Phan Quốc Anh
Raglai là một trong năm tộc người thuộc ngữ hệ
Malayo - Polinésien (Nam đảo) ở Việt Nam. Tên tộc người này được các tài liệu
phiên âm và dùng các ký tự khác nhau như: Raglai, Radlai, Oranglai, Roglai,
Rắclây.v.v…
Người Raglai cư trú ở vùng núi cao dọc sườn
đông cuối dãy Trường Sơn các tỉnh cực Nam Trung bộ gồm các tỉnh Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Người Raglai cư trú đông nhất là ở tỉnh Ninh
Thuận (trên 50%). Trải qua quá trình lịch sử, văn hóa của người Raglai chịu ảnh
hưởng khá nhiều văn hóa của các dân tộc cận cư, cộng cư như Việt, Chăm, Chu ru…
Trước đây, một số nhà nghiên cứu văn hóa Raglai nhận định rằng, văn hóa cổ
truyền Raglai đã mất mát nhiều và chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa của người
Việt, người Chăm, nhất là hình thức thể hiện như trang phục, nhà cửa, công cụ
lao động, nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực… Nhưng qua một thời gian nghiên
cứu văn hóa Raglai, chúng tôi nhận thấy người Raglai vẫn bảo lưu được một nền
văn hóa cổ truyền phong phú, đa dạng, nhất là mảng văn hóa phi vật thể, như hệ
thống lễ hội và kho tàng sử thi. Tuy nhiên, dù ít hay nhiều, văn hóa Raglai
cũng đã có phần mai một.
Đã từ lâu, người
Raglai không biết tết năm mới của dân tộc mình vào thời điểm nào. Người
Raglai không có tết năm mới của riêng mình mà chỉ tổ chức một số lễ hội
cổ truyền. Trước tình hình ấy, vào năm 2001, Tỉnh ủy Ninh Thuận đã có văn bản
chỉ đạo cho các cấp chính quyền vùng đồng bào Raglai tổ chức cho bà con Raglai
đón năm mới cùng với tết năm mới của người Việt. Với góc độ nghiên cứu khoa học
văn hóa, chúng tôi thấy một vấn đề đặt ra là cần phải đi tìm và khôi phục lại
tết năm mới cổ truyền của người Raglai.
Cũng như các dân tộc
có nền văn minh nông nghiệp khác, tết năm mới hay lễ hội đầu năm đều có nguồn
gốc từ các lễ nghi nông nghiệp. Người Raglai xưa nay vẫn duy trì hệ thống nghi
lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời khá phong phú.
Người Raglai cũng như
các dân tộc Malayo - Pôlinésien khác ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng của thời tiết
khí hậu của miền Trung - Tây Nguyên với 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Với vùng khí hậu
khô nóng như Ninh Thuận, các cây trồng phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên. Để
trồng lúa và các loại hoa màu khác, người Raglai có các nghi lễ liên quan đến
đất đai, nương rẫy như lễ cúng rẫy cũ, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, dọn rẫy mới (du
canh). Người Raglai cũng có những nghi lễ theo chu kỳ cây lúa như: lễ tỉa hạt,
lễ cúng lúa chửa (cúng bà đỡ), lễ cúng lúa chín, lễ hội ăn lúa mới, lễ
hội ăn đầu lúa.
Trong các nghi lễ nông
nghiệp của người Raglai, đáng chú ý là lễ hội ăn lúa mới và lễ hội ăn
đầu lúa. Nhưng trong hai lễ ấy, lễ hội ăn đầu lúa không được tổ chức
định kỳ hàng năm mà ba hay bảy năm mới làm một lần. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập
trung xem xét các thành tố của lễ hội ăn lúa mới.
Để xác định một lễ hội
mang tính chất tết năm mới hay không, chúng tôi dựa vào các đặc trưng
dân gian của lễ hội là: thời gian, không gian, tính cộng đồng, tính nguyên hợp
của lễ hội.
1. Thời gian lễ hội
Hàng năm, cứ vào
khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch, khi tiếng sấm vang lên với quan niệm là bắt
đầu khai thông đất trời, âm dương giao hòa, cây cối đâm chồi nảy lộc là người
Raglai lại tổ chức làm lễ ăn lúa mới. Lúc này, mùa màng đã thu hoạch
xong, lúa, bắp đã về đậu trong nhà (theo cách nói của người Raglai, tức
là khi lúa bắp đã được đưa lên nhà sàn kho) nhưng chưa ai được phép lấy ra ăn[2]. Muốn lấy lúa, bắp ra ăn,
phải làm lễ cúng ăn lúa mới. Trường hợp lúa, bắp đã đưa vào kho nhưng
chưa cúng, không còn gì để ăn, chủ nhà có thể cắt cây cỏ may, cột lại thành bó,
nhúng vào nước cúng khấn xin ăn lúa hoặc bắp tạm rồi mới được lấy một ít xuống
ăn. Nhiều gia đình Raglai sợ các yàng trừng phạt, sẽ bị rắn rết cắn, hổ
ăn thịt hoặc ốm đau, bệnh tật nên chưa cúng là chưa dám lấy lúa bắp ra ăn. Họ
đành đi đào củ mài, khoai mì, củ chuối ăn qua ngày, chờ khi nào cúng xong lễ ăn
lúa mới mới lấy lúa bắp ra khỏi kho. Đây cũng là thời gian nông nhàn, người
Raglai lên rừng săn bắt hái lượm về làm lễ vật và chuẩn bị bước vào chu kỳ sản
xuất mới.
Lễ hội ăn lúa mới
kéo dài trong hai ngày một đêm. Ngày làm lễ do thầy cúng chọn.
Thời gian là một trong
những đặc điểm quan trọng để xác định tết hay không phải là tết.
Người Việt thường nói: năm hết tết đến nhằm tống cựu nghênh tân. Đối với cư dân
nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á thì tết còn là thời điểm chuyển mùa. Đất nước
ta trải dài theo trục Bắc - Nam, khí hậu chia làm hai miền rõ rệt. Tết năm mới
của người Việt ở phía Bắc là thời tiết chuyển từ mùa đông giá lạnh sang mùa
xuân ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa đua nở. Đối với vùng đất phía
Nam khu vực Đông Dương, các dân tộc bản địa xưa kia như Chăm, Khơme, Thái, Lào,
thời điểm chuyển mùa là chuyển từ mùa khô sang mùa mưa. Năm mới là sự tống ôn,
tống tiễn mùa khô hạn nắng cháy đi và đón năm mới với mùa mưa mát mẻ tới. Dân
tộc Raglai là dân tộc gần gũi nhất với người Chăm, ảnh hưởng văn hóa Chăm,
trong đó có lịch pháp. Theo lịch của người Chăm, một năm cũng có 12 tháng và
tháng tính theo mặt trăng, năm tính theo các vì sao. Theo nhà nghiên cứu Ngô
Văn Doanh, người Chăm và các dân tộc Nam Đông Dương tiếp nhận lịch theo hệ
thống lịch Saka của Ấn Độ. Lễ hội Rija Nưgar đầu năm của người Chăm vào tháng 1
lịch Chăm, khoảng tháng 4 dương lịch[3]. Về thời tiết thì lúc này
sao Rua (sao Tua rua) xuất hiện, là lúc kết thúc mùa khô và bắt đầu mùa mưa ở
vùng miền Trung Việt Nam. Như vậy lễ hội Rija Nưgar của người Chăm gần như
trùng với các tết của các cư dân Đông Nam Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ như tết
năm mới cổ truyền Soông Kran của người Thái ở Thái Lan, tết năm mới Bun pi may
của Lào, tết năm mới Chol Chnam Thmây của người Khơme và tết Thagyamin của
người Myanma. Những lễ hội này đều có những nghi lễ cầu mưa hoặc té nước[4]. Lễ hội ăn lúa mới
của người Raglai cũng rơi vào thời điểm này[5].
Như vậy, nếu căn cứ
theo thời gian, nông lịch ứng với vũ trụ như mặt trăng, mặt trời, các vì sao và
căn cứ vào sự chuyển mùa ở vùng Nam Trung Bộ là chuyển từ mùa khô sang mùa mưa
thì lễ hội ăn lúa mới rõ ràng là lễ hội chuyển mùa. Đây là căn cứ quan
trọng để giải thích vì sao lễ hội ăn lúa mới trùng với tết đón năm mới
của các cư dân Đông Nam Á, và chính là tết năm mới của người Raglai.
2. Không gian, tính
cộng đồng của lễ hội
Vùng đồng bào Raglai
không có già làng như các dân tộc Tây Nguyên, vai trò quyết định các việc lớn
của cộng đồng là bà trưởng tộc. Tuy nhiên, cũng như dân tộc Chăm, tuy theo chế
độ mẫu hệ, vai trò của người phụ nữ là rất lớn, nhưng việc tổ chức nghi thức
cúng lễ là đàn ông, phụ nữ chỉ đóng vai trò chỉ đạo và nội trợ. Địa điểm thực
hành các nghi lễ cúng thường là tại nhà sàn thiêng của dòng tộc. Đây là nơi chỉ
để tế lễ thần linh, không có người ở, nơi cất giữ những vật báu của dòng tộc
gồm chiết đựng y trang, xâu chuỗi hạt cườm, nhẫn, còng, kiềng, ghè, ché, nhạc
cụ truyền thống như mã la, trống, chiêng, lục lạc, khèn bầu…
Theo các cụ già Raglai
kể lại, cách đây mấy chục năm, lễ ăn lúa mới được tổ chức lớn hơn ngày
nay nhiều. Tất cả các dòng tộc đều tổ chức và coi lễ ăn lúa mới là lễ
hội đầu năm, tương tự như lễ hội Rija Nưgar của người Chăm. Mặc dù mọi người
không đến từng nhà chúc tụng nhau, nhưng tất cả lời chúc tụng đều đã thể hiện
trong lời cầu khấn của ông thầy cúng trong nghi lễ ăn lúa mới:
“Tôi tớ xin phép bề
trên nhớ tới đầu năm, đầu tháng, đầu mưa, đầu gió, xin cho thân người cứng như
đá tảng, đầu cứng như sắt, gia đình sum họp, lên núi vững, xuống sông chắc, lên
rừng cọp beo xa lánh, phát rẫy làm nương chắc rựa, chắc rìu. Rắn không dám
cắn, kiến đỏ, kiến đen không dám đốt, lên núi lên rừng đi tới nơi, về tới nhà,
đi không mệt, về không mỏi, làm rẫy được rẫy, lúa, bắp, khoai, kê, về đậu đầy
nhà. Heo gà đầy chuồng, muốn gì được nấy”.
Trong lễ tẩy uế, tống
ôn:
“ … Xin ngài hãy rút
hết chông gai, rút hết ốm đau, bệnh tật, đại họa. Xin ban cho sức khỏe để chạy
như chó, cất vó như ngựa, đi không mệt, về không mỏi, muốn vàng có vàng, muốn
bạc có bạc”.
Như vậy, lễ ăn lúa
mới được tổ chức theo từng dòng tộc ở tất cả các vùng đồng bào Raglai sinh
sống với sự tham gia của tất cả già, trẻ, gái, trai. Yếu tố này khẳng định
không gian rộng lớn và tính cộng đồng cao của lễ hội.
3. Phần lễ và phần hội
Phần lễ và phần hội
cũng là một đặc trưng nguyên hợp của lễ hội, là một trong những tiêu chí để xem
xét lễ hội đó có phải là tết năm mới hay không?
Phần lễ
Là cư dân nông nghiệp
Đông Nam Á, tín ngưỡng dân gian của người Raglai là tín ngưỡng đa thần. Người
Raglai tin rằng có rất nhiều thần linh ngự ở khắp mọi nơi: thần núi, thần suối,
thần sông, thần mặt trời, thần mưa, thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp…
mặc dù các yàng đều vô hình nhưng luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của
người Raglai, ban cho mùa màng tươi tốt, cho con người khỏe mạnh, không ốm đau
bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã tụ tập về thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ
cho con cháu làm ăn. Vì vậy, khi thu hoạch lúa bắp, việc đầu tiên là phải làm
lễ cúng tạ ơn thần linh.
Mục đích chính của lễ
hội ăn lúa mới là lễ chuyển mùa, tống tiễn mùa khô, cầu mưa, cầu nước
cho vụ mùa tươi tốt. Lễ còn là sự đánh dấu kết thúc một chu kỳ sản xuất trong
năm với sự mừng vui, ơn trả nghĩa đền đối với tổ tiên, đối với các yàng
đã nhớ lời cầu khẩn trong lễ cúng năm trước mà ban cho được mùa, trước khi hưởng
thụ thành quả lao động. Theo chu kỳ, lễ lại nhằm mục đích tạ ơn các yàng
của mùa vụ cũ và cầu khấn tốt đẹp hơn cho vụ mùa tới. Lễ hội còn là dịp để bà
con trong dòng tộc nội, ngoại ở các nơi tụ hội về gặp mặt, thăm hỏi nhau. Mâu
thuẫn trong gia tộc nếu có cũng được hòa giải từ các cần hút cắm chung trong
một ché rượu cần cúng tổ tiên.
Chủ lễ của người
Raglai là các thầy cúng (Pujau). Xưa kia, làng nào cũng có thầy cúng. Những năm
sau 1975, với việc hạn chế cúng lễ, cho đó là mê tín dị đoan, nhiều thầy cúng
được vận động bỏ nghề. Điều đáng nói là sau mấy chục năm vận động, hình thức,
quy mô các lễ hội có giảm, nhưng niềm tin của bà con Raglai vào thần linh (yàng)
vẫn không thay đổi. Vì vậy họ vẫn duy trì các lễ nghi nông nghiệp truyền thống.
Chỉ có lễ cúng chữa bệnh là giảm hẳn, thỉnh thoảng mới có thầy cúng hành nghề
một cách lén lút. Để làm thầy cúng phải học thuộc các bài khấn, tế truyền miệng
và các nghi thức, động tác cúng.
Sau khi thầy cúng chọn
ngày, những người lớn tuổi trong làng và các trưởng tộc phân công các công việc
cho dân làng. Đàn ông lo dọn dẹp nhà cửa, làm cây nêu, sắp đặt bàn lễ, chọn người
vào đội đánh mã la (một loại chiêng bằng), mỗi đội từ 7, 9 đến 12 người đánh
nhạc lễ… Phụ nữ làm công việc nội trợ, chuẩn bị lễ vật như rang lúa mới, giã
cốm, nấu cơm, nhặt thái rau quả.
Những lễ vật như rượu
cần, gà, cua núi, cá khô, hành củ… chuẩn bị sẵn sàng trước đó một đêm. Bàn lễ
chính được đặt ở hướng Bắc, bàn lễ phụ đặt ở hướng Nam và bao giờ cũng đặt ở
sát chân cột chính nằm giữa nhà sàn - đường lên xuống của tổ tiên, thần thánh
- nơi luôn được đặt ché rượu cần. Trong lễ hội của người Raglai, việc ăn chỉ
đóng vai trò phụ, uống rượu cần là chính, do vậy ở các lễ hội như lễ ăn lúa
mới, đám tang, lễ bỏ mả họ làm ít nhất trên 30 ché rượu cần.
Lễ cúng thường được
bắt đầu vào khoảng 13 giờ.
Lễ thức đầu tiên là lễ
đổ nước vào ché rượu cần. Ông thầy cúng ngồi xếp bằng trước bàn lễ phụ ở
hướng Nam, trên đó đặt ché rượu cần. Khấn xong, ông chủ lễ hút rượu cần mang
sang bàn lễ chính ở hướng Bắc. Trên cổ ché rượu, người ta quàng một chuỗi
vòng cườm, hạt lớn. Trước ché rượu là một mâm lễ, trên đặt một bát lửa than,
hai bát nước lã, một mủng gạo đầy. Trên thành mủng gạo cắm một cây nến bằng
sáp ong đang cháy. Tiếp theo, ông khấn xin cắt tiết gà. Ông chắp hai tay lên
đầu khấn báo, khấn mời yang Ngok, yang Gru (thiên thần) yang Cơk (thiên thần)
yang muk kay (nhân thần) về dự lễ ăn lúa mới của gia tộc, mời bề trên chứng
giám cho lễ cắt tiết gà, đổ nước vào ché rượu cần. Khấn rằng: “Gà khỏe mạnh,
rượu cần tinh khiết không phải là cặn bã... lễ vật này là để nghĩa đền, ơn trả
đối với bề trên”.
Sau khi khấn, gà sẽ đem
đến trước bàn thờ hướng Nam cắt tiết, nước sẽ được đổ vào ché. Khấn xong, hai
người trong gia đình đến bên ché rượu, hút rượu cần ra bầu, ra bát, bưng qua
bàn lễ hướng Bắc.
Sau đó là đến lễ cúng
chính. Bàn lễ hướng Bắc đặt sát vách. Trên tường, chính giữa bàn lễ, người ta
dùng 2 sợi dây cột đầu một đoạn dài khoảng 0,8 mét hoặc đóng dính giăng ngang 1
sợi dây. Trên đó người ta treo một bộ áo, váy, khăn của phụ nữ, ở hai đầu dây
được móc vào 2 hạt cườm. Lễ vật trong lễ cúng chính gồm: 1 con gà, 1 ché rượu
cần, 5 bát cơm cao ngọn. Trên mỗi bát cơm đều có 1 con cua núi và 1 củ hành để
nguyên cả lá. Ngoài ra còn có nhiều chén hạt nổ, gạo, nước lã, trầu cau. Các lễ
vật này được sắp thành 3 mâm theo hàng dài: mâm của các yàng, mâm của
ông bà, mâm dành cho thổ địa.
Nội dung lời khấn
trong lễ này là mời các thần tạo dựng đất trời, mưa gió, cây cối, con người và
muôn vật, mời thần linh ông bà tổ tiên, linh hồn những người đã khuất về hưởng
thảo lễ vật, về ăn lúa mới và cầu xin các thần linh ban cho sự sinh sôi
nảy nở cho con người, vật nuôi và cây trồng.
Sau đó là phần lễ cúng
thần lúa, bắp. Người Raglai quan niệm lúa và bắp cũng có hồn. Lúa là hồn con
gái, bắp là hồn con trai và phải làm các nghi lễ cúng. Trong phần lễ này có các
bài hát khấn ru hồn lúa, hồn bắp. Khi cúng xong, thầy cúng làm lễ chúc phúc cho
các thành viên trong tộc họ.
Phần hội
Sau khi các thầy cúng
làm xong các nghi lễ cúng kính, đội mã la bắt đầu múa vòng tròn và đánh trống,
chiêng và mã la. Dẫn đầu là người đánh trống lớn, ăn mặc chỉnh tề từ ngoài sân
đi vào nhà, theo sau là 7 nhạc công mã la (bộ mã la Raglai được coi như một gia
đình mẫu hệ, mã la mẹ và các mã la con gái: mã la con cả, mã la con giữa, mã la
con thứ, mã la con út). Họ vừa nhảy múa vừa đánh hàng trăm điệu mã la. Mọi
người mời nhau uống rượu cần trong không khí vui vẻ. Nhiều thanh niên mang theo
các nhạc cụ của mình như kèn môi, khèn bầu, đàn chapi và tâm sự với nhau bằng
các âm thanh nhạc cụ và các làn điệu hát giao duyên rất phong phú như các điệu:
manhi, hari, sari, mayeng, kathơng, doh dăm da ra… Mọi người uống rượu cần,
đánh mã la, nhảy múa suốt đêm...
Qua phân tích các đặc
trưng dân gian, nguyên hợp và các yếu tố về thời gian, không gian của lễ hội ăn
lúa mới, chúng tôi cho rằng lễ hội này chính là tết năm mới xưa kia
của tộc người Raglai. Rất cần có các công trình nghiên cứu sâu hơn về lễ hội
này và đi đến kết luận cuối cùng. Nếu đúng lễ hội ăn lúa mới thực sự là tết
năm mới, thì cần có kế hoạch khôi phục lại đầy đủ các yếu tố gốc của lễ hội
và tạo điều kiện cho bà con Raglai tổ chức tết năm mới riêng cho mình
(tương tự như lễ hội Ka tê của dân tộc Chăm) nhằm góp phần bảo tồn sắc thái văn
hóa truyền thống của dân tộc Raglai, phát huy tính đa dạng trong nền văn hóa
Việt Nam thống nhất.
P.Q.A
_______________
[1] TS.GĐ Sở Văn hóa thông tin tỉnh Ninh Thuận
[2] . Người Raglai có hai loại nhà sàn, nhà
sàn lớn để ở, nhà sàn làm kho chứa lúa bắp có kích thước nhỏ hơn, chủ yếu để
ngăn không cho thú dữ ăn lúa bắp.
[3] Xem Phan Quốc Anh, Tết của người Chăm,
Tạp chí Cẩm Thành số…(Nhờ xem lại giùm số bao nhiêu)
[4] Theo sự phân tích này thì tết của người
Chăm là lễ hội Rija Nưgar chứ không phải là lễ hội Katê. Nhưng ngày nay, người
Chăm coi Katê là “tết” lớn nhất trong năm.
[5] Lễ ăn lúa mới cũng có sự
chênh lệch chút ít thời gian so với lễ hội Rija Nưgar của người Chăm nhưng đó
là điều không thể tránh khỏi vì người Raglai chưa có chữ viết, chưa có lịch
pháp thành văn như người Chăm. Ngày tháng làm lễ chủ yếu dựa vào thời tiết, mùa
vụ và cách tính của thầy cúng.