LỄ HỘI ĂN LÚA MỚI VÀ TẾT NĂM MỚI CỦA NGƯỜI RAGLAI


LỄ HỘI ĂN LÚA MỚI VÀ
TẾT NĂM MỚI
CỦA NGƯỜI RAGLAI

                                                                                   Phan Quốc Anh
Trải qua quá trình lịch sử, văn hóa của người Raglai chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hóa của các dân tộc cận cư, cộng cư như Việt, Chăm, Chu ru… Trước đây, một số nhà nghiên cứu văn hóa Raglai nhận định rằng, văn hóa cổ truyền Raglai đã mất mát nhiều và chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa của người Việt, người Chăm, nhất là hình thức thể hiện như trang phục, nhà cửa, công cụ lao động, nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực… Qua một thời gian khá dài nghiên cứu văn hóa Raglai, chúng tôi nhận thấy người Raglai vẫn bảo lưu được một nền văn hóa cổ truyền phong phú, đa dạng, nhất là mảng văn hóa phi vật thể, như hệ thống lễ hội và kho tàng sử thi.


Tuy nhiên, đã từ lâu, người Raglai không biết tết năm mới của dân tộc mình vào thời điểm nào. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trường kỳ, gian khổ, vùng đồng bào Raglai sinh sống trở thành chiến khu, người Raglai đã nuôi giấu cán bộ và trực tiếp tham gia đánh giặc, góp phần không nhỏ vào thành công của cách mạng. Cũng trong giai đoạn này, người Raglai tiếp nhận văn hóa Việt đến từ nhiều vùng miền trong cả nước. Trong môi trường văn hóa kháng chiến, một số đồng bào Raglai đã cùng đón tết năm mới với người Việt, mặc trang phục Việt, ảnh hưởng dân ca, dân vũ của nhiều dân tộc phía Bắc (1). Đã từ rất lâu, người Raglai không có tết năm mới của riêng mình mà chỉ tổ chức một số lễ hội cổ truyền. Trước tình hình ấy, vào năm 2001, Tỉnh ủy Ninh Thuận đã có văn bản chỉ đạo cho các cấp chính quyền vùng đồng bào Raglai tổ chức cho bà con Raglai đón năm mới cùng với tết năm mới của người Việt.
Với góc độ nghiên cứu khoa học văn hóa, chúng tôi thấy một vấn đề đặt ra là cần phải đi tìm và khôi phục lại tết năm mới cổ truyền của người Raglai.
Cũng như các dân tộc có nền văn minh nông nghiệp khác, tết năm mới hay lễ hội đầu năm đều có nguồn gốc từ các lễ nghi nông nghiệp. Người Raglai xưa nay vẫn duy trì hệ thống nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời khá phong phú.
Người Raglai cũng như các dân tộc Malayo - Pôlinésien khác ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu của miền Trung - Tây Nguyên với 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Với vùng khí hậu khô nóng như Ninh Thuận, các cây trồng phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên. Để trồng lúa và các loại hoa màu khác, người Raglai có các nghi lễ liên quan đến đất đai, nương rẫy như lễ cúng rẫy cũ, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, dọn rẫy mới (du canh). Người Raglai cũng có những nghi lễ theo chu kỳ cây lúa như: lễ tỉa hạt, lễ cúng lúa chửa (cúng bà đỡ), lễ cúng lúa chín, lễ hội ăn lúa mới, lễ hội ăn đầu lúa.
Trong các nghi lễ nông nghiệp của người Raglai, đáng chú ý là lễ hội ăn lúa mới và lễ hội ăn đầu lúa. Nhưng trong hai lễ ấy, lễ hội ăn đầu lúa không được tổ chức định kỳ hàng năm mà ba hay bảy năm mới làm một lần. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung xem xét các thành tố của lễ hội ăn lúa mới.
Để xác định một lễ hội mang tính chất tết năm mới hay không, chúng tôi dựa vào các đặc trưng dân gian của lễ hội là: thời gian, không gian, tính cộng đồng, tính nguyên hợp của lễ hội.
