MỞ ĐẦU
Tác giả: Trần Trung Thông
1. Lý do chọn đề tài
1. Lý do chọn đề tài
Bình Định có một mạch nguồn văn hóa rất xa xưa, nếu nói phía Bắc có nền văn hóa Đông Sơn, phía Nam có nền văn hóa Óc Eo thì Bình Định, trung điểm của khu vực miền Trung có nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm. Thừa hưởng một mạch nguồn văn hóa đồ sộ và cổ xưa cùng với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, văn hóa Bình Định vừa lan tỏa vừa tiếp nhận những giá trị của nền văn hóa khác để bồi đắp, làm phong phú cho mình.
Bình Định là nơi lưu giữ những di sản văn hoá vô giá với dấu tích thành quách và những ngọn tháp rêu phong đứng vững trước thử thách của thời gian cùng những giá trị văn hoá - nghệ thuật đích thực. Ai đã một lần đến Bình Định sẽ nhớ mãi những ngọn Tháp Chăm ngạo nghễ, đẹp đến ngây ngất bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cho đến bây giờ cũng còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Những nhà khảo cổ và nghiên cứu nghệ thuật Chăm đánh giá những cụm tháp Chăm Bình Định đã đạt tới độ chín muồi của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, đã dung hòa được những phong cách nghệ thuật Champa và Khmer khiến chúng khác với những quần thể tháp Chăm có trước và sau chúng. Với 13 ngọn tháp còn lại, Bình Định là địa phương thứ hai sau Quảng Nam sở hữu được nhiều tháp Chăm nhất nước ta.
Bình Định, quê hương của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Hơn 200 năm đã trôi qua, nhưng dấu ấn về phong trào Tây Sơn, triều đại Tây Sơn vẫn còn in đậm ở nơi đây với những di tích Điện Tây Sơn, Cây Me, Giếng nước, Thành Hoàng đế...
Triều đại Tây Sơn non trẻ lại chỉ tồn tại trong quãng thời gian ngắn, chừng 30 năm. Với thời gian ngắn ngủi ấy chưa thể có một nền văn hóa hay những đóng góp về mặt văn hóa đậm nét như những thời kỳ trước. Tuy nhiên, có một lợi thế ở thời kỳ này mà không phải vương triều phong kiến nào trong lịch sử dân tộc cũng có được, đó chính là lòng tin và sự yêu mến của nhân dân. Những câu chuyện về người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm tại miền Nam năm 1785 (Trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Tiền Giang) và đánh tan quân Thanh tại Thăng Long – Hà Nội năm 1789 (Trận Ngọc Hồi – Đống Đa) vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân bằng những câu chuyện dân gian vẫn không ngừng được sáng tạo theo năm tháng, hay những câu hát trống quân, cò lả của nhân dân khắp vùng Thăng Long xưa mừng ngày đại thắng của vua Quang Trung. Sự sáng tạo các loại hình văn hóa phi vật thể đối với triều đại Quang Trung rất phong phú, đa dạng. Nhưng, di sản văn hóa vật thể của triều đại này là những minh chứng cụ thể, khoa học nhất cần được sưu tầm, nghiên cứu và tổ chức trưng bày, phát huy để không ngừng tôn vinh công lao của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Di sản văn hóa vật thể thời Tây Sơn để lại cho tới ngày nay tuy không nhiều nhưng cũng tương đối đa dạng và được đánh giá là độc đáo. Tiến sĩ Nguyễn Đình Chiến, phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - ủy viên Hội đồng giám định cổ vật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - cho biết, hiện ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ 2 chiếc bát gốm men rạn vẽ lam, một phía in khóm trúc men lam, phía đối diện có in dòng chữ Hán: “Vị xuất địa đầu tiên hữu tiết; Quang Trung niên tạo” có nghĩa là: “Cái măng tre chưa nhô khỏi mặt đất mà đốt dóng của nó đã sớm ra trước” được chế tạo trong giai đoạn mang niên hiệu Quang Trung 1788 - 1792. Không chỉ có gốm, các di vật thời kỳ này còn có gỗ, đá và đồng. Cho đến ngày nay vẫn còn nhiều bia đá thời Tây Sơn ở nhiều tỉnh thành phía Bắc như ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương… Trong đó đáng chú ý là bia đá ở đền Lũng vùng Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) cao 140cm, rộng 57cm, mặt trước bia khắc chiếu chỉ của vua Quang Trung năm thứ 2 (1789) tức năm đại thắng quân Thanh. Điều đáng nói là một mặt còn lại của bia có khắc ghi về sự vui mừng của nhân dân nói về việc miễn trừ các loại sưu dịch, chính sách dưới thời vua Quang Trung. Chất liệu đồng thời Tây Sơn cũng còn khá nhiều gồm các loại như chuông, trống, ấn triện và đặc biệt nhiều nhất là tiền đồng. Chuông thời kỳ này thường in hình rồng và trang trí bộ tứ linh có những nét tương đồng với rồng thời Lê. Các đạo sắc phong và ấn triện cũng là một trong những di sản quý của thời Tây Sơn. Đạo sắc phong thời Tây Sơn còn được lưu giữ nhiều tại các địa phương, các làng cổ ở miền Bắc. Điển hình như làng cổ Bát Tràng còn lưu giữ được 16 đạo sắc phong các đời vua thời Tây Sơn, đồng thời làng cổ này còn lưu giữ được một quả chuông đúc rất đẹp từ thời này. Ấn triện thời Tây Sơn đến ngày nay tuy không còn nhiều, nhưng nó vẫn còn hiện hữu trong chính các bản sắc phong. Thông qua sắc phong, các nhà nghiên cứu cho biết có những loại ấn phổ biến thời Tây Sơn như: Quảng vận chi bảo, Triều đường chi ấn, Hòa như chi bảo… trong đó, Quảng vận chi bảo là ấn đặc sắc bởi theo các nhà chuyên môn, ấn này không có ở tất cả các thời đại trước và sau đó. Những nghiên cứu ấy đã khẳng định có một văn hóa Tây Sơn độc đáo đã hiện diện trong quãng thời gian không dài. Song nó thực sự có giá trị đối với lịch sử dân tộc Việt.
Hiện nay, các di sản văn hóa Triều đại Tây Sơn trên đất Bình Định vẫn còn được lưu giữ, bảo tồn và phát huy bằng chính con người và tâm hồn của người Bình Định với tấm lòng thành kính nhất đối với vị anh hùng Áo vải cờ đào Quang Trung – Nguyễn Huệ. Các di sản văn hóa thời Tây Sơn trên đất Bình Định tiêu biểu như là: Điện thờ Tây Sơn, cây me cổ thụ, thành Hoàng đế, võ thuật thời Tây Sơn, trống trận Quang Trung, các áng thơ văn thời Tây Sơn…đã trở thành một niềm tự hào của người dân Bình Định.
Tuy nhiên, sau khi nhà Tây Sơn mất, năm 1802 nhà Nguyễn lên thay, vì sự khắt khe của nhà Nguyễn với Tây Sơn cũng như sự tàn phá của thiên nhiên và mai một bởi thời gian. Cho đến nay, các di sản văn hoá triều đại Tây Sơn (kể cả văn hoá vật thể và phi vật thể) trên cả nước còn tồn tại rất ít, đặc biệt là trên quê hương của vị anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ. Vì vậy, vấn đề tìm hiểu lịch sử triều đại Tây Sơn qua các di sản văn hoá của triều Tây Sơn là một vấn đề khó khăn, phức tạp, bởi triều đại Tây Sơn có rất nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ 18, nhưng cũng là triều đại có nhiều biến động và bí ẩn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều tranh cãi xung quanh các bí ẩn của triều đại Tây Sơn, việc quản lý các di sản văn hoá triều đại Tây Sơn vẫn còn nhiều bất cập, chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý khiến cho việc quản lý di sản văn hoá triều đại Tây Sơn gặp nhiều khó khăn mà hiện nay các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cũng đang rất quan tâm đến vấn đề này.
Là người đang công tác và nghiên cứu về phong trào Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung nơi đang gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản của triều đại Tây Sơn, học viên đã có nhiều năm gắn bó, có chút hiểu biết và đam mê nghiên cứu về triều đại Tây Sơn, đặc biệt là anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ. Vì lẽ đó, học viên chọn đề tài “Quản lý di sản văn hoá triều đại Tây Sơn trên địa bàn tỉnh Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Sự nghiệp của Hoàng Đế Quang Trung - Nguyễn Huệ và phong trào nông dân Tây Sơn cách nay đã hơn 200 năm, nhưng những vấn đề lịch sử liên quan đến phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và cuộc đời đầy sóng gió của Quang Trung - Nguyễn Huệ luôn là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả, đặc biệt là các nhà nghiên cứu lịch sử.
Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn - Gia Long chủ trương “dẫy cỏ tận gốc” để trả thù ba anh em nhà Tây Sơn cùng những văn thần, võ tướng Tây Sơn, xóa sạch những di tích lịch sử, di tích văn hóa mà Tây Sơn để lại. Tất cả những người có liên hệ ít nhiều với Tây Sơn còn sống sót đều thường phải thay tên đổi họ, lẩn tránh tới những miền xa xôi, hay lên vùng núi cao sinh sống, mong tránh sự truy sát của nhà Nguyễn - Gia Long. Tất cả các tư liệu, giấy tờ liên quan đến nhà Tây Sơn, kể cả gia phả của những dòng họ, những bộ sử, những tập văn thơ viết dưới các triều đại Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh đều bị đốt sạch. Các môn võ thời Tây Sơn đều bị cấm đoán. Gia phả của những ai có liên quan đến Tây Sơn đều phải ẩn dấu hoặc viết khác đi nhằm tránh sự tàn sát khắc nghiệt của triều đại mới.
Các nhà chép sử, viết địa chí, viết truyện lịch sử dưới triều các vua nhà Nguyễn - Gia Long ca ngợi triều đại mới, bôi nhọ, xuyên tạc nhà Tây Sơn và những văn thần, võ tướng của họ. Họa chăng có một số ít nhà nho ngưỡng mộ nhà Tây Sơn như ẩn sĩ Nguyễn Bá Huân viết “Tây Sơn Tiềm long lục, Cân Quắc anh hùng truyện”, Nguyễn Trọng Trì viết “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện”. Có người dấu tên họ làm cho tác phẩm trở thành khuyết danh như tác phẩm “Tây Sơn Danh tướng chinh Nam truyện”. Ngoài ra còn có một số tác phẩm chép tay và lưu truyền trong phạm vi hẹp ở địa phương, và cũng chỉ có những người thân cùng cảnh ngộ với tác giả thời ấy mới biết được [37, tr 9,10]. Thế mà, khí hậu và chiến tranh tàn hại lại đua nhau phá hoại những sách vở ít ỏi đã ra đời [63, tr 9]. Hay nói như L. Cadière và P.Pelliot “Không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy” [dẫn theo 63, tr 8].
Thế kỷ 19, ký ức về phong trào Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ đã bị bôi nhọ bởi triều Nguyễn, nhưng sang thế kỷ 20 phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ lại trở thành trung tâm của các vấn đề quan trọng của đất nước như: Đấu tranh giai cấp, kháng chiến chống ngoại xâm, thống nhất đất nước, chủ nghĩa dân tộc, ngoại giao, nội trị và đặc biệt là xây dựng đất nước.
Chính những ảnh hưởng như vậy nên từ những năm 1950 cho đến nay, giới nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ, đáng chú ý là các nghiên cứu của Hoa Bằng – Hoàng Trúc Trâm, Trần Huy Liệu, Hoàng Xuân Hãn, Phan Trần Chúc, Văn Tân, Phan Huy Lê, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương… [Dẫn theo 35, tr 5].
Đặc biệt năm 1978, Sở văn hóa và thông tin Nghĩa Bình đã tổ chức hội nghị khoa học về “Phong trào nông dân Tây Sơn – Nguyễn Huệ” [2, tr 5], và bước đầu đã thu được những thành tựu rất khả quan. Năm 1988, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, Bảo tàng Quang Trung phối hợp Khoa sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tiến hành nghiên cứu, khảo sát trên địa bàn tỉnh Nghĩa Bình và xuất bản tập sách Tư liệu về Tây Sơn – Nguyễn Huệ gồm 4 tập. Tập1: Trên đất Nghĩa Bình [39], Tập 2: Khởi nghĩa diệt Nguyễn và chống Xiêm [5], Tập 3: Lật đổ vua Lê chúa Trịnh đại phá Mãn Thanh [38]; Tập 4: Xây dựng đất nước [50], mới bắt đầu nghiên cứu lịch sử Tây Sơn gắn với di sản văn hóa Tây Sơn. Tuy nhiên, các tập 2,3,4 phần lớn cũng chỉ tập hợp và hệ thống các tư liệu chữ viết về Tây Sơn – Nguyễn Huệ theo quá trình lịch sử, riêng tập 1 giành cho những tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ thu thập được trên đất Nghĩa Bình.
Có thể nói rằng, phong trào nông dân Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những vấn đề lịch sử có sức lôi cuốn nhất. Những năm gần đây việc nghiên cứu lịch sử và di tích Tây Sơn đã phát triển mạnh với sự xuất hiện hàng loạt các sách, các bài báo trong các tạp chí chuyên đề về phong trào Tây Sơn của các tác giả, các nhà nghiên cứu trên khắp cả nước. Nhiều chuyên luận có giá trị, rất nhiều bài báo đã cố gắng đánh giá, soi rọi phát hiện về nhiều khía cạnh của phong trào, chứng tỏ sức phong phú và tính hiện đại của nó, nhằm khắc phục những bí ẩn về triều đại Tây Sơn và nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ đã tồn tại lâu nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình, bài viết nào về lĩnh vực quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn. Vì vậy, đề tài luận văn “Quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn trên địa bàn tỉnh Bình Định” không trùng lắp với các đề tài đã có.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xác định lại giá trị, ý nghĩa của các di sản văn hóa Triều đại Tây Sơn, đi sâu nghiên cứu và tìm ra phương pháp quản lý các di sản văn hóa triều đại Tây Sơn còn lại trên đất Bình Định, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị về cơ chế chính sách, các giải pháp, biện pháp để quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn có hiệu quả hơn, góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ con người Việt Nam
Bên cạnh đó, luận văn hy vọng được đóng góp, bổ sung một phần vào tài liệu tham khảo cho các Bảo tàng, các Ban quản lý di tích, các bạn sinh viên và những tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu về vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các di sản văn hóa Triều đại Tây Sơn trên đất Bình Định bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, trong đó trung tâm là các di sản ở Bảo tàng Quang Trung cùng với một số địa danh có liên quan.
Ngoài ra, để thực hiện đề tài này, học viên còn mở rộng phạm vi nghiên cứu đến những nơi, những địa phương khác ngoài tỉnh Bình Định mà triều đại Tây Sơn có ảnh hưởng lớn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện để hoàn thành luận văn, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học, trong đó, lấy bảo tàng học làm phương pháp chủ đạo cùng một số phương pháp điền dã, sưu tầm, phương pháp nghiên cứu hồi cố tư liệu thành văn, kết hợp tiếp cận, khảo sát thực tế, phỏng vấn, phương pháp so sánh và đối chiếu, phân tích và tổng hợp tư liệu.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua điền dã, thu thập tư liệu, tác giả luận văn mong muốn bổ sung thêm vào kho tàng tư liệu liên quan đến các di sản văn hóa Triều đại Tây Sơn, góp phần bảo vệ và tôn tạo các di tích, các hiện vật về Tây Sơn.
Từ những nghiên cứu về thực trạng, công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa triều đại Tây Sơn, học viên đưa ra các đề xuất, kiến nghị để tổ chức quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn có hiệu quả hơn, nhằm phát huy giá trị lịch sử, truyền thống tốt đẹp của phong trào nông dân Tây Sơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần giáo dục các thế hệ trẻ niềm tự hào truyền thống yêu nước của dân tộc.
7. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu (08 trang), phần Kết luận (... trang), Chú thích (...trang), Tài liệu tham khảo ( 04 trang), phần Phụ lục (... trang), luận văn gồm ....trang, với các chương sau:
Chương I: Những vấn đề chung (..trang)
Chương II: Di sản văn hóa triều đại Tây Sơn ở tỉnh Bình Định
Chương III: Quản lý, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa triều đại Tây Sơn ở tỉnh Bình Định
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Sơ lược về tỉnh Bình Định
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bình Định, một dải đất dài và hẹp nằm giữa núi và biển ở vùng duyên hải Nam Trung bộ. Địa hình của vùng đất này có hai đặc điểm. Thứ nhất là dãy Trường Sơn phủ đầy rừng rậm chạy suốt chiều dài của tỉnh từ Bắc vào Nam và càng xuống phía Nam càng thấp dần. Thứ hai là dãy núi bị nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang tạo thành một số lưu vực nhỏ và hẹp, ít gắn với nhau về mặt địa lý. Trong quyển một bộ sách Chư Phiên Chí của một nhà du lịch người Trung Hoa vào thế kỷ 13 cho rằng vùng đất này có nhiều vùng định cư biệt lập với nhau [dẫn theo 40, tr 21]. Cũng như Gourou sau này nhận định là “Vùng đất rời rạc nhất thế giới” [dẫn theo 40, tr 21]. Tuy nhiên, cũng như các tỉnh dọc miền duyên hải miền Trung, Bình Định đã thực sự dựa hẳn lưng vào sự “chia cắt dữ dội” đó để tạo cho mình một sức sống chan hòa với thiên nhiên và một đời sống gắn bó với sự thăng trầm của lịch sử.
Bình Định có địa hình trải dài theo biển, tọa độ địa lý từ 13 độ 30’ đến 14 độ 42’ Vĩ Bắc và từ 108 độ 55’ Kinh Đông. Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi nơi có khu công nghiệp Dung Quất; Phía nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển du lịch dịch vụ; Phía tây giáp Tây Nguyên giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai thác. Phía đông hướng ra biển Đông. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế miền Trung - Tây Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với Quốc lộ 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn – Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế xã hội không chỉ riêng Bình Định mà cả khu vực miền Trung và Tây Nguyên, cũng như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông – Tây.
Do ảnh hưởng của rìa phía đông Cao nguyên Kon Tum nên địa hình Bình Định tương đối phức tạp: thấp dần từ Tây sang Đông, với độ chênh lệch khá cao (khoảng 1000m), độ cao trung bình so với mặt biển là 700m. Bề mặt địa hình thường có dạng núi cao xen lẫn thung lũng, đồng bằng lòng chảo và đầm phá ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là: vùng núi, đồi và cao nguyên chiếm 70% diện tích toàn tỉnh. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Với đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá. Sông ngòi không lớn nhưng có độ dốc cao nên thuận lợi cho phát triển thủy điện và thủy lợi [11]. Cấu tạo địa chất, địa hình, khí hậu làm cho Bình Định tuy không có đồng bằng rộng lớn nhưng có đồng ruộng phì nhiêu, đa dạng về sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, nhiều tài nguyên khoáng sản và tiềm năng thủy điện.
Với sự ưu đãi của tạo hóa ấy, trong lịch sử phát triển của mình, cũng như dân tộc Chăm, Tây Sơn – Nguyễn Nhạc đã chọn nơi đây làm Trung ương Hoàng Đế, tiếp tục nâng vùng đất này lên thành một nơi phát triển về kinh tế - chính trị - xã hội, đóng góp một phần vào nền văn hóa của dân tộc.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Bình Định là một trong những vùng đất có dấu con người tụ cư, tồn tại, sinh sống từ lâu đời của khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam. Trong lòng đất ở đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng loạt các di chỉ văn hóa khác nhau của thời kỳ tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh và sau Sa Huỳnh [11, tr18]. Điều đó nói lên tính liên tục của sự tồn tại và phát triển của con người trên mảnh đất Bình Định. Tuy nhiên, việc chứng minh mối liên hệ, sự kết nối giữa những cư dân của thời kỳ xa xưa đó với cư dân tiền Chăm Pa, thời kỳ Chăm Pa và những cư dân có mặt hiện nay trên đất Bình Định là một trong những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng, cần phải có thời gian, sự đầu tư nghiên cứu nhiều hơn nữa. Dù thế, bằng các thư tịch cổ như “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn [7], “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn [43], hay các chuyên khảo của các tác giả ở thời gian sau này như “Địa bạ Triều Nguyễn” của Nguyễn Đình Đầu, “Nước non Bình Định” của Quách Tấn [53], “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang [22], chúng ta có thể bước đầu hình dung được quá trình hội tụ cư dân ở tỉnh Bình Định bao gồm các cư dân có nguồn gốc: Cư dân thuộc ngữ hệ Nam Đảo (nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinedien) hiện có mặt trên vùng đất Bình Định là cư dân Chăm. Người Chăm của tỉnh Bình Định hiện nay có khoảng trên 5.000 người, cư trú tập trung ở huyện Vân Canh, họ là một trong những cư dân bản địa, có mặt từ rất sớm tại vùng đất này; Cư dân thuộc ngữ hệ Nam Á có hai nhóm ngôn ngữ khác nhau: Nhóm thứ nhất, là nhóm ngôn ngữ Môn – Khme là dân tộc Bana và Hrê. Người Bana ở tỉnh Bình Định có khoảng trên 15.000 người sống rải rác ở các huyện Tây Sơn, An Lão, Hoài Ân, Vân Canh nhưng tập trung đông nhất ở huyện Vĩnh Thạnh. Còn người Hrê hiện có khoảng 76.000 người tập trung đông nhất là ở huyện An Lão của tỉnh Bình Định. Nhóm thứ hai, là nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, chủ yếu là người Kinh (Việt) hiện nay chiếm tuyệt đại đa số dân cư (khoảng 1,4 triệu/1,44 triệu) và phân bố khắp các huyện thành của tỉnh; Cư dân thuộc ngữ hệ Hán – Tạng hiện nay ở Bình Định là người Hoa (người Hán) [11].
Bình Định có diện tích tự nhiên 6047,2 km², dân số 1.700.400 người, mật độ dân số 297 người/km² (số liệu năm 2012), trong đó nam là (821.000 người) chiếm 48,7%, nữ là (879.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (993.000 người) chiếm 58,2%, nông thôn là (749.400 người) chiếm 42,8%, và dân số trong độ tuổi lao động khoảng (1.020.000 người) chiếm 60 dân số toàn tỉnh đây là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho các ngành kinh tế của tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác như Chăm, Ba Na, Hrê, và Hoa bao gồm khoảng 2,5 vạn dân [11].
Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi phát tích phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân, danh tướng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Nguyễn Đăng Lâm, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Bình Định còn nổi tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi.
Với sự trù phú và nhiều ưu đãi của tạo hóa nơi đây, từ thế kỷ 18, trong Đại Nam nhất thống chí, khi nhận định khái quát về hình thế Bình Định đã viết: “Ruộng đất màu mỡ, rộng rãi. Nhân dân đông, sản vật nhiều, thuyền, xe tụ tập, buôn bán đông vui. Đánh hay giữ hai đường đều tiện. Thật là một vùng đất xung yếu” [43]. Cũng sách Đại Nam nhất thống chí khi nói về con người Bình Định, đã có nhận xét: “Học trò chăm học, nhân dân siêng năng cày dệt, tính tình trầm tĩnh, thích việc nghĩa. Người học thức phần nhiều nho nhã, trung hậu. Ăn mặc, đồ dùng thì giản dị, mộc mạc, không ưa văn hoa. Ngày rảnh rổi thích tổ chức hát tuồng” [34].
1.2. Sơ lược lịch sử triều đại Tây Sơn
1.2.1. Sơ lược lịch sử tiền triều đại Tây Sơn
Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 có một nền kinh tế tương đối phát triển. Kinh tế thương nghiệp xuất hiện, nhu cầu giao lưu trao đổi hàng hóa ngày một cao, xuất hiện các trung tâm trao đổi buôn bán sầm uất ở cả ba miền như Kinh Kỳ, Phố Hiến ở miền Bắc, Hội An ở miền Trung, Gia Định ở miền Nam. Chính vì vậy thời gian này dân gian có câu ca: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Nhưng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa đã gặp phải trở ngại to lớn từ phía chính quyền phong kiến đang trên đà suy thoái trầm trọng, sự chia rẽ trong bộ phận giai cấp lãnh đạo, chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn dẫn đến nạn cát cứ phong kiến chia cắt đất nước thành hai miền Đàng Ngoài – Đàng Trong, lấy dãy Hoành Sơn và Sông Gianh làm ranh giới. Nhà Trịnh, dưới danh nghĩa phù Lê quản lý toàn bộ phần đất phía Bắc. Nhà Nguyễn cũng dưới danh nghĩa nhà Lê, tự quản vùng đất phía Nam. Thực chất đây chỉ là vì quyền lợi của hai dòng họ, hai tập đoàn phong kiến đã gây nên cảnh chia cắt giang sơn. Bên cạnh sự chia cắt đất nước là sự xuống cấp nghiêm trọng của các rường mối phong kiến, quan lại trong triều đình tranh giành quyền lợi, sâu xé lẫn nhau, thay phiên nhau bóc lột nhân dân một cách thậm tệ, hàng trăm thứ sưu thuế đổ lên đầu nông dân, quần chúng nhân dân rên siết dưới gông cùm của chế độ phong kiến, mâu thuẫn xã hội phát triển hết sức gay gắt, biểu hiện là sự bùng nổ vô số các cuộc khởi nghĩa nông dân và các tộc người thiểu số chống lại chính quyền, báo hiệu một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.
Chế độ áp bức bóc lột, chính sách thuế khóa phong kiến đè nặng lên đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho hàng loạt nông dân bần cùng, phá sản, chết đói. Những mâu thuẫn chất chứa trong xã hội phong kiến, trước hết là mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và phong kiến phát triển đến mức độ gay gắt, quyết liệt và từ đó bùng nổ liên tiếp những bạo động của nông dân, những cuộc đấu tranh của các dân tộc thiểu số và các tầng lớp nhân dân khác.
Ở Đàng Ngoài, quần chúng nông dân cùng khổ đến cực độ, không có ruộng đất để sinh sống. Ruộng đất tư của nông dân bị bọn phong kiến địa chủ chiếm đoạt. Bản thân chúa Trịnh đương thời là Trịnh Cương cũng phải thừa nhận rằng “dân nghèo mảnh đất cắm dùi cũng không có” [23]. Ruộng đất công ở các làng bị lấn chiếm gần hết, chỉ còn đủ để cung cấp lương cho binh lính và ngụ lộc cho quan lại, người nông dân không còn có thể trông nhờ gì vào ruộng đất công để tìm nguồn sống. Trong khi đó sưu thuế chồng chất lên đầu người dân lại càng nặng nề khắc nghiệt. Nạn bóc lột cướp đoạt đã dẫn đến kết quả là ở Đàng Ngoài, khoảng những năm 40 của thế kỷ 18 “Dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no, dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau. Số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [45].
Trong khi ấy, tình hình Đàng Trong cũng không kém phần nghiêm trọng. Lê Quý Đôn một quan lại Đàng Ngoài đương thời, khi vào Phú Xuân đã nhận định về đời sống của các tầng lớp xã hội ở Đàng Trong: “Từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, áo quần là lượt, nệm hoa, chiếu mây… Kẻ sắc mục trong dân gian cũng mặc áo đoạn, còn áo the, áo sa là đồ mặc thường, lấy việc mặc đồ vải mộc mạc làm hổ thẹn. Binh sĩ cùng ngồi chiếu mây, dựa gối xếp, ấp lò hương cổ, uống nước trà ngon, chén sứ bịt bạc, coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực” [7]
Bọn nhà chúa lại càng xa hoa dâm dật đến cực độ. Chỉ lấy riêng một việc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) có tới 146 đứa con cũng đủ thấy sự xa hoa trụy lạc đến chừng nào. Từ sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát chết năm 1765, giai cấp phong kiến thống trị ở Đàng Trong lại sâu thêm một bước nữa vào con đường suy đốn. Phúc Khoát nhiều con, ngôi chúa đã định truyền cho một trong những người con lớn tuổi. Nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đã mưu lập người con thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên làm chúa để có thể nắm giữ mọi quyền binh, lũng đoạn triều đình.
Chúa đã như vậy, bọn triều thần cũng ăn chơi, rượu chè dâm dật không kém. Một quan lại cao cấp như Chưởng Thủy cơ Nguyễn Noãn suốt ngày đêm say rượu. Một đại thần khác như Hữu Trung cơ Nguyễn Nghiễm có tới 120 vợ lẽ, nàng hầu. Mọi việc triều chính đều ở trong tay Trương Phúc Loan, mà quyền thần Trương Phúc Loan thì lũng đoạn triều chính, mỗi năm tham nhũng hàng chục vạn quan tiền. Những quan lại khác cũng đua theo cướp đoạt của dân để ăn chơi như vậy [48].
Bọn phong kiến càng tăng cường bóc lột, tranh giành quyền lực, cướp đoạt của dân để ăn chơi bao nhiêu thì dân tình càng khổ cực bấy nhiêu. Cùng chung số phận với nhân dân cả nước, địa bàn hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi thuộc dinh Quảng Nam là vùng đất trù phú của xứ Đàng Trong, giáp ranh giữa đồng bằng và Tây nguyên, có nhiều mỏ sắt, vàng và nhiều lâm thổ sản quý. Lê Quý Đôn đã từng nhận định: “Xứ Quảng Nam đất đai phì nhiêu nhất thiên hạ” [7] đã trở thành trung tâm bóc lột của phong kiến Đàng Trong.
Phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi nói riêng và dinh Quảng Nam nói chung bên cạnh nông nghiệp, kinh tế công thương nghiệp cũng khá phát triển. Từ thế kỷ 18, Quy Nhơn, Quảng Ngãi đã là những thị trấn buôn bán tấp nập và Hội An là thương cảng lớn nhất của Đàng Trong. Năm 1768 số thuyền chuyên chở ở Đàng Trong đã là 447 chiếc, thì Quảng Nam có 60 chiếc, riêng Quy Nhơn có 93 chiếc, các nhà buôn Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và nhiều nước khác thường ra vào buôn bán ở Quảng Nam, thương nhân nước ngoài lúc bấy giờ coi Quảng Nam là trung tâm kinh tế của Đàng Trong và do đó thường gọi Đàng Trong là “Quảng Nam quốc”. Chính cái trù phú, thịnh vượng ấy của Quảng Nam đã khiến nơi đây trở thành trung tâm bóc lột của phong kiến Đàng Trong. Các thứ thuế má rất nhiều và cực kỳ nặng nề phiền nhiễu “Bọn cai trưng và quan lại các nha quá nhiều, mỗi một trường thu thuế có tới vài ba mươi người, đốc thúc, tra khảo rất là phiền nhiễu, lại còn truy hỏi, hành hạ, ăn lậu, cố tình thêm bớt, sách hạch, làm khổ dân”. Những con số được ghi trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn về chính sách thuế khóa của vùng đất này: Phủ Quy Nhơn ruộng thực trưng là 72.600 mẫu, hàng năm phải nộp thóc thuế 1.540.678 thưng. Thuế nhân đinh theo suất đinh bao gồm nhiều khoản gọi là sai dư, cước mễ, thường tân… Phủ Quy Nhơn có 15.733 đinh, trừ các hạng miễn, còn 3.820 người phải nộp 24.401quan tiền, 4.765 bao 25 thưng gạo; Phủ Quảng Ngãi ruộng thực trưng là 52.639 mẫu, hàng năm phải nộp thóc thuế 1.221.882 thưng. Ngoài thóc là khoản tô thuế chính, người dân còn phải nộp nhiều khoản phụ thu khác như tiền cung đốn, tiền khoán khố, tiền nộp thóc vào kho và các thứ lễ vật cho quan lại thu thuế [7].
Ngoài ra còn các thứ thuế công thương nghiệp, lâm thổ sản, thuế đầu nguồn, thuế đầm, thuế chợ, thuế đò… So với các phủ khác ở Đàng Trong thì bốn phủ thuộc dinh Quảng Nam phải đóng thuế nặng nề nhất. Số thuế thu ở Quảng Nam hàng năm thu vào trên 76.467 quan, chiếm một tỷ lệ cao trong các khoản thu nhập của họ Nguyễn. Như riêng thuế núi, thuế đầm, thuế cửa quan, thuế chợ, số tiền thuế thu ở Thuận Hóa chỉ một phần thì Quảng Nam đến 6 phần. Vì vậy trong số 19 kho thuế mà họ Nguyễn dựng lên ở Đàng Trong thì Quảng Nam đã có 7 kho, trong đó phủ Quy Nhơn có 3 kho (Phú An, Đạm Thủy và Càn Dương). Cả đồng bào Chàm, Thượng ở miền núi cũng phải chịu rất nhiều thứ thuế: thổ sản, thuế thân, thuế nguồn, thuế ruộng núi… Căn cứ vào những số liệu cụ thể, Lê Quý Đôn đã phải nhận định rằng: “Lệ phú thuế ở Quảng Nam khác với Thuận Hóa, Lệ trưng thu so với Thuận Hóa cũng nặng hơn, cho nên số thu vào kho rất nhiều và bỗng lộc của quan lại cũng rất phiền nhiễu. Dân ở đây nổi loạn đầu tiên cũng vì cớ ấy” [7].
Đó là bối cảnh lịch sử và xã hội chung ở Việt Nam thế kỷ 18. Giai cấp phong kiến thống trị ở cả Đàng Trong, Đàng Ngoài đều thối nát, quần chúng nhân dân cùng khổ cực độ. Trong hoàn cảnh ấy người nông dân Việt Nam đương thời không thể không vùng dậy để giành lấy quyền sống. Vì thế từ những năm đầu của thế kỷ 18, những cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại sự áp bức bóc lột của các tập đoàn phong kiến thống trị Lê, Trịnh, Nguyễn đã liên tiếp nổ ra. Trong suốt thời phong kiến ở Việt Nam, khởi nghĩa nông dân đã có nhiều, nhưng chưa bao giờ nhiều bằng thế kỷ 18, nên đã đi vào lịch sử dân tộc với tên gọi “Thế kỷ của khởi nghĩa nông dân”.
Bên cạnh những mâu thuẫn xã hội cơ bản, những thiên tai bất thường, cảnh nghèo đói cùng cực, sự áp bức dã man thường xuyên của bọn quan lại đã thúc đẩy các mâu thuẫn này lên đỉnh cao, chỉ cần có một đốm lửa nhỏ là bùng cháy thiêu đốt các chính quyền phong kiến. Chính vào những năm tháng thời điểm ấy, cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra, đáp ứng đúng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, làm nên cuộc cách mạng nông dân, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.
1.2.2. Sơ lược lịch sử thời đại Tây Sơn
Sau gần 200 năm tìm mọi cách tách ra khỏi ảnh hưởng của tập đoàn phong kiến họ Trịnh, các chúa Nguyễn đã mở rộng, ổn định được lãnh thổ hết vùng đất phía Nam, xây dựng được một thể chế xã hội ổn định khá vững mạnh với chính quyền chặt chẽ từ trung ương đến các địa phương, tạo dựng được quân đội hùng mạnh, đông đảo, thiện chiến. Nhờ những thành tựu này, các chúa Nguyễn ở phía Bắc cự được quân Trịnh, ở phía Nam mở được lãnh thổ. Sự lớn mạnh của chúa Nguyễn có những mặt tích cực nhưng đã gây nên cảnh phân chia Nam – Bắc, chỉ vì quyền lợi dòng họ, các chúa Nguyễn phá bỏ tính thống nhất lãnh thổ dân tộc mà hơn 3 thế kỷ bao thế hệ người Việt đã không ngừng mở mang, xây đắp. Nhưng những thành tựu đó lại không được kế thừa, phát huy bởi các chúa Nguyễn về sau càng lún sâu vào ăn chơi, tàn bạo, gây cảnh chia cắt đất nước triền miên, đẩy người dân ngày càng lâm vào cảnh khốn cùng. Đỉnh tột cùng của sự sa hoa, nhũng nhiễu và sự tranh giành quyền lực diễn ra dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1765, chúa Nguyễn Phúc Khoát mất, con là Nguyễn Phúc Thuần lên thay. Phúc Thuần lên nối ngôi “Tuổi trẻ thích chơi bời múa hát; có bệnh không gần đàn bà được, sai con hát yêu dâm loạn với cung nữ để làm vui, tôn Phúc Loan làm Quốc Phó” [7]. Do chúa còn nhỏ lại tin dùng những người “Thứ nhất là Quốc Phó Trương Phúc Loan tham của, thấy lợi thì tranh trước, nhà chứa của cải vàng bạc vô số mà còn không vừa; lại dùng hai người cậu, một là chưởng thủy cơ Nguyễn Noãn thích rượu suốt ngày say sưa, việc đời không biết gì cả, hai là hữu trung cơ Nguyễn Nghiễm, mê gái, lấy vợ lẽ 120 người, buồn sau chứa đầy châu ngọc, mắm muối trăm vạn thạch, hồ tiêu ngoài hai vạn hộc” [7]. Thực quyền phủ chúa rơi vào tay Trương Phúc Loan. Trương Phúc Loan nắm quyền buôn quan, bán ngục, giếc những công thần họ Nguyễn không cùng phe cánh, bổ nhiệm người thân, tạo lập bè phái nắm giữ hết những trọng yếu của Phủ Chúa, tác yêu, tác quái, tự do hoành hành không ai giám ngăn cản. “Phúc Loan chuyên quyền hơn 30 năm, tham lam tàn nhẫn, giết chóc rất nhiều” [7]. Để phục vụ cho việc cung thất, cuộc sống ăn chơi xa xỉ, cùng những nhu cầu phục vụ chính quyền, quân đội, các chúa Nguyễn lập ra đủ các loại thuế, tham lam vơ vét sức người, sức của, đẩy người dân ngày càng đi vào con đường cùng cực. Những năm bão lụt thất thường hay xảy ra nạn đói, người chết, kẻ tha phương, dân tình phiêu tán đi sâu vào vùng đất mới. Dật sĩ Ngô Thế Lân, một nho sĩ cũng phải kêu “từ năm Mậu Tý (1768) đến nay, giá lúa cao vọt, dân chúng đói kém” [22, tr 484, 485]. Lê Quý Đôn cũng nhận thấy “Thuận Hóa luôn mấy năm mất mùa đói kém, lại phải đánh trận bắt lính không thôi, quân dân lìa lòng, sùng sục mong làm loạn” [10]. Bên cạnh đó, với chính sách thuế khóa đầu nguồn nặng nề, quan lại chúa Nguyễn gây bao nỗi khổ cực cho các tộc người thiểu số, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và các tộc người thiểu số nổ ra chống lại chính quyền phong kiến chúa Nguyễn. Trên địa bàn hai phủ Quy Nhơn – Quảng Ngãi cũng nổ ra các cuộc khởi nghĩa của Linh Vương – Quảng Phú, khởi nghĩa của người dân tộc Hê rê ở miền núi và đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Võ Văn Doan (Dân gian quen gọi là chàng Lía). Khởi nghĩa chàng Lía có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, nó là đêm trước của khởi nghĩa nông dân Tây Sơn.
Tình hình chính trị - xã hội rối ren như vậy đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, chí hướng và hành động của ba anh em Tây Sơn. Năm 1771, ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa ở vùng đất Tây Sơn Thượng Đạo (nay thuộc tỉnh Gia Lai), người khởi xướng và lãnh đạo phong trào giai đoạn đầu là anh cả Nguyễn Nhạc.
Ngọn cờ khởi nghĩa ngay từ đầu đã đoàn kết, tập hợp được đông đảo nông dân người Kinh, người Thượng và các lực lượng bất bình, chán ghét chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc vừa nêu cao khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo” để phát động dân nghèo đứng dậy đấu tranh, vừa đề ra sách lược “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, suy tôn hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương” để phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Vì vậy, bên cạnh nông dân và các dân tộc miền núi, cuộc khởi nghĩa còn lôi cuốn được một số thương nhân, thổ hào và phong kiến lớp dưới. Sử nhà Nguyễn chép “Giặc lúc đầu nổi lên thì cướp của người giàu chu cấp cho người nghèo, dối trá thi ân nhỏ để mua chuộc long người. Một nữ chúa người Chăm ở Thuận Thành là Hỏa nổi dậy hưởng ứng. Nhà giàu như Vũ Tất Thận, Huyền Khuê, thổ hào như Nguyễn Thung cũng bỏ tiền ra giúp đỡ, khuyến khích thuận theo việc khởi nghĩa. Bè đảng của Nhạc càng thêm đông đảo, phân tán ra cướp giật làng ấp, đi đến đâu thì hò reo la ó hưởng ứng nhau, thế lực ngày càng ngang tàng, quan địa phương không thể chế ngự nổi” [41].
Một số người nước ngoài ở nước ta lúc đó ghi lại cụ thể hơn hoạt động của nghĩa quân Tây Sơn “Họ đi khắp các làng mạc, tuyên bố với dân chúng rằng, họ không phải là giặc cướp mà là làm theo ý Trời, họ muốn thi hành công lý và giải thoát dân chúng khỏi ách tàn bạo của bọn vua quan. Họ tuyên truyền sự bình đẳng về mọi mặt và trung thành với chủ nghĩa này, những người tiền khu của chủ nghĩa xã hội cận đại ấy tước đoạt tài sản của bọn vua quan và hào phú chia cho dân nghèo. Dân chúng các làng ấp bị sưu thuế khắc nghiệt đè .nặng đã hăng hái tuyên thệ đi theo những người tự nhận là cứu tinh của họ. Người ta gọi họ là giặc nhân đức đối với người nghèo” [25, tr 18,19]
Năm 1773, từ căn cứ Tây Sơn Thượng Đạo, nghĩa quân tiến xuống giải phóng vùng Tây Sơn Hạ Đạo. Cuộc khởi nghĩa đã phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân kết hợp sức mạnh tiến công của nghĩa quân với sự nổi dậy hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân bị áp bức , nghĩa quân giải phóng các làng ấp rồi tiến lên giải phóng các huyện, đánh sập từng mảng chính quyền của chúa Nguyễn. Trong năm 1773, nghĩa quân tiến ra chiếm phủ Quảng Ngãi. Đến đây, cả hai phủ Qui Nhơn và Quảng Ngãi được giải phóng trở thành một căn cứ rộng lớn, một bàn đạp vững chắc cho phong trào. Từ Qui Nhơn – Quảng Ngãi, nghĩa quân tiến vào giải phóng các phủ Diên Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa), Bình Khang và Bình Thuận (Bình Thuận). Nghĩa quân tiếp tục mở những cuộc tiến công ra Quảng Nam, đánh bại nhiều cuộc phản công của quân Nguyễn. Tạm yên mặt Bắc, năm 1775, Nguyễn Nhạc cử em là Nguyễn Huệ lúc đó mới 22 tuổi chỉ huy một đạo quân vào đánh chiếm lại Phú Yên. Bằng một trận đánh úp với lối đánh thần tốc hết sức bất ngờ, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài tình của Nguyễn Huệ đã đánh tan quân Nguyễn, chiếm giữ phủ thành Phú Yên. Đây là một chiến thắng quan trọng bậc nhất trong giai đoạn cực kỳ khó khăn của nghĩa quân Tây Sơn, chiến thắng này đã đưa Nguyễn Huệ lên hàng ngũ tướng soái cao cấp của quân đội Tây Sơn, mở đầu cho sự nghiệp của một thiên tài quân sự có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sau chiến thắng Phú Yên của Tây Sơn, quân Trịnh cũng rút về Phú Xuân. Như vậy, đến cuối năm 1775 quân Tây Sơn làm chủ hoàn toàn vùng đất rộng lớn từ Quảng Nam đến Phú Yên.
Năm 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, phong Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Trên cơ sở kinh thành Đồ Bàn (Vijaya) đã bị bỏ phế từ lâu, Nguyễn Nhạc cho xây dựng lại và mở rộng thêm, dùng làm đại bản doanh của bộ chỉ huy quân đội Tây Sơn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng làm Hoàng đế và thành Đồ Bàn được đổi tên là thành Hoàng đế.
Chính tại thành Hoàng đế này, trong thời gian từ năm 1776 đến năm 1783, quân Tây Sơn đã 5 lần xuất phát tiến vào Gia Định, mở những cuộc tiến công và truy quét quyết liệt đánh tan lực lượng quân Nguyễn, thu phục toàn bộ miền đất từ Phú Yên trở vào Nam, chấm dứt chế độ thống trị của các chúa Nguyễn đã kéo dài hơn hai trăm năm ở Đàng Trong. Thất bại liên tiếp trước những đòn tiến công dồn dập của nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đi vào con đường phản bội dân tộc, rước quân Xiêm về dày xéo Tổ quốc.
Vương triều Băng Cốc vừa mới thành lập năm 1782, thì năm 1783 đã đưa quân sang xâm lấn nước ta ở Hà Tiên và năm 1784, nhân sự cầu cứu của Nguyễn Ánh, đã huy động 5 vạn quân, mở cuộc chiến tranh xâm lược đất Gia Định. Đầu năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ được lệnh đem đại quân Tây Sơn vào Gia Định, tổ chức phản công quét sạch quân giặc ra khỏi đất nước, với trận Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội Nguyễn Huệ đã chấm dứt vĩnh viễn họa ngoại xâm ở phía Nam [16]. Kháng chiến chống Xiêm là cuộc kháng chiến qui mô lớn đầu tiên diễn ra trên vùng đất cực nam của Tổ quốc.
Sau khi đã đánh bại các kẻ thù ở phía Nam, năm 1786, Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc cử đem quân chiếm lại Phú Xuân và Thuận Hóa vốn thuộc đất Đàng Trong, rồi củng cố hệ thống thành lũy ở bờ nam sông Gianh để đề phòng quân Trịnh. Quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã nhanh chóng đánh chiếm Phú Xuân và tiến ra giải phóng toàn bộ đất Thuận Hóa vừa bị quân Trịnh chiếm đóng. Đến đây, nhiệm vụ Nguyễn Nhạc giao cho đã hoàn thành, nhưng nếu dừng lại ở đây thì có nghĩa là tự giới hạn phong trào Tây Sơn trong phạm vi Đàng Trong, thừa nhận tình trạng đất nước bị chia cắt và để nhân dân Bắc Hà rên xiết dưới chế độ vua Lê chúa Trịnh.
Thấy được tình hình Bắc Hà, với tầm nhìn xa trông rộng, tấm lòng yêu nước thương dân, ý chí thống nhất đất nước mạnh mẽ, Nguyễn Huệ đã có một quyết định lịch sử với khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh” [17] đánh thẳng ra Thăng Long. Tháng 7 năm 1786, quân Tây Sơn theo hai đường thủy bộ đánh chiếm Vị Hoàng (Nam Định), rồi tiến về Thăng Long. Trịnh Khải chỉ huy quân Tam phủ chống trả kịch liệt, nhưng sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn đã phải bỏ Thăng Long chạy về phía Sơn Tây và bị bắt. Nguyễn Huệ dẫn quân vào Thăng Long, quân đội Tây Sơn được nhân dân Bắc Hà ủng hộ đã đánh tan toàn bộ quân Trịnh, lật nhào nền thống trị trên 200 năm của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đến đây, phong trào Tây Sơn đã lan rộng trên qui mô cả nước, đã chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt kéo dài trên hai thế kỷ và lập lại nền thống nhất quốc gia.
Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, vua Thanh Càn Long nhân cơ hội đã phát động chiến tranh xâm lược nước ta. 29 vạn quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sỹ Nghị cầm đầu, chia thành ba đạo tiến sang nước ta.
Tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (21 - 12 - 1788) Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo. Rạng sáng ngày hôm sau 25 tháng 11, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (theo Chiếu lên ngôi thì Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ngày 22 tháng 11) rồi lập tức ra lệnh xuất quân. [dẫn theo 25,tr 34].
Ngày 20 tháng 12 (10 tháng 1), Quang Trung ra đến Tam Điệp vào đúng đêm Giao thừa (25 tháng 1 năm 1789) [25], quân Tây Sơn bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược quét sạch quân Thanh ra khỏi Thăng Long. Lá cờ đỏ của nghĩa quân Tây Sơn lúc này đã trở thành ngọn cờ cứu nước cứu dân, ngọn cờ đoàn kết mọi lực lượng yêu nước vì đại nghĩa của dân tộc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta. Dù cho chế độ phong kiến suy vong, các thế lực phong kiến phản bội tiếp tay cho giặc ngoại xâm, nhân dân ta được phong trào Tây Sơn cổ vũ và tập hợp lại, vẫn đoàn kết trong cuộc đấu tranh kiên cường chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Chiến công oai hùng đó nói lên sức sống phi thường của dân tộc và tài năng quân sự tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Kháng chiến chống Thanh toàn thắng, thù trong giặc ngoài về cơ bản đã bị đánh bại, nhưng đất nước vẫn đứng tước nhiều khó khăn bề bộn. Chế độ thống trị của Trịnh, Nguyễn và hàng chục năm chiến tranh triền miên để lại những hậu quả nặng nề. Kinh tế sa sút, nhân dân lầm than, đói khổ. Những năm 1787 – 1788, Nguyễn Ánh lại đem quân từ Xiêm trở về, dựa vào thế lực của bọn địa chủ Gia Định, đánh bại Đông Định Vương Nguyễn Lữ làm chủ Gia Định và bắt đầu mở những cuộc tiến công ra. Đằng sau Nguyễn Ánh là các thế lực phong kiến thù địch trong nước được tập hợp lại và bọn tư bản phương Tây. Nền độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia vừa giành lại đang bị đe dọa. Cùng thời gian này, Nguyễn Nhạc thu mình lại ở vùng đất từ Quảng Nam trở vào, hưởng thụ thành quả đạt được. Với cương vị Hoàng đế của một vương triều mới, Quang Trung đã sớm nhận thấy những yêu cầu bức thiết của lịch sử và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp kiên quyết nhằm xây dựng lại đất nước về mọi mặt.
Trước hết, Quang Trung chủ trương nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh để tạo lập điều kiện thanh bình cho công cuộc xây dựng đất nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức lại gồm đủ các bộ, các cơ quan hành chính, tư pháp cũng như bao gồm cả các tướng lĩnh Tây Sơn lẫn các cựu thần nhà Lê yêu nước và tiến bộ. Kinh đô đóng ở Phú Xuân. Các trấn được giữ như cũ và do các võ tướng làm trấn thủ, một văn làm phó. Các huyện có văn phân tri và võ phân xuất trông coi. Quan hệ ngoại giao với nhà Thanh rất tốt đẹp, vua Thanh Càn Long rất hâm mộ vị chỉ huy quân sự tài năng Quang Trung nên đối xử rất trân trọng các sứ bộ Đại Việt.
Đầu năm 1789, Quang Trung ban “chiếu khuyến nông” nhằm phục hồi nông nghiệp. Tờ chiếu nói lên thực trạng bi đát của nền kinh tế: “Từ trải qua binh loạn lạc đến nay, binh hỏa liên miên, lại thêm đói kém, dân lưu tán, ruộng bỏ hoang, thực số đinh và tiền chẳng còn được 4,5 phần 10 so với trước” [50, tr105,106]. Trên cơ sở đó tờ chiếu đề ra những chính sách cụ thể, kêu gọi dân phiêu tán trở về quê hương, nhận ruộng công và ruộng tư bỏ hoang để cày cấy, góp phần phục hồi kinh tế nông nghiệp. Qua một thời gian qui định, nếu ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư bỏ hoang thì bị tịch thu.
Đối với kinh tế hàng hóa, Quang Trung ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế nặng nề trước đây, khuyến khích các hoạt động công thương nghiệp và mở rộng quan hệ mua bán với nước ngoài. Một số cửa ải vùng biên giới Việt – Trung được mở lại và các chợ Kỳ Lừa, Hoa Sơn (Lạng Sơn), Mục Mã (Cao Bằng) được khôi phục. Quang Trung cũng sẵn sàng tiếp nhận các thương nhân phương Tây vào buôn bán. Bộ mặt kinh tế Thăng Long cũng được sống lại với các hoạt động công thương nghiệp như nhà nho Nguyễn Huy Lượng viết “lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút”, “thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đóm nhen năm xã gây lò”, “Chày Yên Thái nện trong sương chệnh choảng”, “Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co”, “Khách Ngô Sở chợ Tây ngồi san sát” [dẫn theo 25, tr 42].
Cũng trong năm 1789, Quang Trung ban hành “Chiếu lập học” nhằm phục hồi và phát triển nền văn hóa giáo dục. Quang Trung có hoài bão lớn xây dựng một nền văn hóa dân tộc, coi trọng chứ Nôm và nền văn học tiếng Việt. Năm 1791, viện Sùng Chính được thiết lập ở Nghệ An do Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng, phụ trách công việc giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm.
Cùng với việc canh tân đất nước, Quang Trung rất chăm lo việc củng cố chính quyền và tăng cường lực lượng quốc phòng. Đối với quan lại của các vương triều cũ, Quang Trung áp dụng chính sách cầu hiền rất chân thành và tỏ ra khoan dung đối với những ai lui về cuộc sống ẩn dật. Nhưng mặt khác, Quang Trung kiên quyết trấn áp và trừng phạt những hành động chống đối, bạo loạn. Hàng loạt mưu đồ đã bị dập tắt.
Cuối cùng, mối đe dọa lớn nhất còn tồn tại là lực lượng Nguyễn Ánh và bọn tư bản phương Tây ở Gia Định. Năm 1792, Quang Trung đã có kế hoạch phối hợp với Nguyễn Nhạc, mở một cuộc tiến công lớn nhằm bao vây tiêu diệt toàn bộ kẻ thù ở đây. Ngày 10 tháng 7 năm Quang Trung thứ 5 (27 – 8 – 1792), Quang Trung đã truyền hịch kêu gọi quan quân hai phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn tham gia hưởng ứng cuộc tiến công qui mô lớn và có ý nghĩa trọng đại này. Trong tờ hịch, Quang Trung đã nêu cao vai trò và cống hiến của hai phủ vốn là quê hương và căn cứ xuất phát của phong trào Tây Sơn: “Từ hơn hai mươi năm nay tất cả các ngươi từ lớn đến nhỏ, đều chịu ơn huệ của nhà Tây Sơn ta. Trong suốt thời gian đó, nếu Trẫm đã giành được thắng lợi trong Nam ngoài Bắc thì rõ ràng cũng là nhờ vào lòng trung thành của hai phủ. Chính ở đây, Trẫm đã tìm thấy những người dũng cảm và hiền tài để giúp rập triều đình”. Quang Trung coi Nguyễn Ánh chỉ là “cái thây ma Gia Định” và tuyên bố sẽ “đánh bại quân giặc dễ như bẻ gãy cành củi mục”, sẽ lấy lại các vùng đất bị chiếm “trong nháy mắt”. Còn đối với bọn tư bản phương Tây mà chúng đã thả kinh khí cầu và khoe khoang những chiếc tàu đồng để lừa bịp nhân dân ta, thì Quang Trung cũng giải thích rõ là không nên tin vào những lời đồn đại của bọn chúng và chỉ nên xem bọn chúng như những xác trôi bị sóng biển Bắc đánh giạt vào không có gì đáng lạ để tâu trình [14, tr 7,8]. Nhưng chiến dịch chưa kịp thực hiện thì 20 ngày sau, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (15 – 9 – 1792), Quang Trung đã từ trần đột ngột giữa lúc tuổi đời mới 39 và đang ôm ấp nhiều hoài bão lớn.
Quang Trung mất, Quang Toản còn nhỏ tuổi lên ngôi, nhà Tây Sơn bắt đầu rạn nứt và suy yếu.Trong lúc đó, sau khi làm chủ Gia Định, Nguyễn Ánh ra sức chiêu mộ quân, liên hệ với các giáo sĩ phương Tây nhờ mua súng đạn. Sau khi có được một lực lượng hùng hậu và nghe tin Quang Trung mất, Nguyễn Ánh bắt đầu tổ chức đánh ra vùng đất Tây Sơn. Vùng đất phía nam, Qui Nhơn, Phú Xuân lần lượt thuộc về Nguyễn Ánh. Sau nhiều trận đánh lớn ở vùng sông Gianh, quân của Quang Toản thất bại, phải rút ra Bắc. Và đầu tháng 7 năm 1802, sau hơn 10 năm chinh chiến, Nguyễn Ánh chiếm được toàn bộ Bắc Hà, Quang Toản bị bắt. Triều Tây Sơn sụp đổ.
1.2.3. Sơ lược lịch sử hậu triều đại Tây Sơn
Sau khi chiếm được Bắc Hà, bắt được vua tôi nhà Tây Sơn (vua Cảnh Thịnh và các em), tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) Nguyễn Ánh cho làm lễ Hiến phù ở Thái Miếu. Sau lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài” [44]. Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu : “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” [44].
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt: “Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ. Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu. Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo, quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết [41].
Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn cố làm cho mọi người quên Nhà Tây Sơn, nhưng những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây Sơn. Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc.
Tiểu kết
Bình định ở đâu? Là gì với triều đại tây sơn, điều kiện tự nhiên, xã hội
Tiền Tây Sơn
Tây sơn
Hậu Tây sơn
Đất BĐ đã sản sinh ra con người và triều đại Tây Sơn, mặc dù hình thành và tồn tại trong một quãng thời gian không dài trong lịch sử nhưng đã để lại trang sử vẻ vang của dân tộc, chống giặc ngoại xâm và đã để lại một kho tàng di sản văn hóa mà đến nay, các đời con cháu phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy.
Lịch sử Việt Nam thế kỷ 18 là thời kỳ bão táp của chiến tranh nông dân mà đỉnh phát triển cao nhất là phong trào Tây Sơn. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung - Nguyễn Huệ, đã phát triển thành một phong trào quật khởi của cả dân tộc, lập lại nền thống nhất quốc gia sau hơn hai thế kỷ bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh từ hai phía Bắc, Nam bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Sự nghiệp của phong trào Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ được ghi vào sử sách như một bản anh hùng ca của thế kỷ, tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc và vai trò định đoạt của nhân dân trong một thời kỳ đầy biến động và thử thách của đất nước. Thắng lợi vẻ vang của phong trào Tây Sơn là kết quả đoàn kết đấu tranh của cả dân tộc và Quang Trung Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc vĩ đại, kết tinh những tư tưởng, tình cảm và tài trí của nhân dân cả nước thời bấy giờ.
Khởi nghĩa Tây Sơn như tên gọi của nó, là một cuộc khởi nghĩa nông dân xuất phát từ đất Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định. Đó là quê hương của người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ - Quang Trung và các thủ lĩnh Tây Sơn khác, là nơi xuất phát và giữ vai trò căn cứ địa ban đầu của cuộc khởi nghĩa.
Dấy lên từ ấp Tây Sơn, chỉ trong vòng 21 năm (1771-1792) dưới ngọn cờ chính nghĩa Tây Sơn, đã có sức thu hút và lan tỏa rộng khắp, liên tục lập nhiều chiến công vang dội, đưa phong trào Tây Sơn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, trở thành phong trào giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước, đánh đổ các tập đoàn phong kiến đang thống trị, xóa bỏ ranh giới sông Gianh, thống nhất đất nước trên hai thế kỷ bị chia cắt; Chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc: Đàng trong, đánh tan 5 vạn liên quân Xiêm – Nguyễn do Nguyễn Ánh rước về, với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (năm 1785), Đàng ngoài đại phá 29 vạn quân Thanh xâm lược với chiến công hiển hách Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789), khẳng định vị thế và chủ quyền Quốc gia dân tộc, tiến tới xây dựng vương triều nhà nước Tây Sơn với nhiều chính sách tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Thành quả vĩ đại ấy là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chính vì vậy, dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (khoảng 30 năm) nhưng triều đại Tây Sơn đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc, trên mọi miền đất nước đều ghi dấu chứng tích thời Tây Sơn. Đặc biệt trên vùng đất Tây Sơn, Bình Định, cái nôi của cuộc khởi nghĩa, nơi đã đóng góp nhiều người con ưu tú thuộc nhiều thành phần xã hội và dân tộc khác nhau, góp phần hình thành nên bộ tham mưu tài trí. Đến nay trải hơn hai thế kỷ, mặc cho sự trả thù của triều Nguyễn và chiến tranh tàn phá, nhiều di tích, di vật được nhân dân trân trọng gìn giữ bảo lưu, không những trên các trang sử, văn học thành văn mà còn cả trong nhiều truyền thuyết, thơ ca dân gian, thể hiện tài năng mưu trí dũng, quy tụ con người và lòng kính trọng mến mộ của nhân dân đối với các thủ lĩnh Tây Sơn.
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Sơ lược về tỉnh Bình Định
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bình Định, một dải đất dài và hẹp nằm giữa núi và biển ở vùng duyên hải Nam Trung bộ. Địa hình của vùng đất này có hai đặc điểm. Thứ nhất là dãy Trường Sơn phủ đầy rừng rậm chạy suốt chiều dài của tỉnh từ Bắc vào Nam và càng xuống phía Nam càng thấp dần. Thứ hai là dãy núi bị nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang tạo thành một số lưu vực nhỏ và hẹp, ít gắn với nhau về mặt địa lý. Trong quyển một bộ sách Chư Phiên Chí của một nhà du lịch người Trung Hoa vào thế kỷ 13 cho rằng vùng đất này có nhiều vùng định cư biệt lập với nhau [dẫn theo 40, tr 21]. Cũng như Gourou sau này nhận định là “Vùng đất rời rạc nhất thế giới” [dẫn theo 40, tr 21]. Tuy nhiên, cũng như các tỉnh dọc miền duyên hải miền Trung, Bình Định đã thực sự dựa hẳn lưng vào sự “chia cắt dữ dội” đó để tạo cho mình một sức sống chan hòa với thiên nhiên và một đời sống gắn bó với sự thăng trầm của lịch sử.
Bình Định có địa hình trải dài theo biển, tọa độ địa lý từ 13 độ 30’ đến 14 độ 42’ Vĩ Bắc và từ 108 độ 55’ Kinh Đông. Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi nơi có khu công nghiệp Dung Quất; Phía nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển du lịch dịch vụ; Phía tây giáp Tây Nguyên giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai thác. Phía đông hướng ra biển Đông. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế miền Trung - Tây Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với Quốc lộ 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn – Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế xã hội không chỉ riêng Bình Định mà cả khu vực miền Trung và Tây Nguyên, cũng như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông – Tây.
Do ảnh hưởng của rìa phía đông Cao nguyên Kon Tum nên địa hình Bình Định tương đối phức tạp: thấp dần từ Tây sang Đông, với độ chênh lệch khá cao (khoảng 1000m), độ cao trung bình so với mặt biển là 700m. Bề mặt địa hình thường có dạng núi cao xen lẫn thung lũng, đồng bằng lòng chảo và đầm phá ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là: vùng núi, đồi và cao nguyên chiếm 70% diện tích toàn tỉnh. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Với đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá. Sông ngòi không lớn nhưng có độ dốc cao nên thuận lợi cho phát triển thủy điện và thủy lợi [11]. Cấu tạo địa chất, địa hình, khí hậu làm cho Bình Định tuy không có đồng bằng rộng lớn nhưng có đồng ruộng phì nhiêu, đa dạng về sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, nhiều tài nguyên khoáng sản và tiềm năng thủy điện.
Với sự ưu đãi của tạo hóa ấy, trong lịch sử phát triển của mình, cũng như dân tộc Chăm, Tây Sơn – Nguyễn Nhạc đã chọn nơi đây làm Trung ương Hoàng Đế, tiếp tục nâng vùng đất này lên thành một nơi phát triển về kinh tế - chính trị - xã hội, đóng góp một phần vào nền văn hóa của dân tộc.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Bình Định là một trong những vùng đất có dấu con người tụ cư, tồn tại, sinh sống từ lâu đời của khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam. Trong lòng đất ở đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng loạt các di chỉ văn hóa khác nhau của thời kỳ tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh và sau Sa Huỳnh [11, tr18]. Điều đó nói lên tính liên tục của sự tồn tại và phát triển của con người trên mảnh đất Bình Định. Tuy nhiên, việc chứng minh mối liên hệ, sự kết nối giữa những cư dân của thời kỳ xa xưa đó với cư dân tiền Chăm Pa, thời kỳ Chăm Pa và những cư dân có mặt hiện nay trên đất Bình Định là một trong những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng, cần phải có thời gian, sự đầu tư nghiên cứu nhiều hơn nữa. Dù thế, bằng các thư tịch cổ như “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn [7], “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn [43], hay các chuyên khảo của các tác giả ở thời gian sau này như “Địa bạ Triều Nguyễn” của Nguyễn Đình Đầu, “Nước non Bình Định” của Quách Tấn [53], “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang [22], chúng ta có thể bước đầu hình dung được quá trình hội tụ cư dân ở tỉnh Bình Định bao gồm các cư dân có nguồn gốc: Cư dân thuộc ngữ hệ Nam Đảo (nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinedien) hiện có mặt trên vùng đất Bình Định là cư dân Chăm. Người Chăm của tỉnh Bình Định hiện nay có khoảng trên 5.000 người, cư trú tập trung ở huyện Vân Canh, họ là một trong những cư dân bản địa, có mặt từ rất sớm tại vùng đất này; Cư dân thuộc ngữ hệ Nam Á có hai nhóm ngôn ngữ khác nhau: Nhóm thứ nhất, là nhóm ngôn ngữ Môn – Khme là dân tộc Bana và Hrê. Người Bana ở tỉnh Bình Định có khoảng trên 15.000 người sống rải rác ở các huyện Tây Sơn, An Lão, Hoài Ân, Vân Canh nhưng tập trung đông nhất ở huyện Vĩnh Thạnh. Còn người Hrê hiện có khoảng 76.000 người tập trung đông nhất là ở huyện An Lão của tỉnh Bình Định. Nhóm thứ hai, là nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, chủ yếu là người Kinh (Việt) hiện nay chiếm tuyệt đại đa số dân cư (khoảng 1,4 triệu/1,44 triệu) và phân bố khắp các huyện thành của tỉnh; Cư dân thuộc ngữ hệ Hán – Tạng hiện nay ở Bình Định là người Hoa (người Hán) [11].
Bình Định có diện tích tự nhiên 6047,2 km², dân số 1.700.400 người, mật độ dân số 297 người/km² (số liệu năm 2012), trong đó nam là (821.000 người) chiếm 48,7%, nữ là (879.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (993.000 người) chiếm 58,2%, nông thôn là (749.400 người) chiếm 42,8%, và dân số trong độ tuổi lao động khoảng (1.020.000 người) chiếm 60 dân số toàn tỉnh đây là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho các ngành kinh tế của tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác như Chăm, Ba Na, Hrê, và Hoa bao gồm khoảng 2,5 vạn dân [11].
Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi phát tích phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân, danh tướng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Nguyễn Đăng Lâm, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Bình Định còn nổi tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi.
Với sự trù phú và nhiều ưu đãi của tạo hóa nơi đây, từ thế kỷ 18, trong Đại Nam nhất thống chí, khi nhận định khái quát về hình thế Bình Định đã viết: “Ruộng đất màu mỡ, rộng rãi. Nhân dân đông, sản vật nhiều, thuyền, xe tụ tập, buôn bán đông vui. Đánh hay giữ hai đường đều tiện. Thật là một vùng đất xung yếu” [43]. Cũng sách Đại Nam nhất thống chí khi nói về con người Bình Định, đã có nhận xét: “Học trò chăm học, nhân dân siêng năng cày dệt, tính tình trầm tĩnh, thích việc nghĩa. Người học thức phần nhiều nho nhã, trung hậu. Ăn mặc, đồ dùng thì giản dị, mộc mạc, không ưa văn hoa. Ngày rảnh rổi thích tổ chức hát tuồng” [34].
1.2. Sơ lược lịch sử triều đại Tây Sơn
1.2.1. Sơ lược lịch sử tiền triều đại Tây Sơn
Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 có một nền kinh tế tương đối phát triển. Kinh tế thương nghiệp xuất hiện, nhu cầu giao lưu trao đổi hàng hóa ngày một cao, xuất hiện các trung tâm trao đổi buôn bán sầm uất ở cả ba miền như Kinh Kỳ, Phố Hiến ở miền Bắc, Hội An ở miền Trung, Gia Định ở miền Nam. Chính vì vậy thời gian này dân gian có câu ca: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Nhưng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa đã gặp phải trở ngại to lớn từ phía chính quyền phong kiến đang trên đà suy thoái trầm trọng, sự chia rẽ trong bộ phận giai cấp lãnh đạo, chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn dẫn đến nạn cát cứ phong kiến chia cắt đất nước thành hai miền Đàng Ngoài – Đàng Trong, lấy dãy Hoành Sơn và Sông Gianh làm ranh giới. Nhà Trịnh, dưới danh nghĩa phù Lê quản lý toàn bộ phần đất phía Bắc. Nhà Nguyễn cũng dưới danh nghĩa nhà Lê, tự quản vùng đất phía Nam. Thực chất đây chỉ là vì quyền lợi của hai dòng họ, hai tập đoàn phong kiến đã gây nên cảnh chia cắt giang sơn. Bên cạnh sự chia cắt đất nước là sự xuống cấp nghiêm trọng của các rường mối phong kiến, quan lại trong triều đình tranh giành quyền lợi, sâu xé lẫn nhau, thay phiên nhau bóc lột nhân dân một cách thậm tệ, hàng trăm thứ sưu thuế đổ lên đầu nông dân, quần chúng nhân dân rên siết dưới gông cùm của chế độ phong kiến, mâu thuẫn xã hội phát triển hết sức gay gắt, biểu hiện là sự bùng nổ vô số các cuộc khởi nghĩa nông dân và các tộc người thiểu số chống lại chính quyền, báo hiệu một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.
Chế độ áp bức bóc lột, chính sách thuế khóa phong kiến đè nặng lên đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho hàng loạt nông dân bần cùng, phá sản, chết đói. Những mâu thuẫn chất chứa trong xã hội phong kiến, trước hết là mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và phong kiến phát triển đến mức độ gay gắt, quyết liệt và từ đó bùng nổ liên tiếp những bạo động của nông dân, những cuộc đấu tranh của các dân tộc thiểu số và các tầng lớp nhân dân khác.
Ở Đàng Ngoài, quần chúng nông dân cùng khổ đến cực độ, không có ruộng đất để sinh sống. Ruộng đất tư của nông dân bị bọn phong kiến địa chủ chiếm đoạt. Bản thân chúa Trịnh đương thời là Trịnh Cương cũng phải thừa nhận rằng “dân nghèo mảnh đất cắm dùi cũng không có” [23]. Ruộng đất công ở các làng bị lấn chiếm gần hết, chỉ còn đủ để cung cấp lương cho binh lính và ngụ lộc cho quan lại, người nông dân không còn có thể trông nhờ gì vào ruộng đất công để tìm nguồn sống. Trong khi đó sưu thuế chồng chất lên đầu người dân lại càng nặng nề khắc nghiệt. Nạn bóc lột cướp đoạt đã dẫn đến kết quả là ở Đàng Ngoài, khoảng những năm 40 của thế kỷ 18 “Dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no, dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau. Số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [45].
Trong khi ấy, tình hình Đàng Trong cũng không kém phần nghiêm trọng. Lê Quý Đôn một quan lại Đàng Ngoài đương thời, khi vào Phú Xuân đã nhận định về đời sống của các tầng lớp xã hội ở Đàng Trong: “Từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, áo quần là lượt, nệm hoa, chiếu mây… Kẻ sắc mục trong dân gian cũng mặc áo đoạn, còn áo the, áo sa là đồ mặc thường, lấy việc mặc đồ vải mộc mạc làm hổ thẹn. Binh sĩ cùng ngồi chiếu mây, dựa gối xếp, ấp lò hương cổ, uống nước trà ngon, chén sứ bịt bạc, coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực” [7]
Bọn nhà chúa lại càng xa hoa dâm dật đến cực độ. Chỉ lấy riêng một việc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) có tới 146 đứa con cũng đủ thấy sự xa hoa trụy lạc đến chừng nào. Từ sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát chết năm 1765, giai cấp phong kiến thống trị ở Đàng Trong lại sâu thêm một bước nữa vào con đường suy đốn. Phúc Khoát nhiều con, ngôi chúa đã định truyền cho một trong những người con lớn tuổi. Nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đã mưu lập người con thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên làm chúa để có thể nắm giữ mọi quyền binh, lũng đoạn triều đình.
Chúa đã như vậy, bọn triều thần cũng ăn chơi, rượu chè dâm dật không kém. Một quan lại cao cấp như Chưởng Thủy cơ Nguyễn Noãn suốt ngày đêm say rượu. Một đại thần khác như Hữu Trung cơ Nguyễn Nghiễm có tới 120 vợ lẽ, nàng hầu. Mọi việc triều chính đều ở trong tay Trương Phúc Loan, mà quyền thần Trương Phúc Loan thì lũng đoạn triều chính, mỗi năm tham nhũng hàng chục vạn quan tiền. Những quan lại khác cũng đua theo cướp đoạt của dân để ăn chơi như vậy [48].
Bọn phong kiến càng tăng cường bóc lột, tranh giành quyền lực, cướp đoạt của dân để ăn chơi bao nhiêu thì dân tình càng khổ cực bấy nhiêu. Cùng chung số phận với nhân dân cả nước, địa bàn hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi thuộc dinh Quảng Nam là vùng đất trù phú của xứ Đàng Trong, giáp ranh giữa đồng bằng và Tây nguyên, có nhiều mỏ sắt, vàng và nhiều lâm thổ sản quý. Lê Quý Đôn đã từng nhận định: “Xứ Quảng Nam đất đai phì nhiêu nhất thiên hạ” [7] đã trở thành trung tâm bóc lột của phong kiến Đàng Trong.
Phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi nói riêng và dinh Quảng Nam nói chung bên cạnh nông nghiệp, kinh tế công thương nghiệp cũng khá phát triển. Từ thế kỷ 18, Quy Nhơn, Quảng Ngãi đã là những thị trấn buôn bán tấp nập và Hội An là thương cảng lớn nhất của Đàng Trong. Năm 1768 số thuyền chuyên chở ở Đàng Trong đã là 447 chiếc, thì Quảng Nam có 60 chiếc, riêng Quy Nhơn có 93 chiếc, các nhà buôn Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và nhiều nước khác thường ra vào buôn bán ở Quảng Nam, thương nhân nước ngoài lúc bấy giờ coi Quảng Nam là trung tâm kinh tế của Đàng Trong và do đó thường gọi Đàng Trong là “Quảng Nam quốc”. Chính cái trù phú, thịnh vượng ấy của Quảng Nam đã khiến nơi đây trở thành trung tâm bóc lột của phong kiến Đàng Trong. Các thứ thuế má rất nhiều và cực kỳ nặng nề phiền nhiễu “Bọn cai trưng và quan lại các nha quá nhiều, mỗi một trường thu thuế có tới vài ba mươi người, đốc thúc, tra khảo rất là phiền nhiễu, lại còn truy hỏi, hành hạ, ăn lậu, cố tình thêm bớt, sách hạch, làm khổ dân”. Những con số được ghi trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn về chính sách thuế khóa của vùng đất này: Phủ Quy Nhơn ruộng thực trưng là 72.600 mẫu, hàng năm phải nộp thóc thuế 1.540.678 thưng. Thuế nhân đinh theo suất đinh bao gồm nhiều khoản gọi là sai dư, cước mễ, thường tân… Phủ Quy Nhơn có 15.733 đinh, trừ các hạng miễn, còn 3.820 người phải nộp 24.401quan tiền, 4.765 bao 25 thưng gạo; Phủ Quảng Ngãi ruộng thực trưng là 52.639 mẫu, hàng năm phải nộp thóc thuế 1.221.882 thưng. Ngoài thóc là khoản tô thuế chính, người dân còn phải nộp nhiều khoản phụ thu khác như tiền cung đốn, tiền khoán khố, tiền nộp thóc vào kho và các thứ lễ vật cho quan lại thu thuế [7].
Ngoài ra còn các thứ thuế công thương nghiệp, lâm thổ sản, thuế đầu nguồn, thuế đầm, thuế chợ, thuế đò… So với các phủ khác ở Đàng Trong thì bốn phủ thuộc dinh Quảng Nam phải đóng thuế nặng nề nhất. Số thuế thu ở Quảng Nam hàng năm thu vào trên 76.467 quan, chiếm một tỷ lệ cao trong các khoản thu nhập của họ Nguyễn. Như riêng thuế núi, thuế đầm, thuế cửa quan, thuế chợ, số tiền thuế thu ở Thuận Hóa chỉ một phần thì Quảng Nam đến 6 phần. Vì vậy trong số 19 kho thuế mà họ Nguyễn dựng lên ở Đàng Trong thì Quảng Nam đã có 7 kho, trong đó phủ Quy Nhơn có 3 kho (Phú An, Đạm Thủy và Càn Dương). Cả đồng bào Chàm, Thượng ở miền núi cũng phải chịu rất nhiều thứ thuế: thổ sản, thuế thân, thuế nguồn, thuế ruộng núi… Căn cứ vào những số liệu cụ thể, Lê Quý Đôn đã phải nhận định rằng: “Lệ phú thuế ở Quảng Nam khác với Thuận Hóa, Lệ trưng thu so với Thuận Hóa cũng nặng hơn, cho nên số thu vào kho rất nhiều và bỗng lộc của quan lại cũng rất phiền nhiễu. Dân ở đây nổi loạn đầu tiên cũng vì cớ ấy” [7].
Đó là bối cảnh lịch sử và xã hội chung ở Việt Nam thế kỷ 18. Giai cấp phong kiến thống trị ở cả Đàng Trong, Đàng Ngoài đều thối nát, quần chúng nhân dân cùng khổ cực độ. Trong hoàn cảnh ấy người nông dân Việt Nam đương thời không thể không vùng dậy để giành lấy quyền sống. Vì thế từ những năm đầu của thế kỷ 18, những cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại sự áp bức bóc lột của các tập đoàn phong kiến thống trị Lê, Trịnh, Nguyễn đã liên tiếp nổ ra. Trong suốt thời phong kiến ở Việt Nam, khởi nghĩa nông dân đã có nhiều, nhưng chưa bao giờ nhiều bằng thế kỷ 18, nên đã đi vào lịch sử dân tộc với tên gọi “Thế kỷ của khởi nghĩa nông dân”.
Bên cạnh những mâu thuẫn xã hội cơ bản, những thiên tai bất thường, cảnh nghèo đói cùng cực, sự áp bức dã man thường xuyên của bọn quan lại đã thúc đẩy các mâu thuẫn này lên đỉnh cao, chỉ cần có một đốm lửa nhỏ là bùng cháy thiêu đốt các chính quyền phong kiến. Chính vào những năm tháng thời điểm ấy, cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra, đáp ứng đúng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, làm nên cuộc cách mạng nông dân, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.
1.2.2. Sơ lược lịch sử thời đại Tây Sơn
Sau gần 200 năm tìm mọi cách tách ra khỏi ảnh hưởng của tập đoàn phong kiến họ Trịnh, các chúa Nguyễn đã mở rộng, ổn định được lãnh thổ hết vùng đất phía Nam, xây dựng được một thể chế xã hội ổn định khá vững mạnh với chính quyền chặt chẽ từ trung ương đến các địa phương, tạo dựng được quân đội hùng mạnh, đông đảo, thiện chiến. Nhờ những thành tựu này, các chúa Nguyễn ở phía Bắc cự được quân Trịnh, ở phía Nam mở được lãnh thổ. Sự lớn mạnh của chúa Nguyễn có những mặt tích cực nhưng đã gây nên cảnh phân chia Nam – Bắc, chỉ vì quyền lợi dòng họ, các chúa Nguyễn phá bỏ tính thống nhất lãnh thổ dân tộc mà hơn 3 thế kỷ bao thế hệ người Việt đã không ngừng mở mang, xây đắp. Nhưng những thành tựu đó lại không được kế thừa, phát huy bởi các chúa Nguyễn về sau càng lún sâu vào ăn chơi, tàn bạo, gây cảnh chia cắt đất nước triền miên, đẩy người dân ngày càng lâm vào cảnh khốn cùng. Đỉnh tột cùng của sự sa hoa, nhũng nhiễu và sự tranh giành quyền lực diễn ra dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1765, chúa Nguyễn Phúc Khoát mất, con là Nguyễn Phúc Thuần lên thay. Phúc Thuần lên nối ngôi “Tuổi trẻ thích chơi bời múa hát; có bệnh không gần đàn bà được, sai con hát yêu dâm loạn với cung nữ để làm vui, tôn Phúc Loan làm Quốc Phó” [7]. Do chúa còn nhỏ lại tin dùng những người “Thứ nhất là Quốc Phó Trương Phúc Loan tham của, thấy lợi thì tranh trước, nhà chứa của cải vàng bạc vô số mà còn không vừa; lại dùng hai người cậu, một là chưởng thủy cơ Nguyễn Noãn thích rượu suốt ngày say sưa, việc đời không biết gì cả, hai là hữu trung cơ Nguyễn Nghiễm, mê gái, lấy vợ lẽ 120 người, buồn sau chứa đầy châu ngọc, mắm muối trăm vạn thạch, hồ tiêu ngoài hai vạn hộc” [7]. Thực quyền phủ chúa rơi vào tay Trương Phúc Loan. Trương Phúc Loan nắm quyền buôn quan, bán ngục, giếc những công thần họ Nguyễn không cùng phe cánh, bổ nhiệm người thân, tạo lập bè phái nắm giữ hết những trọng yếu của Phủ Chúa, tác yêu, tác quái, tự do hoành hành không ai giám ngăn cản. “Phúc Loan chuyên quyền hơn 30 năm, tham lam tàn nhẫn, giết chóc rất nhiều” [7]. Để phục vụ cho việc cung thất, cuộc sống ăn chơi xa xỉ, cùng những nhu cầu phục vụ chính quyền, quân đội, các chúa Nguyễn lập ra đủ các loại thuế, tham lam vơ vét sức người, sức của, đẩy người dân ngày càng đi vào con đường cùng cực. Những năm bão lụt thất thường hay xảy ra nạn đói, người chết, kẻ tha phương, dân tình phiêu tán đi sâu vào vùng đất mới. Dật sĩ Ngô Thế Lân, một nho sĩ cũng phải kêu “từ năm Mậu Tý (1768) đến nay, giá lúa cao vọt, dân chúng đói kém” [22, tr 484, 485]. Lê Quý Đôn cũng nhận thấy “Thuận Hóa luôn mấy năm mất mùa đói kém, lại phải đánh trận bắt lính không thôi, quân dân lìa lòng, sùng sục mong làm loạn” [10]. Bên cạnh đó, với chính sách thuế khóa đầu nguồn nặng nề, quan lại chúa Nguyễn gây bao nỗi khổ cực cho các tộc người thiểu số, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và các tộc người thiểu số nổ ra chống lại chính quyền phong kiến chúa Nguyễn. Trên địa bàn hai phủ Quy Nhơn – Quảng Ngãi cũng nổ ra các cuộc khởi nghĩa của Linh Vương – Quảng Phú, khởi nghĩa của người dân tộc Hê rê ở miền núi và đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Võ Văn Doan (Dân gian quen gọi là chàng Lía). Khởi nghĩa chàng Lía có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, nó là đêm trước của khởi nghĩa nông dân Tây Sơn.
Tình hình chính trị - xã hội rối ren như vậy đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, chí hướng và hành động của ba anh em Tây Sơn. Năm 1771, ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa ở vùng đất Tây Sơn Thượng Đạo (nay thuộc tỉnh Gia Lai), người khởi xướng và lãnh đạo phong trào giai đoạn đầu là anh cả Nguyễn Nhạc.
Ngọn cờ khởi nghĩa ngay từ đầu đã đoàn kết, tập hợp được đông đảo nông dân người Kinh, người Thượng và các lực lượng bất bình, chán ghét chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc vừa nêu cao khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo” để phát động dân nghèo đứng dậy đấu tranh, vừa đề ra sách lược “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, suy tôn hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương” để phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Vì vậy, bên cạnh nông dân và các dân tộc miền núi, cuộc khởi nghĩa còn lôi cuốn được một số thương nhân, thổ hào và phong kiến lớp dưới. Sử nhà Nguyễn chép “Giặc lúc đầu nổi lên thì cướp của người giàu chu cấp cho người nghèo, dối trá thi ân nhỏ để mua chuộc long người. Một nữ chúa người Chăm ở Thuận Thành là Hỏa nổi dậy hưởng ứng. Nhà giàu như Vũ Tất Thận, Huyền Khuê, thổ hào như Nguyễn Thung cũng bỏ tiền ra giúp đỡ, khuyến khích thuận theo việc khởi nghĩa. Bè đảng của Nhạc càng thêm đông đảo, phân tán ra cướp giật làng ấp, đi đến đâu thì hò reo la ó hưởng ứng nhau, thế lực ngày càng ngang tàng, quan địa phương không thể chế ngự nổi” [41].
Một số người nước ngoài ở nước ta lúc đó ghi lại cụ thể hơn hoạt động của nghĩa quân Tây Sơn “Họ đi khắp các làng mạc, tuyên bố với dân chúng rằng, họ không phải là giặc cướp mà là làm theo ý Trời, họ muốn thi hành công lý và giải thoát dân chúng khỏi ách tàn bạo của bọn vua quan. Họ tuyên truyền sự bình đẳng về mọi mặt và trung thành với chủ nghĩa này, những người tiền khu của chủ nghĩa xã hội cận đại ấy tước đoạt tài sản của bọn vua quan và hào phú chia cho dân nghèo. Dân chúng các làng ấp bị sưu thuế khắc nghiệt đè .nặng đã hăng hái tuyên thệ đi theo những người tự nhận là cứu tinh của họ. Người ta gọi họ là giặc nhân đức đối với người nghèo” [25, tr 18,19]
Năm 1773, từ căn cứ Tây Sơn Thượng Đạo, nghĩa quân tiến xuống giải phóng vùng Tây Sơn Hạ Đạo. Cuộc khởi nghĩa đã phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân kết hợp sức mạnh tiến công của nghĩa quân với sự nổi dậy hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân bị áp bức , nghĩa quân giải phóng các làng ấp rồi tiến lên giải phóng các huyện, đánh sập từng mảng chính quyền của chúa Nguyễn. Trong năm 1773, nghĩa quân tiến ra chiếm phủ Quảng Ngãi. Đến đây, cả hai phủ Qui Nhơn và Quảng Ngãi được giải phóng trở thành một căn cứ rộng lớn, một bàn đạp vững chắc cho phong trào. Từ Qui Nhơn – Quảng Ngãi, nghĩa quân tiến vào giải phóng các phủ Diên Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa), Bình Khang và Bình Thuận (Bình Thuận). Nghĩa quân tiếp tục mở những cuộc tiến công ra Quảng Nam, đánh bại nhiều cuộc phản công của quân Nguyễn. Tạm yên mặt Bắc, năm 1775, Nguyễn Nhạc cử em là Nguyễn Huệ lúc đó mới 22 tuổi chỉ huy một đạo quân vào đánh chiếm lại Phú Yên. Bằng một trận đánh úp với lối đánh thần tốc hết sức bất ngờ, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài tình của Nguyễn Huệ đã đánh tan quân Nguyễn, chiếm giữ phủ thành Phú Yên. Đây là một chiến thắng quan trọng bậc nhất trong giai đoạn cực kỳ khó khăn của nghĩa quân Tây Sơn, chiến thắng này đã đưa Nguyễn Huệ lên hàng ngũ tướng soái cao cấp của quân đội Tây Sơn, mở đầu cho sự nghiệp của một thiên tài quân sự có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sau chiến thắng Phú Yên của Tây Sơn, quân Trịnh cũng rút về Phú Xuân. Như vậy, đến cuối năm 1775 quân Tây Sơn làm chủ hoàn toàn vùng đất rộng lớn từ Quảng Nam đến Phú Yên.
Năm 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, phong Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Trên cơ sở kinh thành Đồ Bàn (Vijaya) đã bị bỏ phế từ lâu, Nguyễn Nhạc cho xây dựng lại và mở rộng thêm, dùng làm đại bản doanh của bộ chỉ huy quân đội Tây Sơn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng làm Hoàng đế và thành Đồ Bàn được đổi tên là thành Hoàng đế.
Chính tại thành Hoàng đế này, trong thời gian từ năm 1776 đến năm 1783, quân Tây Sơn đã 5 lần xuất phát tiến vào Gia Định, mở những cuộc tiến công và truy quét quyết liệt đánh tan lực lượng quân Nguyễn, thu phục toàn bộ miền đất từ Phú Yên trở vào Nam, chấm dứt chế độ thống trị của các chúa Nguyễn đã kéo dài hơn hai trăm năm ở Đàng Trong. Thất bại liên tiếp trước những đòn tiến công dồn dập của nghĩa quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đi vào con đường phản bội dân tộc, rước quân Xiêm về dày xéo Tổ quốc.
Vương triều Băng Cốc vừa mới thành lập năm 1782, thì năm 1783 đã đưa quân sang xâm lấn nước ta ở Hà Tiên và năm 1784, nhân sự cầu cứu của Nguyễn Ánh, đã huy động 5 vạn quân, mở cuộc chiến tranh xâm lược đất Gia Định. Đầu năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ được lệnh đem đại quân Tây Sơn vào Gia Định, tổ chức phản công quét sạch quân giặc ra khỏi đất nước, với trận Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội Nguyễn Huệ đã chấm dứt vĩnh viễn họa ngoại xâm ở phía Nam [16]. Kháng chiến chống Xiêm là cuộc kháng chiến qui mô lớn đầu tiên diễn ra trên vùng đất cực nam của Tổ quốc.
