Công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn



 Phan Quốc Anh

I. Thực trạng tình hình nghệ thuật biểu diễn trong những năm qua.
1. Những thành tựu đạt được.
1.1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa, xóa bỏ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, thu được nhiều thành tựu quan trọng, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân cũng được nâng cao một bước, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp từ trung ương đến địa phương.
Đến nay trên 61 tỉnh, thành trong cả nước đều đã có đoàn nghệ thuật hoặc nhà hát của riêng mình với đủ các loại hình ca, múa, nhạc, dân ca, chèo tuồng, cải lương, kịch nói, xiếc, rối, giao hưởng, nhạc vũ kịch… tạo nên bức tranh toàn cảnh của nghệ thuật biểu diễn Việt nam phong phú, đa dạng và giàu bản sắc.

Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều đoàn nghệ thuật hơn cả. Thủ đô Hà Nội có 7 đoàn trực thuộc Sở văn hóa thông tin Hà Nội quản lý. Ngoài ra còn có 20 đoàn Trung ương và của các ngành, lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn. Ở Thành phố Hồ Chí Minh có 12 đoàn trực thuộc Sở Văn hóa thành phố. Ở các địa phưong cũng có một số tỉnh, thành phố còn tồn tại 4,5 đoàn như Hải Phòng, Thái Nguyên, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An.
Hiện nay, cả nước có 134 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp nhà nước của các ngành, các địa phương và lực lượng vũ trang, bao gồm:
62 đoàn ca múa nhạc, ca múa nhạc tổng hợp, nhạc vũ kịch, ca múa kịch, ca múa dân gian Chăm, dù kê Khơ me, dân ca kịch.
- 13 đơn vị kịch nói.
- 17 đơn vị nghệ thuật chèo.
- 23 đơn vị nghệ thuật cải lương.
- 4 đơn vị múa rối.
- 6 đơn vị nghệ thuật tuồng.
- 4 đơn vị nghệ thuật xiếc.
- 5 đơn vị dân ca kịch.
1.2. Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản pháp qui về quản lý nghệ thuật biểu diễn như chế độ nhuận bút, chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với ngành xiếc, độc hại trong ngành văn hóa nghệ thuật, chế độ bồi dưỡng luyện tập, bồi dưỡng biểu diễn, phụ cấp thanh sắc .v.v…
1.3. Hiện nay cả nước có trên 4000 cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên. Trong đó có 130 nghệ sĩ  nhân dân, 1013 nghệ sĩ ưu tú ở các đoàn nghệ thuật từ trung ương đến địa phương. Các đoàn đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của mình, biểu diễn phục vụ khắp nơi trên mọi miền đất nước, từ thành phố đến các vùng sâu vùng xa, nơi biên cương hải đảo. Góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, xây dựng ý thức thẩm mỹ lành mạnh cho nhân dân trong viện hưởng thụ nghệ thuật. Nhiều đơn vị nghệ thuật đã hoạt động tích cực, năng động sáng tạo, hoàn thành các kế hoạch chỉ tiêu biểu diễn, đồng thời luôn bám sát những định hướng nghệ thuật , biết vận dụng linh hoạt những yếu tố và những điều kiện thuận lợi và những khó khăn trong cơ chế thị trường để hoạt động. Đáp ứng nhu cầu đòi hỏi thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của công chúng.
Trong điều kiện khắc nghiệt của cơ chế thị trường, sự nghiệp nghệ thuật biểu diễn vẫn được sự quan tâm và phát triển phù hợp với cơ chế mới, đóng góp tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt tích cực của cơ chế thị trường là phát huy óc sáng tạo, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội, tạo thêm nhiều giá trị mới, làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, các đoàn nghệ thuật phát huy tính chủ động sáng tạo, vừa biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, vừa tăng doanh thu để bù đắp chi phí. Nhiều đoàn nghệ thuật có điều kiện đi biểu diễn giao lưu với các nước trên thế giới, giới thiệu văn hóa dân tộc Việt Nam với các nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nghệ thuật thế giới.