1. Thời gian lễ hội
Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch, khi tiếng sấm vang lên với quan niệm là bắt đầu khai thông đất trời, âm dương giao hòa, cây cối đâm chồi nảy lộc là người Raglai lại tổ chức làm lễ ăn lúa mới. Lúc này, mùa màng đã thu hoạch xong, lúa, bắp đã về đậu trong nhà (theo cách nói của người Raglai, tức là khi lúa bắp đã được đ­ưa lên nhà sàn kho) nhưng chưa ai được phép lấy ra ăn (2). Muốn lấy lúa, bắp ra ăn, phải làm lễ cúng ăn lúa mới. Trường hợp lúa, bắp đã đưa vào kho nhưng chưa cúng, không còn gì để ăn, chủ nhà có thể cắt cây cỏ may, cột lại thành bó, nhúng vào nước cúng khấn xin ăn lúa hoặc bắp tạm rồi mới được lấy một ít xuống ăn. Nhiều gia đình Raglai sợ các yàng trừng phạt, sẽ bị rắn rết cắn, hổ ăn thịt hoặc ốm đau, bệnh tật nên chưa cúng là chưa dám lấy lúa bắp ra ăn. Họ đành đi đào củ mài, khoai mì, củ chuối ăn qua ngày, chờ khi nào cúng xong lễ ăn lúa mới mới lấy lúa bắp ra khỏi kho. Đây cũng là thời gian nông nhàn, người Raglai lên rừng săn bắt hái lượm về làm lễ vật và chuẩn bị bước vào chu kỳ sản xuất mới.
Lễ hội ăn lúa mới kéo dài trong hai ngày một đêm. Ngày làm lễ do thầy cúng chọn.
Thời gian là một trong những đặc điểm quan trọng để xác định tết hay không phải là tết. Người Việt thường nói: năm hết tết đến nhằm tống cựu nghênh tân. Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á thì tết còn là thời điểm chuyển mùa. Đất nước ta trải dài theo trục Bắc - Nam, khí hậu chia làm hai miền rõ rệt. Tết năm mới của người Việt ở phía Bắc là thời tiết chuyển từ mùa đông giá lạnh sang mùa xuân ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa đua nở. Đối với vùng đất phía Nam khu vực Đông Dương, các dân tộc bản địa xưa kia như Chăm, Khơme, Thái, Lào, thời điểm chuyển mùa là chuyển từ mùa khô sang mùa mưa. Năm mới là sự tống ôn, tống tiễn mùa khô hạn nắng cháy đi và đón năm mới với mùa mưa mát mẻ tới. Dân tộc Raglai là dân tộc gần gũi nhất với người Chăm, ảnh hưởng văn hóa Chăm, trong đó có lịch pháp. Theo lịch của người Chăm, một năm cũng có 12 tháng và tháng tính theo mặt trăng, năm tính theo các vì sao. Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh, người Chăm và các dân tộc Nam Đông Dương tiếp nhận lịch theo hệ thống lịch Saka của Ấn Độ. Lễ hội Rija Nưgar đầu năm của người Chăm vào tháng 1 lịch Chăm, khoảng tháng 4 dương lịch (3). Về thời tiết thì lúc này sao Rua (sao Tua rua) xuất hiện, là lúc kết thúc mùa khô và bắt đầu mùa mưa ở vùng miền Trung Việt Nam. Như vậy lễ hội Rija Nưgar của người Chăm gần như trùng với các tết của các cư dân Đông Nam Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ như tết năm mới cổ truyền Soông Kran của người Thái ở Thái Lan, tết năm mới Bun pi may của Lào, tết năm mới Chol Chnam Thmây của người Khơme và tết Thagyamin của người Myanma. Những lễ hội này đều có những nghi lễ cầu mưa hoặc té nước (4). Lễ hội ăn lúa mới của người Raglai cũng rơi vào thời điểm này (5).
Như vậy, nếu căn cứ theo thời gian, nông lịch ứng với vũ trụ như mặt trăng, mặt trời, các vì sao và căn cứ vào sự chuyển mùa ở vùng Nam Trung Bộ là chuyển từ mùa khô sang mùa mưa thì lễ hội ăn lúa mới rõ ràng là lễ hội chuyển mùa. Đây là căn cứ quan trọng để giải thích vì sao lễ hội ăn lúa mới trùng với tết đón năm mới của các cư dân Đông Nam Á, và chính là tết năm mới của người Raglai.
