VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA LỄ HỘI SEN ĐÔN TA CỦA NGƯỜI KHMER TỈNH TRÀ VINH

Trong năm, người Khmer có 3 lễ hội lớn như Senl Đônl Ta, Chôl Chnam Thmay và Ok Om Bok, trong đó Senl Đônl Ta được xem là lễ hội mang đậm nét nhân văn, có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào Khmer tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, những người đã khuất. Đối với người Khmer, lễ hội truyền thống cũng là dịp và cơ hội để mọi người giao lưu, gặp gỡ thể hiện tình đoàn kết keo sơn của họ; lễ hội trở thành loại hình văn hóa đặc sắc không thể thiếu trong đời sông tinh thần và tâm linh của cộng đồng của người Khmer.   

VĂN HÓA HỌC trân trọng giới thiêu tiểu luận Vai trò và ý nghĩa của Lế hội Sen Đôn Ta của người Khmer Trà Vinh của học viên Sơn Thị Cẩm Tiền, lớp cao học 17 - Đại học Trà Vinh - tiểu luận kết thúc môn Văn hóa các dân tộc Việt Nam. VĂN HÓA HỌC và học viên rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn đọc quan tâm.



           

I. PHẦN MỞ ĐẦU

            1. Tiếp cận đề tài

            Việt Nam có 54 dân tộc anh em cộng cư trên một lãnh thổ trải dài từ bắc vào nam. Mỗi dân tộc đều thừa hưởng một nền văn hóa đặc sắc riêng, làm cho dân tộc có nét đặc thù riêng, trong đó bao gồm những giá trị vật chất và phi vật chất đóng vai trò quyết định nền vai hóa của mỗi dân tộc có sắc thái riêng để nhận dạng từng dân tôc một cách dễ dàng. Dân tộc Khmer là một trong những dân tộc có một nền văn hóa phong phú, đa dạng có sức ảnh hưởng lớn và lan rộng đến cộng đồng xã hội; đó là kho tàng văn hóa chứa dựng nét đặc thù độc đáo của dân tộc.
            Người Khmer có hơn một triệu người sống tập trung ở vùng Tây Nam Bộ như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ. Riêng Trà Vinh, Người Khmer chiếm khoảng 290.000 người; họ sống tập trung ở vùng nông thôn; làm nương rẫy; một số họ sống tập trung ở thành thị theo nghề buôn bán. Hầu hết người Khmer có đặc tính là khép kín, cuộc sống của họ ít giao lưu với mọi người cũng như xã hội. Tuy nhiên, họ có một nền văn hóa hóa khá độc đáo, tạo một nét riêng cho dân tộc thể hiện qua văn hóa tinh thần; những giá trị văn hóa này luôn được phát huy và bảo tồn thông qua các lễ hội truyền thống của dân tộc.
            Trong năm, người Khmer có 3 lễ hội lớn như Senl Đônl Ta, Chôl Chnam Thmay và Ok Om Bok, trong đó Senl Đônl Ta được xem là lễ hội mang đậm nét nhân văn, có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào Khmer tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, những người đã khuất. Đối với người Khmer, lễ hội truyền thống cũng là dịp và cơ hội để mọi người giao lưu, gặp gỡ thể hiện tình đoàn kết keo sơn của họ; lễ hội trở thành loại hình văn hóa đặc sắc không thể thiếu trong đời sông tinh thần và tâm linh của cộng đồng của người Khmer.   
            Vì thế để hiểu thêm những giá trị truyền thống, bản sắc của đồng bào dân tộc Khmer thông qua những lễ hội mang tính nhân văn văn sâu sắc, bản thân chọn nghiên cứu đề tài” Vai trò và ý nghĩa của Lế hội Sen Đôn Ta của người Khmer Trà Vinh”.    

            2. Đối tượng nghiên cứu:

            Lễ hội Senl Đônl Ta của đồng bào dân tộc Khmer; tìm hiểu về ý nghĩa của lễ hội. Qua đó, cũng làm rõ ý nghĩa và vai trò của lễ hội đối với người Khmer.

            3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

            Hiểu về ý nghĩa của lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer; vai trò trong đời sông tâm linh của người Khmer. Đồng thời, đưa ra một số phương pháp bảo tồn dân tộc Khmer.  
            4. Phương pháp nghiên cứu: phân tích, tồng hợp và nghiên cứu tài liệu; sử dụng nhiều phương pháp đa dạng nhằm làm rõ vần đề cần được đề cập tới trong bài nghiên cứu.

            II. NỘI DUNG

            Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn

            1.1. Cơ sở lý luận

            1.1.1. Một số khái niệm

            Lễ trong lễ hội là một hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với các thần linh, lực lượng siêu nhiên nói chung, với thần thành hoàng nói riêng. Ðồng thời lễ cũng phản ánh những nguyện vọng, ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống đầy rẫy những khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng cải tạo.
            Hội là một hệ thống trò chơi, trò diễn phong phú và đa dạng. Có thể kể các loại trò sau đây theo đặc trưng tương đối của nó như tròn chơi thượng võ, trò chơi thi tài, trò chơi giải trí, trò chơi phong tục.
            Hội là để vui chơi, chơi thỏa thích, thoải mái. Nó không bị ràng buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác.
            Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡngtôn giáo. Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội để phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa.

            1.1.2. Cơ sở thực tiễn

            Lễ Sen Đôn Ta được tổ chức nhằm tưởng nhớ công ơn cha mẹ, họ hàng, cầu phước cho những người đã khuất và tri ân tổ tiên phù hộ cho xóm làng an vui. Năm nay, bà con Khmer tổ chức lễ trong 3 ngày chính ngày, 30/9, 01 và 02/10 dương lịch.
            Trong những ngày diễn ra lễ hội, các chùa Khmer thường tổ chức nhiều chương trình, biểu diễn nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hóa Khmer như hòa nhạc Ngũ âm, hát dù kê, múa truyền thống lăm vông... cùng với nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán đặc sắc của đồng bào Khmer.
            Người Khmer ở Trà Vinh là một dân tộc thiểu số mang đậm nét tôn giáo là Phật giáo Nam Tông; truyền thống giữ gìn bản sắc dân tộc trong tâm thức của họ rất cao, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc tạo ra nét đẹp bao trùm bản sắc dân tộc. Mặc dù có nhiều thay đổi trong cuộc cuộc sống như về văn hóa vật chất nhưng văn hóa tinh thần của họ vẫn luôn được đề cao; giá trị văn hóa luôn gắn kết với cuộc sống của họ làm cho cuộc sống tinh thần của họ ngày càng phong phú, đa dạng và mang đậm màu sắc chứa đụng tinh thần dân tộc. Theo quan niệm của người Khmer, tín ngưỡng và tôn giáo được xem là vật biểu thị của văn hóa dân tộc, mỗi người sinh ra ai cũng mang trong mình dòng máu phật giáo, luôn hướng về Phật và xem phật là đấng tối cao che chở và bảo hộ cho cuộc cuộc của cả cộng đồng dân tộc.
            Những lễ hội truyền thống của đồng bào được xem là tín ngưỡng tôn giáo, phải được bảo tồn và phát huy. Định kỳ hàng năm, họ luôn tổ chức ngày lễ thể hiện tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, chính họ là những có công sinh thành và nuôi dưỡng họ; đồng thời thể hiện tình đoàn kết cộng đồng dân tộc. Cuộc sống của họ luôn gắn với tín ngưỡng, tôn giáo; đặc biệt là xuất phát từ văn hóa gốc nông nghiệp về cuộc sống của cộng đồng dân cư phải hòa thuận với thuận với thiên nhiên và làm bạn với chúng. Vì thế, lễ hội truyền thống thường gắn với nông nghiệp, gắn yếu tố tâm linh của dân cư nông nghiệp lúa nước, có niềm tin tuỵêt đối vào Đấng thiêng liêng để bảo hộ cho cuộc sông tuyệt đối của họ.          

            Chương 2. Vai trò và ý nghĩa của lễ hội Senl Đônl Ta

            2.1. Nguồn gốc xuất hiện lễ hội Sen Đôn Ta

   Lễ Sen Đôn Ta (hay còn gọi là lễ Phchum ban) bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian.
Truyền thuyết kể rằng vào thời Đức Phật còn tại thế, một hôm vào lúc nửa đêm, trong hoàng cung của vua Tần Bà Sa La có tiếng rên la than khóc. Nhà vua sợ hãi ra lệnh cho mời các nhà tiên tri đến để xem quẻ.
Những nhà tiên tri thưa rằng: “Tiếng kêu khóc này là do các Ngạ quỷ chết oan ức, không gia đình người thân, từ lâu không ai cúng cho họ ăn, nay họ đến xin được ăn uống. Nếu Hoàng thượng không cúng cho họ, thần lo e sợ sẽ có chuyện bắt 100 người nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ cúng tế”.
Nghe xong, hoàng hậu can gián: “Nếu Hoàng thượng làm như vậy, thì sẽ 200 con người và 100 con vật bị chết oan ức, những thân nhân của họ càng phẫn uất và oán trách Hoàng thượng, sẽ càng tổn hại đến vương quốc.
Đức Phật là thầy của chư thiên và phàm dân, vậy mình đem việc này bạch với Đức Phật xem ngài có dạy bảo gì không?”.
Sau khi nghe Hoàng hậu, vua đến chùa bạch với Đức Phật, Đức Phật nghe xong, dạy rằng: “Đây là Ngạ quỷ thuộc dòng dõi quý tộc, là thân nhân quốc thích của nhà vua khi họ còn tại ở dương gian từ nhiều đời nhiều kiếp, do phạm phải lỗi lầm nên bị đọa xuống âm phủ, hiện họ đang thiếu ăn thiếu mặc đến cầu xin đức vua. Nhưng Ngạ quỷ không ăn trực tiếp được, mà phải dâng cúng đồ ăn cho các vị giới đức rồi nhờ các vị đó tụng kinh hồi hướng, thì các ma quỷ đó mới thọ hưởng được”.
Đêm đầu tiên sau khi thực hành theo lời Phật dạy, nhà vua không nghe ma quỷ rên khóc nữa. Nhưng đến đêm thứ hai nhà vua lại tiếp tục nghe tiếng rên khóc nữa. Sáng sớm hôm sau, nhà vua lại đến chỗ Đức Phật xin chỉ giáo. Đức Phật dạy rằng: “Đêm trước là do đã được ăn no nên họ không rên la nữa. Đêm sau họ khóc là do bị rét lạnh vì không có quần áo để mặc”. Nhà vua nghe xong, về chuẩn bị y áo cùng vật thực làm lễ dâng cúng cho chư tăng và nhờ chư tăng hồi hướng.
Sau khi làm lễ, nhà vua không còn nghe tiếng Ngạ quỷ rên khóc nữa. Từ đó về sau mỗi năm cứ đến ngày này là nhà vua lại thỉnh các vị chư tăng đến cúng dường và hồi hướng cho Ngạ quỷ và những người quá cố.
Từ đó về sau, cứ đến ngày 29/8 đến ngày 01/9 âm lịch hàng năm, người Khmer lại tổ chức làm lễ hồi hướng cho những người thân đã mất và cả những người đã mất mà không phải họ hàng. Đến ngày nay đã trở thành một lễ hội truyền thống của người Khmer.
Hàng năm, cứ đến ngày này cho dù đang làm ăn xa, những người Khmer lại quay trở về nhà để cùng gia đình tổ chức lễ Sen Đôn Ta.

            2.2. Vai trò của Lễ hội Sen Đôn Ta

            2.2.1. Đối với đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Khmer

            Truyền thống lễ Sen Đôn Ta, trải qua mấy ngàm năm người Khmer ngoài thế giới hiện hữu còn thế giới linh hồn. Trong thế giói tâm linh của họ luôn mang đạm dấu ấn nét tín ngưỡng tôn giáo, gắn kết cuộc sống của cộng đồng hướng về cội nguồn, dân tộc, quan trọng là những có công với nuội dưỡng, sinh thành; tạo ra bản thân họ có mặt trên thế gian này. Vì thế, lễ hội này có ý nghĩa đặc biệt đối với cộng đồng Người Khmer. Nó mang ý nghĩa tâm linh lẫn vật chất, nét sinh hoạt văn hóa của dân tộc. Nhân dịp lễ hội truyền thống này, cộng đồng dân tộc có xum họp và vây quần bên nhau để tham gia vào những trò chơi gian dân mang dậm chất lễ hội, không thể phủ nhận sự ý thức của scộng đồng thể hiện khá rõ nét thông qua các hoạt động dân gian này, gắn kết cộng đồng. 
            Cộng đồng Khmer Trà Vinh có cuộc sống tinh thần rất phong phú, tạo nên sức mạnh dân tộc, đoàn kết dân tộc thông qua những lễ hội truyền thống và đầy nghĩa dân tộc. Mỗi lễ hội truyền thống này mang một ý nghĩa chung đó là ý thức dân tộc rất cao. Người Khmer nói chung và Khmer Trà Vinh nói riêng xuất phát từ nông nghiệp lúa nước là chinh, họ luôn sông khép kín, không thích giao với dân tộc khác. Tuy nhiên, Sen Đôn-ta là dịp để đồng bào Khmer tưởng nhớ công ơn của tổ tiên, đấng sinh thành và cầu mong mọi điều tốt đẹp đến với gia đình, người thân. Đây được xem là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống được gìn giữ qua nhiều thế hệ, mang tính giáo dục, tính nhân văn của đồng bào dân tộc.       
            Hiện nay, do sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại, cuộc sống của đa số dân cư ngày càng thay đổi; đặc biệt là cộng đồng dân tộc Khmer, họ luôn tập vào công việc để mưu sinh, vì thế họ co thể quên đi nững giá trị văn hóa của dân tộc họ đó lànhững phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống mang đậm tính dân tộc và truyền thống dân tộc không gì thay thế được.
            Lễ hội người khmer ang tính cộng đồng cao, thể hiện sự đồng lòng của mọi người  khi chung tay góp sức cả về vật chất lẫ tinh thần, cùng nhau đón những phước lộc mà Phât, thần linh, ông bà, tổ tiên đã mang đến. Vào những ngày lễ hội người Khmer được nghe lới tụng niệm của các sư hòa vào âm thanh của dàn nhạc ngũ âm vang khắp ngội chùa, vọng cả Phum, sóc. Khi sư sãi tụng kinh trong không khí trang nghiêm của buôi rươac đại lịch và lễ dâng cơm. Tất cả đều đồng lòng hướng về phật, ông bà, tổ tiên và những vị nhiên thần.. với tấm lòng thầnh kính, tưởng nhớ và biết ơn.      

            2.2.2. Đối với xã hội hiện nay

            Trong phát triển hội nhập hiện nay, người Khmer ở Trà Vinh cũng đang dần thay đổi các tập quán, lối sống truyền thống của dân tộc. Phạm vi sinh hoạt không chỉ hạn hẹp trong khuôn khổ gia đình, dòng họ, phum sóc hay chỉ quan hệ giữa những người Khmer với nhau, mà phạm vi sinh hoạt của gia đình người Khmer đã được mở rộng. Người Khmer đã đến trường, vào làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp, quan hệ rộng rãi với tất cả mọi người, hòa nhập vào nhịp sống chung của xã hội. Hiện nay nhờ sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đxa ban nhành nhiều chính sách, chủ trương trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc Khmer như văn hóa vật thể và văn hóa tinh thần.
   Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nền tảng đó đã giúp cho nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các chỉ thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, … góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Những thành tựu nổi bật trong xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua là: văn hóa đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức trong các chính sách kinh tế - xã hội; quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người và những đặc trưng của văn hóa, đặc tính của con người Việt Nam được xác định đầy đủ hơn; vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa được đề cao. Hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng vùng, miền được kế thừa và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với thế giới. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo; xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới; nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được quan tâm đầu tư gìn giữ; nhiều tác phẩm về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới có chất lượng tốt. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng; giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều sắc thái mới, v.v. Bởi vậy, những năm qua, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, “bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”.

            2.3. Ý nghĩa của Lễ hội Sen Đôn Ta

            Lễ Sen Đôn Ta không chỉ để tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên, ông bà mà còn tạo nên nếp sống lành mạnh trong sinh hoạt, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Khmer. Lễ Sen Đôn Ta thường diễn ra dưới hai dạng thức đó Sen Đôn Ta( Đôn có nghĩ là Ba, Ta có nghĩa là Ông) được tổ chức tại Pro Chum Banh( nghĩa là hội cơm nắm, cơm cúng vong linh của ông bà, tổ tiên) được tổ chức tại chùa. Sen Đôn Ta mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo, còn Pro Chum Banh mang màu sắc tôn giáo. Đồng bào Khmer tổ chức Sen Đôn Ta ngày đầu tiên ngày 29/8 âm lịch, cúng kiến ông bà để đón mừng tổ tiên, ông bà về nhà.  Vào những ngày diễn ra lễ hội khắp nơi trong phum, sóc nhà hà đều rộn ràng trong không khí chào đốn Ssen Đôn Ta. Đâu tiên đồng bào Sen( cúng) ông bà bà quá cố; tiếp theo mừng thọ, tặng quà cho ông bà, cha mẹ còn sống; xong các phần nghi thức đó đến bữa cơm sum họp gia đình đố là những vật dùng để Sen( cúng) như cơm, đồ ăn mặn, bánh trái.. khá phong phú, đậm đà hương vị phum, sóc là những sản vật có theo mùa ở địa phương ở đồng bào tự chế biến trong đó bành tế, bánh gừng…  là vật Sen( cúng) phổ biến nhất, là vật Sen Đôn Ta của gia đình đồng bào Khmer, đó là những móm ăn tinh thần của cộng đồng dân tộc Khmer. Tất cả đều được bài trí đẹp mắt và ngăn nắp chia thành hai măm được đặt song song ở nơi tang rọng trong nhà. Những người cao tuổi nhất trong nhà ông bà, cha mẹ  làm chủ bái và đọc bài Sen( cúng) 3 lần có vần, có điệu, có nội dung sâu sắc thể hiên lòng tri ân đến ông bà tổ tiên và những người có công với cộng đồng dân làng đã quá cố. Sáng ngày thứ 2 là ngày 1/9 âm lịch ngày cuối cùng của tháng(phot-Chro- Cho- Khmer); đồng bào Khmer phải thức dậy sơm để chuẩn bị các thứ vật dụng cần thiết đị đến chùa làm lễ Pro Chum Banh và thắp hương bàn thờ tổ tiên cầu mời vong linh của tổ tiên, ông bà đi theo vào chùa. Pro Chum Banh Taqji gồm kềm theo 3 lễ tiết như sau: Róp bat Banh Chôl Bai Banh( đặt bát rước cơm vắt, cơm nắm) cuối cùng Pro Chum Banh( dâng mâm huê vật thực và lễ vật đến các vị chư tăng). Tất cả 3 lễ tiết này đều có nguồn gốc tíng ngưỡng dân gian đến tích truyện phật giáo nam tông Khmer mang đậm dấu ấn màu sắc tôn giáo.
            Trong thời gian diễn ra lễ tiết này, đồng bào Phật tử Khmer đã nghe các vi sư tụng kinh cầu an, cầu siêu nhằm hồi hướng đến người thân quá cố của minh và được nghe thuyết giáp những nội dung mang tính giáo dục khuyên bảo làm đều lành, tránh làm điều xấu và cố gắng tích lũy phước cúng chùa làm từ thiện xã hội theo khả năng của gia đình, để tạo công đức cho mình hiện tại và người thân quá cố. Cũng trong thời gia diễn ra lế hội truyền thống này, tại chùa có nhiều tiết mục văn nghệ, trò chơi vui dân gian để cho đồng bào có không khí, phấn khởi, vui tươi, náo nhiệt trong lễ hội này.
            Ngày thứ 3 của lễ hội Sen Đôn Ta là ngày 2/9 âm lịch của tháng A Sách Khmer. Đồng bào tổ chức Sen(cúng) đưa ông bà, tổ tiên về nơi cũ. Những ngày này khắp nơi trong mọi Phum, Sóc; con cháu phải làm lễ cúng tiễn ông bà, tổ tiên về nơi cũ, bên cạnh đó phải chuẩn bị mọi phương tiện làm bằng bẹ chuối, kết thành những chiếc thuyền nhỏ có trạng bị cờ xí, thức ăn, đồ dùng mang tính tượng trưngvà đem thả xuống sông, rạch để đưa ông, bà trở về an toàn.     
            Lễ Sen Đôn Ta của đồng bào Khmer mang đậm màu sắc tín ngướng, tôn giáo xen lã tín ndân gian, chứa đựng nhiều yếu tố tích cực mangđậm màu sắc dân tộc. Lễ thể hiện được truyền thống đạo lý” Cây có cội, nước có nguồn” của cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung, mang tính nhân văn và tính giáo dục sâu sắc. Lễ Sen Đôn Ta giúp cho thân tộc, gia đình, phum sóc sum họp, đầm ấm thắc chặt tình đoàn kết, yêu thương giúap đỡ lẫn nhau trong phum sóc; cũng là dịp mọi người thăm hỏi, bàn bạc, trò chuyện chuyệ tương lại. Nó mang một ý nghĩa sâu sắc là tình đoàn kết 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa và tình làng nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết, nghĩa đồng bào. Tổ chức xong lễ Sen Đôn Ta này cũng có nghĩa là người Khmer đã làm xong bổ phận báo ân với tổ tiên của mình trong năm.           
            Lễ Sen Đôn Ta không chỉ để tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên, ông bà mà còn tạo nên nếp sống lành mạnh trong sinh hoạt, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Khmer.

            Chương 3. Bảo tồn và phát huy lễ hội Senl Đônl Ta trong xã hội hiện nay

            3.1. Trách nhiệm của Đảng và Nhà Nước

            Đảng và nhà nước nêu cao vai trò lãnh đọao, quan tâm sâu sắc đến việc bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và quan trọng nhất là các di sản văn hóa phi vật thể của tất cả 54 dân tộc Việt Nam. Trong đồng bào dân tộc Khmer là kho tàng văn hóa phi vật thể đẫ được mọi gìn giữ và lưu truyền cho đến nay. Đặc sắc nhật là những lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc, phải kế đến là Lễ hội Sen Đôn Ta( gọi là lễ cúng ông bà). Hàng năm vào dịp lễ hội Đảng và Nhà nước tổ chức họp mặt mừng lễ hội tryền thống mang đậm tính nhân văn sâu sắc của đồng bào Khmer.    
   Ngày 10-10, tỉnh Trà Vinh tổ chức họp mặt mừng lễ Sene Đôn-ta cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ. Hơn 400 đại biểu là cán bộ người dân tộc Khmer, gia đình chính sách gương mẫu tiêu biểu, các vị Sư cả, Àcha và những người có uy tín trong cộng đồng người Khmer trong tỉnh đã tham dự.
Năm 2015, thực hiện Chương trình 135, Trà Vinh được Trung ương phân bổ nguồn vốn hơn 46,8 tỉ đồng, đến nay tỉnh giải ngân cho các địa phương xây dựng mới và duy tu 71 công trình hạ tầng kỹ thuật cho vùng đồng bào Khmer khó khăn, khôi phục sản xuất, sinh hoạt. Thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho hộ dân tộc thiểu số nghèo, toàn tỉnh Trà Vinh có 11.177 hộ và 603 lao động trong diện được hưởng lợi, tỉnh đã hỗ trợ đất ở cho 2010 hộ, chuộc đất sản xuất cho 468 hộ. Ngoài ra, tỉnh Trà Vinh thực hiện nhiều chương trình lồng ghép về giáo dục, y tế, các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia. Chất lượng giáo dục và đào tạo trong vùng đồng bào Khmer có nhiều tiến bộ. Hàng năm, tỷ lệ học sinh Khmer vào học ở các cấp ngày càng tăng. Năm học 2015-2016, toàn tỉnh có hơn 58.390 học sinh dân tộc Khmer theo học các bậc học phổ thông, chiếm 31,40% so với học sinh chung của tỉnh. Các trường ở vùng có đông đồng bào Khmer đều được tổ chức dạy song ngữ. Các trường Phổ thông dân tộc nội trú từ tỉnh đến huyện được bổ sung trang thiết bị đảm bảo cho công tác dạy và học.
Dịp này, tỉnh Trà Vinh đã dành nguồn ngân sách hơn 400 triệu đồng tặng quà các gia đình chính sách tiêu biểu là người dân tộc Khmer, các chùa Khmer, hộ đồng bào Khmer đặc biệt khó khăn trong tỉnh đón lễ Sene Đôn-ta vui tươi, đầm ấm.
Có thể nói, cùng với sự quan tâm đầu tư của Chính phủ và các địa phương về nguồn vốn thực hiện chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư xây dựng nhà ở, hỗ trợ vốn sản suất cho đồng bào Khmer, hoạt động chăm lo các hoạt động văn hóa, xã hội luôn được các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt quan tâm. Sự chăm lo này đã góp phần động viên đồng bào Khmer Nam bộ phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối với dân tộc thiểu số, từ đó hăng say lao động sản xuất phát triển kinh tế cho gia đình và địa phương

            3.2. Đối với đồng bào Khmer Trà Vinh

Trà Vinh Là một trong những tỉnh thuộc vực Tây nam Bộ có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer khá phong phú và đa dạng xen lẫn những lễ hội truyền thống của đầng bào dân tộc; ý thức dân tộc về giũ bản sắc trong tâm thức của họ rất cao.Đa số đồng bào dân tộc Khmer theo tôn giáo phật giáo Nam tông. Vì thế, mọi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo luôn hướng về Phật; Khi đề cập đến lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer, phải liên tưởng ngay đó Lễ Sen Đôn Ta mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên và những đã quá cố.     
Quá trình nhận thức và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống của đòng bào dân tộc Khmer; cần nêu cao tinh thần và giáo dục cho đồng bào và nhữn thề hệ hiểu tầm quang trọng chủ những lễ hội dân tộc tộc. Hiện nay, do sự tác động của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cuộc sống gày càng phát triển kéo theo những nhu cầu cuộc sống ngày càng được nâng cao. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa ngày càng được mở rộng; đồng bào dân tộc tộc Khmer đã có những thay đổi đáng kể về kinh tế, văn hóa, giáo dục. Do sự thay đổi như thể cũng ảnh hưởng đến sự lãng quên những giá trị truyền thống dân tộc đã được cha ông ta giũ gìn từ xưa đến nay. Đối với người Khmer cần nhận thức sâu sắc về việc phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc đi đối với việc giáo dục nhân thức sâu sắc; chúng có tầm ảnh hưởng lớn đến tâm thức cả cộng đồng dân tộc; giúp gắn kết cộng đồng  và đoàn kết dân tộc; tạo nên bản sắc văn vắn đăn trưng và rường tồn theo thời gian.      

            3.3. Một số quan điểm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Khmer Trà Vinh

Trên cơ sở thực tế khách quan, quá trình nghiên cứu, nhà nghiên cưus đưa ra một vài quan điểm về giũ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Khmer đó là những lễ hội truyền thống Senl Đôn Ta của đồng bào Khmer như sau:
Thứ nhất, trước bối cảnh toàn cầu hóa, xu thế thông tin và ít nhiều không đồng thuận với lối sông văn hóa như hiện nay, cần sớm xây dựng bộ khung chung về bản sắc dân tộc của Người Khmer Nam bộ nói chung và Khmer Trà Vinh nói riêng để làm cơ sở cho các Chính sách Đảng và Nhà nước về vấn đề văn hóa để dân tộc Khmer hiểu, biết và định hướng cho sự phát triển văn hóa dân tộc mình.
Thứ hai, gìn giữ bản sắc gắn liền với hội nhập và phát triển. Những bản sắc văn hóa truyền thống cảu người Khmer nếu không phát huy thì đưa vào danh sách bảo tồn. Đồng thời, chúng ta đang tiếp cận cách làm”  Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; phát huy vai trò lễ hội truyền thống mang tính dân tộc xen lẫn tính văn hóa, hòa nhập vào cuộc sống và tồn tại trong tâm thức của đồng bào Khmer.
Thứ ba, Kết hợp nhân tố kinh tế văn hóa, an ninh quốc phòn, thực hiện chính sách văn hóa chính sách dân tôc có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần xây dựng một chính sách văn hóa đặc thù cho cộng đồng Khmer Nam bộ nói chung và Khmer Trà Vinh nói riêng để duy trì những yếu tố then chốt trong việc xây dựng và thiết kế mô hình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Khmer; gắn bảo tồn với nghiên cứu khai thác; tiếp nhận những quan điểm tiên tiến, những cách làm sáng tạo, phù hợp.     

            III. KẾT LUẬN

Sen Đôn Ta là một trong ba lễ hội lớn và đóng vai quan trọng tâm thức của cộng đồng Khmer Nam bộ nói chung và Khmer Trà Vinh nói riêng. Người Khmer Trà Vinh, lế hội truyền thống ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống cộng đồng Phum, Sóc của họ; gắn liền với đồi sống tinh thần và mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong tâm linh của đồng bào Khmer. Ngoài ý nghĩa tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên đã khuất; lễ hội này còn có một ý nghĩa là thể hiện sự gắn kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc. Trong dịp này, đồng bào trong Phum, Sóc có cơ hội tụ tập bên nhau, trò chuyện, chia sẻ, tham gia những hoạt động truyền thống mang tính chất đoàn kết trong ộng đồng dân tộc.
Lễ hội truyền thống thể hiện mối quan hệ tôn trọng giũa con người với thần linh cùng với những người đã khuất. Theo quan niệm người Khmer, đối với ông bà, tổ tiên thì” Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”. Lễ hội truyền thống Sen Đôn Ta đặc biệt để đồng bào Khmer sum họp, gần gũi nhau hơn trong cuộc sống tinh thần xen lẫn vật chất.     
    
























Tài liệu tham khảo


[1].http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/248/0/8180/Hop_mat_mung_le_Sene_Don_ta_co_truyen_cua_dong_bao_Khmer
[3].  ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016.
[4]. Nguyễn Tiến Dũng,  Giải phát giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tháng 6/ 2014.
văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn