Khái lược một số lễ hội Chăm


1. Lễ hội Kate
Thời gian: tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 Cham lịch, rơi vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10 Tây lịch

Ý nghĩa: tưởng nhớ các vị nam thần (Ppo Klaung Giray, Ppo Rome...), tưởng nhớ ông bà tổ tiên, trời đất đã phù hộ độ trì
Chu trình và các tiểu lễ:
Ở các đền tháp: là nơi diễn ra lễ hội chính thức và long trọng. Có 3 đền tháp đó là đền Ppo Inư Nưgar ở palei Hamu Tanran - Hữu Đức, tháp Ppo Klaung Giray, Ppo Rome ở palei Thwơn - Hậu Sanh. Lễ hội được tổ chức cùng một lúc ở 3 địa điểm trên, cùng ngày giờ và cách hành lễ.
Các lễ gồm: lễ rước trang phục, lễ mở cửa tháp, lễ tắm thần, lễ mặc trang phục, cúng thần.
Thành phần ban tế lễ ở các tháp cũng giống nhau gồm: Ppo Dhia - Cả sư làm chủ lễ, Ong Kadhar kéo đàn rabơp và ngâm thánh ca, Muk Pajuw - bà bóng dâng lễ vật lên các vị thần, Camưnei - ông từ chủ trì lễ tắm tượng và một số vị paseh phụ lễ.
Lễ vật dâng cúng: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 5 mâm cơm, canh cúng và thịt dê, 1 mâm cơm muối vừng, 3 cỗ bánh gạo và hoa quả, còn có rượu, trứng, trầu cau, xôi chè...
Lễ Rauk au khan Ppo Yang (rước trang phục): tất cả các trang phục của vua chúa thờ ở các đền tháp đều do người Raglai cất giữ, vì họ được xem như là em út, theo chế độ mẫu hệ con út được thừa kế tài sản, giữ gìn gia bảo và phụng sự tổ tiên. Đến Kate, người Chăm làm lễ đón rước người em Raglai chuyển trang phục về lại các đền tháp. Tại lễ còn tổ chức múa lễ mừng.
Lễ Pơh bbơng Yang (mở cửa tháp): sau khi kết thúc lễ rước trang phục, các tu sĩ xin phép Ppo Ginwơr Mưtri (thần Shiva) làm lễ mở cửa tháp ở trước cửa tháp. Lễ vật cúng gồm rượu trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương và các hương vị khác.
Lễ Mưnei Yang (tắm tượng thần): diễn ra bên trong tháp, lễ này gồm ban tế lễ đã nêu trên thực hiện. Camưnei sẽ là người tắm pho tượng, sau đó mọi người cùng làm. Các tín đồ lúc này sẽ lấy nước từ thân tượng bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu sức khỏe, tài lộc, may mắn.

Lễ Angwei khan aw Ppo Yang (mặc trang phục cho tượng thần): lễ được tiến hành theo lời ngâm thánh ca của Ong kadhar
Lễ Mưlieng Yang (cúng thần): Ppo dhia làm chủ nghi lễ, muk pajuw dâng lễ, ong kadhar hát mời các vị thần có công với dân với nước về dự lễ, như Ppo Inư Nưgar, Ppo Klaung Giray, Ppo Par... Có khoảng trên 20 vị thần được mời để dự lễ. Lễ mưlieng Yang kết thúc bằng hội với điệu trống ginơng, kèn xaranai với những giọng hát dân ca. Đến khoảng đầu giờ chiều thì lễ kết thúc.
Sau đó, lễ hội tiếp tục ở các palei Cham với các điệu múa hay bóng đá ở sân bóng palei, đêm thường có tổ chức diễn văn nghệ.
2. Lễ hội Xuk Yơng (Kinh Hội)
Thời gian: được tổ chức 3 năm một lần, luân phiên tại các sang mưgik (thánh đường) trong ngày thứ sáu, nên mới gọi là xuk yơng (xuk - thứ sáu, yơng - vòng hay xoay vòng), diễn ra vào tháng 11 hay tháng 12 Hồi lịch.
Ý nghĩa: là lễ của Cham Awal, là dịp các chức sắc tín ngưỡng của Cham Ahier và Cham Awal họp mặt bàn về phương thức phong tục hay lịch pháp trong 3 năm đã qua.
Diễn tiến: Sau khi các chức sắc họp bàn, các Ppo Acar (Pô Chan) làm lễ cầu kinh trong thánh đường. Mỗi gia đình trong palei, mỗi nhà có tu sĩ acar đều đội mâm lễ vật (cơm canh, bánh trái) đến sang mưgik để tu sĩ hành lễ. Các gia đình cũng thường chuẩn bị quà bánh để tiếp đón bạn bè người thân đến chơi. Một lễ hội náo nhiệt của các palei Cham với việc tổ chức thể thao, văn nghệ ca múa nhạc.
3. Lễ hội Ramưwan
Thời gian: tháng 9 Hồi lịch.
Ý nghĩa: lễ hội còn được gọi là bilan bbơng muk kei - tháng cúng gia tiên hay bilan ơk - tháng chay niệm. Ramưwan là từ đọc trại từ Ramadan (tháng 9 Hồi lịch), nên đây đồng thời cũng là tháng chay niệm của cộng đồng tín đồ Islam trên thế giới. Lễ hội Ramưwan mang một sắc thái rất riêng của cộng đồng Cham Awal
Diễn tiến: Diễn ra trong 1 tháng. Ở 3 ngày đầu thường tổ chức lễ hội như: Nau ghor (tảo mộ), iew muk kei (cúng gia tiên), và bbơng ơk - chay niệm tại sang mưgik.
Nau ghor: lễ tảo mộ được tổ chức theo từng tộc họ, từng palei, với trang phục chỉnh tề và các lễ vật như bánh trái, ấm trà, rượu, trứng. Lễ bao gồm việc làm sạch cỏ, vun đất mộ, Ppo acar làm lễ tẩy uế mộ và mời tổ tiên dự lễ iew muk kei.
Iew muk kei: sau khi nau ghor, họ chọn nơi trang trọng trong nhà và lập danauk (bàn tổ), dâng lễ vật cúng tổ tiên. Trong ngày này, các thành viên gia đình đều họp mặt đông đủ, cầu khấn cho tổ tiên phù hộ độ trì. Kết thúc lễ này, bà con bạn bè sẽ dự lễ ăn uống, chúc tụng cho nhau.
   Trong 3 ngày đầu thường tổ chức hội như giao lưu bóng đá, văn nghệ, trò chơi dân gian...
Bbơng ơk: Sau 3 ngày lễ hội vui vẻ, các palei sẽ trở về không khí trang nghiêm của tháng chay tịnh và thực hiện các lễ tẩy thể, cầu kinh ở các sang mưgik.
4. Lễ hội Rija Nưgar
Thời gian: là lễ tống ôn đầu năm nên Rija nưgar diễn ra vào đầu năm Cham lịch. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, Cham Ahier tổ chức lễ hội vào ngày thứ tư, thứ năm, còn Cham Awal tổ chức ngày thứ năm, thứ sáu trong tuần.
Ý nghĩa: là lễ hội quan trọng của cộng đồng Cham Ahier và Cham Awal, nhằm tống khứ những cái xấu, năm mới đón nhận cái lành về cho palei, đón nhận những cơn mưa đầu mùa và bước vào vụ mùa trồng trọt mới.
Chu trình lễ: lễ được tổ chức trong kajang (nhà lễ), một cửa hướng về phía Đông, cách trang trí bên trong như không gian thánh đường sang mưgik. Ngày đầu cúng lễ cho Yang biruw (thần mới - Allah, Mohamad), ngày sau cúng các Yang klak (thần cũ - Ppo Inư Nưgar, Ppo Klaung Giray...).
Lễ diễn ra trong 2 ngày: Tamư di jip, tabiak di xuk - Vào thứ năm, ra thứ sáu; hay Tamư mưnuk tabiak pabaiy - Vào (cúng) gà, ra (cúng) dê; hay Tamư Ppo biruw tabiak Ppo klak - Vào thần mới, ra thần cũ.
 Lễ vật: gà, dê, 5 mâm cơm canh bánh trái, trầu cau, rượu, trứng... Trên bàn lễ còn 2 lễ vật quan trọng là lửa và nước.
Thầy làm lễ: Ong ka-ing mặc áo đỏ múa đạp lửa, lên đồng; 3 Ong mưdwơn mặc áo trắng vỗ baranưng và ngâm thánh ca, 2 nghệ nhân đánh trống ginơng, 1 nghệ nhân thổi kèn xaranai.
Hệ thống thần: người Chăm theo đa thần, các palei sẽ cúng vị thần của họ trước các vị thần khác. Hệ thống các thần gồm: Ppo Tơng (thần mới), Ppo Tơng Ahauk, Ppo Gahluw (thần trầm), Cei Thun, Cei Dalim, Cei Haniim Par (Par?), Cei Xit... (còn rất nhiều, xem thêm "Lễ hội của người Chăm" - Sakaya, trang 80)
Lễ được tổ chức khá sôi động với lễ múa roi, múa chèo thuyền, múa đạp lửa, múa lên đồng và thường có rất nhiều người đến xem và hò reo ở mỗi đoạn đặc biệt của lễ. Ngày hôm sau cũng thực hiện lễ cúng như hô trước, có thê lễ tiễn đưa hình nhân (palau xalih - " thả đổi" hay thả hình nhân thế mạng). Hình nhân được làm bằng bột gạo sống gồm 2 tượng trưng cho đàn ông và 2 tượng trưng cho đàn bà, hình trâu bò, heo, rắn... đặt trên tra đan tre. Hình nhân được tạo thành trong lễ nặn hình nhân, sau đó sẽ có lễ tiễn hình nhân thế mạng, hoán đổi cho dân làng, mang đi cái xấu, bệnh tật, thiên tai năm cũ, đón nhận năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Lễ palau xalih được thực hiện ở ngã 3 đầu làng hay thả trôi sông và kết thúc lễ Rija Nưgar.
   Ở mỗi palei, tiểu tiết lễ có thể có sự khác biệt.
Phần II. Lễ hội nông nghiệp
Hoạt động chính: cũng như các hoạt động của cộng đồng DTTS Tây Nguyên, cộng đồng người Cham với các hoạt động văn hóa, lễ hội liên quan đến nông nghiệp, trải dài theo "hành trinhg" phát triển của cây lúa, từ giai đoạn cây gieo, giai đoạn cây lúa đẻ nhánh đến khi mùa màng được thu hoạch 
1. Lễ dựng chòi cày: là một lễ  mở đầu công việc đồng áng hàng năm của người Cham, lễ được thực hiện trên thửa ruộng của từng gia đình. Thầy cúng lễ là Hamu ia hoặc Camưney, người nông dân sắm sửa lwx vật ^ dâng cúng các vị thần linh (thần mẹ xứ sở, thần đất, thần núi, các vị klhẩn hoang tiền hiền...) với ý nguyện cầu mong cho mưa thụcc gió hòa, mùa màng được tốt tươi...
Khoảng một tháng sau ngày ruộng lúa được gieo thì người nông dân Cham tiếp tục làm lễ cúng cho cây lúa đẻ nhánh/,lễ vật cúng cho lễ này tương tự như lễ cúng dựng chòi cày nhưng thần linh cầu cúng cho lễ này chủ yếu là Thần Mẹ Xứ Sở Po Inư Nưgar. Đếncái ngày cây lúa ra bông kết hạt thì người ta tổ chức nlễ cúng lúa (padai pok tian) , người nông dân sắm sửa đầy đủ lễ vật dâng cúng các vị thần^ ca hát những bài thánh ca ca ngợi công đức của các vị thần Mẹ đã có công dạy người
trồng lúa ...^ca ngợi công đức của các vị thần cho mùa màng được bội thu_
2. Lễ thu hoạch lúa (iew yang trun yuak), vào tháng II lịch chăm là thời gian người nông dân Cham thu hoạch, người ta chọn ngày tốt để xuống đồng gặt lúa; bó lúa đầu tiên của buổi khai lễ là bó lúa "làm giống" cho mùa màng sau...
3. Lễ "da a patai tagok lau" (Sau ngày thu hoạch) đây là nghi thưc cuối cùng của công việc đồng áng, ý nguyện là tạ ơn các vị thần, tổ tiên đã phù hộ cho họ thóc lúa đầy bồ...
          Các nghi lễ căn bản của Nông nghiệp người Chăm cho chúng ta thấy người nông dân Cham rất chăm lo đời sống tinh thần , những lễ hội đã thường xuyên diễn ra theo sát chu trình phát triển của cây lúa cho us ta thấy nông nghiệp đã có những gắn liền với cuộc sống, người nông dân Cham thương yêu, trân trọng cây lúa như chính cây lúa là một phần quan trọng của cuọc sóng...
4. Lễ Cầu đảo
          Là một lễ liên quan đến cầu mưa, cầu nước của người Cham, được tổ chức vào tháng 4 Chăm lịch, lễ được tổ chức tại các cửa biển như: cửa biển Lâm Ngư (Phương hải, Ninh Hải)_cửa biển Cà Na(Phước Diêm, Ninh Phước)_cửa biển Mỹ tân (Mỹ Tườngng, Ninh hải).Đây là lễ cúng chung cho cả cộng đồng , chăm Ahiêr lẫn Chăm Awal...
 Là một lễ cúng chung cho các vị thần Chăm như các vị Balamôn, các thần Hồi giáo-Bani, các thần sông, thần biển... các vị chức sắc cúng lễ như tu sĩ Pasel của nhóm Chăm Ahiể, tu sĩ Acar của nhóm CHăm Awal, thầy cúng tín ngưỡng dân gian như Kadhar(thầy kéo đàn Rabap), thầy Mưduôn (thầy vỗ trống Baranưng), thầy ka-in (thầy bóng), Muk Pajau, ông cai đập, ông Cai mương (hamu ia)...
           Lễ cầu đảo bao gồm nhiều tiểu lễ với nghi thức trang nghiêm riêng, người dân sắm sửa cho các ngày diễn ra lễ và mời những vị tu sĩ, sư thầy, Bà bóng, để thực hiện việc cúng các vị thần, với nghi thức đọc kinh và cầu Thánh về hưởng lễ, thầy bóng, Bà bóng thì múa phụ họa; dân làng thì van vái, cầu khẩn các vị thần ban cho dân làng mưa thuận gió hòa, mùa màng được thuận lợi...
 
- Ý nghĩa: như là một nghi thức từ xưa đến giờ, cứ đên tháng 4 lịch Cham la trong mọi nẻo thôn làng đều rộn ràng hội hè đến gõ cửa từng nhà,trong từng palei; trong cái nắng oi bức như thế,từ bãi trống đầu làng đến mỏm núi đầu sông,bờ biển của các làng Cham đều diễn ra những lễ hội thu hút đông đảo tập trung không chỉ giới chức sắc tu sĩ, mà lôi kéo được cả dân làng, từng thôn và từng khu vực tham gia;người dân tổ chức lễ hội trong cái nắng hè oi bức, cũng là mùa cầu mưa cầu nước của dân làng Chăm với khát vọng cầu được nước hằng ngày , và một cuọc sóng ấm no hạnh phúc...
5. Lễ chặn nguồn nước:
          Sau khi làm lễ cầu đảo, trời bắt đầu ban mưa cho dâng làng cày cấy. Để tránh mưa nhiều, gây lũ lụt thì người Chăm còn tổ chức làm lễ chặn nguồn nước(kap kruang halau). Lễ đuwocj thực hiện tại các cửa sông lớn, nghi thứ lễ diễn ra ở cả hai cộng đồng người Chăm Ahiêr và Chăm Awal..
- Vật cúng cho lễ là 5 mâm cơm &xôi chè
- nghi thức lễ rước gậy rao giảng Kinh từ thánh đường (sang mưgik)đến cửa sông.09 vị tu sĩ Acar mặc áo đen sẽ đọc kinh Coran cầu nguyện Thánh Alla, xin đừng cho mưa nhiều gây lũ lụt, sau lễ kết thúc, tất cả tu sĩ Acar ở trần,lội xuống sông làm lễ "té nước" ^ kết thúc nghi lễ.
Ý nghĩa: lễ chặn nguồn nước là một trong nhiều lễ hội hè của người dân Chăm, qua đó gắn kết con người hiện hữu với cuộc sống tâm linh, mọi người tham gia lễ hội đông vui, và nhiệt huyết, cho chúng ta thấy được tín ngưỡng tôn giáo của họ và khát vọng vầ một cuộc sống đầy đủ hạnh phúc
6: Lễ tế Trâu:
Lễ tế Trâu là loại lễ nghi cúng tế lớn nhất trong hệ thống lễ nghi Nông nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ chức 07 năm một lần. Lễ vật cúng là một Trâu trắng tại núi đá trắng( cơk yang patau) thuộc thôn Như Ngọc- Ninh Phước- Ninh Thuận. Đây là một lễ hội mang tính khu vực, từ lâu đã trở thành phong tục tín ngưỡng của người Chăm,&chu kỳ lặp lại cứ 07 năm một lần, người Chăm tổ chức lễ cúng Trâu tại Núi Đá Trắng, với mong muốn có được cuộc sống yên bình trong từng nhà và trong từng con ngõ Palei....

3. HỆ THỐNG LỄ HỘI CÚNG TẾ THẦN LINH:
3.1: LỄ PUIS
          Hoạt động chính: Sau khi được Thầy Kadhar ấn định ngày tháng tổ chức lễ, thì bà con trong tộc họ nô nức cùng nhau chuẩn bị cho ngày lễ quan trọng này. Ngày đó, từ sáng sớm tộc họ tập trung đông đủ tại nhà được tổ chức lễ. Mọi người phân công, chia tay nhau ra làm mỗi người một công việc. Sau khi lễ vật đựơc sắm sửa đầy đủ và sắp xếp theo mâm lễ thì Thầy kéo đàn
Rabap và Bà bóng sẽ làm chủ lễ chính. Muk pajau khấn vái mời thần linh, po trauk, patra trình lễ...
Sau lễ cúng mời các vị thần,tổ tiên trong nhà, thì Thầy Kadhar& Muk pajau bắt đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau:
          -Po Ginôr mưtri
          -Yang di sang
          -Po Inư Nưgar taha
 -Po Inư Nưgar Hamu Ram  
 -Po Inư Nưgar Hamu Ram  
          -Po Par    
          -Po Rame
          -Po Thun Garai
          -Po Garai phauk
 -Cey Thuơr  
 -Po Yang In
          -Po Tang,Po Galau
          -Po Riyak
          -Po Dam  
          -Po Trauk, Po patra

Mỗi vị thần khi được mời về dự thì cùng lúc Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, Muk pajau sẽ rót rượu cầu khấn và dâng lễ vật. Bà con dự lễ cũng cầu khấn cho các vị thần vui lòng hưởng lễ vật của dòng họ dâng cúng mà phù hộ-che chở cho tộc họ.
- Múa dâng lễ các vị thần linh: tiếp theo lễ đãi thần linh thì Muk pajau còn múa dâng lễ, Thầy Kadhar  kéo đàn Rabap hát mời thần, Muk pajau múa nhún nhảy & dâng lễ vật mỗi vị thần một khay trầu (thôn hala)&1 ché rượu cần, những điệu múa hòa vào tiếng trống kèn và tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người tham gia lễ tạo nên một sắc thái riêng, mang màu sắc của lễ Puis. Đây là một lễ của các Tộc họ thuộc các làng thờ tháp Po Rame, Hậu Sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận...;lễ đựợc tộc họ tổ chức theo định kỳ 01, 03 or07 năm một lần, với nghi thức cúng để trả lễ & thết đãi thần linh ...
          Cũng như ở lễ tễ Thần Po Rame, ở các Tôc họ thờ tháp Po Klaung Galai (Phước Đồng, Hòa Trung, Hiếu Lễ...) thì lại có lễ "Payak";lễ được tổ chức có cùng chung ý nghĩa, mục đích với lễ Puis...; lễ thết đãi thần linh với mong muốn mọi người trong Tộc họ có được một cuộc sống ấm no, thịnh vượng.
Cả hai lễ Puis và Payak thực sự đã trở thành ngày hội của Tộc họ; ngày lễ hội mừng đc mùa, mừng con cháu đầy đàn no ấm, biểu hiện sự  giàu sang phú quý của Tộc họ ; và Tục lệ đã trở thành phong tục tín ngưỡng; hàng năm khi đến chu kỳ thì Tộc họ phải thực hiện lễ cúng trên
Lễ tế Trâu tại Tháp Po Klaung Galai
          Nghi lễ cả lễ này người ta cúng nguyên con Trâu khiêng lên dâng cúng tại Tháp (hình thức cúng ging như ở lễ thết đãi thần linh Payak), mọi người trong tộc họ chứng kiến lễ cùng tham gia ca hát nhảy múa...
          Ý nghĩa:Lễ cúng trâu để thết đãi thần linh đc tộc họ tổ chức 07 năm/ 1lần đôi khi cũng đem lại một làn sống mới cho bà con trong Tộc ,và là dịp để mọi người sinh hoạt bên nhau...
          Lễ tế Trâu diễn ra tại Tháp dẫu có linh đình và long trọng thật, nhưng thiết nghĩ cuộc sống của những người dân Chăm lương thiện đã có những tháng ngày goi là "chay tịnh" thì viêc tế Trâu theo mình thì không thực sự cần thiết nữa, và giá như có thể bỏ qua được các nghi thức này...

          LỄ HỘI CHĂM Ở THÁNH ĐƯỜNG (SANG MƯGIK)
          Lễ hội Chăm ở Thánh đường là một biểu hiện rõ nét nhất tín ngưỡng lễ hội của người Chăm Awal- Chăm ảnh hưởng Hồi giáo
 Mặc dù được đồng hóa bởi bản sắc bản địa nhưng những nguyên thủy của đạo thì vẫn còn ảnh hưởng đậm, như họp lễ ngày thứ 6, mà ngày nay là "chu kỳ lễ ngày thứ 6" được tổ chức 03 năm/ 1 lần, gọi là lễ "Suk yương"; được tổ chức vào tháng 11, hoặc 12 Hồi lịch;; ngoài việc các Tu sĩ Po Acar mở cửa Thánh đường làm lễ và cầu Kinh,thì cũng là dịp họp mặt của các Chức sắc- Tín ngưỡng của Tôn giáo Chăm Ahiêr & Chăm Awal, đồng thời là dịp thể hiện các công viêc của Hội đồng phong tục...
           Tín đồ Bà Ni Chăm sinh hoạt ở Thánh đường, các nhà trong Palei cũng như các nhà có Tu sĩ  chuẩn bị lễ vật dâng lên Thánh đường cúng và chúc tụng lẫn nhau, và hình thức sinh hoạt cộng đồng như bóng đá, văn nghệ, ca múa hát ...đã làm cho ngày lễ Suk yương thực sụ trở thành ngày lễ cho cả Cộng đồng ...
 3.2. Lễ Ramưwan:
3.2.Lễ hội Ramưwan :
 Lễ hội Ramưwan còn được gọi là lễ cúng gia tiên hay lễ chay tịnh của người chăm Awal.
 Lễ hội Ramưwan của người chăm Awal diễn ra trong thời gian một tháng, trước khi vào lễ thường có lễ hội trong 3 ngày đầu. Lễ hội diễn ra gồm 3 phần: lễ tảo mộ, lễ cúng gia tiên (kèm theo hội),và lễ chay niệm.
 -Lễ tảo mộ(nau ghôr):trước khi bước vào lễ Ramưwan, người Chăm tổ chức đi tảo mộ; họ thường đi tảo mộ thành từng dòng tộc, theo từng palei, với trang phục chỉnh tề và dâng lễ lễ vật đơn giản đến nghĩa địa từng gia tộc để làm lễ, Po Acar làm chủ lễ...
 -Lễ cúng gia tiên(ieu muk key), ngay sau khi tảo mộ về, Po Acar liền đại diện cả tộc họ thực hiện lễ cúng gia tiên, mọi người dâng bánh(bánh tét, bánh ít, sakaya...)lênn dâng cúng Tổ
 Mọi người sum họp vui vầy bên nhau bên bèn thờ tổ tiên, mong sẽ được Tổ tiên che chở phù hộ cho từng thành viên trong tộc họ được yên ổn.
  Trong 3 ngày diễn ra lễ cúng gia tiên của người chăm Hồi giáo Bàni thực sự là ngày hội mở đầu cho lễ Ramưwan, mỗi làng Chăm Awal đều diễn ra các hoạt động văn hóa, đều tổ chức giao lưu bóng đá, văn nghệ, các trò chơi dân gian.. Hội đã lôi kéo được nhiều thanh niên các palei chăm lân cận và đây thực sự là ngày hội mở đầu lễ lớn của dân tộc Ramưwan.
 Trong tháng Ramưwan, mọi người cùng nhau tập trung tại thành đường trong suốt tháng, các Tu sĩ Po Acar sẽ không có
những ngày về thăm nhà, họ phải ở lại cùng đọc Kinh, cầu nguyện ngày 5 lần, cùng ăn về ban đêm...
 Lễ ngày thứ 6(harey jamưah):trong tháng lễ Ramưwan có 4 lần đọc lễ vaò ngày thứ 6, chủ lễ đọc kinh là vị Katip, lễ vào giờ kinh vảhik -hướng về thánh mohamat,và thực hiện các lễ nghi ở Thánh đường; cho đến ngày thứ 30 của tháng,thì ở thánh đường, mọi người đọc kinh Coran và cầu những đều tốt lành cho dân làng; và thực hiện một số tiểu lễ; các tín đồ dâng mâm lễ cúng thánh Alla % kết thúc lễ Ramưwan.

 *** Ý nghiã
Lễ hội Ramưwan là lễ hội lớn nhất của người chăm Awal, trong tyáng họ thực hiện việc tảo mộ, lễ dâng cúng gia tiên và tháng chay tịnh như là lễ hội điển hình của người Chăm Awal, tất cả mọi người khi kết thúc lễ hội đều thấy dâng lên một sức sống mới.
5. LỄ RIJA
Lễ nghi liên quan đến cộng đồng làng palei: Rija Nưgar
Lễ múa trong phạm vi tộc họ và gia đình: lễ Rija Harei
5.1. lễ Rija Nưgar
Vào những ngày đầu năm mới, người Chăm tổ chức lễ hội Rija Nưgar mừng năm mới và đón nhận những điều mới cho dân làng &đón nước, cầu mưa; chuẩn bị cho việc khai mương cày cấy.      
 Kể từ ngày đó(mồng một) cho đến hết thượng tuần trăng tháng giêng là thời gian mở hội lễ Rija Nưgar. Khắp nơi làng chăm đều tổ chức hội lễ Rija Nưgar. Người làng chăm Ahiêr thương tổ chức vào ngày thứ tư, thứ năm &chăm Awal thì ngày thứ năm , thứ sáu trong tuần và bắt đầu bằng các ngày lẻ (1,3,5,7) trong tháng giêng.
  Trên bàn cúng được chia ra làm hai phần "âm-dưong" và hai vật lễ quan trọng là "lửa-nước"., mọi người dâng lễ vật cúng và cac thầy hành lễ, Người chăm có tục thờ đa thần , nhưng quan trọng là làng nào cúng lễ thì thần làng của làng đó được mời cúng lễ đầu tiên trong hệ thống thần linh chung ấy.
   Lễ Rija Nưgar do thầy Mưduôn làm chủ lễ, vỗ trống Baranwng rót rượu lần lượt mời các vị thần và hát bài thánh ca. Thầy ka-in dâng lễ vật và mùa phụ họa theo các nhịp trống, điệu kèn saranai... Cuối cùng là lễ tiễn đưa hình nhân , với ý nghĩa sẽ
mang đi những điều xấu xa, những cái không tốt cho dân làng, và đón một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng đc bội thu...
  Rija Nưgar là một lễ hội lớn mang tính văn hóa cao,toàn bộ lễ liên quan đến đời sống tín ngưỡng dân gian của người Chăm và tục thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng, đậm nét nhất liên quan đến nghề nông.Tất cả đã tạo nên ở lễ Rija Nưgar một diện mạo mới, đậm đà bản sắc dân tộc.
 5.2. Lễ Rija Praung
 Lễ Rija Praung là lễ ngi lớn nhất và quan trọng nhất  trong hệ thóng lễ hội múa của người Chăm , là một lễ hội của tộc họ đuợc tổ chức để cầu mong thầm linh, cầu mong tổ tiên cho người bệnh đc tai qua nạn khỏi; để có thể trở lại với sum họp đời thường.
 Lễ Rija Praung còn đc tổ chức khi trong tộc họ tôn chúc vũ sư Muk Rija để trông coi "chiêt atâu" cúng lễ cho tộc họ...
  Lễ Rija Praung chủ yếu là cầu cúng các vị thần Chăm nhóm Awal ,, những nghệ thuât múa cham độc đáo cũng đc thể hỉện trong lễ hội này....

""Jak mưnhum alak jiơng taba
Gila mưnhum alak jiơng hanrwai"
Người khôn uống rượu hóa khờ
Kẻ dại uống rượu hóa điên"

""Takrư praung ngap ppa'anaih
Takrư ligaih ngap twei jalan"

Muốn lớn hãy (phải biết) khiêm tốn
Muốn thuận lợi hãy làm theo lối"
""Akauk bilan sa, hala amil throh"

Đầu tháng giêng, lá me trổ"
Mai rawơng palei adei ơy hai
Jwai bboh mưda blauh wơr wơy ai
Dwa urang sa pajaih pajiơng mai
Jwai nưh rabha ka talah tung hatai

Ke kan cơk kraung glai
Min kan di tian ai
Tabbwak takai mai ka adei bwei hai
Bboh bbauk bblwak di jien padai
Ai taum adei đom klau shơh shai

Ia tanưh ghur, adei đwa padơng caik cang
Mưnhum baik ai ka mat tai hatian
Tamkai yamưn, yamưn bblwak xaradang
Piơh cang ai, rawik harei rup liwang.

Bbơng baik, bbơng baik ka hu yawa prưn
Piơh harei hadei ngap jalan tagok trun
Cwah Patih bei bhong bauh ribbung
Mưyah ai takrư adei tuk ka ai bbơng

Jwai wơr palei adei ơy ai
Jwai bboh mưda wơr kathaut rah mai
Sang taik kathaut jien padai
Min yut cwai adei khik klauh hatai

Jwai bboh adei rabbah, ai plơk bbauk sa gah
Dwix xak lo tian adei dauk tawak
Cam saung Bini taum gơp jwai calah
Dwa urang drei kajap karo xwan atah.
Nưh rabha: phân ly; talah: nát tan, vỡ - chú ý: talah khác với calah: lạc; bblwak: hơn; yawa prưn: sức khỏe; rabbung: tươi tốt, nở nang; yut cwai: bạn bè, hay người yêu; klauh hatai: thủy chung; dwix xak: tội nghiệp; tawak: vấn vương; kajap karo: mạnh khỏe.
Dịch nghĩa:
Về thăm quê em, anh hỡi. Đừng thấy (em) nghèo mà quên nhé anh!
Hai đứa cùng dòng giống mà ra, chớ chia phân cho nát tan cõi lòng.
Khó đâu núi, sông, rừng (chia cách) mà khó bởi lòng anh (cách chia).
Nối gót (trở bước) về cho em vui với.
Thấy mặt còn hơn là (cho) tiền bạc.
Anh gặp em nói cười vui vẻ.
Nước (ngọt) quê đụn cát, em đội đứng chờ anh. Uống đi anh, cho mát lòng dạ.
Dưa ngọt, ngọt còn hơn đường, (em) cất dành cho anh, đi xa lâu thân hình gầy. Ăn đi cho lại sức, để ngày mai nối đường lên xuống.
Thành Tín - khoai lang củ tốt, nếu anh thích em luộc đãi anh.

Đừng quên quê em anh hỡi; đừng thấy (người) giàu sang mà quên phận nghèo xưa nay.
Nhà rách nghèo tiền nghèo bạc, nhưng tình mình em giữ thủy chung.
Chớ thấy em cơ khổ, anh nỡ ngoãnh mặt một bên.
Tội nghiệp lắm, lòng em còn vương vấn.
Chăm - Bàni xum vầy đừng lạc (lòng).
Hai đứa mình khỏe mạnh, (sống) dài lâu.
KAK TIAN KA ANƯK NAU BAC
* đã đăng trong Tagalau1.
Rapanưh: Tantu
Radauh: Đàng Năng Đức

1. Hajan bơl liwa, rup trơm ia amư li-an yuh yuh.
Pađiak bilan ywak, amaik nau maut aw khơn o ngwei sir.
Bbơng kiem, bbơng ưn, amaik amư halar tian.
Mưrat sa jalan, raung anưk nau bac.

2. Ligwai ngap apah, ligah ngap cadwa oh mưda bbwah kar.
Brah padai mưthraiy, jien đwơc nhim, amaik amư anit payer.
Xanưng atah, ciip rabbah, jhak dahluw siam hadei.
El rup drei, halei buw tơl.

*  Ơn ngai praung glaung, anưk likuw đwa naung,
thun anak bilan hadei, ia harei hadah hadai,
anưk likuw gilac mai, ppok lisei ppok ia,
sa rituh thun taha, amaik amư bwei tian.

4. Sang pađie, paga jalơh o maung drơh yuw urang.
Min amaik amư tian hahwai praung ka anưk ralo.
Xanưng atah, ciip rabbah piơh ka jalan hadei.
Wơr rup drei, ka anưk hadah bbauk.


* Chú thích: GP cố gắng ghi đúng chính tả tiếng Chăm, khi hát, các bạn lược bỏ các âm không có nốt. Vd: Amaik / chỉ đọc là Mek.
Bơl: mùa; yuh yuh: run run; halar tian: thỏa lòng; cadwa: làm rẽ, làm ruộng chia hai; bbwah kar: trách móc; ơn ngai: ân nghĩa; pađie: nghiêng ngả; hahwai: rộng lòng.

Sau đây là bản lời Việt của bài hát. Xin lưu ý, đây không phải là bản dịch. Theo đánh giá bản thân, bản tiếng Cham hay hơn rất nhiều.


1. Ngoài đồng sâu mưa lất phất bóng cha già run run
Mẹ gặt hái dưới nắng cháy chiếc áo sờn ngang vai
Thương con, nuôi con lớn khôn mẹ mong
Xót xa lòng, một đời nghèo khó

2. Mẹ vì con bao năm tháng không hề than van
Gạo tiền thiếu nhưng mong sao con đi học cho ngoan
Gian nan lo toan ước mong ngày sau
Tấm thân gầy nay đã già nua

* Công ơn sinh thành tình thương bao la
Cha với mẹ già nuôi con học hành
Để một ngày mai mặt trời rực sáng
Con như cánh chim xa nhớ ơn mẹ cha

3. Lều tranh vách đất bữa cơm nghèo đơn sơ
Tuổi già yếu nhưng thương con quyết một lòng hy sinh
Gian nan lo toan để cho ngày mai
Suốt một đời gian khổ vì con.

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn