Truyền dạy văn hóa dân gian
Biện pháp hữu hiệu giữ gìn bản sắc- Phan Quốc Anh
Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành nên bởi
những thành tố văn hóa dân gian mà các nhà folklore thường gọi là văn hóa “gốc”,
văn hóa “mẹ”, là “hồn” dân tộc.
Văn hóa dân gian được hình thành và đúc kết,
chọn lọc qua hàng nghìn, hàng vạn năm trở thành những viên ngọc sáng, thành
những nét riêng của mỗi dân tộc. Một câu ca dao hay dân ca, một điệu múa hay
một chuyện cổ tích, lúc đầu có thể do một người sáng tác ra từ thực tế cuộc
sống, được truyền khẩu qua thế hệ này qua thế hệ khác, từ vùng này qua vùng
khác, mỗi người sửa một chút (dị bản của dị bản) và được đúc kết đến khi không
thể hay hơn thì trở thành văn hóa dân gian. Vì vậy, mỗi vùng văn hóa, mỗi dân
tộc lại có những thành tố văn hóa dân gian riêng cho mình, trở thành bản sắc
văn hóa dân tộc. Nghị quyết BCH TW Đảng lần thứ V (khoá VIII) đã đúc kết và
khẳng định những tinh hoa của bản sắc văn hóa của các dân tộc Việt Nam đồng
thời nêu lên định hướng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng nói: “Bản sắc là cái để
người ta nhận ra khuôn mặt mình”. Nếu dân tộc không giữ được bản sắc văn hóa
cho riêng mình, thì dân tộc đó không còn tồn tại theo nghĩa văn hóa.
Những thành tố văn hóa dân gian đang bị biến đổi mạnh
trong quá trình phát triển, nhất là trong quá trình xây dựng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và mở rộng giao lưu, hội nhập với xu thế toàn cầu hoá. Xu thế này
đang đẩy các dân tộc mất dần cái riêng, đến lúc ai cũng giống ai mà người ta
thường gọi là “đồng hoá”, chữ “dân tộc” chỉ còn phân biệt ở chủng tộc bởi màu
da, hình hài. Rồi từng bước, màu da, hình hài cũng sẽ hoà huyết với nhau và
trên trái đất dần dần chỉ còn một chủng người. Và, hình mẫu văn hóa phương Tây
với những phương thức sống hiện đại hơn sẽ lấn át, sẽ bao trùm xã hội loài
người. Con người trở thành những “cái máy” vô hồn của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa.
Vì vậy, mọi dân tộc trên thế giới đang tìm cách níu kéo
bản sắc văn hóa cho riêng mình. Nhưng trong quá trình ấy, luôn luôn xuất hiện
những mâu thuẫn.
Lớp trẻ luôn hướng tới cái mới, cái hiện đại và coi những
cái cũ là lạc hậu, bảo thủ. Ngược lại, những bậc cao niên luôn luôn muốn níu
kéo cái cũ và chậm tiếp thu những cái mới. Quy luật này thể hiện rất rõ trong
đời sống văn hóa. Khi tôi hát những bài dân ca hay những ca khúc của giai đoạn
trước (ca nhạc cách mạng), con gái tôi bảo, sao ba toàn hát nhạc “già” thế!
Trong khi đó, những ca khúc mà con tôi cũng như lớp trẻ thích lại là những ca
khúc rất mới. Là một người cha chưa già lắm, tôi cũng phải tự hỏi mình, có phải
mình đã già, đã bảo thủ chăng? Vì vậy cần phải thật khách quan phán xét. Phải
thừa nhận rằng trong số rất nhiều những bài hát mới (đa phần do giới trẻ sáng
tác) có nhiều bài hay, giai điệu trữ tình, tiết tấu sôi động, dồn dập phù hợp
với giai đoạn “công nghiệp hoá”, nhưng cũng rất nhiều bài hát nhạt nhẽo, vô cảm
cả lời lẫn nhạc. Đó là chưa kể đến những ca khúc lai tạp, coppy từng khúc giai
điệu, tiết tấu của nhạc nước ngoài. Hầu hết, những ca khúc mang tính “thời
trang” âý không sống được bao lâu, đa phần chết yểu. Mỗi ngày, con gái tôi lại
mang về một đĩa hát mới. Tôi hỏi, mấy đĩa hôm trước có bài con mê lắm mà? Con
gái tôi trả lời, mấy bài ấy “xưa’ lắm rồi ba ạ!