1.4. Để thích ứng với những điều kiện khắc nghiệt của cơ chế thị trường, các đơn vị nghệ thuật, nhất là các đơn vị nghệ thuật ở các tỉnh phía nam đã cố gắng tìm cho mình những cách đi thích hợp, từng bước vượt qua những khó khăn để tồn tại và phát triển. Nhiều địa phương được Tỉnh ủy, UBND, Sở Văn hóa Thông tin quan tâm, chỉ đạo về phương hướng, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tinh thần. Nhờ vậy, có một số đoàn có trụ sở khang trang, có trang thiết bị âm thanh ánh sáng hiện đại, có sàn tập, có sân khấu biểu diễn,diễn viên có nơi ở. Nhiều địa phương ưu tiên kinh phí cho hoạt động nghệ thuật, có đoàn hàng năm được cấp 600 đên 700 triệu đồng. Tuy nhiên số này rất ít, phần đông các đoàn nghệ thuật địa phương hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Nhìn chung, ở nơi nào được sự quan tâm của địa phương, cấp đầy đủ kinh phí, đoàn nghệ thuật ở đó luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chính trị, thu hút được nhân tài và do vậy, biểu diễn doanh thu cũng thuận lợi hơn.
1.5. Để không bị phụ thuộc vào “bầu sô”, vào “sao”, nhiều địa phương đã dùng hình thức “bao cấp khán giả”. Trong giai đoạn hiện nay, đây là một phương thức thích hợp. Dẫu không phải là một hình thức lâu dài, song trước mắt cách làm này có điều kiện để đưa được các tác phẩm  có giá trị nghệ thuật và có định hướng tới đông đảo quần chúng nhân dân, tới các đối tượng có nhu cầu về hưởng thụ nghệ thuật, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến, vừa vun đắp lòng yêu nghề, đạo đức và trách nhiệm của người nghệ sĩ biểu diễn mà còn chứng tỏ tình cảm biết ơn là việc làm đền ơn đáp nghĩa của chúng ta đối với các chiến sĩ, đồng bào đã gian khổ, hy sinh trong kháng chiến.
2. Mặt hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong điều kiện kinh tế thị trường, nghệ thuật biểu diễn cũng có nhiều hạn chế.
2.1. Về cơ chế quản lý:
Cục Nghệ thuật biểu diễn là cơ quan quản lý hành chính trực tiếp các đơn vị nghệ thuật của trung ương và quản lý về nghiệp vụ đối với các đoàn nghệ thuật địa phương nhưng còn chậm tham mưu để ban hành những văn bản pháp qui về quản lý nghệ thuật biểu diễn. Kinh phí hoạt động của các Đoàn Nghệ thuật các ngành, các địa phương hoàn toàn do tỉnh, ngành quyết định, không có một định mức chung, dẫn đến tình trạng "Đoàn giàu, Đoàn nghèo", bất bình đẳng về thu nhập cũng như chính sách chế độ đối với diễn viên. Có những đoàn được đầu tư lớn nên có cơ sở vật chất hiện đại, nghệ sĩ, diễn viên có đời sốâng đảm bảo. Ngược lại, không ít đoàn “nghèo”, trụ sở rách nát, xe cộ, trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Diễn viên không có nhà ở hoặc ở tạm bợ, dột nát.
Mặc dù trong những năm qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp qui nhưng cho đến nay vẫn còn rất thiếu, nhiều văn bản đã quá lạc hậu, không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay nhưng chưa kịp sửa đổi, bổ sung. Chế độ nhuận bút đối với các tác phẩm nghệ thuật theo Thông tư số 28/ TT-LB ngày 16/4/1990 đã quá lạc hậu nên không ai áp dụng. Hầu hết các Đoàn phải tự ký hợp đồng thỏa thuận với các tác giả về tác phẩm, không có một khung thống nhất về giá cả hợp đồng. Một tiết mục múa, một kịch bản cho một vở diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh có thể được ký từ 5 - 10 triệu đồng, nhưng cũng có những nơi, một ca khúc, một bản nhạc, một tiết mục múa chỉ được chi hai, ba trăm ngàn đồng. Qui chế về cấp thẻ hành nghề cho diễn viên tuy mới ra cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Chế độ bồi dưỡng đêm diễn cho cán bộ diễn viên còn nhiều điểm bất hợp lý.
2.2. Về con người:
2.2.1. Cán bộ lãnh đạo các đoàn nghệ thuật hầu hết trưởng thành từ diễn viên lên nên có nhiều kinh nghiệm về chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp, năng động trong công tác đối nội, đối ngoại, biết chăm lo cho sự phát triển nghệ thuật của đơn vị mình, hiểu, đồng cảm và thương yêu cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên, là đồng nghiệp của mình. Có tinh thần trách nhiệm, chịu đựng mọi sự vất vả và gian khổ để ứng phó với sự phức tạp của môi trường văn nghệ sĩ, những khó khăn của cơ chế thị trường và những cơ chế, chế độ chính sách của nhà nước chưa đáp ứng đầy đủ cho hoạt động nghệ thuật.
Nhưng đa số các đồng chí lãnh đạo các đơn vị nghệ thuật, đặc biệt là cán bộ cấp trưởng đều chưa được đào tạo chính qui về công tác quản lý hành chính nhà nước nên không tránh khỏi có nhiều lúng túng trong công tác quản lý mọi hoạt động của một đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước. Dẫn đến tình trạng một số cán bộ vi phạm về nguyên tắc tài chính, nguyên tắc hành chính nhà nước.
2.2.2.  Đạo diễn và chỉ đạo nghệ thuật là hai chức năng có vị trí quan trọng, tác động rất trực tiếp đến thành quả của chương trình biểu diễn. Kịch bản trung bình, nhưng có đạo diễn giỏi thì có thể đưa vở diễn lên một tầm cao mới, hoặc ngược lại, có kịch bản hay nhưng đạo diễn tồi thì vở diễn không thể hay được. Hiện nay, tình trạng nhiều đơn vị nghệ thuật trong toàn quốc không có chức danh đạo diễn và chỉ đạo nghệ thuật  là phổ biến. Số đạo diễn có tên tuổi ngày càng hiếm. Các đoàn lại thường chỉ mời các đạo diễn có tên tuổi đến dựng chương trình, một mặt, trong các kỳ hội diễn, ban giám khảo lại hay chấm “tên” tác giả, đạo diễn, chỉ đạo nghệ thuật  có tên tuổi, vì vậy, các đạo diễn trẻ, mới vào nghề khó lòng kiếm đất dụng võ. Tình trạng đạo diễn giỏi, chuyên sâu cho từng loại hình nghệ thuật sân khấu như tuồng, chèo, cải lương… gần như không có. Phần lớn các đạo diễn học nghề kịch nói là chính, nên khi sang đạo diễn cho kịch hát chất lượng không cao. Hiện nay các trường nghệ thuật chuyên ngành chưa có khoa đào tạo cán bộ chỉ đạo nghệ thuật, mà chủ yếu là các nhạc sĩ, biên đạo múa, đạo diễn sân khấu có tuổi nghề cao rồi tự phong cho mình chức danh chỉ đạo nghệ thuật.
2.2.3. Ở các đơn vị nghệ thuật, nghệ sĩ, diễn viên có một môi trường đặc thù. Nghệ sĩ là những người có trái tim nhạy cảm, đa sầu, đa cảm; luôn luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới, hay mộng mơ, bay bổng và cũng rất dễ tổn thương; Họ thích tự do, sống phóng khoáng, và mỗi người lại có con mắt đánh giá nghệ thuật khác nhau. Đó cũng là một trong những lý do làm cho văn nghệ sĩ bị khoác lên mình những điều tiếng như: “xướng ca vô loài”,”mấy đời con hát thương nhau”.
Số đông nghệ sĩ, diễn viên có độ tuổi từ 40 trở lên được đào tạo khá chính qui, có năng lực chuyên môn tốt, có bề dày hoạt động, vẫn giữ được lòng yêu nghề và bền bỉ trong chuyên môn, song trong số họ không ít người đã xa rời sàn diễn để làm nghề khác hoặc ở lại đơn vị làm lãnh đạo, làm nhiệm vụ đào tạo cho lớp trẻ. Một số không được sử dụng chuyên môn thường xuyên nên khả năng bị mòn mỏi, một số người đã nghỉ hưu để nhường cho lớp trẻ thay thế. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số diễn viên lớn tuổi vẫn chưa đến tuổi nghỉ hưu, vẫn ở lại chờ chế độ. Số này làm cản trở không ít đến sự phát triển của lớp trẻ.
Số diễn viên trẻ hiện nay, hầu hết được đào tạo chính qui từ nhà trường nghệ thuật. Một số diễn viên trẻ có tài hoặc có khả năng tương đối khá lại hay tính toán nên làm việc ở đâu để có được nhiều quyền lợi đãi ngộ, hay được đi nước ngoài, thu nhập cao. Trong số đó, một số ít người có tài, mới ra nghề đã được nhiều nơi mời đi diễn, trả cát xê cao. Từ đó nảy sinh sự tính toán nặng nề về tiền bạc và danh vọng quá sớm, số này không muốn bị trói chân ở một đơn vị nghệ thuật nào. Bởi vì chúng ta vẫn còn tạo cho chỗ đứng để họ được nổi tiếng. Cho nên họ đòi hỏi đủ mọi thứ dẫn đến kiêu ngạo, bất chấp cả sự điều động của tổ chức, biểu hiện cao nhất là bỏ biểu diễn phục vụ nhân dân. Trong số này có người đã trở nên hư hỏng, mất phẩm chất, thậm chí còn bê tha ảnh hưởng đến danh tiếng người nghệ sĩ. Một số ca sĩ gần đây lên tiếng trên báo chí nhân có chủ trương xã hội hóa một số hoạt động nghệ thuật, đã cho rằng: Đoàn nọ, nhà hát kia không tạo cho họ phát triển tài năng để phục vụ xã hội, từ khi ra khỏi biên chế thì họ mới có được tên tuổi. Số này còn mong Nhà nước có biện pháp quảøn lý hoạt động để họ sẵn sàng đóng góp phần thu nhập từ biểu diễn cho xã hội… Điều đó có thể đúng một phần, nhưng chỉ là sự ngụy biện của những cá nhân coi thường tổ chức.
- Có nhiều trường hợp một số ca sĩ, một số ca khúc được "lăng xê" nhờ các chương trình " Làn sóng xanh" nhờ một số hãng băng đĩa ca nhạc và đặc biệt là các ông "bầu" thông qua một số chương trình ca nhạc đẩy lên thành một số "sao". Theo những nhà chuyên môn, các ngôi sao ca nhạc của chúng ta hiện nay, ngoài một số ca sĩ  được học hành bài bản ở nhạc viện, còn lại đa số các "sao" trưởng thành từ phong trào ca hát quần chúng, không có khái niệm về kỹ thuật thanh nhạc, mà chủ yếu dựa vào chất giọng bẩm sinh. Trong khi trình độ thưởng thức của chúng ta còn hạn chế, hầu hết chưa có tai âm nhạc, nhiều người đi "xem" ca nhạc chứ không phải đi "nghe" ca nhạc. Trong các cuộc thi ca nhạc quốc tế, hầu hết các "sao" không được học âm nhạc đều bị loại ngay ở vòng đầu. Có những đêm ca nhạc giao hưởng thính phòng tại nhà hát lớn Hà Nội, người xem đa số là khách mời, ngoài một số nhà chuyên môn âm nhạc lắng nghe, số còn lại hoặc ngủ hoặc tìm cách " chuồn về sớm. Đơn giản là họ không hiểu vì không được trang bị kiến thức âm nhạc cơ bản. Đây là một vấn đề mà nhà nước ta cần quan tâm. Đối với một xã hội công nghiệp hóa, việc phổ cập âm nhạc phải đi đôi với phổ cập kiến thức phổ thông. Việc dạy âm nhạc, hội họa trong nhà trường phổ thông của chúng ta càn rất lạc hậu. Cả nước chỉ có một trường cao đẳng sư phạm nhạc họa, không thể cung cấp đủ giáo viên nhạc họa cho hàng triệu học sinh phổ thông hiện nay.
-  Tình trạng rất nhiều đơn vị nghệ thuật không có diễn viên “ngôi sao” sáng giá nên ảnh hưởng khá rõ đến uy tín hoặc kết quả doanh thu của đoàn. Do đó các đoàn phải đi “thuê” diễn viên ngôi sao tham gia chương trình nghệ thuật của mình với giá thù lao qúa cao, tạo ra sự bất bình, bất mãn của những diễn viên không kém phân tài sắc trong đơn vị nhưng lại phải thành ca sĩ hát "lót" ( hát chờ "sao" chạy sô nơi khác tới), gây bao sự khó khăn cho lãnh đạo đoàn, nhà hát.
-  Trước tình hình khó khăn trong việc tạo nguồn lớp diễn viên tài năng để kế cận cho các đơn vị thì lại gặp phải khó khăn khác, đó là chế độ, đời sống của các diễn viên bậc đàn anh, đàn chị còn quá thiếu thốn, nghèo nàn. Do đó nhiều bậc cha mẹ không muốn cho con cái vào văn công, mà tìm cho con cái một con đường khác tương kai sáng sủa hơn, bổng lộc nhiều hơn.
-  Một tình hình đáng buồn nữa là: nhìn vào các Đoàn nghệ thuật, kể cả các đơn vị nghệ thuật Trung ương, hàng ngày ít thấy không khí luyện tập chuyên môn hăng say, tự giác, kỷ luật và có chất lượng như vài ba thập kỷ trước đây. Hầu hết diễn viên tập tành trễ nải, đến muộn về sớm và họ biểu diễn như thợ vậy, họ không thiết tha phấn đấu để trở thành diễn viên xuất sắc. Có người còn mong càng được nghỉ diễn càng tốt, không được phân vai cũng không sao. Đó là một thực trạng tuy không phổ biến, song cũng rất lưu tâm để có biện pháp khắc phục.
2.2.4.Về kinh phí hoạt động:
Đây là vấn đề hết sức quan trọng và bức bối, là mối lo lắng của nhiều đơn vị nghệ thuật. Đặc biệt là sự tồn tại và phát triển của các đơn vị nghệ thật dân tộc truyền thống về lâu dài cần được Nhà nước bao cấp để hoạt động và còn bao cấp cho cả công chúng thưởng thức nghệ thuật thì mới giữ gìn và phát triển được.
Về kinh phí hoạt động nghệ thuật, cơ sở vật chất đời sống cán bộ, diễn viên, nhìn chung có rất nhiều khó khăn và có những sự chênh lệch, khác nhau giữa các đơn vị, giữa các địa phương, giữa các loại hình nghệ thuật có hoặc không có doanh thu. Chúng tôi thấy rằng, trong những năm qua để giải quyết tháo gỡ những khó khăn về kinh phí cho các đơn vị hoạt động đã phụ thuộc vào một số yếu tố sau đây:
-  Sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư ngân sách của lãnh đạo địa phương cho nghệ thuật, đặc biệt vai trò của các đồng chí Gíam đốc Sở Văn hóa Thông tin, của Phó Chủ tịch phụ trách văn xã tỉnh, thành phố, của Giám đốc Sở Tài chính, nhưng quan trọng hơn cả là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Thành ủy.
-  Sự phụ thuộc vào nguồn ngân sách của mỗi địa phương phân bổ cho ngành văn hóa thông tin, ngành lại phân bổ cho nghệ thuật. Được bao nhiêu tiền còn phụ thuộc vào sự đầu trung ương trọng tâm cho mục tiêu nào.
-  Sự phụ thuộc (một phần) ở các Giám đốc hoặc Trưởng Đoàn có sự năng động, có mối quan hệ tốt và có uy tín để thuyết phục lãnh đạo các cấp trên.
-  Nhìn chung việc cấp phát kinh phí cho hoạt động nghệ thuật còn chậm và không đủ. Có địa phương nhiều Đoàn Nghệ thuật, việc cấp kinh phí còn theo kiểu bình quân chủ nghĩa, hoặc chỉ cấp một phần kinh phí, còn lại đơn vị phải lo thu bù chi.
2.2.5. Sau khi sắp xếp lại các Đoàn Nghệ thuật chuyên nghiệp đã nảy sinh một số vấn đề ở một số địa phương. Nhiều sân khấu ca nhạc trở thành tụ điểm kinh doanh nghệ thuật biểu diễn. Trình trạng chạy “sô”, “bầu sô”â diễn biến rất phức tạp. Nhiều Đoàn quảng cáo diễn viên và chương trình sai so với đăng ký. Hiện tượng "ngôi sao" tự phong và bệnh sùng bái ngôi sao của công chúng nhất là ở các địa phương tỉnh lẻ ngày một tăng. Nhiều ngôi sao tự phong rất kêu và rất sáo rỗng như: " Ngôi sao nhạc rốc Châu Á"; "Nữ hoàng nhạc nhẹ"; "thần đồng ca nhạc": Danh hài số một"v.v…Nhiều chương trình được quảng cáo rất kêu như" Đêm đầy sao"; "Đại nhạc hội"; Những ngôi sao Ngọc" (tập trung những ca sĩ có tên đệm là Ngọc"… Nhiều Đoàn tự hình thành do một bầu sô đứng ra chiêu mộ diễn viên. Trong một đêm diễn ca múa nhạc - tạp  kỹ tại Rạp 16/4 thị xã Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, một ngôi sao cải lương Thành phố Hồ Chí Minh nhận "bầu sô" 15 triệu đồng, trong khi các ca sĩ thường chỉ được bồi dưỡng từ 10 - 30 nghìn đồng (diễn viên chính 30 nghìn đồng, diễn viên chính thứ là 20 nghìn đồng, Trưởng Đoàn và diễn viên phụ 10 nghìn đồng, theo Quyết định 174/1999/QĐ-TTg ngày 23/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp thanh sắc và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành Văn hóa Thông tin).
Hiện tượng một "bầu sô" đứng ra tập hợp các nghệ sĩ lại, thành lập một Đoàn và thường lấy tên là Ca múa nhạc tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Ai thích bài gì hát bài ấy, thích diễn tiết mục hài nào cũng được, thiếu sự luyện tập, phối hợp xuyên suốt chương trình, các ca sĩ cứ xếp hàng lên hát, hát xong nhận tiền rồi về. Nhiều trường hợp ca sĩ chỉ nhấp miệng theo băng, đĩa đã thu sẵn.
II- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về nghệ thuật biểu diễn:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã vạch ra đường lối, từ nay đến năm 2020 đất nước ta bước vào một thời kỳ mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một mục tiêu chiến lược lớn mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải thực hiện. Với tinh thần đó, ngành biểu diễn nghệ thuật cả nước quyết tâm phấn đấu theo mục tiêu: “Phấn đấu xây dựng nền nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp, chất lượng cao, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cho thế kỷ 21”.
Để thực hiện được nhiệm vụ lớn lao, nặng nề và vinh quang đó, ngành nghệ thuật biểu diễn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền các tỉnh, thành phố; Ban Cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ Văn hóa Thông tin chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Nhà nước phải quản lý và chỉ đạo xây dựng nội dung các chương trình tiết mục nghệ thuật, các vở diễn sân khấu của toàn ngành để thực hiện đúng mục tiêu, định hướng mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra là:” … Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về Trung ương tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội… Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam. Đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc, khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, coi thường giá trị nhân văn …”
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên có đủ tiêu chuẩn đức và tài để phấn đấu góp phần vào sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của công chúng Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nghiêm khắc chống lối làm ăn dễ dãi, tùy tiện trong lao động nghệ thuật từ khâu luyện tập kỹ thuật và hoạt động biểu diễn phục vụ xã hội.
3. Mỗi đơn vị nghệ thuật từ địa phương đến Trung ương phải đặc biệt quan tâm và có kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục, quản lý tốt đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ, diễn viên theo những tiêu chuẩn, qui chế và qui định của Bộ Văn hóa Thông tin, luôn luôn chăm lo đời sống vật chất tinh thần, giúp anh chị yên tâm, yêu quí nghề nghiệp và có đủ điều kiện hoạt động lâu dài.
4. Tăng cường công tác đào tạo đối với cán bộ lãnh đạo các đơn vị nghệ thuật về mọi mặt để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng quản lý đơn vị, năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động lãnh đạo đơn vị để đạt hiệu quả cao nhất trong nhiệm vụ biểu diễn phục vụ xã hội, chống tư tưởng ỷ lại ở sự bao cấp của Nhà nước, nhanh chóng đưa mọi hoạt động của đơn vị thích nghi với nhưng hoàn cảnh mới, điều kiện mới của cơ chế thị trường, nhưng không đi lệch định hướng nghệ thuật của đơn vị đã được lãnh đạo cấp trên xác định.
5. Chú trọng và tăng cường công tác ổn định tổ chức, bộ máy hoạt động trong các đơn vị nghệ thuật nhằm hỗ trợ cho nhiệm vụ biểu diễn nghệ thuật đạt được những yêu cầu, nhiệm vụ đã nêu trên.
6. Đẩy mạnh công tác đào tạo các lớp cán bộ, diễn viên trẻ có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức phẩm chất tốt làm nguồn bổ sung thay thế cho lớn nghệ sĩ, diễn viên đã có tuổi của các đơn vị nghệ thuật. Đồng thời quan tâm đến công việc đào tạo lại cho số cán bộ, diễn viên công tác lâu năm còn khả năng cống hiến tiếp tục về chuyên môn hoặc có điều kiện làm công việc khác phục vụ cho nghệ thuật. Đặc biệt chú ý đến việc bồi dưỡng và đào tạo các tài năng trẻ xuất sắc trong các loại hình nghệ thuật để mỗi đơn vị tiến tới đều có thể có những nghệ sĩ tiêu biểu, xuất sắc và trở thành những ngôi sao nghệ thuật của từng đơn vị.
7. Thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản, nghị quyết, quyết định và các chế độ, chính sách của Nhà nước, của Bộ văn hóa Thông tin ban hành đối với lĩnh vực hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Trước mắt, cần thực hiện tốt Nghị quyết số 90/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ về chủ trương xã hội hóa từng bước một số lĩnh vực hoạt động văn hóa - nghệ thuật, trong đó nhiệm vụ qui hoạch lại một số các đơn vị nghệ thuật trong toàn quốc nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả biểu diễn phục vụ xã hội.
Nhà nước mà cụ thể là Bộ VHTT tăng cường quản lý vĩ mô đối với nghệ thuật biểu diễn. Tăng cường điều tiết, định hướng về nghệ thuật, bảo đảm tính Đảng, tính dân tộc, tính nhân dân, tính nghệ thuật cho nền nghệ thuật dân tộc hiện đại. Tăng cường học hỏi, chắt lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới để làm giàu thêm bản sắc nghệ thuật Việt Nam. Tháng 7 năm 1998, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ V đã đề ra Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Nghị quyết đã đúc kết những thành tựu đạt được của văn hóa nghệ thuật trong những năm đổi mới, đồng thời cũng nêu lên những hạn chế tồn tại. Nghị quyết đã mở ra những giải pháp, biện pháp để thực hiện mục tiêu cơ bản là " Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Nghị quyết cũng đã đề ra biện pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa.
8.Cần đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế chính sách
Các cơ quan chức năng của Bộ VHTT như Cục Nghệ thuật Biểu diễn, các Vụ Tài chính - kế hoạch, tổ chức soạn thảo các văn bản pháp quy để trình Chính phủ. Những dự thảo đó cần lấy ý kiến tham khảo, đóng góp của các đơn vị nghệ thuật và các cơ quan chủ quản để sát với thực tế. các cơ quan chức năng của Bộ VHTT phải xây dựng hoàn thiện các chính sách chế độ như chế độ nhuận bút, bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn, chế độ thanh sắc cho phù hợp với tình hình hiện nay; chế độ hưu trí, nghỉ việc đối với các diễn viên không có khả năng biểu diễn. Có chính sách đáp ứng yêu cầu lực lượng diễn viên dôi dư trong quá trình sắp xếp lại các đơn vị nghệ thuật… tránh tình trạng tùy tiện sử dụng kinh phí và diễn viên như hiện nay. Trước mắt cần gấp rút ban hành qui chế về tổ chức và hoạt động cho các đoàn nghệ thuật tư nhân, tập thể, gia đinh, các nhóm, băng nhạc tự hình thành.
Về xây dựng, ban hành luật pháp Nghị quyết chỉ rõ: "Xây dựng các luật, pháp luật, các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới… Bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định về giải thưởng, tặng thưởng trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật…"
Về xây dựng, ban hành các chính sách, Nghị quyết nêu: "Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh doanh, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệpn của các đơn vị văn hóa nghệ thuật. Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với biểu diễn nghệ thuật, đưa văn hóa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa."
Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người, sức của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với hoạt động xã hội về văn hóa. Thực hiện đúng theo định hướng về xã hội hóa công tác văn hóa. Thực hiện đúng Nghị quyết của Đảng về cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp, tạo nên động lực, phát huy tiềm năng sáng tạo, tạo nên nhiều giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Cần thực hiện tinh giản, sắp xếp lại các Đoàn Nghệ thuật, được ngân sách Nhà nước tài trợ theo hướng: ở Trung ương tập trung xây dựng các Đoàn Nghệ thuật tiêu biểu, ở địa phương chỉ duy trì những đơn vị tiêu biểu cho truyền thống nghệ thuật địa phương.
Sắp xếp lại các Đoàn Nghệ thuật, Nhà hát ở Trung ương, các thành phố trực thuộc Trung ương một cách hợp lý. Mỗi tỉnh (thành phố trực thuộc tỉnh) chỉ nên có một Đoàn Nghệ thuật truyền thống. Nhà nước bao cấp một phần kinh phí. Thiết lập xây dựng cơ chế chính sách bảo đảm quyền lợi và tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ phát huy tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Cho phép một số Đoàn Nghệ thuật mang tính gia đình, tư nhân hoặc tập thể được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật có sự quản lý của Nhà nước về nội dung và chất lượng nghệ thuật.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc đã chỉ rõ định hướng phát triển cơ chế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với văn hóa nghệ thuật, việc quản lý vĩ mô là không thể thiếu. Nhà nước quản lý là người điều khiển cho nghệ thuật biểu diễn đi đúng định hướng của Đảng mà cơ bản là: "Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Cái khó ở đây là làm sao cho vừa bảo đảm đúng định hướng về văn hóa văn nghệ của Đảng, vừa đảm bảo phù hợp với cơ chế thị trường, giảm sự bao cấp tràn lan cho các Đoàn Nghệ thuật.
Trong tình hình hiện nay, các Đoàn nghệ thuật chưa có khả năng tự trang trải, tự hạch toán kinh doanh mà vẫn là đơn vị sự nghiệp có thu, có nghĩa là vẫn phải tiếp tục bao cấp một phần lớn kinh phí hoạt động. Nhưng khi đã giảm số Đoàn văn công Nhà nước theo tinh thần Nghị định 90/CP thì sẽ giảm được một khoản chi rất lớn. Để giảm kinh phí bao cấp, đồng thời nâng cao được chất lượng nghệ thuật, phương án tinh giảm số lượng các Đoàn Nghệ thuật, tinh giảm bộ máy trong mỗi Đoàn một cách hợp lý là phương án đúng đắn nhất. Đồng thời thực hiện phưong châm" bao cấp khán giả ở vùng sâu. vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến và ở một số địa bàn chiến lược về văn hóa.
Ở Trung ương, nên thành lập mới, đổi mới các Nhà hát chuyên ngành để vừa có chức năng, nghiên cứu nâng cao loại hình nghệ thuật của mình như Nhà hát Tuồng, Nhà hát Chèo, Nhà hát Giao hưởng hợp xướng, Nhà hát Nhạc vũ kịch, Nhà hát ca múa nhạc dân tộc, Đoàn Xiếc, balê… Trong mỗi Nhà hát nên có các Đoàn nhỏ gọn nhẹ nhưng chất lượng nhệ thuật phải có nghệ thuật tầm cỡ đỉnh cao bác học để phục vụ đối ngoại, phục vụ nhân dân khắp mọi miền cả nước, và mang tính chất nghệ thuật "mẫu", hướng dẫn chất lượng nghệ thuật cho cả nước, thực hiện tốt chức năng giáo dục thẩm mỹ cho công chúng.
Các Đoàn Nghệ thuật nói trên hoạt động theo đơn vị sự nghiệp. Nhà nước cấp kinh phí hoạt động, những khoản thu được nhập vào ngân sách và chi theo chế độ chung thống nhất. Để khuyến khích tăng nguồn thu, có thể quy định trích tỷ lệ nhất định từ nguồn thu cón thưởng cho cán bộ diễn viên.
Do đã được Nhà nước cấp kinh phí, các Đoàn phải có tỷ lệ buổi biểu diễn phục vụ nhân dân các vùng sâu, vùng xa, hải đảo theo quy định của cơ quan chủ quản, chương trình kịch nhạc phải theo định hướng nghệ thuật xã hội chủ nghĩa trên cơ sở, chất liệu là văn hóa dân gian truyền thống dân tộc, có tỷ lệ nhất định các loại hình văn hóa nước ngoài có chọn lọc. Diễn viên được bao cấp đêm diễn, Nhà nước có thể giao nhiệm vụ cho Đoàn đi biểu diễn cả những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, góp phần điều tiết mức hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn - thành thị, đồng bằng - miền núi, dân tộc góp phần xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước.
III. Kết luận:
Đảng ta ngay từ khi thành lập đã rất quan tâm đến văn hóa văn nghệ, năm 1942 chúng ta đã có "Đề cương Văn hóa". Các quyết định của Đảng qua từng thời kỳ đều rất quan tâm đến văn hóa. Các thế hệ văn nghệ sĩ lớp lớp trưởng thành. Nhiều anh chị en văn nghệ sĩ  đã "thành danh" nổi tiếng trong và ngoài nước. Biết bao anh chị em, đồng chí đã anh dũng hy sinh khi đang biểu diễn phục vụ ngoài mặt trận. Những năm chiến tranh phong trào "Tiếng hát át tiếng bom", những tác phẩm văn học nghệ thuật, những lời ca tiếng hát đã thôi thúc lòng yêu nước, lòng quả cảm của toàn quân toàn dân ta trong các cuộc chiến tranh thần kỳ. Đã bao con tim, bao bước chân chiến sĩ đã từng đập nhịp với những bài ca kháng chiến. Phong trào văn hóa văn nghệ trong hòa bình đã góp phần không nhỏ vào động lực xây dựng quê hương đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: "Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Ngày nay trong công cuộc đổi mới, xây dựng CNH-HĐH, vai trò to lớn của văn hóa văn nghệ càng được khẳng định, chúng ta sẽ tự đánh mất mình nếu không giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, một bài toán đặt ra là làm thế nào để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong cơ chế thị trường. Nghệ thuật biểu diễn, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ chiến lược về văn hóa, một ngành tập trung hầu hết các tầng lớp văn nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn cần được sự quan tâm, tạo điều kiện để phát triển và có sự quản lý của Nhà nước.
Phan Quốc Anh thực hiện

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn