Ponukan
Giới
thiệu chung: Làng Bầu Trúc là một trong hai làng gốm cổ xưa nhất ở Đông Nam Á.
Đây là một làng nhỏ có hơn 400 hộ. Báo Ninh Thuận đã từng viết về Bầu Trúc: “nằm
ngay ở trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa huyện Ninh Phước, nhưng ít ai ngờ
rằng, Bầu Trúc lại nghèo đến thế, cả làng có đến 50% số hộ nghèo”. Gốm Bầu Trúc
cũng không vượt lên được trong nền kinh tế thị trường. Bầu Trúc trong tình trạng
giống như Phù Lãng là hoạt động cầm chừng, nhiều người phải bỏ nghề. Và đương
nhiên, khi lâm vào tình trạng mất nghề thì cái nghèo, cái đói là điều không
tránh khỏi.
Nguyên
nhân tàn lụi của các làng gốm thì đã rõ, đó là trong thời đại ngày nay các kỹ
thuật tiên tiến đã tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp thích ứng với cuộc sống mới.
Sự cạnh tranh của hàng công nghiệp sản xuất dây chuyền có kỹ thuật tiên tiến, mẫu
mã đẹp và luôn thay đổi, giá thành lại rẻ, đã đẩy các làng nghề đến nguy cơ thất
nghiệp. Một nguyên nhân khác khiến các lò gốm nghèo ngày càng xơ xác, đó là chi
phí sản xuất tăng, tiền đầu tư lớn mà giá thành phẩm rẻ. Một thợ gốm Bầu Trúc
cho biết: nếu như năm 1986, một xe đất sét ở Bầu Trúc là 10.000 đồng, một xe bò
củi là 50.000 đồng, thuê người phụ việc 3000 đồng/công thì bây giờ, một xe đất
lên đến 40.000 đồng, một xe bò củi 150.000 đồng, thuê nhân công 14-15.000 đồng.
Trong khi đó, một cái lu năm 1986 bán được 7.000 đồng (tương đương 7kg gạo) thì
bây giờ cũng chỉ bán được 10.000 đồng, quy ra gạo chưa đầy 3 kg. Tiền đầu tư
cho một lò gốm chừng 7-8 triệu đồng, nếu thuận lợi, mỗi lò cũng chỉ lãi được chừng
1-1,5 triệu đồng (mà phải mất mấy tháng), nếu gặp rủi ro lò vỡ, gốm hỏng thì chỉ
còn nước bỏ nghề.
Xin
nhắc lại lời tiến sỹ Nguyễn Văn Huy trong buổi khai mạc triển lãm: “Các sản phẩm
đất nung hay sành của những người thợ gốm từ lâu đã trở thành những thành yếu tố
quan trọng trong văn hóa vật chất và tâm linh ở nhiều vùng của đất nước. Những
kinh nghiệm về nghề gốm truyền thống với việc lựa chọn nguyên liệu, tạo dáng, tạo
màu sắc sản phẩm hay nung gốm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là những
di sản văn hóa vô cùng quý báu của dân tộc…”.
Vâng,
như vậy, việc các làng gốm cổ mất đi không chỉ là nỗi đau, nỗi lo lắng của
riêng người thợ gốm, mà còn là nỗi đau chung của tất cả chúng ta về những di sản
văn hóa bị mai một. Chúng ta không nên hô hào suông là phải bảo tồn này nọ, bởi
vì với người thợ thủ công ít vốn, thiếu tri thức đổi mới công nghệ và kỹ thuật
thì làm sao đủ sức bảo tồn. Nhà nước phải có chính sách ưu đãi vay vốn, đầu tư
để giúp người thợ gốm đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, tìm kiếm thị trường
cho sản phẩm truyền thống này sống mãi, để người thợ gốm có thể làm giàu được bằng
nghề của mình.
Truyền thuyết: Theo truyền
thuyết, ông tổ nghề gốm Bầu Trúc là Po Klaung Chan, người bạn chí cốt của Vua
Po Klaung Garai từ thời niên thiếu. Po Klaung Garai lúc sinh thời mình đầy ghẻ
lác, đi ở đợ chăn trâu. Một hôm đàn trâu bị lạc, Po Klaung Garai đi tìm thì gặp
Po Klaung Chan, hai người kết thân với nhau. Lúc bấy giờ, Po Klaung Garai quyết
định bỏ đàn trâu, trốn chủ và cả hai rủ nhau đi buôn trầu. Trên đường đi, khi đến
hòn đá chẻ thuộc làng Chung Mỹ ngày nay, Po Klaung Garai cảm thấy đau nhức toàn
thân, không thể đi tiếp. Po Klaung Chan thương bạn nhưng không biết phải làm
gì, đành bỏ bạn ở lại rồi chạy về nhà báo tin cho cha mẹ bạn biết. Đến chiều tối,
khi Po Klaung Chan cùng gia đình Po Klaung Garai trở lại thì thấy một con rồng
đang liếm toàn thân Po Klaung Garai. Và mầu nhiệm thay, ghẻ lác trên người Po
Klaung Garai biến mất, ông trở thành một thanh niên khôi ngô, tuấn tú... Khi trở
thành vua xứ Pandarang, nhớ đến tình bạn cao đẹp ngày xưa, Po Klaung Garai mời
Po Klaung Chan về triều phong chức tước, nhưng Po Klaung Chan từ chối. Ông trở
về quê, tập họp dân làng dạy nghề gốm. Nhớ công ơn to lớn của bậc tiền hiền,
dân làng lập đền thờ Po Klaung Chan ngay tại làng cũ Hamu Crok, tôn vinh ông là
Thần làng và tổ sư nghề gốm. Từ bao đời nay, hằng năm người Chăm Bầu Trúc đều tổ
chức 4 lễ cúng tế trang trọng thần Po Klaung Chan vào 4 thời điểm khác nhau.
Dị bản: Chuyện xưa kể
rằng, cách nay gần một thiên niên kỷ, trên vùng đất đầy nắng và gió cát có một
cậu bé mục đồng nghèo khó tên là Po Klaung Garai ngày ngày đi chăn trâu thuê
cho chủ. Nghèo khó khiến cho cậu mình mẩy đầy ghẻ lác, phong hủi, da dẻ xù xì,
xấu xí. Ngày nọ, một con trâu trong đàn bị lạc. Cậu hơ hải đi tìm. Trên đường,
cậu gặp Po Klaung Chan, hai người kết nghĩa bạn bè. Tìm trâu không thấy, họ quyết
định cùng trốn đi buôn trâu. Đến vùng Bầu Trúc (Palei Hamu Crauk - nay là thị
trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận) - vùng đất như chiếc lòng chảo nằm giữa
núi và biển thì Po Klaung Garai quỵ ngã. Po Klaung Chan hối hả đặt bạn nằm nghỉ,
còn mình đi tìm người cứu. Đoàn người cùng Po Klaung Chan quay lại thì thấy một
cảnh tượng vô cùng kỳ lạ: Một con rồng đang liếm trên thân thể Po Klaung Garai.
Rồng liếm đến đâu, ghẻ lác biến mất. Po Klaung Garai trở thành chàng trai tuấn
tú, tinh anh khác người. Po Klaung Garai lên làm vua, mời Po Klaung Chan làm cận
thần, nhưng Po Klaung Chan từ chối. Ông ở lại vùng đất có phù sa bồi tụ tạo nên
hầm vàng (mỏ đất sét), hầm bạc (dải cát ven sông vào mùa nước cạn dòng, cát trắng
mịn màng). Ông dạy người dân lấy những báu vật của thiên nhiên là đất sét và
cát làm thành lu, khạp, chõ, nồi, niêu, trã... Dân làng Bầu Trúc tôn ông là sư
tổ của nghề gốm và lập đền thờ cho đến ngày nay. Hàng năm, dân làng dâng vật
cúng cầu xin tổ nghiệp ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, ngành nghề
phát đạt, nhân khang vật thịnh.
Vị trí: Nằm ven quốc
lộ 1A, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước (tỉnh Ninh Thuận), nằm cách
thị xã Phan Rang -Tháp Chàm 10km về hướng Nam, làng gốm Bầu Trúc được thị trường
biết đến bởi những nét độc đáo cổ truyền, nghệ thuật chế tác gốm đặc trưng của
đồng bào Chăm Ninh Thuận.
Vật liệu: Làng gốm Bầu
Trúc nằm trong vùng lòng chảo được bao quanh bởi những dãy núi nên mùa mưa thường
gây ra lũ lụt và phù sa bồi tụ lâu năm tạo thành các lớp đất sâu ở triền sông
Quao. Chính nơi đây đã hình thành các mỏ đất sét mịn màng, có độ dẻo cao. Bên
dưới lòng sông Quao lại có những dải cát trắng hạt nhỏ - những nguyên liệu cần
thiết để tạo thành gốm Bầu Trúc mà không nơi nào có được. Loại đất sét này khi
nung rất dẻo và bền.
Muốn
có đất làm, họ phải khai thác ở cánh đồng đất sét, đây là khu ruộng gò có diện
tích khoảng 20 ha nằm ngay triền sông, cách làng khoảng 4 km. Vào mùa khô, bề mặt
ruộng nứt nẻ như lưới nhện. Sau khi cào đi phần đất mặt thường pha lẫn rễ lúa,
cỏ dại, sẽ lấy phần thứ hai (độ dày từ 20 - 40 cm) là phần tinh của đất sét. Phần
sâu hơn, đất dính bùn non, cũng không làm gốm được. Đất chuyển về tiếp tục được
phơi nắng để thật khô (3, 4 ngày) đem xếp cất để sử dụng dần. Cùng với việc chọn
đất và chọn cát. Cát lấy từ triền sông (thường là sau mùa lũ) hạt cát nhỏ, mịn,
đều nhau, màu vàng nhạt, không pha tạp chất.
Kỹ thuật chế tác:
Ngày nay, những làng nghề gốm khác đã đổi sang dùng bàn xoay như một công cụ
làm gốm thiết yếu, thì trái lại, các nghệ nhân Chăm vẫn dựa vào đôi bàn tay đôi
tay khéo léo để tạo nên một sản phẩm gốm. Người nghệ nhân dùng một cái đe
(không phải vòng xoay), đi vòng quanh, đồng
thời sử dụng bàn dập vỗ cho thành gốm thêm chắc... Sự lao động vất vả, cho năng
suất thấp nhưng lại vô tình tạo được tính tạo hình đẹp khiến sản phẩm gốm đạt đến
tính độc đáo: Không một sản phẩm nào giống hệt một sản phẩm nào. Bằng kỹ thuật
thủ công hoàn toàn, gốm Bầu Trúc được ngợi ca như một sản phẩm ''ấm bàn tay con
người nhất''.
Nếu
như gốm Phù Lãng và Mường Chanh sử dụng đất sét là nguyên liệu chủ yếu thì ở gốm
Bầu Trúc, sét lại được pha với cát. Cát làm cho thân gốm Bầu Trúc không được mịn
màng, tăng trọng lượng song lại cũng chính nhờ cát mà xương gốm trở nên bền chắc
hơn và độ chịu nhiệt cao. Cũng vì tính dẫn nhiệt cao này mà nhà sưu tầm văn hoá
dân gian Phan Ngọc Khuê đã dùng chữ: ''đất thở được'' như một lời dành tặng
riêng cho sản phẩm gốm sét pha cát Bầu Trúc.
Lượng
cát được trộn vào vật liệu còn phụ thuộc vào công dụng và kích thước của từng
loại gốm. Lu đựng nước được làm ở Bầu Trúc luôn được người dân ở những vùng khô
và nắng ưa chuộng bởi vì nhiệt độ của nước trong lu luôn luôn thấp hơn so với
bên ngoài nên nước bao giờ cũng mát hơn.
Đặc điểm trang trí:
Các hoa văn trang trí trên gốm Bầu Trúc là những đường khắc vạch hình sông nước,
chấm vỏ sò và hoa văn thực vật; có cả hoa văn móng tay trên vai cổ gốm rất mộc
mạc, gần gũi, nhẹ nhàng.
Phân loại gốm: Theo kiểu
dáng và chức năng sử dụng có thể chia gốm Bầu Trúc thành 4 loại:
1.
Loại nồi lớn: loại này có kích thước lớn dùng để nấu ăn cho nhiều người, đáy
tròn, miệng hẹp khum thấp, thân tròn và phình rộng.
2.
Loại nồi niêu nhỏ, trã: dùng nấu nướng hàng ngày, miệng rộng loe hoặc hơi loe,
cổ ngắn, thân hơi phình rộng ở giữa và đáy tròn.
3.
Loại lu, thạp, khương: thường là các đồ đựng có kích thước lớn, đáy hơi tròn,
miệng đứng hoặc khum, cổ đứng vai xuôi và thân tròn.
4.
Loại nồi thấp (chõ), ấm nấu nước, lò (than, củi): loại này có quai, chân đế, miệng
khum rộng đáy hơi bằng.
Các công đoạn làm gốm:
Khi
bắt đầu chuẩn bị làm gốm, người ta sẽ ước tính lượng đất đủ để làm trong ngày
và đem ngâm đất đã phơi vào hố đất đào sẵn. (Theo kinh nghiệm dân gian, đất
ngâm bằng đồ nhựa, nhôm không dẻo được như ý muốn). Đất ngâm qua 12 tiếng sẽ vớt
ra để trộn với cát (tỉ lệ 2 thúng đất, 1 thúng cát). Lúc này, người phụ nữ dùng
chân đạp, phải mất cả giờ đồng hồ đất và cát mới trộn nhuyễn vào nhau. Tiếp đó,
họ phải quây lại, ủ thêm một giờ nữa mới đem nhào lại bằng tay.
Để
tạo độ bóng, họ lại dùng vòng quơ (khúc mây cuốn tròn, đường kính 20 cm) chà
quanh sản phẩm. Cuối cùng là nhúng vải trong nước miết đi dấu tích của vân tay
và vòng quơ, tạo nên lớp nhũ bóng của đất sét phủ ngoài sản phẩm. Đây là kỹ thuật
để chống việc thấm nước khi sử dụng.
Chuẩn bị đất làm gốm:
Đất
sét được lấy từ ruộng, đập thành những cục nhỏ, phơi khô, loại bỏ những tạp chất
rồi ngâm nước trong cái hố đất đã đào sẵn. Cát cũng được sàn lọc kỹ và lượng
cát pha cũng phải tuỳ thuộc vào hình dạng và kích thước của sản phẩm gốm định
làm.
Đầu
tiên dùng chân để nhồi đất và cát mịn, sau đó cuộn thành từng lọn hình trụ và
được phủ kín bằng tấm vải để ủ qua đêm.
Người
thợ gốm còn phải nhồi và lăn lại đất bằng tay nhiều lần, rồi vo tròn thành các
cục đặt lên hòn kê để nặn thành sản phẩm.
Tạo dáng gốm:
-
Tạo dáng cơ bản: Tạo dáng gốm cơ bản ban đầu, sau đó nối những “lọn đất” vào miệng
gốm, dùng “vòng quơ” chải quanh thanh gốm.
-
Chà láng gốm: dùng “vải cuộn” thấm nước, quấn vào tay chà láng thân gốm và tạo
hình miệng.
-
Trang trí hoa văn: Dùng que cây, vỏ sò, hoa thực vật... để tạo hoa văn trên gốm.
Hoa văn chủ yếu là hình răng cưa, khắc vạch, sóng nước, hoa văn thực vật, vỏ
sò... họ còn dùng màu thực vật để nhuộm áo gốm.
-
Hoàn chỉnh sản phẩm: Gốm nặn đem phơi nơi râm mát, hơi khô dùng “vòng quơ ” nhỏ
để cạo mỏng thân và nông đáy gốm.
Tạo
hình xong sẽ vào công đoạn trang trí. Đây là lúc người làm gốm trang trí cho gốm
bằng những hình vẽ, dấu rạch, khắc chủ yếu là hoa lá, cỏ cây (hoa văn gốm Bầu
Trúc đặc biệt không có hình động vật). Dụng cụ cũng chỉ là những vỏ sò được nhặt
từ biển, những que tre trồng trong làng. Rồi họ tiếp tục phơi trong mát, phơi
ngoài nắng, tu sửa hoàn chỉnh để chuyển sang giai đoạn cuối cùng: nung gốm.
Cộng đoạn nung:
Trước
khi nung phải phơi khô một ngày.
Buổi
chiều, khi trời êm và gió nhẹ thường là lúc bắt đầu đốt lò nung gốm. Gốm nung lộ
thiên cho nên hoàn toàn phụ thuộc vào tiết trời. Đầu tiên, củi được xếp ngang dọc
thành nền, rồi sắp gốm từ giữa ra ngoài, chồng úp lên nhau tạo cho gốm thành một
khối tròn. Phủ lên gốm là rơm rạ, trấu, dùng cây đập nhẹ lên lớp rơm phủ để tạo
độ xốp. Muốn giữ nhiệt độ đều đặn và ổn định, hướng đốt lò phải ngược chiều gió
để lửa không cháy nhanh quá. Khoảng 2-3 tiếng đồng hồ khi củi trong lò cháy hết,
gốm có màu chín hồng thì lò nung đạt yêu cầu. Người ta phải đợi đến khi gốm nguội
hẳn mới đưa ra khỏi lò nung.
Sản
phẩm gốm được nung lộ thiên ở nhiệt độ từ 500 - 600 độ C, vật liệu dùng để nung
gốm là củi, phân trâu bò khô, rơm rạ, trấu... Củi được xếp thành hình chữ nhật
(4mx3m) dày khoảng 0,2m-0,3m và trên đó người ta xếp úp 2-3 lớp gốm, phía dưới
xếp những sản phẩm lớn. Tiếp đó toàn bộ phủ một lớp rơm rạ dày khoảng 0,2m và
trên là một lớp trấu mỏng. Sau khi nung, sản phẩm được lấy ra để phun màu (loại
màu này được chiết xuất từ trái dông, trái thị ở rừng) rồi được tiếp tục nung lại
trong vòng 2 giờ. Vì vậy, gốm Bầu Trúc có màu đặc trưng vàng đỏ, đỏ hồng, đen
xám, vệt nâu, tạo thành các sản phẩm gốm độc đáo, mang theo vẻ "lung linh
của nền văn hóa Champa".
Sử
dụng kỹ thuật "nung 2 lần lửa" để tạo sắc đen cho sản phẩm (thay vì sắc
đỏ truyền thống)...
Du lịch: Đến tham
quan làng gốm Bầu Trúc, khách du lịch có thể cùng làm gốm với các nghệ nhân, tự
tay tạo nên những sản phẩm đơn sơ, mộc mạc và tha hồ chọn lựa những sản phẩm gốm
với giá bán từ vài ngàn đến vài triệu đồng. Tham quan các phòng trưng bày sản
phẩm, du khách còn có thể khám phá nhiều điều kỳ diệu ở làng gốm Bầu Trúc này.
Tại làng gốm Bầu Trúc, nằm ở trung tâm thị
trấn Phước Dân (huyện Ninh Phước) du khách tự tay nhồi đất, nắn các hình gốm
tùy thích từ đất sét đặc biệt ở làng gốm này và tha hồ lựa chọn những sản phẩm
gốm Bầu Trúc có giá từ vài ngàn đến vài triệu đồng.
x