2. Không gian, tính cộng đồng của lễ hội
Vùng đồng bào Raglai không có già làng như các dân tộc Tây Nguyên, vai trò quyết định các việc lớn của cộng đồng là bà trưởng tộc. Tuy nhiên, cũng như dân tộc Chăm, tuy theo chế độ mẫu hệ, vai trò của người phụ nữ là rất lớn, nhưng việc tổ chức nghi thức cúng lễ là đàn ông, phụ nữ chỉ đóng vai trò chỉ đạo và nội trợ. Địa điểm thực hành các nghi lễ cúng thường là tại nhà sàn thiêng của dòng tộc. Đây là nơi chỉ để tế lễ thần linh, không có người ở, nơi cất giữ những vật báu của dòng tộc gồm chiết đựng y trang, xâu chuỗi hạt cườm, nhẫn, còng, kiềng, ghè, ché, nhạc cụ truyền thống như mã la, trống, chiêng, lục lạc, khèn bầu…
Theo các cụ già Raglai kể lại, cách đây mấy chục năm, lễ ăn lúa mới được tổ chức lớn hơn ngày nay nhiều. Tất cả các dòng tộc đều tổ chức và coi lễ ăn lúa mới là lễ hội đầu năm, tương tự như lễ hội Rija Nưgar của người Chăm. Mặc dù mọi người không đến từng nhà chúc tụng nhau, nhưng tất cả lời chúc tụng đều đã thể hiện trong lời cầu khấn của ông thầy cúng trong nghi lễ ăn lúa mới:
“Tôi tớ xin phép bề trên nhớ tới đầu năm, đầu tháng, đầu mưa, đầu gió, xin cho thân ng­ười cứng như­ đá tảng, đầu cứng như sắt, gia đình sum họp, lên núi vững, xuống sông chắc, lên rừng cọp beo xa lánh, phát rẫy làm n­ương chắc rựa, chắc rìu. Rắn không dám cắn, kiến đỏ, kiến đen không dám đốt, lên núi lên rừng đi tới nơi, về tới nhà, đi không mệt, về không mỏi, làm rẫy đư­ợc rẫy, lúa, bắp, khoai, kê, về đậu đầy nhà. Heo gà đầy chuồng, muốn gì đ­ược nấy”.
Trong lễ tẩy uế, tống ôn:
“ … Xin ngài hãy rút hết chông gai, rút hết ốm đau, bệnh tật, đại họa. Xin ban cho sức khỏe để chạy nh­ư chó, cất vó như­ ngựa, đi không mệt, về không mỏi, muốn vàng có vàng, muốn bạc có bạc”.
Như vậy, lễ ăn lúa mới được tổ chức theo từng dòng tộc ở tất cả các vùng đồng bào Raglai sinh sống với sự tham gia của tất cả già, trẻ, gái, trai. Yếu tố này khẳng định không gian rộng lớn và tính cộng đồng cao của lễ hội.
3. Phần lễ và phần hội
Phần lễ và phần hội cũng là một đặc trưng nguyên hợp của lễ hội, là một trong những tiêu chí để xem xét lễ hội đó có phải là tết năm mới hay không?
Phần lễ
Là c­ư dân nông nghiệp Đông Nam Á, tín ng­ưỡng dân gian của người Raglai là tín ng­ưỡng đa thần. Người Raglai tin rằng có rất nhiều thần linh ngự ở khắp mọi nơi: thần núi, thần suối, thần sông, thần mặt trời, thần m­ưa, thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp… mặc dù các yàng đều vô hình nhưng luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Raglai, ban cho mùa màng t­ươi tốt, cho con người khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã tụ tập về thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ cho con cháu làm ăn. Vì vậy, khi thu hoạch lúa bắp, việc đầu tiên là phải làm lễ cúng tạ ơn thần linh.
Mục đích chính của lễ hội ăn lúa mới là lễ chuyển mùa, tống tiễn mùa khô, cầu mưa, cầu nước cho vụ mùa tươi tốt. Lễ còn là sự đánh dấu kết thúc một chu kỳ sản xuất trong năm với sự mừng vui, ơn trả nghĩa đền đối với tổ tiên, đối với các yàng đã nhớ lời cầu khẩn trong lễ cúng năm trước mà ban cho được mùa, trư­ớc khi h­ưởng thụ thành quả lao động. Theo chu kỳ, lễ lại nhằm mục đích tạ ơn các yàng của mùa vụ cũ và cầu khấn tốt đẹp hơn cho vụ mùa tới. Lễ hội còn là dịp để bà con trong dòng tộc nội, ngoại ở các nơi tụ hội về gặp mặt, thăm hỏi nhau. Mâu thuẫn trong gia tộc nếu có cũng đ­ược hòa giải từ các cần hút cắm chung trong một ché rư­ợu cần cúng tổ tiên.
Chủ lễ của người Raglai là các thầy cúng (Pujau). Xưa kia, làng nào cũng có thầy cúng. Những năm sau 1975, với việc hạn chế cúng lễ, cho đó là mê tín dị đoan, nhiều thầy cúng được vận động bỏ nghề. Điều đáng nói là sau mấy chục năm vận động, hình thức, quy mô các lễ hội có giảm, nhưng niềm tin của bà con Raglai vào thần linh (yàng) vẫn không thay đổi. Vì vậy họ vẫn duy trì các lễ nghi nông nghiệp truyền thống. Chỉ có lễ cúng chữa bệnh là giảm hẳn, thỉnh thoảng mới có thầy cúng hành nghề một cách lén lút. Để làm thầy cúng phải học thuộc các bài khấn, tế truyền miệng và các nghi thức, động tác cúng.
Sau khi thầy cúng chọn ngày, những người lớn tuổi trong làng và các trưởng tộc phân công các công việc cho dân làng. Đàn ông lo dọn dẹp nhà cửa, làm cây nêu, sắp đặt bàn lễ, chọn ngư­ời vào đội đánh mã la (một loại chiêng bằng), mỗi đội từ 7, 9 đến 12 người đánh nhạc lễ… Phụ nữ làm công việc nội trợ, chuẩn bị lễ vật như rang lúa mới, giã cốm, nấu cơm, nhặt thái rau quả.
Những lễ vật như­ r­ượu cần, gà, cua núi, cá khô, hành củ… chuẩn bị sẵn sàng tr­ước đó một đêm. Bàn lễ chính đ­ược đặt ở hướng Bắc, bàn lễ phụ đặt ở hướng Nam và bao giờ cũng đặt ở sát chân cột chính nằm giữa nhà sàn - đ­ường lên xuống của tổ tiên, thần thánh - nơi luôn đ­ược đặt ché r­ượu cần. Trong lễ hội của người Raglai, việc ăn chỉ đóng vai trò phụ, uống rượu cần là chính, do vậy ở các lễ hội nh­ư lễ ăn lúa mới, đám tang, lễ bỏ mả họ làm ít nhất trên 30 ché rượu cần.
Lễ cúng thường được bắt đầu vào khoảng 13 giờ.
Lễ thức đầu tiên là lễ đổ nước vào ché rượu cần. Ông thầy cúng ngồi xếp bằng trước bàn lễ phụ ở hướng Nam, trên đó đặt ché r­ượu cần. Khấn xong, ông chủ lễ hút rượu cần mang sang bàn lễ chính ở hướng Bắc. Trên cổ ché rư­ợu, ng­ười ta quàng một chuỗi vòng c­ườm, hạt lớn. Trư­ớc ché rư­ợu là một mâm lễ, trên đặt một bát lửa than, hai bát n­ước lã, một mủng gạo đầy. Trên thành mủng gạo cắm một cây nến bằng sáp ong đang cháy. Tiếp theo, ông khấn xin cắt tiết gà. Ông chắp hai tay lên đầu khấn báo, khấn mời yang Ngok, yang Gru (thiên thần) yang Cơk (thiên thần) yang muk kay (nhân thần) về dự lễ ăn lúa mới của gia tộc, mời bề trên chứng giám cho lễ cắt tiết gà, đổ nư­ớc vào ché r­ượu cần. Khấn rằng: “Gà khỏe mạnh, rượu cần tinh khiết không phải là cặn bã... lễ vật này là để nghĩa đền, ơn trả đối với bề trên”.
Sau khi khấn, gà sẽ đem đến trư­ớc bàn thờ hướng Nam cắt tiết, nước sẽ đ­ược đổ vào ché. Khấn xong, hai người trong gia đình đến bên ché rư­ợu, hút r­ượu cần ra bầu, ra bát, bưng qua bàn lễ hướng Bắc.
Sau đó là đến lễ cúng chính. Bàn lễ hư­ớng Bắc đặt sát vách. Trên tường, chính giữa bàn lễ, người ta dùng 2 sợi dây cột đầu một đoạn dài khoảng 0,8 mét hoặc đóng dính giăng ngang 1 sợi dây. Trên đó người ta treo một bộ áo, váy, khăn của phụ nữ, ở hai đầu dây được móc vào 2 hạt cườm. Lễ vật trong lễ cúng chính gồm: 1 con gà, 1 ché r­ượu cần, 5 bát cơm cao ngọn. Trên mỗi bát cơm đều có 1 con cua núi và 1 củ hành để nguyên cả lá. Ngoài ra còn có nhiều chén hạt nổ, gạo, nước lã, trầu cau. Các lễ vật này đ­ược sắp thành 3 mâm theo hàng dài: mâm của các yàng, mâm của ông bà, mâm dành cho thổ địa.
Nội dung lời khấn trong lễ này là mời các thần tạo dựng đất trời, mưa gió, cây cối, con người và muôn vật, mời thần linh ông bà tổ tiên, linh hồn những người đã khuất về hưởng thảo lễ vật, về ăn lúa mới và cầu xin các thần linh ban cho sự sinh sôi nảy nở cho con người, vật nuôi và cây trồng.
Sau đó là phần lễ cúng thần lúa, bắp. Người Raglai quan niệm lúa và bắp cũng có hồn. Lúa là hồn con gái, bắp là hồn con trai và phải làm các nghi lễ cúng. Trong phần lễ này có các bài hát khấn ru hồn lúa, hồn bắp. Khi cúng xong, thầy cúng làm lễ chúc phúc cho các thành viên trong tộc họ.
Phần hội
Sau khi các thầy cúng làm xong các nghi lễ cúng kính, đội mã la bắt đầu múa vòng tròn và đánh trống, chiêng và mã la. Dẫn đầu là người đánh trống lớn, ăn mặc chỉnh tề từ ngoài sân đi vào nhà, theo sau là 7 nhạc công mã la (bộ mã la Raglai được coi như một gia đình mẫu hệ, mã la mẹ và các mã la con gái: mã la con cả, mã la con giữa, mã la con thứ, mã la con út). Họ vừa nhảy múa vừa đánh hàng trăm điệu mã la. Mọi người mời nhau uống rượu cần trong không khí vui vẻ. Nhiều thanh niên mang theo các nhạc cụ của mình như kèn môi, khèn bầu, đàn chapi và tâm sự với nhau bằng các âm thanh nhạc cụ và các làn điệu hát giao duyên rất phong phú như các điệu: manhi, hari, sari, mayeng, kathơng, doh dăm da ra… Mọi người uống rượu cần, đánh mã la, nhảy múa suốt đêm...
Qua phân tích các đặc trưng dân gian, nguyên hợp và các yếu tố về thời gian, không gian của lễ hội ăn lúa mới, chúng tôi cho rằng lễ hội này chính là tết năm mới xưa kia của tộc người Raglai. Rất cần có các công trình nghiên cứu sâu hơn về lễ hội này và đi đến kết luận cuối cùng. Nếu đúng lễ hội ăn lúa mới thực sự là tết năm mới, thì cần có kế hoạch khôi phục lại đầy đủ các yếu tố gốc của lễ hội và tạo điều kiện cho bà con Raglai tổ chức tết năm mới riêng cho mình (tương tự như lễ hội Ka tê của dân tộc Chăm) nhằm góp phần bảo tồn sắc thái văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai, phát huy tính đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
                                                    P.Q.A
_______________
1. Trong quá trình đi sưu tầm dân ca Raglai, chúng tôi đã sưu tầm được một số bài dân ca hát bằng tiếng Raglai nhưng giai điệu là dân ca các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc; có cả những điệu múa như múa sanh tiền.
2. Người Raglai có hai loại nhà sàn, nhà sàn lớn để ở, nhà sàn làm kho chứa lúa bắp có kích thước nhỏ hơn, chủ yếu để ngăn không cho thú dữ ăn lúa bắp.
3. Xem Phan Quốc Anh, Tết của người Chăm, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, số 01 (223), 2003.
4. Theo sự phân tích này thì tết của người Chăm là lễ hội Rija Nưgar chứ không phải là lễ hội Katê. Nhưng ngày nay, người Chăm coi Katê là “tết” lớn nhất trong năm.
5. Lễ ăn lúa mới cũng có sự chênh lệch chút ít thời gian so với lễ hội Rija Nưgar của người Chăm nhưng đó là điều không thể tránh khỏi vì người Raglai chưa có chữ viết, chưa có lịch pháp thành văn như người Chăm. Ngày tháng làm lễ chủ yếu dựa vào thời tiết, mùa vụ và cách tính của thầy cúng.


văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn