ Chăm nắm phần quyết định trong gia đình. Vai trò
Cậu (Cey) được đề cao và vẫn còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình người Chăm
hiện nay.
Nói chung sinh hoạt làng (palei), gia
đình (mưga won), tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản ánh rõ nét chế độ mẫu hệ
thể hiện trên các mặt: sự phân hoá xã hội, quan hệ về gia đình và hình thức hôn
nhân, hình thái tín ngưỡng, phương thức sản xuất và quyền sở hửu tài sản [26].
Vì vậy, cơ chế xã hội truyền thống người Chăm gắn bó với nhau và được vận hành
bằng luật tục (adat). Họ sống trên cơ sở bình đẳng, thương yêu lẫn nhau. Cùng
nhau bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, những giá trị văn hóa của tổ tiên. Có
thể nói làng và gia đình người chăm là mắc xích quan trọng, gắn liền chặc chẽ
với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ truyền bền vững, trở thành cái nôi bảo
tồn và lưu giữ văn hóa Chăm trong suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử.
Trong nền kinh tế truyền thống của mình,
người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm [26]. Dưới thời vua Pô
Klongirai và vua Pô Rôme, họ đã biết đắp đập, khai mương để trồng lúa nước, đến
nay vẫn còn dấu vết các công trình thuỷ lợi trên dải đất miền Trung như: đập Do
Linh (Quảng Trị), đập Nha Trinh và đập Ma Rên (Ninh Thuận) [23; tr.28]. Người
Chăm từ lâu đã có kỹ thuật canh tác ruộng lúa nước khá cao. Tùy theo loại ruộng
như: ruộng gò (Hamu tamu), ruộng cát (Hamu cwah), ruộng sâu (Hamu dhong) mà họ
có kỷ thuật canh tác và sử dụng các loại giống lúa ngắn ngày, cho năng suất cao
như loại giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidien, padai halim, padai ia ok,
padai kuprok) [23; tr.6,8]. Do đó, không phải ngẫn nhiên mà người Trung Quốc,
người Kinh đều du nhập giống lúa của người Chăm mà họ thường gọi là “Lúa
chiêm”. Bên cạnh làm nông, người Chăm còn làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa màu
và cây ăn trái như: ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu.
Nhờ đó mà người Chăm có hoa quả và rau xanh để ăn quanh năm. Bên cạnh làm nông
nghiệp, người Chăm còn biết khai thác các loại gỗ quý ở những khu rừng lớn như
gỗ mun, trầm hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm, thuốc chữa bệnh. Họ cũng biết khai
thác tài nguyên, khoáng sản ở xứ họ để đem đi bán. Người Chăm còn biết làm nghề
biển, họ là những thuỷ thủ can trường, biết buôn bán. Những chiếc thuyền buồm
của họ thường vượt biển khơi đi đến tận các nước xa xôi [23; tr.28,29].
Nói chung kinh tế truyền thống của người
Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái kinh tế
đó góp phần làm cho nền kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh. Tuy nhiên ngày nay,
một số ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn
làm nghề đi biển nữa, một số làng Chăm hiện nay như làng Tuấn Tú, Bĩnh Nghĩa (ở
Ninh Thuận) vẫn còn sống gần biển, nhưng họ không làm biển mà quay lưng lại với
biển. Hiện nay có khoảng 95% người Chăm sống bằng nghề nông, hoạt động nông
nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế của người Chăm.
Từ khi đất nước chuyển đổi từ nền kinh
tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhất là những năm gần đây được sự đầu
tư của nhà nước, đời sống dân tộc Chăm nói chung và làng nghề Mỹ Nghiệp nói
riêng đã khởi sắc một cách rõ rệt. Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư xây dựng để
phát triển làng nghề, thu hút khách du lịch. 100% hộ dân đã có điện, có nước
sạch để sinh hoạt, hệ thống thủy lợi, đường giao thông đã được hoàn chỉnh, toàn
bộ làng đã được phủ sóng phát thanh truyền hình, có trường học dành cho học
sinh bậc tiểu học và trung học, có trạm y tế, nhà triển lãm, khu vực vui chơi
thể thao, nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Mỹ Nghiệp ngày nay không còn nhà tạm
bợ, mà thay vào đó là những ngôi nhà xây có kết cấu kiên cố, đa số các hộ gia đình đều đã có xe
máy, tivi, tủ lạnh và một số vật dụng giải trí hiện đại và đắt tiền khác. Đội
ngũ trí thức ngày một đông, thường sống và làm việc ở những đô thị lớn, có thu
nhập cao và ổn định.
Về phát triển kinh tế của các làng Chăm
nói chung và làng Mỹ Nghiệp nói riêng, sản xuất nông nghiệp luôn đóng vai trò
chủ đạo và quan trọng hàng đầu. Với tổng diện tích tự nhiên là 247 ha, canh tác
nông nghiệp trồng cây lúa nước là 90 ha, đất trồng các loại cây khác là 27 ha.
Rẫy và lúa nước là hai loại hình trồng trọt chính ở vùng này, trong đó cây lúa
nước chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu của ngành trồng trọt. Tuy nhiên, ngày
nay nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, họ đã quan tâm mở rộng diện tích đất
rẫy để trồng những loại cây màu khác phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu,
thổ nhưỡng để cho năng suất và giá trị kinh tế cao hơn như: thuốc lá, mía, bắp,
đậu... và gần đây là cây nho.
Bên cạnh
vị trí chủ đạo của sản xuất nông nghiệp thì nghề dệt được xem là nghề phụ,
nhưng đóng vai trò tích cực và đáng kể trong việc tăng thu nhập cho gia đình và
giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người trong làng. Đặc biệt thời gian gần
đây, do sản phẩm thủ công ngày càng được thu hút nhiều khách hàng, nên một số
người giàu có trong làng đã bỏ tiền ra thuê nhân công, thành lập cơ sở dệt, từ
đó nghề dệt thủ công đã trở thành nguồn thu nhập chính của một số hộ gia đình.
Một số hộ gia đình khác, do nguồn vốn ít ỏi nên họ chỉ làm vào thời điểm nông
nhàn và vào những lúc nhàn rỗi.
1.3.2.3. Văn hóa
Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn,
các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và
các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, Chăm H'roi, Raglai, Jarai,
Rhaday... Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận. Có thể nói, trong di sản văn hóa Chăm
hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền tháp, điêu khắc, tượng thờ, thành quách,
bia ký. Hầu hết trên dải đất miền Trung cho tới Tây Nguyên, nơi nào có người
Chăm sinh sống họ đều xây dựng đền tháp để thờ thần.
Tín
ngưỡng - tôn giáo
Cũng
giống như một số làng Chăm khác, người Chăm ở palei Mỹ Nghiệp cũng có rất nhiều
lễ hội tín ngưỡng dân gian phong phú, đa dạng, là bộ phận cấu thành nền văn hóa
Chăm. Tín ngưỡng Chăm chi phối sâu sắc trong đời sống cộng đồng và tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau: tín ngưỡng sơ khai, tín ngưỡng tổ tiên, tín ngưỡng
liên quan đến sản xuất nông nghiệp, lễ nghi vòng đời...Ngày nay, ở làng Mỹ
Nghiệp vẫn còn tồn tại hình thức Tôtem giáo thể hiện qua tục thờ các
loại cây, thần núi (atâu cơk) và thần biển (atâu tasik) của các dòng họ. Ngoài
lễ nghi liên quan đến vòng đời như: lễ cúng trẻ sơ sinh, đám cưới, đám tang, lễ
nhập kút...người Chăm còn có các lễ nghi nông nghiệp như: lễ cúng thần lúa, lễ
xuống cày, lễ đắp đập khai mương... [23; tr.34].
Bên
cạnh tín ngưỡng dân gian chi phối đời sống tâm linh, người Chăm còn chịu ảnh
hưởng nhiều tôn giáo du nhập từ nhiều nước khác nhau như: Phật giáo, Bàlamôn giáo, Hồi giáo Bà- ni, và
gần đây là đạo Islam (Hồi giáo mới). Trong đó người Chăm ở làng Mỹ
Nghiệp là Chăm Bàlamôn giáo. Mỗi tôn giáo du nhập vào đất nước Champa
vào mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau và mức độ ảnh hưởng đậm nhạt khác nhau. Thực
ra từ xưa đến nay, người Chăm không tự gọi mình là Chăm Bàlamôn hoặc Chăm Hồi
giáo mà chỉ gọi theo cách truyền thống từ xưa đến nay là Chăm Ahiêr để
chỉ người Chăm Bàlamôn giáo và Chăm Awal để chỉ người Chăm ảnh hưởng Hồi
giáo.
Cùng
tồn tại song song với tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo là loại hình
văn học nghệ thuật và ca múa nhạc dân gian.
Văn
học nghệ thuật
Đó
là những câu truyện cổ tích, thơ ca, tục ngữ. Phần lớn những tác phẩm văn
chương người Chăm đều phản ánh ước vọng của con người trong cuộc sống, trong
lao động, trong tình yêu nam nữ, chiến đấu chống những bất công của xã hội,
hướng con người đến cái thiện và ước mơ cuộc sống thanh bình. Trong đó có
truyền thuyết về “Pô Nưgar” (Mẹ
thần xứ sở), đã truyền dạy cách cày cấy, trồng lúa và nghề dệt cho người Chăm.
Ngoài ra còn phải kể đến lời ca lời khấn trong lễ hội, vì nội dung không chỉ
chứ đựng những tiểu sử, huyền thoại các vị vua, thần có công với dân, với nước
mà còn gắn liền với những tên đất, tên vùng cùng với những sự kiện lịch sử của
dân tộc, đã được các nghệ nhân, thầy cúng nâng lên thành nghệ thuật “hát kể”
đặc sắc trong các lễ hội.
Nghệ
thuật ca múa nhạc dân gian
Cùng
với nền văn học, người Chăm còn có một loại hình ca múa nhạc dân gian giàu bản
sắc dân tộc. Trong loại hình ca, múa, nhạc thì múa Chăm chiếm vị trí đáng kể.
Các động tác múa Chăm luôn có mặt trên những đền, tháp, tượng thờ như: Tượng
thầm Shiva, vũ nữ Apsara, trong những dịp cúng tế, lễ hội. Song hành với múa
phải kể đến âm nhạc. Ngườii Chăm có rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau như: Trống
Ghinăng (), trống Paranưng (), kèn Saranai (), Chiêng, đàn Kanhi (), đàn Rabap
(), cùng với nhiều loại nhạc cụ khác. Đi kèm với âm nhạc và múa là những làng
điệu dân ca mượt mà, sâu lắng như: hát vải chài (pươkjal), hát đối đáp
(dauhsa), hát tâm tình (dauh mư jut), hát giao duyên (dauh dam tara).
Các nghề thủ công truyền thống
Ngoài
những đặc điểm văn hoá đã kể trên, còn phải kể đến những nghề thủ công truyền
thống của người Chăm như: nghề dệt, nghề gốm, điêu khắc, luyện kim, đóng
thuyền, đan lát... Các nghề này được tiến triển trên cơ sở canh tân từ truyền
thống cũ và mở rộng thêm nhiều ngành nghề mới, đáp ứng nhu cầu của sản xuất,
đời sống và phục vụ theo nhu cầu của cung đình và tôn giáo. Tuy nhiên, hiện nay
một số nghề đã bị thất truyền, chỉ còn nghề dệt, nghề gốm là vẫn đang còn tồn
tại và đang trên đà phát triển.
Ngày
nay, nghề dệt vẫn còn lưu truyền và phát triển ở palei Chăm Mỹ Nghiệp, với hơn
95% hộ gia đình làm nghề dệt trong làng. Với kỹ thuật hiện đại, phụ nữ Chăm
không còn tách bông, se chỉ như trước, mà họ dệt vải từ chỉ công nghiệp. Kỹ
thuật dệt của phụ nữ Chăm Mỹ nghiệp đã đạt đến độ tinh xảo. Sản phẩm của họ có
nhiều hoa văn, màu sắc bắt mắt, như hoa văn hình các vị thần, hoa văn quả trám,
rồng cách điệu, chân chó, chân chim được thị trường trong và ngoài nước ưa
chuộng. Tuy nhiên, ngày nay nghề dệt truyền thống ở palei Mỹ Nghiệp cũng chỉ
được xem là nghề phụ, nhung số lượng khung dệt và số lượng thợ dệt tham gia
ngày càng tăng so với những năm trước, kể cả một số gia đình người kinh cũng
tham gia nghề này. Điều đó nói lên rằng: Tuy nghề dệt truyền thống ở palei Mỹ
Nghiệp đem lại thu nhập không cao, nhưng sản phẩm mà họ tạo ra được như ngày
hôm nay là kết quả của cả một quá trình lâu dài gìn giữ và phát huy, là niềm tự
hào của người dân Mỹ Nghiệp về nghề dệt truyền thống của dân tộc mình.
Tiểu kết
Ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở
thành một trong những nội dung quan trọng trong đường lối, quan điểm của Đảng
và chính sách của Nhà nước. Việc phân tích, nắm vững các thành tố xoay quanh
khái niệm “Phát triển bền vững” giúp cho các nhà quản lý, các cơ quan liên
ngành có cách nhìn toàn diện và chính xác nhất trong việc vận dụng, triển khai
trong từng đối tượng và vấn đề cụ thể. Việc hướng đến mục tiêu Phát triển bền
vững phải được xem là mục tiêu của toàn Đảng toàn dân và toàn xã hội, đó là
công tác liên ngành dựa trên quá trình phân tích tổng hợp chi tiết, chiến lược dài
hạn.
Nội dung phân tích chủ yếu trong chương
này nhằm khái quát hai nội dung cơ bản về “Làng nghề truyền thống” và “Phát
triển bền vững”. Từ những hệ thống lý luận ấy, kết hợp với những phân tích cụ
thể của làng nghề dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp về điều kiện tự nhiên, môi trường xã
hội, đặc thù văn hóa .v.v. giúp chúng ta hiểu được vai trò và tầm quan trọng
của việc phát triển bền vững đối với làng nghề truyền thống. Dựa trên những hệ
thống lý luận ấy làm cơ sở để phân tích, thực tế khảo sát đưa ra thực trạng và
giải pháp thực hiện việc phát triển làng nghề Dệt Mỹ Nghiệp gắn với phát triển
bền vững.
Chương 2:
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG DỆT
THỔ CẨM CHĂM MỸ NGHIỆP VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
2.1. Nghề dệt truyền thống của người Chăm Mỹ Nghiệp
2.1.1. Lịch sử làng nghề
Cho
đến bây giờ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu nào xác định cụ
thể nghề dệt thổ cẩm Chăm hình thành từ khi nào và phát triển ra sao.
Theo
các nguồn sử liệu, thư tịch cổ, nghề dệt vải đã sớm ra đời trong cư dân văn hoá
Sa Huỳnh và phát triển rộng hầu hết khắp nơi trong vương quốc Chămpa để đảm bảo
nhu cầu may mặc, che thân và trang trí làm đẹp của cộng đồng dân cư và phục vụ
theo yêu cầu của cung đình và tôn giáo Chăm. Nói cách khác thì cư dân văn hoá
Sa Huỳnh và cư dân Chămpa đã sớm biết trồng bông, kéo sợi, nhuộm tơ, dệt vải và
trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Tuy nhiên, cho đến nay nghề trồng dâu
nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa của người Chăm coi như đã thất truyền.
Mặc
dù nghề dệt truyền thống của người Chăm đã sớm ra đời, nhưng cho đến nay, việc
xác định tổ sư nghề dệt và phát triển như thế nào trong quá trình lịch sử, thì
vẫn chưa có một tài liệu nào chắc chắn cả, mà chủ yếu dựa vào các truyền thuyết
mang đầy màu sắc thần thoại. Truyền thuyết về Bà Chúa xứ kể rằng: Pô Inư Nưgar
khi từ Trung Quốc trở về đã đặt kinh đô Chămpa ở Nha Trang và dạy người Chăm
(lúc đó còn trong thời kỳ mông muội) cày cấy, dệt vải, xây tháp, tổ chức hành
chính...và trở thành tổ sư nghề dệt của người Chăm. Vì bà là người có công khai
hoá, mở mang dân tộc Chăm, nên được người Chăm xây đền, tháp để thờ [28; tr.3].
Ngoài quần thể Tháp Bà ở Nha Trang, ở một số địa phương khác người Chăm còn
dựng miếu, đền thờ tượng Bà. Ở Ninh Thuận có thôn Hữu Đức (xã Phước Hữu, huyện
Ninh Phước), thôn Bỉnh Nghĩa (xã Phương Hải, huyện Ninh Hải). Ở Bình Thuận có
thôn Lạc Trị (xã Phước Lạc, huyện Tuy Phong), thôn Quản Mía (xã Phan Rí Thành,
huyện Bắc Bình). Ngoài ra còn có một số chùa người Hoa ở Bình Thuận và Ninh
Thuận cũng có thờ tượng Bà- Thiên Y-A-Na- Thánh Mẫu.
Ngày
nay, cứ vào ngày thứ 5 và thứ 6 của tuần đầu tháng giêng Chăm lịch hàng năm là
người Chăm lại làm lễ Rija-Nưgar để cầu xin mẹ thần xứ sở giúp những điều tốt
lành, mưa thuận gió hòa.
Nghi
lễ thứ hai có gắn với nữ thần Pô Inư Nưgar của người Chăm là ngày lễ “Pơh Mabang Yang” (Có nghĩa là mở cửa đền
miếu thờ thần) được tổ chức vào ngày thứ ba tuần đầu tiên của tháng giêng Chăm
lịch.
Ngoài
hai lễ chính trên, vào những dịp khác như lễ hội Ka-Tê, người ta cũng đến lăng
của Bà cúng vái để cầu xin phù hộ, độ trì.
Theo
Lê Quý Đôn, trong “Vân đài loại ngữ”, ở Lâm Ấp có trồng cây các bối, khi
chín hoa cây giống như lông ngỗng, kéo sợi làm chỉ dệt không khác gì loại gai.
Còn theo Maspero thì dưới thời các vương triều Chămpa, người chăm đã biết trồng
dâu, nuôi tằm và dệt lụa.
Trong
suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thư XVIII, người ta đã tìm
thấy các nét hoa văn được chạm trổ thật tinh xảo trên các tượng đá thần (Shiva,
Apsara...), vương mão (PpoMuh Taha đầu thế kỷ thứ XVII), trên các loại đồ gốm
cổ, và nhất là trên các trang phục mặc cho tượng thần Pô Rôme (đầu thế kỷ thứ
XVII), hiện vẫn còn luu giữ tại thôn Tà Dương, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận.
Vào
đầu thế kỷ XX, nghề dệt vải của người Chăm vẫn tồn tại và phát triển phổ biến
trong tất cả các palei Chăm. Hầu hết phụ nữ Chăm đều biết việc kéo sợi, nhuộm
sợi, dệt vải, đặc biệt là ở các palei Chăm theo Bàlamôn giáo, tiêu biểu là các
palei Chăm Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Hữu Đức ở huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Palei
Chăm Bình Minh, Bình Hòa, Bình Thắng, xã Phan Hòa, huyện Bắc Bình và palei Cảnh
Diễn ở xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận là còn bảo lưu kỹ thuật
dệt truyền thống gần như bền vững. Tuy nhiên, từ thập niên 40 của thế kỷ XX trở
lại đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là do nguồn vải sợi công
nghiệp và vải mặc hiện đại tràn ngập trên thị trường vùng đồng bào người Chăm.
Bên cạnh đó, do số người Chăm, nhất là lớp thanh niên trẻ không còn mặn mà với
trang phục truyền thống, thay vào đó là mặc các trang phục như người Kinh,
khiến cho nghề dệt cổ truyền với mục đích tạo ra vải mặc truyền thống cho người
Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận ngày càng hạn chế.
Trước
1975, tại làng Mỹ Nghiệp đa số chị em phụ nữ trong làng, tận dụng giờ nông nhàn
để sản xuất thêm các sản phẩm Dệt vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng trong gia đình,
vừa tạo thêm thu nhập cho cuộc sống. Hàng dệt chỉ bao gồm các sản phẩm thô, chủ
yếu được mang lên bán cho đồng bào Tây Nguyên như: Êđê, Churu, Kơho, Raglai…
một số ít dùng phục vụ cho phong tục tập quán địa phương. Từ sau năm 1975 cho
đến những năm gần đây, nghề dệt vải người Chăm ở Ninh Thuận vẫn tồn tại ở các
palei: Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Văn Lâm, Hữu Đức (huyện Ninh Phước). Nhưng càng về
sau, đặc biệt là những năm 1980, nghề này đã thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chỉ
tập trung chủ yếu và tiêu biểu nhất là palei Mỹ Nghiệp, còn ở những nơi khác
tuy có hoạt động nhưng không đáng kể. Vì vậy, Mỹ Nghiệp được xem là trung tâm
dệt vải nổi tiếng nhất ở vùng người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận. Đến năm 1991,
với nỗ lực khôi phục ngành nghề truyền thống xa xưa này, cơ sở Dệt thổ cẩm Chăm
Inrahani ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của nghề Dệt truyền thống tại
Mỹ Nghiệp. Các sản phẩm đã trở nên phong phú vá đa dạng hơn, nhằm đáp ứng nhu
cầu của thị trường, như: bóp ví, ba lô, túi xách, cà vạt, đồ dùng gia đình. Bên
cạnh đó, cơ sở Inrahani với nghệ nhân Thuận Thị Trụ đã góp công sức trong việc
sưu tầm và khôi phục 36 mẫu hoa văn truyền thống của người Chăm, cách điệu hơn
50 hoa văn khác, chế tác ra gần 300 mẫu mã các loại, mở rộng thị trường sản
phẩm ra các nước trên thế giới như: Lào, Campuchia, Nhật Bản, Pháp, Singapore.
Bảng 2.1: Bảng
tóm tắt so sánh quy trình Dệt vải thổ cẩm người Chăm xưa và nay
TT
|
CÔNG ĐOẠN
|
XƯA
|
NAY
|
1
|
Nguyên liệu
|
Được lấy từ bông vải.
|
Sợi chỉ công nghiệp có sẵn, mua trên
thị trường.
|
2
|
Gia công nguyên liệu để làm ra sợi, tơ
|
Kéo bông thành sợi chỉ, qua các công
đoạn (cán bông, bắn bông, làm con bông, kéo sợi, se sợi, cuộn chỉ, đánh ống.
|
Sợi chỉ công nghiệp có sẵn, mua trên
thị trường.
|
3
|
Chế biến màu và nhuộm sợi
|
Chủ yếu dựa vào màu cây thực vật: Màu
đen từ trái muôn (trái thị rừng), Màu đỏ
từ cây Phun pan, Màu vàng nhạt từ củ nghệ hoặc cốc vang, Màu chàm từ
cây chàm...
|
Sợi công nghiệp nhuộm sẵn từ màu công
nghiệp. Người dệt có thể tùy chọn.
|
4
|
Quay sợi, đánh ống
|
Sử dụng nhiều công cụ phức tạp để đưa
sợi chỉ vào ống trước khi làm công đoạn tiếp theo (Mắc sợi)
|
Sợi chỉ công nghiệp có sẵn, người dệt
chỉ cần đưa chỉ vào ống (Đánh ống)
|
5
|
Mắc sợi
(Móc chỉ)
|
Là hình thức đan theo mẫu mã đã định
sẵn bằng kinh nghiệm.
|
Là hình thức nghệ nhân có thể tư duy
sáng tạo theo mẫu đặt hàng, phong phú về chủng loại...
|
6
|
Bắt go (tạo hoa văn)
|
Công đoạn cuối cùng trước khi đưa vào
khung dệt
|
Công đoạn cuối cùng trước khi đưa vào
khung dệt
|
7
|
Dệt vải
|
Sử dụng hai loại khung: Khung dài dệt
hàng dây, hàng mét; Khung ngắn dệt hàng tấm.
|
Sử dụng hai loại khung: Khung dài dệt
hàng dây, hàng mét; Khung ngắn dệt hàng tấm.
Ngày nay, đã áp dụng máy Dệt công
nghiệp có cải tiến vào quá trình dệt
|
Nguồn:
Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp
2.1.2. Giá trị tinh thần làng nghề
Văn
hoá là “tự nhiên thứ hai” của con
người, do con người sáng tạo và mang tính giá trị. Nghề dệt truyền thống của
người Chăm là một trong những môi trường quan trọng chứa đựng những giá trị văn
hoá ấy. Sản phẩm thổ cẩm do các nghệ nhân người Chăm làm ra tự thân của nó đã
mang những giá trị nhân văn sâu sắc, hàm ý chứa đựng trong đó ý nghĩa của văn
hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Nghề dệt truyền thống của người Chăm ngày
nay không chỉ đáp ứng việc tạo ra vải mặc, nhu cầu được hưởng lợi từ sản phẩm
làm ra, mà thông qua các hoa văn, họa tiết trên sản phẩm ta còn có thể nhận
biết được sự biểu hiện của lòng tự hào, những cảm xúc về thẩm mỹ và nhiều giá
trị văn hóa khác như: giá trị mang tính lịch sử, thẩm mỹ, tín ngưỡng tôn giáo,
tín ngưỡng dân gian, văn học, nghệ thuật.
Trong
lịch sử loài người, khi xã hội hình thành, đồng thời cũng có sự phân chia giai
cấp. Lúc này có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo (những người có quyền cai trị, giới chức sắc
và thầy tu, giới thứ dân). Để khẳng định đẳng cấp của mình, giai cấp thống
trị đã tự đặt ra những qui định về các kiểu, loại vải để may trang phục và làm
các thứ vật dụng dành riêng cho từng lớp người trong xã hội (quẩn áo, giầy dép, khăn choàng, khăn bàn,
khăn trải gường, mền đắp), nhằm phân biệt đẳng cấp của mình với các đẳng
cấp thấp hơn. Từ những quy định trên, điều đặt ra cho người thợ dệt là làm sao
phải tìm ra các thứ nguyên liệu phù hợp, khung dệt phù hợp, kỹ thuật dệt phù
hợp để sản xuất ra các loại vải phù hợp, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội, từ đó
các loại vải lần lượt ra đời với đủ màu sắc, nhiều hoa văn và hoạ tiết, mang
dấu ấn đặt trưng của thời đại, phản ánh đặc điểm văn hoá, kinh tế - xã hội của
địa phương mình, đồng thời tạo cho dân
tộc mình có sự khác biệt, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Ngoài
việc phản ánh nét đặt trưng văn hoá của dân tộc, nghề dệt truyền thống người
Chăm còn cho chúng ta biết lịch sử của một dân tộc từng có một nền kinh tế phát
triển với nhiều nghề thủ công truyền thống. Nét độc đáo của nghề dệt truyền
thống người Chăm là người dân vẫn còn giữ nguyên kiểu dệt thủ công truyền
thống. Do vậy, để có được một sản phẩm bằng phương pháp dệt truyền thống là cả
một quá trình đầy khó khăn, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu, tiêu tốn rất nhiều
thởi gian và công sức, cộng với óc sáng tạo và trí tưởng tượng bay bổng để tạo
cho sản phẩm của mình đẹp hơn, có giá trị hơn, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng
am hiểu về nó và cả những người có nhu cầu tìm hiểu về nó. Để có một sản phẩm
thổ cẩm dệt truyền thống, có khổ 10cm, dài 100m, người thợ dệt phải làm việc
vất vả suốt từ 25 – 30 ngày, đó là chưa kể những sản phẩm có hoa văn phức tạp
như chim thần, rắn thần, rồng cách điệu v.v., người thợ dệt phải mất đến vài
ngày, thậm chí vài tuần mới dệt ra được một sản phẩm. Trong khi đó, để có được
nguyên liệu hoàn chỉnh trước khi đưa lên khung dệt để dệt, đòi hỏi phải trải
qua một thời gian dài với nhiều công đoạn hết sức phức tạp. Việc đầu tiên là
chọn đất và lảm đất để trồng bông, phải chọn đất rẫy hoặc đất khai hoang, làm
đất thật kỷ, đúng kỹ thuật mới cho năng suất cao. Công đoạn tiếp theo là trồng
bông, phải chọn đúng thời điểm tháng tư dương lịch để gieo hạt, sau khi gieo
hạt còn phải chăm sóc, canh giữ các loài chim và sâu bọ phá hoại, đến 8 tháng
sau mới có bông để thu hoạch. Các công đoạn tiếp theo là rút múi phơi cho thật
khô, sau đó tách bông, cán bông, bắn bông, cuốn bông, kéo sợi, nhuộm sợi rồi
mới đưa sợi vào khung để chuẩn bị dệt..
Sản
phẩm dệt của người Chăm không chỉ là sản phẩm của kỹ thuật thủ công mà còn mang
đậm nét giá trị thẩm mỹ. Cách phối màu trực tiếp trên vải rất phức tạp, đòi hỏi
phải có sự hài hòa giữa gam màu nóng với gam màu lạnh, giữa màu tối và màu
sáng. Màu của vải Chăm được chế biến từ các loại cây có sẳn trong tự nhiên như:
màu đen được nhuộm từ lá chùm bầu qua 7 ngày đêm liên tục, màu đỏ sậm, màu nâu
được nhuộm từ các loại vỏ cây, màu xanh được nhuộm từ cây chàm, màu đỏ được
nhuộm từ vỏ cây cánh kiến trong rừng sâu v.v. Trong trang trí, người Chăm không
pha trộn các màu lại với nhau, nhưng họ có nghệ thuật phối màu riêng để tạo nên
hoa văn trên nền vải với nhiều màu sắc, làm cho tấm vải đẹp hơn, đa dạng hơn.
Người Chăm thường chia các màu thành hai nhóm: Màu nóng (thuộc dương) gồm đỏ,
đen, và màu lạnh (thuộc âm) gồm trắng, vàng. Ngoài ra còn có màu xanh (màu
chàm) là màu trung gian, có thể là màu dương, cũng có thể là màu âm. Tuy nhiên,
theo cách sử dụng dân gian của người Chăm thì trên vải luôn có hai màu đối lập.
Khi đó họ không nhất định cho màu này là âm, màu kia là dương, tùy theo cách
phối màu mà màu đó trở thành màu âm hay dương. Ví dụ như màu trắng là nền và hoa
văn được dệt trên nền vải ấy là màu vàng thì màu trắng vẫn là màu âm (yôr), còn
màu vàng vốn thuộc âm nhưng trong trường hợp này trở thành màu dương (klăm).
Tương tự như vậy, khi các gam màu tách rời nhau, nó sẽ chuyển dịch vị trí và ý
nghĩa của mình. Điều đó phản ánh nhận thức thẩm mỹ của một dân tộc có lối tư
duy lưỡng hợp âm dương trong văn hóa tín ngưỡng người Chăm. Nhưng dù cho ý
nghĩa về màu sắc biến hóa như thế nào đi nữa thì trong lối trang trí của người
Chăm vẫn chỉ chọn ba màu nền cơ bản, đó là: trắng, đỏ và đen. Với nền trắng
thường dùng cho các sản phẩm có khổ vải lớn như: khăn mặt, khăn đội đầu. Hoa
văn được dệt trên nền trắng này thường dệt bằng chỉ có màu vàng hay đỏ. Với nền
đỏ thường áp dụng cho những sản phẩm có khổ vải nhỏ như: cạp váy, cạp vải, viền
khăn, dây thắt lưng. Hoa văn được dệt trên nền đỏ này thường là màu trắng,
vàng, xanh. Còn hoa văn được dệt trên vải nền đen thường là màu trắng, đỏ, xanh
hoặc vàng.
Do
hoa văn được tạo từ kỹ thuật dệt là chính nên đường nét hoa văn thể hiện trên
vải đều đã được hình học hóa, cách điệu hóa. Tuy đã cách điệu và hình học hóa,
nhưng với trí tưởng tượng bay bổng, người Chăm đã biết nắm lấy những chi tiết
đơn giản để gợi nên một hình ảnh cụ thể. Họ vẫn nhận ra những hình khối biểu
hiện thế giới động vật và thực vật có thật, hay tưởng tượng như hoa văn hình
rồng (bingu inư garai), hình rồng biến thể (bingu trun, bingu hăng, bingu hep),
chim thần Garuda (bingu nưk garit), hình thần Sihva, hoa văn con cua (bingu
arương), con thằn lằn (bingu kachak), con chó (bingu takay asau), hoa văn mắt
gà (bingu mư ta mưmuk), hoa văn cà dược (bingu tăm un), hạt lúa nổ (bingu
taman), sao trời (bingu tuk rik), hoa văn hình neo thuyền (bingugar wak). Ngoài
ra, còn có những hoa văn thể hiện rất sinh động như: Hoa văn con thỏ (bingu
tabai), hoa văn con bướm (bingu anưk padit), hoa văn bông mai (bingu cuah).
Dưới bàn tay khéo léo và óc tưởng tượng phong phú của mình, người Chăm đã mang
cả thế giới chung quanh để tô điểm cho vải vóc thêm tươi đẹp, rạng rỡ, thể hiện
giá trị nghệ thuật cao.
Ngày
nay, có thể dễ dàng nhận ra sản phẩm dệt truyền thống người Chăm với các hoa
văn hình thoi, chân chó, hoa mai, hạt lúa nổ hay hiện đại hơn như: Hình voi,
đầu tượng. Trong khi các thổ cẩm dân tộc phía Bắc chuộng các màu đen, đỏ và thường
được gép lại bằng những mảng vải màu rồi mới thêu hoa văn lên trên, thì sản
phẩm của người Chăm lại tạo hoa văn trực tiếp ngay khi dệt sợi. Do vậy, các hoa
văn sắc nét, đều đặn và có tính chất lặp đi, lặp lại một dạng mẫu trên cùng tấm
vải. Không chỉ vậy, sản phẩm truyền thống người Chăm còn có sức hấp dẫn bởi sự
phong phú, đa dạng về màu sắc, kiểu dáng, chủng loại.
Khác
biệt với một số một số làng dệt người Chăm, ở Mỹ Nghiệp, nhờ vào những hoa văn
chụp được trên các cổ vật người Chăm ở bảo tàng Pháp, ông Lâm Gia Tịnh (một trí
thức Chăm ở palei Mỹ Nghiệp) đã sao chép lên những tấm thổ cẩm của dân tộc mình
một số hoa văn cổ mà trước đây chỉ dành riêng cho các bậc vua chúa, giới tăng
lữ và quý tộc. Từ đó tấm thổ cẩm trở nên đẹp hơn, sang trọng hơn, dù người sử
dụng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của các hoa văn, họa tiết này. Tuy
nhiên, đối với palei Mỹ Nghiệp thì đây là điểm nhấn để thổ cẩm có cơ hội vươn
ra thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy, trước sức ép của thị trường về những
hàng dệt may thổ cẩm từ máy công nghiệp, nghề dệt truyền thống ở làng Mỹ Nghiệp
vẫn tồn tại bởi những hoa văn độc nhất vô nhị như sự thách thức. Chính nhờ vào
sự đặc biệt của nó mà Mỹ Nghiệp ngày nay đã trở thành một trong những làng dệt
truyền thống tiêu biểu nhất của người Chăm được nhiều người trong và ngoài nước
biết đến. Ví dụ: có vợ chồng ông, bà đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam, khi đến thăm cơ
sở dệt của bà Phú Thị Mỡ ở palei Mỹ Nghiệp đã mua những tấm thổ cẩm dệt bằng
phương pháp thủ công, có nguyên liệu từ sợi bông tự nhiên với giá đắt gấp 10
lần so với sản phẩm cùng loại nhưng dệt
bằng sợi ni lông công nghiệp.
2.1.3.
Giá trị vật chất làng nghề
Trong
lịch sử loài người, ngay từ thời sơ khai con người đã biết bảo vệ cơ thể bằng
cách dùng vỏ cây hay da thú săn được để phủ lên người làm ấm cơ thể và tránh
được nhiều loại côn trùng gây hại. Tiến xa hơn nữa, con người đã biết dùng vỏ
cây để se thành sợi và bện, đan thành quần, áo che thân. Từ kỹ thuật đan bện,
con người đã sáng tạo ra khung cửi và đồng thời tìm kiếm những vật liệu đáp ứng
nhu cầu sống ngày càng cao, con nguời đã tìm ra cách lấy sợi từ cây đay, bông
vải và tơ tằm. Từ khi xuất hiện đồ gốm và khung cửi, loài người đã tiến thêm
một bước dài trong thế giới văn minh. Khi con người đã biết dệt vải từ nhiều
nguồn nguyên liệu khác nhau, nhu cầu về vải mặc đã được cải thiện, cơ thể con
người được bảo vệ toàn diện hơn, mùa đông ấm hơn, mùa hạ tránh được nóng và giữ
nước cho cơ thể. Trải qua tiến trình phát triển của lịch sử, mỗi dân tộc đã tự
định hình cho mình những loại vải mang sắc thái riêng, phù hợp với điều kiên
môi trường tự nhiên của vùng đất ấy.
Trước
đây, người Chăm sản xuất ra các loại vải chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu mặc. Vì
vậy, để phù hợp với điều kiện nắng nóng, gió bụi ở dải đất miền Trung, người
Chăm xưa đã biết tìm những chất liệu có sẳn trong thiên nhiên như bông vải hay
tơ tằm để tạo ra những bộ trang phục vừa nhẹ, vừa thấm mồ hôi. Những trang phục
truyền thống người Chăm không cầu kỳ, màu chủ đạo thường là trắng, đen, xanh,
vàng và màu đất nung, không có hoa văn, mỏng và thoáng mát.
Khi
nhu cầu vải mặc đã được thoả mãn, người Chăm bắt đầu chú trọng đến tính thẩm
mỹ, từ đó dệt những loại vải có nhiều hoa văn, hoạ tiết, hình khối (mà nay
người ta quen gọi là thổ cẩm), và cả những loại vải có hình các loại linh vật
phục vụ cho nhu cầu của cung đình, các tầng lớp chức sắc tôn giáo và trong các
dịp lễ hội lần lượt ra đời.
Ngày
nay, nghề dệt truyền thống người Chăm đã phát triển đến trình độ tinh xảo, có
tính nghệ thuật cao, triết lý sâu sắc và ngày nay đã trở thành một thứ hàng hóa
thực sự, được quảng bá và được bày bán khắp nơi trên thị trường trong và ngoài
nước, được nhiều người biết đến, không còn đóng khung trong phạm vi gia đình
như xưa nữa. Người Chăm đã biết tự làm giàu từ nghề dệt truyền thống của mình.
2.1.4.
Giá trị kinh tế xã hội làng nghề
Năm
1992 được xem là thời điểm hồi sinh của các làng nghề dệt truyền thống, khi cơ
sở Inrahani của chị Thuận Thị Trụ ở làng dệt Mỹ Nghiệp được thành lập, hợp tác
với các công ty may mặc ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhận thấy giá trị và ý nghĩa
to lớn của làng nghề, chính quyền các cấp trong tỉnh đã vận dụng linh hoạt các
chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề của Đảng, nhà nước để giúp
người dân Mỹ Nghiệp có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất phát triển làng nghề.
Ngày
nay, được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương và hơn hết là sự nỗ
lực của mỗi người thợ, sản phẩm dệt của người Chăm đã từng bước đáp ứng nhu cầu
của thị trường và ngày càng được nhiều người biết tiếng. Nhiều sản phẩm dệt
người Chăm được trưng bày ở các hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế được
khách hàng trong nước và nước ngoài ưa chuộng. Không dừng lại ở những sản phẩm
mang tính truyền thống, các cơ sở dệt còn làm ra các mặt hàng lưu niệm với
nhiều mẫu mã, chủng loại phong phú như: cà vạt, túi xách, ví, áo, ba lô... đáp
ứng nhu cầu khách hàng trong nước và xuất khẩu sang các nước Nhật bản, Đức,
Pháp, Mỹ... nhiều hợp đồng đã được ký kết trị giá hàng trăm triệu đồng. Ngày
nay tại palei dệt truyền thống Mỹ Nghiệp có một số cơ sở chuyên sản xuất mặt
hàng thổ cẩm có quy mô lớn, doanh thu trên 1 tỷ đồng mỗi năm như cơ sở của chị
Thuận Thị Trụ, doanh thu 2,5 – 3 tỷ đồng/năm, cơ sở của ông Lưu Quý Đôn, doanh
thu khoảng 1,5 tỷ đồng/năm... từ đó giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động
với mức lương ổn định từ 1 - 1,5 triệu đồng/người/tháng, góp phần xóa đói, giảm
nghèo ở địa phương.
Hiện
nay, sự phát triển của nghề dệt truyền thống đã thu hút được rất nhiều thanh
niên nam, nữ tham gia học nghề, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động,
giải quyết nạn thất nghiệp vốn là bài toán khó giải lâu nay ở một số làng nghề
người Chăm nói chung, và làng dệt truyền thống Mỹ Nghiệp nói riêng. Các bạn trẻ
người Chăm ngày nay không còn phải đi xa để làm thuê hoặc phá rừng như trước
nữa, mà họ đã biết tìm việc làm ngay chính quê hương của mình. Thông qua việc
học nghề, đúc kết kinh nghiệm từ các nghệ nhân lớn tuổi, các bạn trẻ còn nghiên
cứu để t́ìm ra những nét hoa văn mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng nhu cầu của
thị trường. Thế hệ ngảy nay đã biết tự hào và tôn vinh nghề dệt truyền thống
của dân tộc mình, nhờ vậy nghề dệt truyền thống của người Chăm mới không bị mai
một trong thời điểm khó khăn như hiện nay.
Ngoài việc dệt vải, các bạn trẻ người Chăm còn
đã biết tự đi tìm đầu ra cho sản phẩm. Một số bạn trẻ đã vào tận thành phố Hồ
Chí Minh để giới thiệu sản phẩm với các doanh nghiệp tư nhân lớn. Một số khác
tự đi tiếp thị ở các tỉnh, thành trong và ngoài nước. Kết quả đã có hàng trăm
hợp đồng được ký kết, đem lại lợi ích khá lớn về mặt kinh tế, góp phần phát
triển làng nghề, tạo sự đoàn kết, gắn bó cộng đồng, trật tự xã hội được giữ
vững.
Biểu đồ
2.1: Sản lượng vải Dệt thổ cẩm qua các năm
Nguồn: Niên Giám thống kê Huyện Ninh Phước – Tỉnh Ninh Thuận năm 2013
Trong
các tour du lịch về Ninh Thuận, nhiều hãng lữ hành đã đưa hàng dệt Mỹ Nghiệp
vào trong tuyến tham quan. Đến với làng dệt truyền thống Mỹ Nghiệp, chúng ta
không những tận mắt chứng kiến các nghệ nhân, các thôn nữ ngồi dệt sau khung
cửi, với những công đoạn để chế tác ra sản phẩm, hay tìm thấy những sản phẩm
truyền thống của người Chăm như xà rông, mà c̣òn có thể mua bất kỳ những sản
phẩm thông dụng hàng ngày như: ga trải gường, khăn trải bàn, quần áo, túi xách,
ví, dây thắt lưng.
Biểu đồ
2.2: Số lượng khách du lịch trong nước đến Ninh Thuận qua các năm
Nguồn: Niên Giám thống kê tỉnh Ninh Thuận 2012
Biểu đồ 2.3: Số lượng khách nước ngoài đến Ninh Thuận qua các
năm
Nguồn: Niên Giám thống
kê tỉnh Ninh Thuận 2012
2.2. Thực trạng hoạt động tại làng nghề
2.2.1. Cơ sở hạ
tầng
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh nhà,
trong thời gian vừa qua, các cơ quan ban ngành của trung ương và địa phương đã
có nhiều chính sách, chương trình, dự án cụ thể để nâng cấp mặt bằng chung, cơ
sở hạ tầng tại làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp. Những dự án cụ thể
này một mặt đã góp phần thúc đẩy, làm thay đổi bộ mặt nông thôn; bên cạnh đó,
cũng đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc quảng bá, phát triển du lịch
tại làng nghề truyền thống.
Dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng tại
làng Nghề Mỹ Nghiệp đã được triển khai từ đầu năm 2008, bao gồm các hạng mục:
Trục đường chính vào làng có chiều dài 1.667m, đường cấp IV, bề rộng nền đường
là 6m, mặt đường 5m bằng bê tông nhựa dày 5 cm; 5 trục đường nội bộ có tổng
chiều dài 523,12m, mặt đường bằng bê tông đá dày 15cm; 7 hố ga, 2 cống bản và
hệ thống cấp thoát nước khu Trung tâm; hệ thống điện chiếu sáng gồm 80 bộ bóng
đèn. Bên cạnh đó còn có các hạng mục công trình dân dụng như nhà biểu diễn, nhà
trưng bày sản phẩm, nhà quản lý, nhà trực bảo vệ, nhà vệ sinh, có tổng diện
tích là 7.976 m2; cổng chào có chiều cao 13,8m rộng 12,6m và bãi đậu xe rộng
1.000 m2. Tổng mức đầu tư của dự án là 10,888 tỉ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh
và vốn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ, thời gian hoàn thành trong năm 2008.
Đây là dự án lớn được Nhà nước đầu tư xây dựng nhằm khôi phục phát triển làng
nghề truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc Chăm.
Khu phố Mỹ Nghiệp mỗi năm thu hút
hàng chục nghìn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, mua sắm các
sản phẩm dệt thổ cẩm với nét văn hóa Chăm đặc sắc. Tuy nhiên, do cầu Mỹ Nghiệp cũ
đã quá chật hẹp, giao thông không thuận tiện, cho nên việc phát triển du lịch
làng nghề chưa được khai thác xứng tầm so với tiềm năng lợi thế, cũng như mong
muốn của chính quyền và nhân dân địa phương. Chính vì thế, ngày 26-6, tại thị
trấn Phước Dân, UBND huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) đã tổ chức lễ khởi công nâng
cấp, mở rộng cầu Mỹ Nghiệp có tổng mức đầu tư 12 tỷ đồng từ nguồn vốn hỗ trợ
đầu tư hạ tầng du lịch của tỉnh. Công trình có tổng chiều dài 192m (cấp công
trình giao thông cấp III) do Công ty Xây dựng Sơn Long Thuận xây dựng các hạng
mục, gồm: phần đường dẫn vào hai đầu cầu dài 158m; phần cầu dài 34m; bề rộng
mặt cầu 7,5m. Cầu có một nhịp với kết cấu mặt cầu từ trên xuống gồm bê- tông
nhựa nóng dày 5cm, bê-tông xi-măng đá 1x2 M300 chống thấm và tạo dốc dày từ
6-13cm; bàn mặt cầu bằng bê-tông cốt thép đá 1x2 M300 dày 22cm. Mố cầu dạng chữ
U, móng cọc khoan nhồi. Dự kiến công trình sẽ hoàn thành vào cuối năm 2014 (chậm hơn gần 01 năm so với tiến độ ban
đầu). Công trình không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại của người dân trong vùng
mà còn đấu nối với tuyến đường ven biển dài hơn 100km, tạo vành đai kết nối các
làng nghề: dệt thổ cẩm, gốm bàu trúc v.v. của đồng bào Chăm để phát triển du
lịch văn hóa các làng nghề trong tương lai gần.
2.2.2. Nguồn nhân
lực và Mô hình tổ chức hoạt động tại làng nghề
Trước
năm 1975, chị em phụ nữ trong làng tận dụng giờ nông nhàn để tham gia sản xuất.
Hàng dệt chỉ gồm những sản phẩm thô, chủ yếu được mang bán cho các đồng bào dân
tộc Tây Nguyên như Êđê, Churu, Kơho, Raglai... một số ít được dùng phục vụ cho
tôn giáo và phong tục tập quán ở địa phương.
Sau
năm 1975, nghề dệt ở palei Mỹ Nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng bởi thiếu nguyên
liệu và thiếu đầu ra cho sản phẩm. Từ năm 1985, nghề dệt được phục hồi trở lại
do nhu cầu của phong tục. Nhưng nhìn chung, việc tổ chức sản xuất vẫn còn mang
tính gia đình, tự cung tự cấp.
Ngày
nay, ngoài cơ sở dệt của Inrahani đã gặt hái một số thành công đáng kể, các tổ
chức dệt có tính chất gia đình như của bà Phú Thị Mỡ, bà Thọ Khổ, bà Quang Phố,
hợp tác xã Mai Anh, hộ sản xuất của ông bà Phú Thủy, hộ sản xuất bà Bình Thị
Khoen v.v., mặc dù tầm hoạt động nhỏ hơn nhưng cũng đã góp phần đưa sản phẩm
dệt Mỹ Nghiệp đến khắp các tỉnh thành trong nước và cả nước ngoài.
Theo
số liệu thống kê tỉnh Ninh Thuận (năm 2010) Làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm
Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước: hiện có 01 Hợp tác xã, 10 tổ
hợp tác, 12 cơ sở sản xuất và hơn 500 hộ tham gia hoạt động nghề với hơn 800
lao động.
Trong
quá trình nghiên cứu, tổ chức hoạt động sản xuất của làng nghề có thể được chia
ra làm 03 mô hình: Hợp tác xã, Hộ cá thể, Các cơ sở sản xuất kinh doanh; mỗi
một mô hình có cách thức hoạt động, quy trình sản xuất, nguồn lao động khác
nhau.
Hộ sản xuất cá thể
Đây là
mô hình tổ chức hoạt động đơn giản đã có từ thời xa xưa, theo kiểu truyền nghề
theo truyền thống, nối tiếp qua các đời.
Đa số
các hộ gia đình vẫn còn sử dụng các công cụ, máy dệt truyền thống, số lượng máy
dệt cũng hết sức hạn chế do điều kiện về không gian sinh hoạt của gia đình; các
hoa văn trên các sản phẩm tương đối đơn giản ít phức tạp; năng suất sản xuất
tương đối thấp (mỗi ngày người nghệ nhân
lành nghề chỉ có thể dệt được từ 2m đến 3m khổ 90cm, đối với các sản phẩm có
kích thước 240cm x 90cm hay 120cm x 90cm thì người nghệ nhân phải mất khoảng 3
ngày mới hoàn thành được công việc); thời gian sản xuất linh động tùy thuộc
vào thời gian nhàn rỗi của người dệt; người dệt thường là phụ nữ và có độ tuổi
cao trên 45; vốn đầu tư sản xuất không nhiều, mang tính cầm chừng và không ổn
định; thành phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc bán lại cho các hộ
kinh doanh sản xuất trong làng, hợp tác xã (nếu
là xã viên của hợp tác xã).
Chính việc sản xuất mang tính cầm chừng
làm cho nguồn thu nhập từ sản phẩm dệt truyền thống rất hạn chế, tác động tiêu
cực đến việc duy trì và phát triển nghề dệt truyền thống tại địa phương. Tình
trạng ép giá vẫn thường xuyên diễn ra, phần thiệt thòi luôn thuộc về các hộ
kinh doanh nhỏ lẻ này.
Cơ sở sản xuất kinh doanh
Đây là
mô hình sản xuất tương đối mới, phát triển sau năm 1991, khi cơ sở sản xuất
Inrahani ra đời và đánh dấu một bước phát triển phồn thịnh, khôi phục lại nghề
dệt thổ cẩm truyền thống Chăm tại làng Mỹ Nghiệp.
Trước sự
tác động của cơ chế thị trường, các cơ sở kinh doanh này đã áp dụng kỹ thuật
công nghệ vào quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ của thị trường. Sử dụng máy may công nghiệp để phục vụ cho việc sản xuất,
tạo ra các sản phẩm như ví, ba lô, túi xách, vật dụng sinh hoạt gia đình v.v.
từ vải thô. Ngoài ra, việc sử dụng máy dệt công nghiệp giúp cho sản lượng, năng
suất vải sản xuất tăng lên gấp nhiều lần so với kiểu dệt truyền thống. Mỗi máy
dệt công nghiệp có thể dệt được khoảng 15m đến 20m khổ 90cm trong một ngày,
năng suất cao gấp 12 đến 15 lần so với kiểu dệt truyền thống. Giá thành đầu tư
cho một máy dệt công nghiệp hiện nay dao động từ 15 đến 20 triệu đồng.
Tại làng nghề Mỹ Nghiệp hiện nay, có một
số cơ sở sản xuất mạnh dạn vay vốn ngân hàng, hoặc sử dụng nguồn vốn trong gia
đình để đầu tư sản xuất lớn như: hộ ông bà Phú Thủy đã chuyển qua dùng máy dệt
công nghiệp được gần 10 năm, số lượng máy gần 15 chiếc, số lượng nhân công gần
20 người – với mức thu nhập bình quân khoảng 1,6 triệu đồng/tháng; hộ bà Bình
Thị Khoen chuyển qua sử dụng máy dệt công nghiệp được 4 năm, với số lượng máy
dệt gần 35 máy, số lượng nhân công gần 50 người – thu nhập bình quân khoảng 1,8
triệu đồng/tháng. Ngoài việc sản xuất tại chỗ thì các hộ sản xuất này còn đứng
ra thu mua sản phẩm của các hộ cá thể nhỏ lẻ trong làng. Sản phẩm sản xuất ra
thường được bán cho khách du lịch thăm làng nghề, đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên, dân cư trong vùng, các tỉnh thành lân cận tại Miền Nam, hoặc xuất khẩu
ra một số nước như Campuchia, Lào, Singapore nhưng rất hạn chế; hoặc trao đổi
trực tiếp bằng hàng hóa với các sản phẩm dệt từ các địa phương khác do nhu cầu
của khách mua. Thời gian sản xuất mỗi ngày thường 8 tiếng (theo giờ hành
chánh). Ngoài công việc sản xuất thì các cơ sở kinh doanh này cũng tổ chức khu
vực trưng bày, giới thiệu và quảng bá sản phẩm du lịch. Tự chủ động liên kết
với các công ty du lịch đưa khách đến tham quan các cơ sở sản xuất, dựa trên
mối quan hệ cá nhân tốt với các công ty lữ hành, điển hình cho mô hình này là
cơ sở của ông Lưu Quý Đôn có thâm niên trên 20 năm. Doanh thu của các cơ sở sản
xuất này hàng năm lên đến hàng tỷ đồng.
Lao động tại các cơ sở sản xuất chủ yếu
vẫn là nữ giới, nhưng ở độ tuổi trẻ hơn nhiều so với các hộ sản xuất truyền
thống; nam giới cũng đã tham gia vào vào các công đoạn sản xuất như đứng máy
dệt, đứng khuôn hoa văn, may thành phẩm nhưng số lượng vẫn còn ít. Lao động tại
các cơ sở sản xuất kinh doanh này thường không được ký hợp đồng lao động, đăng
ký các loại bảo hiểm liên quan, công tác bảo hộ trong quá trình làm việc không
có, họ thường làm việc theo mùa vụ những lúc nhàn rỗi không trùng với thời gian
thu hoạch nông sản của gia đình, tính ổn định trong quá trình làm việc là không
có nên gây khó khăn và bị động cho đơn vị kinh doanh trong việc đảm bảo tiến độ
sản xuất hoặc theo các hợp đồng sản xuất lớn đã ký kết.
Việc kinh doanh tại các cơ sở sản xuất
này thiếu tính khoa học quản lý, thiếu độ an toàn. Chủ yếu kinh doanh dựa vào
mối quan hệ thân thiết mang tính cá nhân được hình thành qua thời gian dài,
không có ký kết hợp đồng buôn bán, không hợp đồng sản xuất, hình thức ký gửi
gói đầu và thanh toán sau thời gian khoảng 3 tháng với các lái buôn luôn khiến
đơn vị sản xuất yếu thế, đây là tình trạng bất cập vì đơn vị sản xuất thiếu đầu
ra nên vẫn dựa vào các lái buôn là chính. Ngoài ra, số lượng khách du lịch hàng
năm ghé đến làng nghề cũng là nguồn tiêu thụ sản phẩm dệt với số lượng lớn, sản
phẩm dệt Mỹ Nghiệp có một lợi thế hơn so với sản phẩm làng nghề gốm Bàu Trúc là
rất gọn nhẹ và dễ dàng trong việc vận
chuyển – không gây khó khăn và đắn đo cho người mua sản phẩm.
Nguồn vốn sản xuất vẫn là hạn chế lớn
của các cơ sở sản xuất. Do việc kinh doanh không có tổ chức bài bản nên việc
thu hút đầu tư, vay vốn ngân hàng sẽ rất khó khăn, nguồn vốn vay cũng rất ít.
Mặc dù chính quyền địa phương cũng đã có chính sách, nguồn vốn cho vay sản xuất
trong các đề án hỗ trợ và phát triển làng nghề truyền thống nhưng do các thủ
tục hành chánh rườm rà nên cũng tạo sự e dè của người dân trong việc tiếp cận
những nguồn vốn này.
Hợp tác xã
Hợp tác
xã làng nghề Mỹ Nghiệp được thành lập ngày 31/12/2010 hiện có 73 thành viên, số
lượng xã viên tăng đều qua các năm, vốn góp của các thành viên là 365 triệu
đồng (mỗi xã viên đóng quỹ hoạt động là 5
triệu đồng), vốn hoạt động của Hợp Tác Xã hiện nay là 665 triệu đồng (trong đó từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia bảo tồn, phát
triển làng nghề, Hợp Tác Xã được hỗ trợ 300 triệu đồng để mở mang sản xuất, đẩy
mạnh quảng bá thương hiệu). Hiện tại Hợp tác xã làng nghề Mỹ Nghiệp
đang quản lý khu nhà trưng bày ngay tại Trung tâm làng. Với đội ngũ Ban quan
trị Hợp tác xã gồm 07 người: 01 Chủ nhiệm, 02 Phó chủ nhiệm, 02 Kiểm soát, 01
kế toán, 01 thủ quỹ.
Hiện tại
Hợp tác xã Mỹ Nghiệp đang quản lý trực tiếp nhà trưng bày làng nghề, với diện
tích gần 8000m2 , bao gồm: Hội trường trưng bày các sản phẩm
làng nghề, Nhà sản xuất với các máy dệt và quy trình sản xuất theo kiểu truyền
thống, với các nghệ nhân giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Hợp tác xã cũng sử dụng
máy may công nghiệp để hỗ trợ một phần trong việc may và sản xuất các sản phẩm
như ví, bóp, khăn bàn, ba lô v.v. để bán cho khách du lịch.
Về hình
thức tổ chức hoạt động, các xã viên có thể lựa chọn sản xuất ngay tại nhà trưng
bày hoặc sản xuất tại nhà của mình cho thuận tiện công việc và thời gian nhàn
rỗi, việc này sẽ đăng ký trực tiếp với Ban chủ nhiệm Hợp tác xã để thuận tiện
trong việc quản lý. Nhưng hợp tác xã vẫn cố gắng duy trì đội ngũ sản xuất bằng
máy dệt truyền thống tại nhà trưng bày để phục vụ nhu cầu tham quan, khám phá
của khách du lịch trong những thời gian cao điểm. Sản phẩm của các xã viên làm
ra sẽ được Hợp tác xã mua lại theo đơn
đặt hàng của Hợp tác xã nhưng sẽ cao hơn so với giá thị trường từ 10% đến 15%,
mục đích nhằm tránh việc xã viên bán hàng cho các cơ sở sản xuất khác do việc
bị phá giá.
Hàng hóa
sản xuất, ngoài bán cho khách du lịch, thì Hợp tác xã còn tham gia các đợt bán
hàng hội chợ. Mỗi năm tham gia từ 7 đến 10 hội chợ. Tuy nhiên những đợt bán
hàng này thường mang tính quảng bá là chính, lợi nhuận không cao. Bán hàng tại các hội chợ không phải cách phát triển nghề
bền vững vì các hội chợ có thể năm này được tổ chức, năm khác lại không. Và
tham gia hội chợ, các Hợp Tác Xã được hỗ trợ về phương tiện đi lại, chi phí
gian hàng nên mới có thể có lãi. Còn để sản phẩm thực sự có thị trường ổn định
thì cần những đối tác đặt hàng thường xuyên, đều đặn.
Ngoài
ra, một vai trò vô cùng quan trọng của Hợp tác xã đó là việc lưu giữ và truyền
nghề thông qua việc liên kết, được hỗ trợ bởi Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến
thương mại tỉnh để mở các lớp dạy nghề cho con em trong làng. Đến năm 2014, đã
mở được 03 lớp nghề truyền thống.
Lợi
nhuận trong Hợp tác xã sẽ được phân chia theo thỏa thuận chỉ một lần vào cuối
năm: 65% lợi nhuận sẽ được chia đều cho các xã viên tùy thuộc vào thời gian vào
Hợp tác xã; 25% lợi nhuận sẽ được chi trả cho công dán tiếp (bao gồm chi phí quản lý của Ban chủ nhiệm
Hợp tác xã, những người lao động trực tiếp tại nhà trưng bày), mỗi năm Hợp
tác xã sẽ tổ chức bình bầu và đánh giá năng lực hiệu quả làm việc mà chi trả
theo mức từ 60% đến 90%; 10% lợi nhuận sẽ được đưa vào quỹ dự phòng. Tất cả
nguồn chi phí sẽ được gửi vào ngân hàng, có chính sách báo cáo tài chính và
công khai chi tiêu với tất cả xã viên đều đặn theo từng quý.
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ phân chia lợi nhuận
của Hợp tác xã Mỹ Nghiệp
Nguồn: Chủ nhiệm Hợp
tác xã dệt thổ Cẩm Chăm Mỹ Nghiệp
Qua 3 năm hoạt động, Hợp Tác Xã sản xuất
kinh doanh dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp đã thu được kết quả: Tổng doanh thu đạt gần
2,7 tỷ đồng; Lợi nhuận 541 triệu đồng; Chia lãi vốn góp 7,1 triệu đồng cho
Thành viên gia nhập khi thành lập, 4 triệu đồng cho Thành viên gia nhập bổ
sung. Lương bình quân cho cán bộ quản lý Hợp Tác Xã 900.000 đồng/người/tháng,
thu nhập bình quân người lao động vào làm việc tại Hợp Tác Xã 2,2 triệu
đồng/người/tháng.
Bảng 2.2: Số
liệu thống kê về Số lượng xã viên, Doanh thu, Lợi nhuận của Hợp tác xã Dệt thổ
Cẩm Chăm Mỹ Nghiệp qua các năm
Nội dung
|
Năm
|
||
2011
|
2012
|
2013
|
|
Số lượng xã viên (Đơn vị tính: người)
|
35
|
50
|
73
|
Tổng doanh thu (Đơn vị tính: triệu đồng)
|
600
|
950
|
830
|
Lợi nhuận (Đơn vị tính: triệu đồng)
|
100
|
230
|
211
|
Nguồn: Chủ nhiệm Hợp tác xã Dệt thổ Cẩm Chăm
Mỹ Nghiệp
Phương hướng sản xuất kinh doanh trong
những năm đến, Hợp Tác Xã phấn đấu đạt doanh thu 1,2 tỷ đồng/năm, Lợi nhuận
bình quân 200 triệu đồng/năm. Phấn đấu đến năm 2016 nâng tổng số Thành viên Hợp
Tác Xã lên 110 Thành viên, thu nhập bình quân người lao động làm việc tại Hợp Tác
Xã tăng lên 3,3 triệu đồng/người/tháng; tiếp tục đầu tư 2 cửa hàng thương mại
dịch vụ tại 2 thành phố: Đà Năng và Hồ Chí Minh.
Tuy
vậy, Hợp tác xã Mỹ Nghiệp trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều yếu tố bất
cập, hiệu quả hoạt động chưa được như mong muốn, chưa tạo được niềm tin của các
hộ cá thể, điển hình như:
Hiện nay, chỉ có 73 xã viên trong Hợp tác xã
trên tổng số 838 hộ cá thể đang kinh doanh và sản xuất nghề dệt truyền thống
tại làng Mỹ Nghiệp là vấn đề lớn cần phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Chính
việc cạnh tranh, không muốn chia sẽ những lợi nhuận của mình thông qua các hợp
đồng đã ký là một trong những nguyên nhân khiến các cơ sở sản xuất lớn đắn đo
suy nghĩ và không tham gia vào Hợp tác xã.
Ban chủ nhiệm Hợp tác xã
làng nghề Mỹ Nghiệp quá thụ động, thiếu năng lực trong công tác điều hành, đặc
biệt là tìm đầu ra cho sản phẩm làng nghề. Chính yếu tố kinh tế đã tác động
tiêu cực đến suy nghĩ của các xã viên, sự trì trề bao trùm cả Hợp tác xã. Qua
khảo sát – phỏng vấn trực tiếp ông Hà Minh Thiệu, chủ nhiệm Hợp tác xã Dệt Mỹ
Nghiệp, thì nguồn vốn hiện nay do không có đầu ra nên sản phẩm sản xuất bị ứ
động không thu hồi lại được vốn; nên quá trình sản xuất chỉ mang tính cầm
chừng, phục vụ nhu cầu tham quan khám phá của khách du lịch khi đến với nhà
trưng bày là chính. Do đó, theo đại đa số ý kiến của xã viên, thì Ban chủ nhiệm
Hợp tác xã đã thống nhất cho 100% xã viên vay lại số tiền vốn sản xuất tối đa
là 5 triệu đồng/1 xã viên để tái đầu tư làm ăn kinh tế, phục vụ việc phát triển
kinh tế hộ gia đình. Vấn đề ở đây là nguồn vốn vay này có chắc là sẽ được tái
đầu tư vào nghề dệt truyền thống, hay lại phục vụ cho mục đích khác. Hiện tại
nguồn vốn sản xuất của Hợp tác xã chỉ còn là 300 triệu đồng (nguồn vốn
Chương trình mục tiêu quốc gia bảo tồn, phát triển làng nghề, Hợp Tác Xã được
hỗ trợ 300 triệu đồng để mở mang sản xuất, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu). Có thể thấy đây là một
quyết định rất khó hiểu của Ban chủ nhiệm, đi chệch định hướng phát triển của
Hợp tác xã, không có tính bền vững lâu dài.
Cùng với đó, công tác quản
lý tài chính, kế toán chưa đáp ứng được các quy định. Hợp Tác Xã gặp khó khăn,
nhất là trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, ít
hiểu biết về pháp luật, khoa học quản lý và làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm.
Qua thời gian cùng với năng lực đúc kết từ thực tiễn lao động sản xuất, họ được
xã viên tín nhiệm bầu vào Ban quản trị. Theo Luật Hợp Tác Xã năm 2012 và các
văn bản liên quan, điều kiện để trở thành cán bộ quản lý Hợp Tác Xã phải là
thành viên Hợp Tác Xã, có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực quản lý và được
xã viên tín nhiệm; trong đó, trình độ cán bộ quản lý tối thiểu phải đạt từ
trung cấp chuyên môn trở lên. Nếu theo đúng quy định, thì đa số cán bộ quản lý
chưa đạt về trình độ chuyên môn.
Về độ tuổi cho thấy, lực
lượng cán bộ cốt cán phần đông lớn tuổi, nguồn lực kế thừa đang bị thiếu hụt
trầm trọng. Tuy có kinh nghiệm, nhưng kiến thức để tiếp cận với những điều mới
của các cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, lớp trẻ có nhiệt huyết,
có kiến thức thì lại không mặn mà với công việc, do chưa có những chính sách hỗ
trợ, thu hút tài năng. Tình trạng thiếu người có năng lực, thừa người có thâm
niên dẫn đến việc quản lý đi đúng hướng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
như hiện nay gặp muôn vàn gian khó. Trong
bối cảnh hiện nay, để tổ chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, chỉ có
kinh nghiệm không là chưa đủ. Người cán bộ quản lý cần phải có trình độ chuyên
môn để xây dựng các phương án hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là những kiến
thức về Marketing, quảng bá, tìm đầu ra sản phẩm v.v.
Bài
toán thiếu nguồn nhân lực chất lượng, vẫn chưa được giải đáp gây không ít khó
khăn cho nền kinh tế tập thể. Có thể thấy, thay vì trông chờ vào sự hỗ trợ của
các cơ quan chức năng, đã tới lúc các Hợp Tác Xã phải khẳng định sự chủ động
của mình; mạnh dạn đổi mới cách nghĩ, cách làm; có chiến lược thu hút tài năng,
xây dựng những mô hình Hợp Tác Xã kiểu mới; đưa khu vực kinh tế tập thể trở về
đúng với vị thế, góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Về
cơ sở hạ tầng, nhà trưng bày làng nghề sau 04 năm đưa vào sử dụng nay đã phát
sinh một số bất cập, và xuống cấp. Khâu trưng bày sản phẩm rất sơ xài, thiếu
tính thẩm mỹ, gắn kết với không gian văn hóa Chăm. Theo ông Hà Minh Thiệu, thì
những tủ kính trưng bày sản phẩm quá nặng nề, không phù hợp với không gian
chung của nhà trưng bày; hoạt động bên lề để thu hút khách du lịch chưa phong
phú, không tạo điểm nhấn để thu hút sự quan tâm của các công ty lữ hành. Không
gian nhà trưng bày hiện tại bỏ phí rất nhiều phòng óc, khâu vệ sinh chung không
được đảm bảo, một số phòng sử dụng sai chức năng gây thiện cảm không tốt cho
khách tham quan nhà trưng bày. Cảnh quan không gian bên ngoài nhà trưng bày
thiếu sự đầu tư, ngoại cảnh nên không tạo được sự đồng bộ, thích thú của khách
tham quan khi đến với nhà trưng bày.
2.2.3.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tại làng nghề
Ý thức
bảo tồn các giá trị truyền thống
Du khách khi đến với làng nghề Dệt thổ
cẩm Mỹ Nghiệp để tìm hiểu về các di sản văn hóa, lịch sử, những phong tục tập
quán, nghệ thuật truyền thống cùng với môi trường văn hóa có nhiều nét rất
riêng của cả cộng đồng người Chăm. Các giá trị văn hóa nhân văn này là một phần
quan trọng được đánh giá là một tài nguyên du lịch có giá trị, cần được đầu tư
để khai thác phát triển hiệu quả.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát
triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được cải thiện đáng kể, con
người có quyền được thỏa mãn các nhu cầu, trong đó có nhu cầu thỏa mãn về mặt
thẩm mỹ, phù hợp với điều kiện, sở thích của từng cá nhân. Sống trong xã hội
hiện đại ngày nay, sự giao lưu văn hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp,
do đó sự biến động văn hóa để thích nghi trong quá trình hội nhập về phương
diện này hay phương diện khác là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, sự thích nghi
không phải lúc nào cũng mang tính tích cực mà đôi khi nó còn làm cho con người
quên đi nguồn cội, quên đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Nghề dệt truyền
thống người Chăm ở palei Mỹ nghiệp cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Trong
quá trình giao lưu, ảnh hưởng qua lại giữa người Chăm với người Kinh và các dân
tộc khác, đồng thời cùng với sự phát triển của công nghệ dệt hiện đại, cộng với
nền kinh tế mở rộng trong nước và quốc tế đã góp phần vào xu hướng thống nhất
về cách ăn mặc, nhưng đồng thời cũng làm thu hẹp dần chất liệu, mẫu mã cũng như
hình thức của các loại vải truyền thống. Phần lớn người trẻ tuổi đã chuyển sang
sử dụng những trang phục, chất liệu vải giống với người Kinh, thuận tiện cho
nhu cầu sinh hoạt và học tập. Bên cạnh đó, phụ nữ Chăm ngày nay cũng đã có
nhiều sự lựa chọn hơn trong cuộc sống của mình, họ có thể học thêm những ngành
nghề mới, vào các thành phố và trung tâm lớn để học tập và làm việc. Đây là nỗi
lo lắng của các cụ già người Chăm, họ lo cho con cháu người Chăm sau này không
còn biết đến sản phẩm dệt truyền thống của dân tộc mình, lo cho văn hóa người
Chăm dần bị mai một.
Tuy nhiên, một trong những tiêu chuẩn
đạo đức được “Bà tổ quê hương” đặt ra cho phụ nữ Chăm là phải thông thạo nghề
dệt. Nghề dệt được coi là tiêu chuẩn khi đánh giá về
người đàn bà đảm đang. Thơ cổ người Chăm có đoạn: “đạo đàn bà giữ nhà, ham ăn
người đời cười chê, tập dệt vải quay tơ”. Trong các gia đình tại làng Mỹ Nghiệp
vẫn còn đó những khung dệt truyền thống, tuy nhiên việc sản xuất cầm chừng chỉ
vào lúc nhà rỗi, thường là những người lớn tuổi. Chính vì vậy, ngay từ nhỏ,
những người phụ nữ Chăm lớn tuổi trong gia đình sẽ truyền dạy cho con cháu mình
những kỹ thuật cơ bản nhất của nghề dệt truyền thống. Nghề dệt truyền thống dệt
thổ cẩm Chăm với lối “Mẹ truyền con nối” nên đối với một số thợ dệt chỉ dựa vào
kinh nghiệm được truyền lại, nhiều học viên chưa hiểu rõ được nguồn gốc, các
khâu kỹ thuật, công đoạn dệt truyền thống v.v. Chính điều này đã hạn chế khả
năng tư duy của người làm nghề, rất khó khăn để vận dụng sáng tác thêm hoa văn
mới đồng thời có thể dựa trên những mẫu được lưu giữ lại để phục chế hoa văn cổ
của dân tộc Chăm. Hiện nay, làng nghề Mỹ Nghiệp có 04 nghệ nhân được hiệp hội
làng nghề phong tặng và 01 nghệ nhân dân gian được Nhà nước phong tặng là Bà
Phú Thị Mỡ, điều này cho thấy những người có đủ khả năng am hiểu hết về nghề
dệt thổ cẩm Chăm không còn nhiều và vấn đề bảo tồn, giữ gìn các giá trị văn hóa
ngày càng ít đi và đứng trước nguy cơ mất dần truyền thống của dân tộc. Còn vấn
đề con cháu họ có tiếp tục theo nghề truyền thống hay không, việc tìm hiểu nghề
dệt truyền thống đến mức độ nào vẫn là câu
hỏi lớn mà cần phải kiểm chứng qua thực tiễn và thời gian dài. Quá trình
truyền dạy này chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân là chính, tính bài bản
không có, nội dung truyền đạt không trọn vẹn nên những giá trị cốt lõi về hoa
văn, kỹ thuật sẽ dần bị mai một.
Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng tìm
thấy các loại sản phẩm dệt công nghiệp trên thị trường, nhưng sản phẩm dệt
truyển thống của người Chăm ở làng Mỹ Nghiệp vẫn có giá trị nhất định, điều đó
cho thấy xã hội vẫn còn có nhu cầu với loại sản phẩm này. Chính nhu cầu của xã
hội đã giúp cho nghề dệt truyền thống tồn tại. Nhưng theo đà phát triển của xã
hội hiện đại, những quan niệm về thẩm mỹ cũng thay đổi theo, đã tác động đến
tâm lý và thị hiếu của mỗi người dân, dẫn đến nhu cầu sở thích cũng dần bị thay
đổi. Vì vậy, giữ gìn và phát triển nghề dệt truyền thống Chăm là bài toán khó
không chỉ đối với đồng bào Chăm nói chung và các cơ sở dệt ở palei Mỹ nghiệp
nói riêng, mà còn cả đối với các ban ngành, của các cấp chính quyền địa phương
và của toàn xã hội. Đã có nhiều nhà nghiên cứu là con em người Chăm sưu tầm,
điền dã và viết những tài liệu khoa học liên quan đến nghề dệt cổ truyền tại
làng Mỹ Nghiệp, điển hình như tác giả Sakaya. Những tài liệu này là vốn quý,
căn cứ khoa học để lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng
người Chăm nói chung.
Hoa văn
truyền thống
Trong
thực tế, đã có nhiều hoa văn trên thổ cẩm người Chăm đã bị thất truyền, cả về
tên gọi, ý nghĩa và cách dệt cũng không còn ai lưu giữ. Chất liệu vải cũng hạn
chế. Người Chăm ngày nay chủ yếu dệt các loại vải theo đơn đặt hàng hoặc theo
thị hiếu của thị trường, các loại vải làm ra thường dùng để may các loại thắt
lưng, túi xách, ví, khăn mặt, khăn trải bàn và một số sản phẩm khác phục vụ cho
khách du lịch. Trong khi đó, những hoa văn, họa tiết cùng với màu sắc của vải
được phối trên trang phục truyển thống người Chăm vốn mang những giá trị văn
hóa rất đặc trưng, nó không chỉ phản ánh quan niệm thẩm mỹ của người Chăm, mà
còn phản ánh phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của họ. Ngoài hoa văn đặc trưng thổ cẩm như: hình chim thú, hoa lá
cách điệu, còn có vô số hoa văn biểu tượng của dân tộc chăm rất sống động như:
hoa văn quả trám (bingu tamun), hoa văn cách điệu hình rồng (bingu hăng), hoa
văn chân chim (takay wa), hoa văn hột lúa nổ, hoa văn lá bồ đề v.v.
Hầu
như phần lớn các sản phẩm người Chăm được dệt trên khung dệt Băn và
khung dệt DaLah đều không thể thiếu các loại hoa văn trang trí. Từ y phục
của các tu sĩ Chăm, các tầng lớp trên của xã hội Chăm, cho đến phổ cập giới
bình dân đều có sự hiện diện của các loại hoa văn (pingu).
Trên
nền vải thường được ưa thích là màu đen hay màu đỏ. Những đồ án trang trí được
thiết lập trên vải Chăm chủ yếu dựa vào các loại hình vừa có giá trị về mặt
thẩm mỹ, vừa có giá trị về mặt tín ngường – tôn giáo.
Về
mặt thẩm mỹ
Hoa
văn hình học: Với việc tập trung các nút chỉ (được tạo nên từ các khâu mắc
sợi, mắc go và bắt bông trong quá trình dệt) từ đó tạo nên cảm giác từ các
đường nét thành một khối hình thoi, hình tứ giác nói chung. Ngoài ra, các hình
kỷ hà cũng được người Chăm khai thác khi tạo dây hoa văn, bằng cách lặp lại
đường nét từ ngoài vào trong, hoặc lặp lại theo những chu kỳ nhất định các khối
hình học. Người Chăm gọi loại hoa văn dáng hình học bằng nhiều tên gọi khác
nhau và có quy ước khi bố trí trên toàn mặt vải hay thành các dải song song
như: Loại hoa văn pingu Mun, gồm
nhiều hình thoi lồng vào nhau, hay với loại hoa văn Chăm Birầu gồm các
hình thoi được lặp lại thành từng khối... hoa văn Pingu Tâm Un, gồm ba
cụm vạch tạo thành ba khối hình thoi, được chắn ngang với ba đường kẻ ở hai
đầu. Hoa văn Reh là dải màu dích dắc theo hình sóng lượn, được bố trí
thành từng dải song song, cách đều chạy đều trên mặt sợi dọc.
Lối
trang trí hoa văn hình học với nhiều màu sắc thường được bố trí ở hai đầu khổ
vải và hai đường biên tấm vải, tạo nên những đường viền sặc sỡ, đẹp mắt.
Tín
ngưỡng dân gian
Các
kiểu hoa văn cách điệu: Ngay trong dạng hoa văn hình học, trên vải Chăm
cũng thấy ít nhiều sự cách điệu hoa lá, núi non bằng các đường nét hình khối.
Nhìn
những mảng hoa văn với các đường nét chấm phá, có thể nhận ra hình dáng Makara
(Thuỷ quái - biểu tượng của nước), hình Girai (Con rồng Chăm), Chim
hằng (Chim công)...
Các
dạng hoa văn cách điệu vải Chăm còn thể hiện các loại dây leo, hoa lá. Riêng
các cánh hoa, dù được cách điệu hay chân phương đều được bố trí thành những dải
xen kẻ trong toàn bộ mảnh vải trang trí.
Hoa
văn, họa tiết truyền thống người Chăm
không chỉ lưu lại những dấu ấn về lich sử - văn hóa mà còn gắn liền với
tín ngưỡng bản địa, chịu những quy định, kiêng kỵ của tập tục dân gian. Chẳng
hạn trong trường hợp dệt loại váy hoa văn hạt lúa nổ (bingu kamang), người thợ
dệt phải làm một cặp gà để cúng tổ sư Pô Inư Nưgar. Vì họ cho rằng đó là váy
của thần linh, của vua chúa và chỉ dệt để dâng cúng các vị nữ thần ở đền tháp.
Điều này thể hiện tín ngưỡng nông nghiệp của người Chăm luôn coi trong hạt lúa,
hạt gạo. Họ còn cúng dâng lễ ở các đền, tháp, thánh đường, trong các lễ cúng tổ
tiên. Tuy nhiên, ngày nay phụ nữ lớn tuổi cũng có thể lấy loại vải này may
thành váy để mặc. Người Chăm còn có những điều kiêng kỵ đối với dệt một số loại
sản phẩm như: Khi dệt dây buộc liệm người chết (taley ssang), chỉ có thiếu nữ
chưa tới tuổi dậy thì và phụ nữ lớn tuổi mới được dệt. Vì người Chăm quan niệm như
vậy mới không làm ô uế và đem lại sự bình yên, thanh thản cho linh hồn và cho
linh hồn người chết dễ được siêu thoát. Khi dệt các loại hoa văn phục vụ cho
các chức sắc tôn giáo, tu sĩ như: hoa văn rồng cách điệu, các loại dây lưng dệt
nổi hai mặt thì cũng kiêng cữ tương tự.
Tín
ngưỡng tôn giáo
Trong quá trình
hình thành và phát triển, vương quốc Champa xưa đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng
nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng chỉ có Bàlamôn giáo và hồi giáo được du nhập từ
Ấn Độ là còn tồn tại đến nay, và gần đây là đạo Hồi chính thống Islam. Tuy là
ba tôn giáo khác nhau, nhưng người Chăm theo đạo Bàlamôm và người Chăm theo đạo
Hồi là có cách ăn mặc gần giống nhau, còn nhóm người Chăm Islam thì có cách ăn
mặc giống người Chăm ở Nam bộ và các dân tộc theo đạo hồi ở một số nước thộc
khu vực Đông Nam Á như: Indonesia, Malaysia... Có thể dễ dàng nhận thấy các
loại hoa văn được dệt trên trang phục của các chức sắc tôn giáo trong sinh hoạt
tín ngưỡng của người chăm như: hoa văn hình tháp, hình người, hình rồng, rồng biến
thể, thần Shiva, chim thần, rắn thần v.v. Phụ nữ Chăm có chức sắc thì đội khăn
hình “Rồng biến thể” (bingu trun), hay các chức sắc, tu sĩ thì dùng loại dây
thắt lưng có dệt hoa văn nổi ở hai mặt (người bình dân chỉ được đeo thắt lưng
có dệt hoa văn một mặt). Đặc biệt chỉ có hàng ngũ chức sắc là cả sư và phó cả
sư mới được mặc váy có dệt hoa văn rồng cách điệu trong các nghi thức lễ của
người Chăm.
Hoa văn mang tính sáng tạo gắn với đời
sống thiên nhiên
Ngoài
ra, hoa văn thổ cẩm của ngưởi Chăm cũng rất phong phú, thể hiện một số ngành
nghề tiêu biểu, trong đó có nghề nông và nghề đi biển. Theo thống kê của nhà
nghiên cứu Sakaya, có đến 40 loại hoa văn khác nhau. Chủ đề chính của hoa văn
là mô tả những sự vật quen thuộc trong đời sống. Những hoa văn thực vật thường
thấy là hoa quả trám (Bingu tamu), hoa văn hạt lúa nổ (Bingu kamang), hoa văn
hạt đậu (binga rabai), dây mướp (bingu bizin), hoa bốn cánh (Bingu titeh), hoa
cà dược (Bingu tăm un), dây leo (Bingu harek), hoa văn hình lá bồ đề (Bingu
bauh bhơp), hình bông mai (Binigu cuah) v.v. trong những loại hoa văn này thì
hoa văn hạt lúa nổ được người Chăm coi trọng nhất. Cũng giống như một số dân
tộc ở Đông Nam Á, người Chăm đã sớm biết trồng lúa nước, nhất là vùng miền
Trung (Vijaya) và miền Nam (Panduranga) vương quốc Chămpa xưa. Trong các nghi
lễ, người Chăm cũng thường cúng hạt lúa nổ cho ông bà, tổ tiên và thần linh. Do
đó, vải có dệt hoa văn hạt lúa nổ dùng để may thành váy gọi là váy thần, váy
của vua chúa. Ngoài ra, người Chăm xưa cũng rất thạo nghề đi biển, nhưng đến
nay nghề này đã không còn nữa, chúng ta chỉ còn thấy những dấu ấn để lại thông
qua các phẩm vật cúng cho thần linh như: cá khô, vỏ sò, tục múa chèo thuyền
trong các lễ hội, tục thờ thần biển (Yang tasik), thần sóng biển (Po riyak), thần
chèo thuyền (Po tang ahuak), và dấu ấn trên vải còn lưu lại là hoa văn hình neo
thuyền (Bingu gar wak), hình mắt lưới (Bingu jial).
Hoa
văn thổ cẩm Chăm rất phong phú và đa dạng. Ngoài những hoa văn đã thất truyền
(Chỉ được biết qua hình ảnh được chụp từ đầu thế kỷ XX, nay còn được lưu giữ ở
bảo tàng bên Pháp) nghệ nhân Thuận Thị Trụ (Mỹ Nghiệp) đã sưu tầm 30 hoa
văn nền, từ đó chị đã cách điệu ra 50 hoa văn khác rất có giá trị trong việc
trang trí cho thổ cẩm Chăm ngày nay.
Mặc
dù đã có nhiều nỗ lực phục chế các hoa văn cổ của các cá nhân hay qua các dự án
tổ chức khôi phục hoa văn truyền thống, tạo tác ra nhiều hoa văn mới và kỹ
thuật phối màu, kỹ thuật dệt được nâng cao đáng kể nhưng vẫn diễn ra tình trạng
bắt chước mẫu mã của nhau hay sản xuất hàng chạy theo lợi nhuận kinh tế, tạo
một môi trường kinh doanh không lành mạnh, làm mất lòng tin của nhiều khách
hàng đối với thổ cẩm Chăm.
Nhiều
sản phẩm bị lai căng, do ảnh hưởng từ các mặt hàng của dân tộc khác trên thị
trường mà người sản xuất không có sự chọn lọc thích hợp trong việc sáng tạo,
tìm mẫu mã mới cho sản phẩm hay do vấn đề chạy theo lợi nhuận kinh tế mà không
quan tâm đến chất lượng dẫn đến sản phẩm kém chất lượng. Những sản phẩm thổ cẩm
này không còn giữ được đặc trưng, không còn những hoa văn truyền thống của dân
tộc Chăm, những sản phẩm này chỉ mang tính nhất thời, chạy theo lợi nhuận kinh
tế, tính bền vững không có, đôi khi lại gây ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dung,
khách tham quan du lịch tại làng nghề.
Nguyên liệu sản xuất
Xưa kia, người dân Mỹ Nghiệp tự trồng
bông và nuôi tằm tự túc nguyên liệu sản xuất, sản phẩm cung cấp cho
cộng đồng người Chăm và các cư dân vùng Tây Nguyên như Raglai, Churu, Êđê. Kỹ thuật
lấy sợi và mắc thành cuộn dọc (Muh papan) theo các quy trình khá phức tạp và công
phu sau (thể hiện qua vật liệu).
Giá
tách hạt (Wak ywok kapak).
Cung
bật bông (Ganukpataik).
Xa
quấn tơ (wak mưk kabwak).
Xa
bắt chỉ (Chia liwei).
Xa
đánh ống (Chia trauw).
Giá
mắc sợi (Haniel linguh).
Khung
xỏ go (Danauk ppacakauw).
Trước đây, đặc biệt là khoảng
thời gian từ năm 1945 trở về trước, sợi chế biến từ bông vải được xem là nguồn
nguyên liệu chính của nghề dệt truyền thống này. Chính vì vậy, cho đến nay, mặc
dù việc trồng bông và chế biến bông thành sợi làm nguyên liệu cho nghề dệt truyền
thống, hầu như không còn tồn tại, nhưng các công việc này vẫn được nhiều người
biết đến, kể cả một số công cụ chế biến bông thô thành sợi.
Ở
hai palei: paleir Yali-u và paleir Yali-pi-ngu (xã Phước Nam, huyện Ninh Phước)
được xem là những nơi có diện tích trồng bông nhiều và lâu năm nhất, sau đó
phát triển ở một số vùng lân cận như: palei Răm (thôn Văn Lâm), palei Thôn
(thôn Hậu Sanh), palei Palaw (thôn Hiếu Thiện)... ngay cả palei Mỹ Nghiệp
(palei Chăkling) từng được xem là trung tâm của nghề dệt truyền thống người
Chăm, nhưng việc trồng bông phát triển muộn hơn với diện tích không đáng kể so
với hai palei trên.
Theo
tập quán truyền thống của người Chăm, việc trồng bông được tiến hành vào tháng
4 dương lịch. Bông được trồng trên đất rẫy, hoặc những khu đất rộng quanh nhà,
đặc biệt là những vùng đất hoang sẽ cho năng suất cao hơn. Họ dùng cuốc ở những
nơi có độ dốc cao, hoặc dùng cày ở những nơi đất bằng, dùng cuốc hoặc cày vỡ
lớp đất mặt sâu chừng 30cm, rồi bang đất, làm luống và tỉa hạt. Việc chăm sóc
cây bông được tính vào ngày thứ ba sau khi trồng, nghĩa là từ sau khi hạt nảy
mầm cho đến khi thu hoạch, được thực hiện qua các khâu: canh giữ những loài côn
trùng, chim v.v. ăn phá các mầm cây, tỉa cây con, làm cỏ, vun gốc, bón phân
v.v.
Khoảng
thời gian từ 6 đến 8 tháng, bông bắt đầu chín, họ hái đem về rút múi, phơi vài
ba ngày nắng cho bông thật khô, có màu trắng óng ánh rồi đem thực hiện các công
đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, ngày nay do nhiều
nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất, sự xâm nhập của vải sợi công nghiệp vào thị trường
Việt Nam ngày càng nhiều, với giá thành rất rẻ, dễ sử dụng, màu sắc phong phú
đa dạng giúp người thợ có nhiều sự lựa chọn trong việc lên màu các hoa văn họa
tiết cho các sản phẩm; Thứ hai, nguồn nguyên liệu cây bông và phẩm màu để chế
biến sợi vải ngày càng thất truyền và cạn kiệt; Thứ ba, công sức để chế biến
quá tốn kém, trải qua nhiều thời gian và công đoạn phức tạp; Thứ tư: trong quá
trình chế biến sợi làm nảy sinh các bệnh về chân tay, da liễu, môi trường sinh
sống của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng nên gây khó khăn, sự e dè cùa
người dân v.v., chính những điều đó đã làm cho sợi vải truyền thống không tồn
tại như ngày hôm nay. Nói cách khác, ngày nay các thợ dệt trong palei Mỹ Nghiệp
gần như chỉ sử dụng sợi công nghiệp để làm nguyên liệu trong nghề dệt truyền
thống của mình. Và như vậy, trên thực tế sợi công nghiệp chiếm vai trò chủ đạo
trong việc cung cấp nguyên liệu cho nghề dệt ở đây. Bây
giờ thì nghề trồng bông, nuôi tằm đã mất, nguyên liệu dệt vải được
thay thế bằng sợi chỉ công nghiệp. Nhưng cách dệt và tạo hoa văn trên vải
vẫn bảo lưu gần như nguyên vẹn các công đoạn
thời cha ông, giữ được bản sắc Chăm và chính điều này đã cuốn hút khách du
lịch.
Môi trường làng nghề
Một
điểm đáng chú ý, là môi trường sống của người dân trong làng nghề dệt thổ cẩm
Mỹ nghiệp đã được cải thiện rất nhiều so với thời gian trước đây. Khi mà việc
sản xuất sợi bông theo kiểu truyền thống luôn kèm theo những vấn đề về sức
khỏe, môi trường, y tế với những bệnh về da liễu đã được thay thế bằng sợi vải
công nghiệp được nhập về chủ yếu từ thị trường Tp.Hồ Chí Minh. Việc chuyển đổi
này xét trên khía cạnh nào đó, cũng đã giúp cho chính quyền địa phương giải
quyết được một số vấn đề cốt lõi về an sinh xã hội khi mà công tác bảo vệ môi
trường chưa đi song hành và có những chiến lược cụ thể với các công đoạn sản
xuất truyền thống của làng nghề.
Tuy
vậy, hiện nay tại các cơ sở kinh doanh có quy mô lớn, chủ yếu sử dụng máy dệt công
nghiệp vấn đề về môi trường phát sinh nhiều yếu tố phức tạp. Không gian sản
xuất tại các cơ sở này rất ngột ngạt, nóng bức và chật hẹp vì tận dụng các gian
nhà cấp 4, các máy dệt được đặt sát vào nhau và chỉ chừa những lối đi rất nhỏ.
Vệ sinh tại những nơi làm việc này không đảm bảo, do ảnh hưởng từ dầu mỡ của
máy móc, khói bụi, không có máy lọc không khí v.v. Đặc biệt là tiếng ồn do máy
dệt dập liên tục tạo cảm giác rất khó chịu, mệt mỏi, căng thẳng cho người lao
động. Những thiết bị bảo hộ lao động không được các cơ sở sản xuất quan tâm.
Qua thời gian, sức khỏe của người lao động tại các cơ sở này bị ảnh hưởng rất
nhiều, đặc biệt là vấn đề về thính giác, hô hấp.
Môi
trường sống tại làng nghề vẫn còn một số bất cập như: tình trạng chăn thả gia
sóc tự do vẫn còn, rác thải sinh hoạt vẫn còn nhiều chưa xử lý khoa học, ý thức
tự giác bảo vệ môi trường của thanh thiếu niên trẻ tuổi vẫn còn kém, hệ thống
cóng thoát nước chưa được hoàn thiện
v.v., những yếu tố này cũng tác động đến mặt bằng chung của làng nghề.
2.2.4. Truyền dạy nghề
truyền thống
Ngày
nay, bên cạnh kỹ thuật dệt công nghiệp, người Chăm vẫn còn giữ nguyên kỹ thuật
dệt truyền thống của mình. Điều này nói lên rằng, sở dĩ nghề dệt truyền thống
vẫn được duy trì là nhờ vào ý thức bảo tồn của người dân, của chính những người
phụ nữ Chăm vốn cần cù, chịu khó và sáng tạo. Tuy nhiên, do sự thu hút của nền kinh tế thị trường,
nên khung dệt ở đây đã được cải tiến nhiều so với khung dệt truyền thống. Với
loại khung dệt này, năng suất lao động tăng hơn nhưng khung dệt quá nặng nề so
với sức lực người phụ nữ. Sản phẩm làm ra không còn những đặc trưng của sản
phẩm truyền thống, nhất là không tạo nên được hoa văn độc đáo vốn là thế mạnh
của thổ cẩm. Mà hoa văn là linh hồn của thổ cẩm Chăm. Như vậy sản phẩm bán ra
cũng khó, vì du khách vẫn muốn mua được những tấm vải thổ cẩm dệt bằng khung
dệt truyền thống.
Khi nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo tồn các nghề thủ
công truyền thống của các tộc người thiểu số, thì lúc đó những nghề này đã lụi
tàn. Khi đó dù có nhiều tiền cũng không thể có được một làng nghề truyền
thống. Di sản văn hóa muốn bảo vệ lâu dài cần được nhận diện, giới thiệu phổ
biến rộng rãi cho công chúng và cho thế hệ trẻ, cho du khách biết để họ được
tiếp cận. Di sản văn hóa chỉ được bảo vệ và giới thiệu tốt nhất khi chủ thể của
các truyền thống văn hóa đó nhận thức sâu sắc và có năng lực triển khai các
hoạt động trong thực tế.
Nắm bắt được những yêu cầu đó, mà trong những năm vừa qua, làng nghề dệt
thổ cẩm Mỹ Nghiệp cũng đã tổ chức nhiều lớp truyền dạy nghề truyền thống. Nhưng
hiệu quả thực tế vẫn là một dấu hỏi lớn, từ việc số lượng học viên giữ nghề và
theo nghề sau lớp học; hay có một thực tế là đa số học viên đều chọn làm việc
tại các cơ sở sản xuất máy dệt công nghiệp do thu nhập được đảm bảo, ổn định
hơn so với việc sản xuất truyền thống quá tốn nhiều thời gian, công sức nhưng
thu nhập không nhiều.
Từ năm 2011 đến nay, được sự
hỗ trợ từ Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến thương mại tỉnh, Hợp tác xã Mỹ
Nghiệp đã tổ chức được 3 lớp dạy nghề truyền thống tại Nhà trưng bày làng nghề (trong đó có 01 lớp Nâng cao tay nghề),
mỗi lớp 30 học viên, tổng cộng đã có 90 học viên tham gia các lớp. Sau khi
kết thúc phần lý thuyết, các học viên được các giáo viên là nghệ nhân, thợ giỏi
tiếp tục giảng dạy phần thực hành theo chương trình, giáo trình (tài liệu) giảng
dạy đã được biên soạn.
Qua kết quả kiểm tra của Trung tâm về số
lao động nông thôn sau khi qua đào tạo nghề chiếm tỉ lệ trên 75% số lượng học
viên sau đào tạo nghề có việc làm ổn định tại các cơ sở sản xuất trong làng
nghề hoặc cơ sở gia đình với thu nhập bình quân từ 1 triệu -1,5 triệu
đồng/người/tháng.
Bảng
2.3: Nội dung Lớp học nâng cao tay nghề Dệt thổ cẩm
(Thời
gian từ 17/12/2012 đến 08/3/2013)
TT
|
NỘI DUNG
|
THỜI GIAN
MÔN HỌC
|
||
Tổng số
|
Thực hành
|
Lý thuyết
|
||
Phần I: Lý thuyết
|
40
|
0
|
40
|
|
Bài 1
|
Đặc điểm giá trị đặc sắc của sản phẩm dệt
truyền thống
|
3
|
0
|
3
|
Bài 2
|
Bảo tồn và phát triển làng nghề dệt thổ cẩm
|
13
|
0
|
13
|
Bài 3
|
Cải tiến thiết kế mẫu mã và phát triển sản
phẩm
|
16
|
0
|
16
|
Bài 4
|
Giới thiệu quảng bá và thông tin tuyên
truyền về văn hóa
|
8
|
0
|
8
|
Phần
II: Thực hành
|
328
|
328
|
0
|
|
I
|
Kỹ
thuật dệt một số kiểu hoa văn trên khung ngắn
|
120
|
120
|
0
|
Bài 1
|
Hoa văn Tubích (Tumang)
|
30
|
30
|
0
|
Bài 2
|
Hoa văn Tumự
|
30
|
30
|
0
|
Bài 3
|
Hoa Văn Bông Rùa
|
30
|
30
|
0
|
Bài 4
|
Hoa Văn Ra Cổ 7 Banh
|
30
|
30
|
0
|
II
|
Kỹ
thuật dệt một số kiểu hoa văn trên khung dài
|
160
|
160
|
0
|
Bài 1
|
Hoa văn Kraimự 9 go
|
40
|
40
|
0
|
Bài 2
|
Hoa văn TộpGrai
|
40
|
40
|
0
|
Bài 3
|
Hoa văn Lăng 18 go
|
40
|
40
|
0
|
Bài 4
|
Hoa văn Shiva
|
40
|
40
|
0
|
III
|
Cải tiến mẫu mã từ sản phẩm thổ cẩm
|
48
|
48
|
0
|
Bài 1
|
Sản phẩm thổ cẩm dùng trong lễ hội (Trang
phục, Dạ hội...)
|
24
|
24
|
0
|
Bài 2
|
Sản phẩm thổ cẩm dùng cho khách du lịch
(Túi xách, ví, balô)
|
24
|
24
|
0
|
Phần
3: Ôn tập, thi kiểm tra và kết thúc cuối khóa
|
16
|
16
|
0
|
|
1
|
Ôn tập
|
8
|
8
|
0
|
2
|
Kiểm tra
|
8
|
8
|
0
|
Nguồn: Trung tâm Khuyến Công và Xúc tiến
thương mại tỉnh Ninh Thuận
Những
thuận lợi và khó khăn trong việc tổ chức mở các lớp dạy nghề truyền thống trong
thời gian vừa qua:
Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ kinh
phí và hướng dẫn của Sở LĐTB-XH, Trung tâm phối hợp, thực hiện tốt với các cơ
sở tại làng nghề, tập hợp chứng từ, hồ sơ để thanh quyết toán đúng theo quy
định.
Phòng Lao Động Thương Binh-Xã Hội huyện
Ninh Phước, UBND thị trấn Phước Dân, Ban quản lý làng nghề, khu phố và các cơ
sở sản xuất kinh doanh tại làng nghề rất quan tâm công tác đào tạo nghề; trong
quá trình tổ chức đào tạo luôn bám sát, chủ động kịp thời đối với học viên có
hòan cảnh khó khăn cố gắng khắc phục để tiếp tục theo học đến cuối khóa.
Mục tiêu và xây dựng đề án phù hợp đối
tượng học nghề ở vùng nông thôn được chính quyền địa phương, Ban quản lý làng
nghề và người dân đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản
xuất tại các làng nghề tiếp cận lao động dễ dàng và đảm bảo cho công việc hoạt
động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả.
Khó khăn:
Đối tượng đào tạo nghề là lao động nông thôn, dân tộc Chăm,
hoàn cảnh khó khăn, việc tham gia học nghề của học viên có ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày của gia đình. Nên việc tham gia không đầy đủ số buổi học.
Theo quy định của Tổng cục Dạy nghề và yêu cầu của Sở Lao Động
Thương Binh – Xã Hội, giáo viên tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn, chịu
trách nhiệm biên soạn giáo án, nhưng đối với các giáo viên tại làng nghề là
những nghệ nhân, thợ giỏi không qua trường lớp đào tạo kỹ năng sư phạm và chữ
viết không thành thạo, nên việc biên soạn giáo án là vấn đề rất khó khăn, không
thực hiện được.
Về công tác tuyên truyền đào tạo nghề cho lao động nông thôn
còn hạn chế chưa sâu, rộng, khắp cần tăng cường hơn dưới nhiều hình thức, người
dân chưa nhận thức ý nghĩa việc hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
2.2.5. Xây dưng thương hiệu và quảng
bá sản phẩm làng nghề
Việc thúc đẩy hoạt động sở hữu trí tuệ, đặc
biệt là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã
chỉ đạo: Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về SHTT
nhằm nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất - kinh doanh
và làng nghề. Tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề quảng bá sản phẩm,
đăng ký thương hiệu của mình ở thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt
là các sản phẩm làng nghề trong tỉnh. Hỗ trợ doanh nghiệp về xác lập
quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung nằm trong Chương trình hỗ trợ
doanh nghiệp về khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2015, đã được Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân tỉnh ký quyết định ban hành số 1323/QĐ-UBND, ngày 15/6/2011. Ngày 02/4/2013,
HTX dịch vụ-sản xuất-kinh doanh dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp tổ chức Lễ
công bố và đón nhận văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Dệt thổ cẩm Chăm Mỹ
Nghiệp” do Cục Sở hữu trí tuệ cấp, đây là một vinh dự và tự hào vì làng nghề
dệt đã từng bước khẳng định uy tín của mình trong nền kinh tế thị trường. Việc
nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ hay xác định một chiến lược
tốt để phát triển thương hiệu chính là bảo vệ thương hiệu về mặt kinh tế và
quản lý. Vì vậy, HTX dịch vụ-sản xuất-kinh doanh dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp cần
bảo vệ nhãn hiệu tập thể có hiệu quả tạo lợi ích kinh tế cho tất cả các xã viên
tham gia quy trình sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm dệt mang nhãn hiệu
tập thể “Mỹ Nghiệp”. Ðặc biệt, việc bảo hộ nhãn hiệu tập thể có vai trò và ý
nghĩa quan trọng đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ các làng nghề thủ công,
đồng thời tạo công cụ pháp lý để các hộ sản xuất, kinh doanh chống lại các hành
vi giả mạo nhãn hiệu tập thể. Tuy nhiên, để có được điều đó đòi hỏi HTX và các
xã viên phải bảo đảm quy trình sản xuất, kinh doanh sản phẩm đồng nhất theo quy
chế sử dụng chung để có thể đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng ổn
định, có nguồn gốc rõ ràng, đồng thời tạo uy tín lâu dài cho sản phẩm của tập
thể làng nghề Mỹ Nghiệp.
Áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ
thông tin vào việc quảng bá giới thiệu về văn hóa Chăm, giới thiệu sản phẩm các
làng nghề cũng đã được thực hiện, trang thông tin điện tử www.langnghecham.com, được đầu tư với
chi phí lên đến 53,5 triệu đồng. Tuy vậy, phần nội dung của website thiếu tính
cập nhật, và bài viết.
Việc tham gia các hội chợ triển lãm,
quảng bá du lịch trong và ngoài nước cũng được Trung tâm xúc tiến thương mại hỗ
trợ chi phí lên đến hàng trăm triệu đồng.
Tiểu kết
Cái
khó nhất hiện nay của làng nghề Mỹ Nghiệp là thiếu sự thống nhất quản lý của
các cấp chính quyền ở địa phương, các cơ quan ban ngành có liên quan và đặc
biệt là thiếu sự đồng lòng thống nhất của chính các cơ sở dệt ở palei Mỹ
nghiệp. Hiện nay ở Ninh Thuận, Ban quản lý các cụm công nghiệp và làng nghề, Sở
khoa học công nghệ, Sở công thương, Sở Văn hóa thể thao và du lịch v.v., cũng
rất quan tâm đầu tư, nhằm xây dựng thương hiệu, phát triển làng nghề. Vì vậy,
quy mô sản xuất nhỏ lẻ vẫn cứ thế tồn tại, tình trạng cạnh tranh thiếu lành
mạnh giữa các cơ sở ngày một gia tăng. Việc thiếu sự thống nhất quản lý cũng là
nguyên nhân làm thiếu sự thống nhất trong việc sử dụng chất liệu truyền thống,
kiểu dệt thủ công truyền thống và hoa văn truyền thống để sản xuất ra những
những sản phẩm truyền thống có giá trị cơ bản nhất để nghề dệt thủ công truyền
thống tồn tại. Nghề dệt truyền thống ở làng Mỹ Nghiệp ngày nay vẫn đang nằm trong
vòng lẩng quẩn.
Chính quyền địa phương và các ngành chức năng góp sức mình
tìm đầu ra cho sản phẩm làng nghề để người dân có thể sống bằng nghề truyền
thống của họ chính là điều kiện để họ giữ lại nghề truyền thống lâu đời của dân
tộc mình. Mục tiêu đặt ra là muốn giữ được ngành nghề thủ công truyền thống đó,
thì phải tìm được thị trường đầu ra cho sản phẩm để các nghệ nhân có thể bán
sản phẩm ấy và nuôi sống mình được. Có thể bằng những tour du lịch, có thể tạo
ra những thị trường để kết nối giới thiệu sản phẩm cho người ta biết, người ta
mới đến đặt vấn đề mua. Để giữ di sản văn hóa, cái chính là phải phục vụ được
cộng đồng ấy. Khi nào xây dựng được một cơ chế, một thị trường để cho các cộng
đồng chủ thể văn hóa thấy có lợi, quan tâm thì họ sẽ tự nguyện tham gia bảo vệ,
duy trì.
Ngày
nay, toàn cầu hóa đã và đang trở thành một xu thế khách quan, tất yếu của thời
đại, tác động mạnh mẽ lên mọi mặt đời sống của xã hội, của tất cả các quốc gia,
dân tộc. Về văn hóa, toàn cầu hóa đã mở ra khả năng to lớn để giao lưu trong
mọi lĩnh vực, tạo động lực trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa đất nước,
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Thị trường toàn cầu
hóa đối với sản phẩm mang đặc điểm văn hóa cũng trở nên tập trung hơn, loại bỏ
dần những ngành công nghiệp nhỏ và mang tính địa phương. Sự tác động của văn
hóa tiêu dùng đang có nguy cơ đồng nhất về văn hóa, về lối sống, thoái quen và
các hình thức giải trí khác. Vì vậy, bảo tồn và phát huy nghề dệt truyền thống
theo nguyên bản là rất khó. Bảo tồn trong phát triển đòi hỏi phải có những
thích ứng mới trong cơ chế thị trường, cần phải tạo ra những gì để nó tồn tại.
Đó là cả một quá trình liên quan đến giáo dục, ý thức cộng đồng, sự quan tâm
của các cơ quan ban ngành và cả cơ chế quản lý của nhà nước. Để có thể giải
quyết tốt các vấn đề này, giúp cho làng nghề truyền thống phát triển theo hướng
bền vững vì chúng ta cần nắm rõ quy trình và thực trạng hoạt động của làng
nghề.