Sau khi đã đánh bại các kẻ thù ở phía Nam, năm 1786, Nguyễn Huệ được Nguyễn Nhạc cử đem quân chiếm lại Phú Xuân và Thuận Hóa vốn thuộc đất Đàng Trong, rồi củng cố hệ thống thành lũy ở bờ nam sông Gianh để đề phòng quân Trịnh. Quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã nhanh chóng đánh chiếm Phú Xuân và tiến ra giải phóng toàn bộ đất Thuận Hóa vừa bị quân Trịnh chiếm đóng. Đến đây, nhiệm vụ Nguyễn Nhạc giao cho đã hoàn thành, nhưng nếu dừng lại ở đây thì có nghĩa là tự giới hạn phong trào Tây Sơn trong phạm vi Đàng Trong, thừa nhận tình trạng đất nước bị chia cắt và để nhân dân Bắc Hà rên xiết dưới chế độ vua Lê chúa Trịnh.
Thấy được tình hình Bắc Hà, với tầm nhìn xa trông rộng, tấm lòng yêu nước thương dân, ý chí thống nhất đất nước mạnh mẽ, Nguyễn Huệ đã có một quyết định lịch sử với khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh” [17] đánh thẳng ra Thăng Long. Tháng 7 năm 1786, quân Tây Sơn theo hai đường thủy bộ đánh chiếm Vị Hoàng (Nam Định), rồi tiến về Thăng Long. Trịnh Khải chỉ huy quân Tam phủ chống trả kịch liệt, nhưng sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn đã phải bỏ Thăng Long chạy về phía Sơn Tây và bị bắt. Nguyễn Huệ dẫn quân vào Thăng Long, quân đội Tây Sơn được nhân dân Bắc Hà ủng hộ đã đánh tan toàn bộ quân Trịnh, lật nhào nền thống trị trên 200 năm của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đến đây, phong trào Tây Sơn đã lan rộng trên qui mô cả nước, đã chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt kéo dài trên hai thế kỷ và lập lại nền thống nhất quốc gia.
Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, vua Thanh Càn Long nhân cơ hội đã phát động chiến tranh xâm lược nước ta. 29 vạn quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sỹ Nghị cầm đầu, chia thành ba đạo tiến sang nước ta.
Tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (21 - 12 - 1788) Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo. Rạng sáng ngày hôm sau 25 tháng 11, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (theo Chiếu lên ngôi thì Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ngày 22 tháng 11) rồi lập tức ra lệnh xuất quân. [dẫn theo 25,tr 34].
Ngày 20 tháng 12 (10 tháng 1), Quang Trung ra đến Tam Điệp vào đúng đêm Giao thừa (25 tháng 1 năm 1789) [25], quân Tây Sơn bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược quét sạch quân Thanh ra khỏi Thăng Long. Lá cờ đỏ của nghĩa quân Tây Sơn lúc này đã trở thành ngọn cờ cứu nước cứu dân, ngọn cờ đoàn kết mọi lực lượng yêu nước vì đại nghĩa của dân tộc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta. Dù cho chế độ phong kiến suy vong, các thế lực phong kiến phản bội tiếp tay cho giặc ngoại xâm, nhân dân ta được phong trào Tây Sơn cổ vũ và tập hợp lại, vẫn đoàn kết trong cuộc đấu tranh kiên cường chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Chiến công oai hùng đó nói lên sức sống phi thường của dân tộc và tài năng quân sự tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Kháng chiến chống Thanh toàn thắng, thù trong giặc ngoài về cơ bản đã bị đánh bại, nhưng đất nước vẫn đứng tước nhiều khó khăn bề bộn. Chế độ thống trị của Trịnh, Nguyễn và hàng chục năm chiến tranh triền miên để lại những hậu quả nặng nề. Kinh tế sa sút, nhân dân lầm than, đói khổ. Những năm 1787 – 1788, Nguyễn Ánh lại đem quân từ Xiêm trở về, dựa vào thế lực của bọn địa chủ Gia Định, đánh bại Đông Định Vương Nguyễn Lữ làm chủ Gia Định và bắt đầu mở những cuộc tiến công ra. Đằng sau Nguyễn Ánh là các thế lực phong kiến thù địch trong nước được tập hợp lại và bọn tư bản phương Tây. Nền độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia vừa giành lại đang bị đe dọa. Cùng thời gian này, Nguyễn Nhạc thu mình lại ở vùng đất từ Quảng Nam trở vào, hưởng thụ thành quả đạt được. Với cương vị Hoàng đế của một vương triều mới, Quang Trung đã sớm nhận thấy những yêu cầu bức thiết của lịch sử và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp kiên quyết nhằm xây dựng lại đất nước về mọi mặt.
Trước hết, Quang Trung chủ trương nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh để tạo lập điều kiện thanh bình cho công cuộc xây dựng đất nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức lại gồm đủ các bộ, các cơ quan hành chính, tư pháp cũng như bao gồm cả các tướng lĩnh Tây Sơn lẫn các cựu thần nhà Lê yêu nước và tiến bộ. Kinh đô đóng ở Phú Xuân. Các trấn được giữ như cũ và do các võ tướng làm trấn thủ, một văn làm phó. Các huyện có văn phân tri và võ phân xuất trông coi. Quan hệ ngoại giao với nhà Thanh rất tốt đẹp, vua Thanh Càn Long rất hâm mộ vị chỉ huy quân sự tài năng Quang Trung nên đối xử rất trân trọng các sứ bộ Đại Việt.
Đầu năm 1789, Quang Trung ban “chiếu khuyến nông” nhằm phục hồi nông nghiệp. Tờ chiếu nói lên thực trạng bi đát của nền kinh tế: “Từ trải qua binh loạn lạc đến nay, binh hỏa liên miên, lại thêm đói kém, dân lưu tán, ruộng bỏ hoang, thực số đinh và tiền chẳng còn được 4,5 phần 10 so với trước” [50, tr105,106]. Trên cơ sở đó tờ chiếu đề ra những chính sách cụ thể, kêu gọi dân phiêu tán trở về quê hương, nhận ruộng công và ruộng tư bỏ hoang để cày cấy, góp phần phục hồi kinh tế nông nghiệp. Qua một thời gian qui định, nếu ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư bỏ hoang thì bị tịch thu.
Đối với kinh tế hàng hóa, Quang Trung ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế nặng nề trước đây, khuyến khích các hoạt động công thương nghiệp và mở rộng quan hệ mua bán với nước ngoài. Một số cửa ải vùng biên giới Việt – Trung được mở lại và các chợ Kỳ Lừa, Hoa Sơn (Lạng Sơn), Mục Mã (Cao Bằng) được khôi phục. Quang Trung cũng sẵn sàng tiếp nhận các thương nhân phương Tây vào buôn bán. Bộ mặt kinh tế Thăng Long cũng được sống lại với các hoạt động công thương nghiệp như nhà nho Nguyễn Huy Lượng viết “lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút”, “thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đóm nhen năm xã gây lò”, “Chày Yên Thái nện trong sương chệnh choảng”, “Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co”, “Khách Ngô Sở chợ Tây ngồi san sát” [dẫn theo 25, tr 42].
Cũng trong năm 1789, Quang Trung ban hành “Chiếu lập học” nhằm phục hồi và phát triển nền văn hóa giáo dục. Quang Trung có hoài bão lớn xây dựng một nền văn hóa dân tộc, coi trọng chứ Nôm và nền văn học tiếng Việt. Năm 1791, viện Sùng Chính được thiết lập ở Nghệ An do Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng, phụ trách công việc giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm.
Cùng với việc canh tân đất nước, Quang Trung rất chăm lo việc củng cố chính quyền và tăng cường lực lượng quốc phòng. Đối với quan lại của các vương triều cũ, Quang Trung áp dụng chính sách cầu hiền rất chân thành và tỏ ra khoan dung đối với những ai lui về cuộc sống ẩn dật. Nhưng mặt khác, Quang Trung kiên quyết trấn áp và trừng phạt những hành động chống đối, bạo loạn. Hàng loạt mưu đồ đã bị dập tắt.
Cuối cùng, mối đe dọa lớn nhất còn tồn tại là lực lượng Nguyễn Ánh và bọn tư bản phương Tây ở Gia Định. Năm 1792, Quang Trung đã có kế hoạch phối hợp với Nguyễn Nhạc, mở một cuộc tiến công lớn nhằm bao vây tiêu diệt toàn bộ kẻ thù ở đây. Ngày 10 tháng 7 năm Quang Trung thứ 5 (27 – 8 – 1792), Quang Trung đã truyền hịch kêu gọi quan quân hai phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn tham gia hưởng ứng cuộc tiến công qui mô lớn và có ý nghĩa trọng đại này. Trong tờ hịch, Quang Trung đã nêu cao vai trò và cống hiến của hai phủ vốn là quê hương và căn cứ xuất phát của phong trào Tây Sơn: “Từ hơn hai mươi năm nay tất cả các ngươi từ lớn đến nhỏ, đều chịu ơn huệ của nhà Tây Sơn ta. Trong suốt thời gian đó, nếu Trẫm đã giành được thắng lợi trong Nam ngoài Bắc thì rõ ràng cũng là nhờ vào lòng trung thành của hai phủ. Chính ở đây, Trẫm đã tìm thấy những người dũng cảm và hiền tài để giúp rập triều đình”. Quang Trung coi Nguyễn Ánh chỉ là “cái thây ma Gia Định” và tuyên bố sẽ “đánh bại quân giặc dễ như bẻ gãy cành củi mục”, sẽ lấy lại các vùng đất bị chiếm “trong nháy mắt”. Còn đối với bọn tư bản phương Tây mà chúng đã thả kinh khí cầu và khoe khoang những chiếc tàu đồng để lừa bịp nhân dân ta, thì Quang Trung cũng giải thích rõ là không nên tin vào những lời đồn đại của bọn chúng và chỉ nên xem bọn chúng như những xác trôi bị sóng biển Bắc đánh giạt vào không có gì đáng lạ để tâu trình [14, tr 7,8]. Nhưng chiến dịch chưa kịp thực hiện thì 20 ngày sau, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (15 – 9 – 1792), Quang Trung đã từ trần đột ngột giữa lúc tuổi đời mới 39 và đang ôm ấp nhiều hoài bão lớn.
Quang Trung mất, Quang Toản còn nhỏ tuổi lên ngôi, nhà Tây Sơn bắt đầu rạn nứt và suy yếu.Trong lúc đó, sau khi làm chủ Gia Định, Nguyễn Ánh ra sức chiêu mộ quân, liên hệ với các giáo sĩ phương Tây nhờ mua súng đạn. Sau khi có được một lực lượng hùng hậu và nghe tin Quang Trung mất, Nguyễn Ánh bắt đầu tổ chức đánh ra vùng đất Tây Sơn. Vùng đất phía nam, Qui Nhơn, Phú Xuân lần lượt thuộc về Nguyễn Ánh. Sau nhiều trận đánh lớn ở vùng sông Gianh, quân của Quang Toản thất bại, phải rút ra Bắc. Và đầu tháng 7 năm 1802, sau hơn 10 năm chinh chiến, Nguyễn Ánh chiếm được toàn bộ Bắc Hà, Quang Toản bị bắt. Triều Tây Sơn sụp đổ.
1.2.3. Sơ lược lịch sử hậu triều đại Tây Sơn
Sau khi chiếm được Bắc Hà, bắt được vua tôi nhà Tây Sơn (vua Cảnh Thịnh và các em), tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) Nguyễn Ánh cho làm lễ Hiến phù ở Thái Miếu. Sau lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài” [44]. Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu : “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” [44].
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt: “Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ. Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu. Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo, quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết [41].
Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn cố làm cho mọi người quên Nhà Tây Sơn, nhưng những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây Sơn. Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc.
Tiểu kết
Bình định ở đâu? Là gì với triều đại tây sơn, điều kiện tự nhiên, xã hội
Tiền Tây Sơn
Tây sơn
Hậu Tây sơn
Đất BĐ đã sản sinh ra con người và triều đại Tây Sơn, mặc dù hình thành và tồn tại trong một quãng thời gian không dài trong lịch sử nhưng đã để lại trang sử vẻ vang của dân tộc, chống giặc ngoại xâm và đã để lại một kho tàng di sản văn hóa mà đến nay, các đời con cháu phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy.
Lịch sử Việt Nam thế kỷ 18 là thời kỳ bão táp của chiến tranh nông dân mà đỉnh phát triển cao nhất là phong trào Tây Sơn. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung - Nguyễn Huệ, đã phát triển thành một phong trào quật khởi của cả dân tộc, lập lại nền thống nhất quốc gia sau hơn hai thế kỷ bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh từ hai phía Bắc, Nam bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Sự nghiệp của phong trào Tây Sơn và Quang Trung - Nguyễn Huệ được ghi vào sử sách như một bản anh hùng ca của thế kỷ, tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc và vai trò định đoạt của nhân dân trong một thời kỳ đầy biến động và thử thách của đất nước. Thắng lợi vẻ vang của phong trào Tây Sơn là kết quả đoàn kết đấu tranh của cả dân tộc và Quang Trung Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc vĩ đại, kết tinh những tư tưởng, tình cảm và tài trí của nhân dân cả nước thời bấy giờ.
Khởi nghĩa Tây Sơn như tên gọi của nó, là một cuộc khởi nghĩa nông dân xuất phát từ đất Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định. Đó là quê hương của người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ - Quang Trung và các thủ lĩnh Tây Sơn khác, là nơi xuất phát và giữ vai trò căn cứ địa ban đầu của cuộc khởi nghĩa.
Dấy lên từ ấp Tây Sơn, chỉ trong vòng 21 năm (1771-1792) dưới ngọn cờ chính nghĩa Tây Sơn, đã có sức thu hút và lan tỏa rộng khắp, liên tục lập nhiều chiến công vang dội, đưa phong trào Tây Sơn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, trở thành phong trào giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước, đánh đổ các tập đoàn phong kiến đang thống trị, xóa bỏ ranh giới sông Gianh, thống nhất đất nước trên hai thế kỷ bị chia cắt; Chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc: Đàng trong, đánh tan 5 vạn liên quân Xiêm – Nguyễn do Nguyễn Ánh rước về, với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (năm 1785), Đàng ngoài đại phá 29 vạn quân Thanh xâm lược với chiến công hiển hách Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789), khẳng định vị thế và chủ quyền Quốc gia dân tộc, tiến tới xây dựng vương triều nhà nước Tây Sơn với nhiều chính sách tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Thành quả vĩ đại ấy là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chính vì vậy, dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (khoảng 30 năm) nhưng triều đại Tây Sơn đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc, trên mọi miền đất nước đều ghi dấu chứng tích thời Tây Sơn. Đặc biệt trên vùng đất Tây Sơn, Bình Định, cái nôi của cuộc khởi nghĩa, nơi đã đóng góp nhiều người con ưu tú thuộc nhiều thành phần xã hội và dân tộc khác nhau, góp phần hình thành nên bộ tham mưu tài trí. Đến nay trải hơn hai thế kỷ, mặc cho sự trả thù của triều Nguyễn và chiến tranh tàn phá, nhiều di tích, di vật được nhân dân trân trọng gìn giữ bảo lưu, không những trên các trang sử, văn học thành văn mà còn cả trong nhiều truyền thuyết, thơ ca dân gian, thể hiện tài năng mưu trí dũng, quy tụ con người và lòng kính trọng mến mộ của nhân dân đối với các thủ lĩnh Tây Sơn.
Chương 2
DI SẢN VĂN HÓA
TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN Ở BÌNH ĐỊNH
2.1. Di sản văn hóa vật thể
2.1.1. Di tích lịch sử
Tây Sơn - Bình Định là quê hương của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn thế kỷ XVIII, là cái nôi của phong trào Tây Sơn đồng thời cũng là nơi hạnh ngộ của nhiều người con ưu tú trong buổi đầu tụ nghĩa, cả người Kinh, người Thượng và người Chăm. Những dấu tích về ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, về những danh tướng tài ba quê ở Tây Sơn và Phong trào Tây Sơn trên mảnh đất địa linh - nhân kiệt này vẫn được người dân Tây Sơn nâng niu, giữ gìn, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và để giáo dục truyền thống cho các thế hệ sau. Để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân trong việc gìn giữ bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa thời Tây Sơn và người Anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ trên chính quê hương của người anh hùng, cho đến nay, rất nhiều nơi thờ tự, các di tích liên quan đến cuộc đời và hoạt động của ba anh em nhà Tây Sơn, nghĩa quân Tây Sơn đã được khôi phục và đưa vào hoạt động.
Di tích Gò Lăng Phú Lạc: Làng Phú Lạc, quê ngoại của các lãnh tụ Tây Sơn, và là nơi ông bà Hồ Phi Phúc, Nguyễn Thị Đồng sau khi kết hôn đã sống một thời gian.
Làng Phú Lạc xưa thuộc Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay thuộc xã Bình Thành huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Nằm trên vùng bán sơn địa, địa hình Phú Lạc có hai phần rõ rệt. Phía Bắc là rừng núi chiếm hơn nửa diện tích, phía Nam là dân cư và đồng ruộng. Dân chủ yếu sống bằng nghề nông, từ xưa đã xây dựng được các đập nước từ suối nhỏ vào đồng điền, như đập Ông Phó do người họ Mai lập nên, đập Ông Mùa do người họ Lê xây dựng, đồng thời tham gia làm các đập Lộc Đỗng, Kiền Kiền (cuối thế kỷ XVIII), đập Văn Phong [39, tr 28,29].
Theo ký ức của nhân dân địa phương thì tổ tiên bà Nguyễn Thị Đồng là một trong những người đầu tiên có công khai phá lập ra làng Phú Lạc. Về sau con cháu cư trú tập trung ở xóm Phú Thọ Chính. Sau khi nhà Tây Sơn mất, Nguyễn Ánh đã thi hành chính sách trả thù tàn bạo. Phú Lạc bị tàn phá, đặc biệt là những di vật liên quan đến gia đình các lãnh tụ Tây Sơn. Vì thế hiện nay ở Phú Lạc chỉ còn lại một số di tích chủ yếu dưới dạng phế tích ít ỏi về nhà Tây Sơn.
Di tích Gò Lăng thuộc đất xóm Phú Thọ Chính, giáp với Phú Thọ Nam. Đây là nền nhà và vườn của ông bà Hồ Phi Phúc. Di tích kiến trúc ở đây đã bị huỷ hoại, dấu vết còn lại là một nền nhà bằng phẳng và mảnh vườn rộng khoảng 2 sào. Tuy nhiên, qua phát hiện gần đây cho thấy đó là kiến trúc của một ngôi nhà lá mái với hàng chục trụ cột cao to, khoảng cách các cột trước nhà rộng 2,7m, táng kê cột nhà là đá núi vuông vức có khắc hoa văn hình hoa thị với kích cỡ mỗi bề 0,4m, ở đây còn nhiều mảnh gốm sứ của bát đĩa vỡ, rõ ràng ông bà Hồ Phi Phúc – Nguyễn Thị Đồng là những người khá giả [9, tr 18 ]
Cạnh gốc cây thị trong vườn có một ngôi miếu nhỏ, thường gọi là miếu Sơn Quân, tức là miếu thờ thần núi. Miếu này có trước cả đình Phú Lạc, ban đầu chỉ bằng tranh nứa vách đất, quay hướng Nam, sau hư hỏng mới làm lại, tường xây lợp ngói vảy, quay hướng Đông. Theo một số cụ già cao tuổi người địa phương thì miếu Sơn Quân, về hình thức là thờ sơn thần nhưng trên thực tế là để thờ ông bà Hồ Phi Phúc. Trước đây, nhất là thời kỳ đầu nhà Nguyễn, hàng năm vào Tết thanh minh nhân dân phải tổ chức cúng tế ở miếu dưới hình thức mật niệm. Về sau này việc cúng tế được công phai, đến nay vẫn tiếp tục duy trì. Di tích Gò Lăng – Phú Lạc được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Năm 1988.
Di tích Tây Sơn Điện: Điện Tây Sơn là nơi thờ ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và các văn thần, võ tướng Tây Sơn, được xây dựng ngay trên nền nhà cũ của anh em Tây Sơn, nay nằm trong khu vực nhà Bảo tàng Quang Trung thuộc khối 1, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Điện thờ này xây dựng mới lần đầu và được khánh thành năm 1960, năm 1998 được nâng cấp tôn tạo quy mô hơn nhưng không khác mấy so với năm 1960. Điện thời Tây Sơn mang trong mình nó cả một câu chuyện lịch sử dài (Phụ lục ảnh số...).
Sau một thời gian cư trú bên quê vợ là làng Phú Lạc, ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng chuyển sang định cư ở làng Kiên Mỹ. Phú Lạc và Kiên Mỹ đều thuộc ấp Kiên Thành huyện Tuy Viễn phủ Quy Nhơn, về sau đều thuộc xã bình Thành huyện Tây Sơn, nay thuộc khối 1 thị trấn Phú Phong. Kiên Mỹ là quê hương thứ ba của dòng họ Tây Sơn ở Đàng trong, là nơi sinh trưởng của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Một ngôi nhà khang trang được xây cất, có cây me, có giếng nước. Tuổi thơ của anh em Tây Sơn đã đi qua tại đây. Sự nghiệp của anh em Tây Sơn cũng bắt đầu từ đây.
Phong trào Tây Sơn khi mới giành được thắng lợi ban đầu đã đem lại nhiều quyền lợi thiết thực cho người nghèo. Vì thế, sau khi nhà Tây Sơn suy vong, để thể hiện lòng biết ơn, nhân dân Tuy Viễn đã đóng góp tiền của và công sức xây dựng lại ngôi nhà của anh em Tây Sơn ngay trên nền đất cũ, làm nơi thờ tự ông bà Hồ Phi Phúc. Ngôi từ đường này sau bị nhà Nguyễn phá huỷ, nhưng ngay trên nền nhà cũ dân làng đã dựng lên một ngôi đình, gọi là đình Kiên Mỹ.
Đình Kiên Mỹ được lập ra là để bí mật thờ “Ba ngài Tây Sơn”. Hàng năm, vào ngày 15 tháng 11 âm lịch, tức vào dịp lễ thường tân (Tết cơm mới), dân làng cúng giỗ “Ba ngài Tây Sơn” nhưng thường chỉ cúng hương hoa và “mật cáo” chứ không có văn tế. Lời “mật cáo” được bí mật truyền miệng từ đời người phụng tế này đến người phụng tế khác. Số ruộng trước đây gia đình Tây Sơn khai hoang ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn tịch thu sung làm công điền. Nhân dân đã quy ước với nhau hàng năm đem số ruộng đất này đấu giá để lấy tiền chi phí cho việc thờ cúng ở đình. Tuy nhiên, để che mắt vua quan triều Nguyễn, dân làng đã khai thành hoàng và xin sắc nhà Nguyễn, danh nghĩa là để thờ ở đình nhưng trên thực tế là thờ ở miếu Vĩnh An (xóm Chợ hay xóm Hưng Trung) và hàng năm tổ chức cúng tế linh đình vào tháng ba. Đình Kiên Mỹ trước sau vẫn chỉ là nơi thờ ba anh em Tây Sơn.
Điện Tây Sơn tuy nhỏ nhưng trang nghiêm. Trước sân rộng vốn là nền chợ Kiên Mỹ cũ có tam quan. Chính điện gồm ba gian, gian giữa thờ Quang Trung - Nguyễn Huệ, gian bên trái thời Nguyễn Nhạc, gian bên phải thờ Nguyễn Lữ. Hai đầu hồi là ban thờ các văn thần, võ tướng Tây Sơn.
Cái làm nên giá trị của điện Tây Sơn không phải là kiến trúc mà ở những ý nghĩa lịch sử to lớn của nó. Đây là nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đồng, nơi ba anh em Tây Sơn đã cất tiếng khóc chào đời, đã cùng đi qua tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành rồi phất cờ khởi nghĩa trở thành những lãnh tụ kiệt xuất của nhân dân và dân tộc cuối thế kỷ 18. Trải qua bao biến cố, tấm lòng của người dân Kiên Mỹ với Tây Sơn vẫn sắc son thủy chung. Triều Nguyễn phá huỷ Nhà cửa của gia đình Tây Sơn thì nhân dân dựng đình để thờ các anh em Tây Sơn dù là phải “bí mật”. Đình phá thì xây miếu, miếu đổ lại dựng điện. Hiện nay trong khu vườn cũ của gia đình anh em Tây Sơn vẫn còn lại hai di tích cực kỳ quý giá, là cây me cổ thụ, gốc cây có chu vi tới 3,5m và giếng nước ở bên phải điện Tây Sơn, đường kính 0,9m, trước đây ghép bằng đá ong và không có thành giếng, sau này dân làng vét sâu thêm và xây thành giếng cao hơn mặt đất 0,7m, tương truyền hai di tích này có từ thời ông Hồ Phi Phúc. Di tích đã được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1979, và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt năm 2014.
Di tích Bến Trường Trầu: Bến Trường Trầu vốn là một bến buôn bán trầu lớn bên bờ sông Kôn, xưa thuộc xóm Trầu thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là xóm Hưng Hòa (đội 7) khối I thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Từ thị trấn Phú phong, qua cầu Kiên Mỹ theo tả ngạn sông Kôn về phía đông khoảng 300 m là tới bến Trường Trầu.
Bến Trường Trầu, nghề buôn bán trầu đã có ảnh hưởng to lớn đến Nguyễn Nhạc cũng như các anh em Tây Sơn. Do những hoạt động buôn bán này mà anh em Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Nhạc có quan hệ giao tiếp với nhiều vùng và nhiều tầng lớp xã hội. Nguyễn Nhạc thường qua lại vùng Thượng đạo, có quan hệ mật thiết với các dân tộc ít người Tây Nguyên và giao lưu buôn bán với các chợ, bến, thị tứ vùng đồng bằng. Điều này giúp cho ông mở rộng tầm nhìn, lối nghĩ, thấu hiểu nỗi bất bình thống khổ của các tầng lớp nhân dân và dễ dàng vận động liên kết các lực lượng khởi nghĩa. Bến Trường Trầu cũng là nơi giao lưu, trao đổi tin tức của nghĩa quân Tây Sơn và Nguyễn Nhạc chiêu mộ nghĩa binh trong những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa. Di tích này đã được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1991.
Di tích Gò Đá Đen: Gò Đá Đen là một bãi đất cao và rộng, vốn là một khu rừng hoang có diện tích ước khoảng 5 ha chạy dài từ Phú Lạc đến giáp Bầu Đáo. Giữa gò nổi lên một tảng đá rất lớn có màu đen nhánh, vì thế mà nhân dân gọi gò này là gò Đá Đen, trước kia thuộc địa phận thôn Kiên Mỹ ấp Kiên Thành phủ Quy Nhơn, nay thuộc địa phận khối I thị trấn Phú Phong huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Di tích hiện nay nằm cách Bảo tàng Quang Trung khoảng 500m về phía bắc. Đây là căn cứ quân sự quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn ở giai đoạn đầu khởi nghĩa. Là nơi ba anh em nhà Tây Sơn tổ chức luyện tập binh sĩ, voi chiến, ngựa chiến và là điểm xuất phát của nghĩa quân Tây Sơn đi đánh chiếm phủ thành Qui Nhơn và các vùng lân cận, mở đường cho bước phát triển của phong trào nông dân Tây Sơn đạt đến đỉnh cao. Di tích được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1988.
Di tích Từ Đường Võ Văn Dũng: Từ đường Võ Văn Dũng, một danh tướng của phong trào Tây Sơn, được xây dựng ngay trên quê hương ông, nay là thôn Phú Mỹ xã Tây Phú huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Thôn Phú Mỹ trước có tên là Phú Lộc thuộc ấp Phú An, tổng thời Đôn huyện Tuy Viễn phủ Quy Nhơn. Phú Mỹ nằm gần Phú Lạc, Kiên Mỹ quê hương của các thủ lĩnh Tây Sơn, từ thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn) rẽ trái theo con đường bê tông khoảng 3km là tới thôn Phú Mỹ.
Là người tham gia khởi nghĩa ngay từ những ngày đầu Đại tư đồ Võ Văn Dũng đã gắn bó cả đời mình với phong trào Tây Sơn. Dường như trong mỗi bước phát triển của phong trào Tây Sơn đều có phần đóng góp của ông.
Hơn ba mươi năm theo tới cùng một sự nghiêp lớn, Đại tư đồ Võ Văn Dũng đã đóng góp phần quan trọng vào những thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được phong Đô đốc rồi Đại tư khấu, Đại tư đồ , tước hầu (chiêu vũ hầu) rồi Quốc công (Võ Quốc công). Giữ trọng trách trong cuộc khởi nghĩa, làm quan to trong triều đình Tây Sơn nhưng ông vẫn không quên trách nhiệm của mình với quê hương, với dòng tộc. Ngôi chùa Phước Sơn được xây cất tử tế là do ông đóng góp tiền của. Vì thế mà hiện nay trong chùa có bài vị thờ Võ Văn Dũng để ghi nhớ công đức này. Bài vị viết: “Phước Sơn tự chủ tự tính Võ Văn Dũng, huý Độ, tính hữu công đức như vong linh sơn thần vị” (phụ lục ảnh số..).
Cũng bởi nhân cách ấy mà ông Võ Văn Khanh đã trao quyền thừa tự cho Võ Văn Dũng, dù là con thứ. Ngôi nhà 12 gian mà ông bà Võ Văn Khanh - Nguyễn Thị Điển sau này được dùng cho con cháu Võ Văn Dũng, nhưng cũng đã bị phá từ lâu. Đến năm 1945 cháu 5 đời của Võ Văn Dũng là Võ Văn Thiều đã cho xây cất trên nền nhà cũ một ngôi từ đường 7 gian. Ngôi từ đường này cũng đã bị phá huỷ trong chiến tranh. Đến năm 1972 cháu 6 đời của Võ Văn Dũng là Võ Văn Diệu một lần nữa cho xây lại từ đường, vẫn trên nền cũ, gồm 5 gian, quay hướng đông, tường xây gạch, mái lợp ngói, trần lát gỗ. Đó là ngôi từ đường họ Võ, trong đó có thờ bài vị Võ Văn Dũng đang tồn tại hiện nay [62, tr 81].
Từ đường họ Võ khá lớn, trong đó có bức đại tự Võ từ đường, các bài vị thờ và bài vị của Võ Văn Dũng (nay đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung). Hàng năm đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch con cháu dòng tộc lại tập trung về đây làm giỗ Võ Văn Dũng, để tưởng nhớ tổ tiên, cũng là để tưởng nhớ một vị tướng lỗi lạc đã có những đóng góp xuất sắc đối với phong trào Tây Sơn, với dân tộc, làm rạng danh dòng họ, xóm làng, làm rạng danh quê hương Bình Định bất khuất. Ngôi từ đường đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1988.
Di tích Từ đường Bùi Thị Xuân: Bùi Thị Xuân hiện được thờ tại từ đường chính phái họ Bùi ở xóm Bắc, thôn Phú Xuân. Đó là một nhà ba gian làm bằng gỗ lim. Bàn thờ chính đặt ở gian giữa. Ngoài các đồ thờ cúng còn có một bức tranh Bùi Thị Xuân cưỡi voi hai tay cầm song kiếm. Theo gia đình, bức tranh này do một hoạ sĩ tên là Đỗ Lê phóng tác trên cơ sở nghe lại những truyền thuyết về bà. Họ Bùi còn một từ đường tứ phái, trong còn giữ được hai bức đại tự cổ, một đề Bùi từ đường và bức kia là Quang tiền liệt. Một số hiện vật ở từ đường Bùi Thị Xuân hiện đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung. Trên quê hương của Bùi Thị Xuân hiện còn một số di tích gắn với gia đình và cuộc đời của bà như: Di tích Vườn Dinh tương truyền là dinh của Bùi nữ tướng ở ngay phía sau nhà thờ chính phái. Di tích trường võ gắn liền với sự tích luyện võ của Bùi Thị Xuân. Di tích Gò Đình tương truyền là nơi dạy voi của Bùi Thị Xuân. Ngôi từ đường đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1988.
Di tích Phủ thành Quy Nhơn: Di tích lịch sử phủ thành Quy Nhơn nay chỉ còn là một phế tích thuộc địa phận thôn Châu Thành xã Nhơn Thành huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Trên quốc lộ 1 từ thị trấn Bình Định ra Bắc, đi khoảng 8km là tới uỷ ban nhân dân xã Nhơn Thành, rồi rẽ theo con đường bê tông ven sông nhỏ về hướng Đông Bắc khoảng chừng 500m là tới di tích phủ thành xưa.
Sau một thời gian xây dựng và củng cố lực lượng trên đất Tây Sơn thượng đạo, năm 1773 nghĩa quân Tây Sơn tiến xuống giải phóng Tây Sơn hạ đạo rồi từ Tây Sơn hạ đạo tấn công đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Trận đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn là trận đánh thành đầu tiên của quân Tây Sơn. Bấy giờ tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên. Sử sách, cũng như dân gian đến nay, vẫn lưu truyền câu chuyện phản ánh mưu mẹo của Nguyễn Nhạc khi đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện viết: “Nhạc là người mưu mẹo khôn khéo. Một hôm, Nhạc tự vào ngồi trong cũi, sai đồ đảng thay đổi nhau đi báo rằng đã bắt được Nhạc đem giải nộp. Nguyễn Khắc Tuyên không ngờ là Nhạc lừa dối, sai mở cữa thành mà thu nhận. Đêm đến đò đảng của Nhạc lén đến ngoại thành. Nhạc liền phá cũi ra rồi mở toang cữa dinh, đồ đảng của Nhạc kéo vào đốt dinh giết tướng, bèn chiếm cứ lấy thành” [41]. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí cũng chép gần tương tự [17].
Trận đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn là chiến công lớn đầu tiên của nghĩa quân Tiên Sơn từ khi phát động khởi nghĩa. Chiến thắng này đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong lịch sử phong trào Tây Sơn, là hồi chuông báo hiệu “giờ phán xử của thượng đế đối với chúa Nguyễn đã điểm” theo cách nói bóng bẩy của giáo sĩ D.jumila, người đã từng chứng kiến các sự kiện bấy giờ. Từ đây, quân Tây Sơn đã giành thắng lợi, mở rộng phạm vi hoạt động. Di tích được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1996.
Di tích Tân phủ Càng Dương: Ngay sau khi hạ được phủ thành Quy Nhơn, thừa thắng Nguyễn Nhạc dẫn quân đánh chiếm các kho Càn Dương và Đạm Thuỷ [10], biến toàn bộ phủ Quy Nhơn thành căn cứ địa vững chắc của nghĩa quân Tây Sơn, mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào. Chính sử nhà Nguyễn sau này chép: “Nhạc đem quân đến hai xứ Càn Dương và Đạm Thuỷ, cướp lấy kho tạm. Đốc trưng là Đằng, khâm sai là Lượng (đều chép thiếu họ) đều chạy cả. Nhạc đuổi giết Lượng và giết cả họ của Đằng bèn giữ Quy Nhơn dựng cờ hiệu Tây Sơn chia đặt Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu 5 đồn cùng đánh nhau tiến đến địa giới Quảng Nam” [41].
Xét thấy phủ thành cũ ở thôn Châu Thành không còn phù hợp với những yêu cầu mới, Nguyễn Nhạc sau khi chiếm được kho Càn Dương đã cho xây dựng ở nơi đây một phủ thành mới, gọi là Tân phủ Càn Dương. Sách Đại Nam nhất thống ghi chép: “Núi Càng Dương ở phía Đông Nam huyện, chân núi có kho Càng Dương cũ, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc lấy làm phủ mới, ở thôn Trường Thịnh, hồ ao và lũy cũ hãy còn dấu vết” [43]. Như vậy vị trí kho Càn Dương và Tân phủ Càn Dương của quân Tây Sơn được chỉ định khá rõ. Đó là thôn Trường Thạnh, trước đây thuộc tổng Trung An huyện Phù Cát, sau thuộc tổng Chánh Lộc, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn, nay thuộc xã Cát Tiến huyện Phù Cát tỉnh Bình Định.
Bắt đầu bằng việc đánh chiếm kho Càn Dương, quân Tây Sơn, mà người chỉ huy tối cao bây giờ là Nguyễn Nhạc đã nhanh chóng nhận ra vị trí chiến lược của nơi này và gấp rút chuyển phủ lỵ Quy Nhơn về đây. Sách Đại Nam nhất thống chí nhận xét: “Phủ mới này (Tân phủ Càn Dương) cùng thành Quy Nhơn (Thành Hoàng Đế) hai bên làm thế nương tựa lẫn nhau” [43]. Nhận xét như vậy là hoàn toàn có cơ sở. Tân phủ Càn Dương có dãy núi Càn Dương trùng điệp ở mặt bắc kéo dài cho tới tận biển có dãy núi đá nhỏ án ngữ phía Tây và Tây Nam nơi quân Tây Sơn đặt đài quan sát này có thể nhìn xa về phía biển tới cửa Thử. Qua núi Càn Dương từ đây cũng có thể tiếp cận tới kho Đạm Thuỷ (nay thuộc xã Cát Minh cùng huyện Phù Cát) hoặc tới tận Đề Gi. Và đặc biệt là hệ thống sông núi rất tiện cho việc giao thông. Như vậy, Tân phủ Càn Dương là một vị trí trọng yếu trong hệ thống phòng thủ ven biển của quân Tây Sơn. Nó vừa là một căn cứ thuỷ bộ kết hợp để tập kết và làm căn cứ xuất phát cho nghĩa quân, vừa là nơi được dùng làm phủ lỵ. Phủ thành này được quânTây Sơn sử dụng một cách hiệu quả trong suốt thời gian tồn tại của phong trào. Nơi đây chứng kiến cảnh quân Tây Sơn sau trận toàn thắng san bằng phủ thành Quy Nhơn ào ào xông tới phá toan cánh cửa các kho tàng của chúa Nguyễn lấy thóc gạo chia cho dân nghèo. Hai mươi năm sau, năm 1793 cũng chính nơi đây lại chứng kiến những trận đánh ác liệt của quân Tây Sơn và quân của Nguyễn Ánh. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Năm Qúy Sửu (1773) đầu đời trung hưng, quân ta tiến đánh, giặc dựa vào chỗ cao nổ súng, quân ta (tức quân Nguyễn Ánh) không sao chiếm được bảo (đồn)” [43]. Di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1998.
Di tích Thành Hoàng Đế: Sách Lê Quý dật sử chép rằng: Nguyễn Nhạc “nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào lấy đá ong xây dựng thành lũy, mở rộng cung điện” [26]. Sự kiện ấy được tất cả mọi sử sách ghi lại vào năm 1776. Đến năm 1778 Nguyễn Nhạc cho đổi tên là thành Hoàng Đế. Trong suốt một thời gian dài từ 1776 đến 1793 tòa thành này là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính quyền trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Từ 1793 cho đến khi nhà Tây Sơn thất bại hoàn toàn, tại nơi đây đã diễn ra những trận chiến đấu vô cùng quyết liệt giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Thành Hoàng Đế là một di tích quan trọng của phong trào Tây Sơn. Di tích được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1982.
Di tích Thành Chánh Mẫn: Ở địa phận thôn Chánh Mẫn xã Cát Nhơn huyện Phù Cát (khu vực giáp giới hai huyện An Nhơn và Phù Cát) hiện còn dấu vết một thành đất được đắp dưới thời Tây Sơn, đó là thành Chánh Mẫn. Di tích thành Chánh Mẫn thuộc khu vực đội 2 của thôn Chánh Mẫn.
Trong các sách vở cũ gần như chỉ duy nhất sách Đại Nam nhất thống chí có nhắc đến thành này trong đoạn chép về núi Mộ Ô: “Núi Mộ Ô ở phía Đông huyện, đỉnh núi có hai mũi nhọn như hình giá bút, phía Đông có núi Tượng Bì, phía Đông Nam có núi Tiểu Đại (có tên nữa là núi Cô Sơn), phía Đông Bắc có thành Tây Sơn, dài ước 3,4 trượng, trong thành có hồ rộng hơn 2 trượng, trong có một hồ đá, nhô đầu ra ngoài mặt nước chừng một thước, tương truyền do người Chiêm Thành dựng, phía Nam có gò đất, lại có sông Cảnh Hãn, phía Tây Nam có 2 tháp Con Gái và tháp Học Trò, nay đều đổ nát” [34]. Như vậy theo ghi chép trên thì lợi dụng núi đất (mặt Tây) núi Choi Voi (mặt Nam) quân Tây Sơn đã cho đắp một đường thành ở phía Bắc gần như nối hai núi này. Thành Chánh Mẫn, vì thế có hình gần giống một tam giác mà đáy là đường thành đắp còn hai cạnh kia là núi Đất và núi Choi Voi. Di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1995.
Di tích Bãi Nhạn- Núi Tam Tòa: Bãi Nhạn (Nhạn Châu, theo cách gọi của sử sách đời Nguyễn) là một doi đất nhọn phía Đông thành phố Quy Nhơn, hiện nay thuộc địa bàn đồn bộ đội biên phòng cửa khẩu 324 và một phần của khu I phường Hải Cảng thuộc thành phố Quy Nhơn với tổng diện tích ước tính 0,25km2 , địa thế tương đối bằng phẳng. Từ trung tâm thành phố Quy Nhơn đến di tích khoảng 3km
Núi Tam Tòa (nhân dân ở đây quen gọi là núi Đá Đen) nằm trên địa phận thôn Hải Minh, bên hữu cửa Thị Nại, đối diện với Bãi Nhạn. Bãi Nhạn cùng với núi Tam Tòa giữ một vị trí chiến lược quan trọng. Từ biển Tàu thuyền muốn vào trong đầm Thị Nại rồi qua đây tiến tới thành Đồ Bàn, quốc đô của Chiêm Thành nhiều thế kỷ và là thành Hoàng Đế, đại bản doanh của nghĩa quân Tây Sơn, kinh đô của Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc này, thì không còn con đường nào khác là phải vượt qua cửa Thị Nại. Bãi Nhạn và núi Tam Tòa là hai pháo đài có thể phối hợp bố phòng khống chế cửa Thị Nại, tức là khống chế con đường thủy tiến vào thành Hoàng Đế. Chính bởi vị trí quan trọng như vậy mà đã có biết bao biến cố lịch sử diễn ra tại nơi đây, gắn liền với sự hưng vong của nhiều triều đại. Di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1998.
Di tích Mộ Lê Công Miễn : Mộ Lê Công Miễn, danh nhân văn hóa tiêu biểu thời Tây Sơn tọa lạc ở thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lê Công Miễn giữ chức Hàn lâm thị độc triều Tây Sơn, đồng thời làm nhiệm vụ “Mật trực thụ thư” giảng sách cho vua là Trung ương Hoàng Đế Thái Đức Nguyễn Nhạc. Sau khi vua Thái Đức mất, năm 1795, vua Cảnh Thịnh mời ông đến Kinh đô Phú Xuân giữ chức Đô sát viện đô ngự sử giảng dạy ở Kinh Diên, ít lâu sau ông được thăng lên làm Thượng thư Bộ hình. Di tích được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2000.
Di tích Lăng mộ Hiển Tổ Khảo Tây Sơn Tam Kiệt : Di tích tọa lạc trên một khu đất rộng 794,3m2 thuộc bản đồ số 26 của Ủy ban nhân dân xã Bình Thành, di tích thuộc địa phận đội 4, thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, cách trung tâm huyện Tây Sơn 3 km về hướng Tây Bắc. Hình dáng kiến trúc của lăng mộ vẫn còn tương đối rõ.
Sau khi lên ngôi, vào tháng 2 năm 1779, Hoàng đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc đã sắc chỉ cho chính quyền địa phương tu tảo phần mộ tổ tiên tại quê hương làng Phú Lạc, ấp Kiên Thành, trong đó có xây dựng Lăng mộ ông nội (Hiển tổ khảo) và truy tặng tước “Minh triết Công”. Tuy nhiên, sau khi nhà Tây Sơn mất, nhà Nguyễn - Gia Long đã trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn bạo, tại quê hương khu sơn lăng cấm địa và nhà cũ của gia đình họ Hồ đã bị san bằng, riêng lăng mộ tổ đã có ai đó đục phá một số chữ chính của văn bia với mong muốn che mắt chính quyền nhà Nguyễn để bảo vệ lăng mộ này và lưu truyền trong dân gian tên gọi Gò Lăng.
Với di tích, chúng ta đã có thêm một mô hình về lăng mộ cùng với các họa tiết hoa văn, kỹ thuật xây dựng theo phong cách riêng trong giai đoạn đầu của Hoàng triều Tây Sơn. Di tích được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2012.
Đàn tế Trời - Đất, Đền Ấn: Đàn tế Trời - Đất tọa lạc trên ngọn núi Ấn Sơn, thuộc địa phận thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn do ba anh em nhà Tây Sơn lập nên và làm lễ xin Trời - Đất trao cho ấn, kiếm lệnh để dấy binh khởi nghĩa, tiến quân ra Bắc. Tương truyền, vì cảm tấm lòng vì hai chữ Đại nghĩa, Trời - Đất đã linh thiêng trao cho 3 anh em kiếm lệnh và ấn lệnh. Ấn có hình vuông, mặt ấn khắc 4 chữ “Sơn hà xã tắc”. Nhờ có ấn, kiếm lệnh Trời - Đất ban cho, 3 anh em đã quy tụ được các nghĩa quân Tây Sơn, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp diệt trừ bọn thống trị tàn ác, đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Sự nghiệp thành công, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung. Nhưng vì phải lo toan nhiều việc lớn chống thù trong, giặc ngoài, lại không may mất sớm nên ông chưa về lại nơi đây để làm lễ tạ ơn Trời – Đất. Để tỏ lòng tôn kính và ghi nhớ công lao to lớn của nghĩa quân Tây Sơn, cũng là để khôi phục lại một di tích có ý nghĩa đặc biệt với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và các nghĩa quân Tây Sơn hơn hai trăm năm trước, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định đã triển khai dự án xây dựng Đàn tế Trời – Đất và một số công trình du lịch ngay trên ngọn núi Ấn Sơn, nơi 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng nghĩa quân Tây Sơn làm lễ cáo yết Trời – Đất năm xưa. Khu tâm linh Đàn tế Trời – Đất Ấn Sơn tọa lạc trên khu đất có diện tích 46ha, là một quần thể kiến trúc đồ sộ, được bố trí theo trục, hướng Thần đạo Nam – Bắc, từ dưới chân núi lên đỉnh núi Ấn Sơn, nơi đặt đàn tế. Điểm đầu của đường Thần đạo (cũng là điểm bắt đầu đi lên đàn tế hành lễ), là các công trình phù trợ, gồm: Đền Ấn, Tháp báo Thiên, Nghi môn, sân luyện võ, khu nhà Ban quản lý di tích, chòi nghỉ, hồ bán nguyệt, miếu thờ Thổ công.
2.1.2. Công trình kiến trúc, mĩ thuật
Sau khi nhà Tây Sơn mất, năm 1802 nhà Nguyễn lên thay. Vì sự khắt khe của nhà Nguyễn với Tây Sơn cũng như sự tàn phá của thiên nhiên và mai một bởi thời gian. Cho đến nay, các công trình kiến trúc triều Tây Sơn tìm được rất ít, ngoài các công trình đã phát hiện được ở phía Bắc như chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian ở Hà Tây, Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An... thì trên đất Bình Định, quê hương của phong trào Tây Sơn không còn nhiều, chỉ còn lại chủ yếu là phế tích. Tuy nhiên, thành Hoàng Đế, kinh đô vương triều Tây Sơn của Thái Đức Nguyễn Nhạc ở An Nhơn tuy bị phá hủy nặng nề và hoang phế từ lâu nhưng kiến trúc, mỹ thuật của thành Hoàng Đế vẫn còn rõ nét hơn cả. Căn cứ vào những di tích còn lại, thành Hoàng Đế gồm ba vòng thành: thành Ngoại, thành Nội và Tử cấm thành.
Thành Ngoại là vòng thành ngoài cùng. Thành có hình bốn cạnh gần như hình chữ nhật nhưng các cạnh uốn lượn không thẳng và các góc vẫn không vuông góc. Bốn cạnh của thành ngoại đóng theo đúng hướng Đông, Tây, Nam, Bắc chu vi 7.400m. cạnh phía Nam dài 2.188m, cạnh Bắc dài 2.038m, cạnh Tây dài 1.610m, cạnh Đông dài 1.564m [39,tr 120]. Thành Ngoại mở năm cửa. Cạnh nam mở hai cửa: cửa Vệ hay cửa Nam và cửa Tân Khai. Ba cạnh Đông, Tây, Bắc mở ba cửa Đông, Tây, Bắc. Dấu tích của các cửa thành đó đến nay vẫn còn. Thành nhìn về phía Nam, nên cửa Vệ (cửa Nam) còn gọi là cửa Tiền, cửa Đông còn gọi là cửa Tả, cửa Tây gọi là cửa Hữu và cửa Bắc gọi là cửa Hậu. Thành Ngoại đắp bằng đất, phía trong và ngoài bó bằng đá ong, lớp đá ong bó ngoài khá dày, ở chân thành dày gần 3m, càng lên cao càng mỏng dần. Lớp đá ong bó mặt trong của thành Ngoại xếp thành từng bậc thoai thoải từ dưới lên để quân sĩ có thể vận động lên xuống dễ dàng.
Thành Nội còn có tên là Hoàng thành, thành được xây chếch về phía Tây Nam của thành Ngoại. Thành Nội bị phá hủy nhiều, có chỗ hầu như bị san phẳng. Thành Nội mở ba cửa. Cửa Tiền (hay cửa Nam) ở chính giữa cạnh phía nam nhìn thẳng ra cửa Vệ (cửa Nam) của thành Ngoại và cách thành Ngoại 180m. Hai cửa Tả và Hữu mở về hai phía Đông và Tây.
Tử cấm thành là vòng thành trong cùng, thành này hình chữ nhật, chu vi 600m và các cạnh cách đều các cạnh của thành Nội. Tử cấm thành dày khoảng 1,5m. Những đoạn còn lại phần nhiều cao 1,8m, riêng góc đông nam cao hơn 3m. Thành này chỉ mở một cửa về phía Nam, rộng hơn 15m. Theo Đồ Bàn Thành ký, cửa này gọi là cửa Nam Lâu hay cửa Tam Quang, cửa Quyển Bồng [18].
Năm 2004, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp Bình Định tiến hành khai quật khu vực Tử cấm thành của thành Hoàng đế (kinh đô vương triều Tây Sơn thời Nguyễn Nhạc). Dù các di tích còn lại ít ỏi, nhưng những gì để lại cho thấy các công trình kiến trúc ở đây được xây dựng với trình độ kỷ thuật cao. Các công trình kiến trúc được xây dựng theo quy hoạch hoàn chỉnh lấy tính đăng đối làm chủ đạo. Khoảng cách các công trình cách đều, lấy trung tâm Tử cấm thành làm trung tâm, tạo nên không gian kiến trúc hài hòa. Bên cạnh đó, tính văn hóa trong không gian hoàng cung còn được thể hiện qua các công trình văn hóa thực sự, những kiến trúc trang trí như hòn Giả Sơn có quy mô to lớn nằm chính giữa không gian hoàng thành, với những lớp đá lô xô, giàu biểu tượng. Hai bên cung điện là hai thủy hồ hình trăng khuyết, kích thước lớn, bố cục đăng đối, hình dáng mỹ thuật đẹp, hai thủy hồ như hai vầng trăng khuyết hai bên. Bên tả có lẽ là hình trăng hạ huyền, bên hữu là hình ảnh của trăng thượng huyền với vòng cong nhẹ, uốn mềm mại. Lòng thủy hồ còn gắn các viên đá trang trí nhiều kích thước nhiều địa điểm tạo nên một công trình kiến trúc, mỹ thuật mang đậm tính văn hóa dân tộc. Hai vầng trăng này uốn cong ôm lấy trang trí cho điện Bát Giác – công trình kiến trúc trái tim của vương triều. Hai hình tượng này chỉ xuất hiện trong kiến trúc nhà Tây Sơn mà sau này không có công trình thủy hồ nào có được. Thủy hồ sau này được xây dựng thành những hồ bán nguyệt với hình ảnh đơn điệu là một phần của vòng tròn mà thôi. Ngoài những công trình trên, trong kiến trúc của Tây Sơn còn xuất hiện loại thủy hồ hình lá đề khá độc đáo. Những thủy hồ này ngoài tính chất trang trí còn là nơi chứa nước tạo nên khí hậu mát mẻ cho không khí trong cung đình.
Tiến sĩ Lê Đình Phụng (Viện Khảo cổ học) nhận xét: “Vương triều Tây Sơn chỉ tồn tại trong vòng 30 năm, song với những di vật phát hiện được tại hố khai quật chừng 200m2 ở Tử Cấm thành cho thấy nhà Tây Sơn đã có những đóng góp đáng kể về mảng kiến trúc văn hóa một lĩnh vực lâu nay ít được đề cập và đầu tư nghiên cứu có hệ thống hoàn chỉnh, so với những công trình kiến trúc mà Nhà Tây Sơn đã từng tu tạo và xây dựng như thành Phú Xuân ở Huế, Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An và các thành lũy khác trên đất Bình Định thì thành Hoàng Đế có qui mô lớn nhất” [..].
Cũng theo Tiến sĩ Lê Đình Phụng - người chủ trì cuộc khai quật - cho rằng, chính sự hoàn chỉnh trong quy hoạch, sự phong phú của các chủng loại kiến trúc, tính đăng đối của các hạng mục công trình, cùng giá trị mỹ thuật cao của các vật liệu đã cho phép chúng ta nhìn nhận Thành Hoàng đế như một công trình kiến trúc mang tính vương triều.
2.1.3. Vũ khí, công cụ, trang phục
Về vũ khí: Do đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn xuất phát từ phong trào nông dân quật khởi. Nghĩa binh của phong trào Tây Sơn hầu hết xuất thân từ người nông dân chân chất, cả đời gắn bó với ruộng vườn, rừng núi, săn bắn nên ngoài các chủng loại binh khí đặc dụng của tổ tiên truyền lại, nghĩa quân Tây Sơn còn sử dụng cả những công cụ lao động, sản xuất, mưu sinh hàng ngày của mình để cải tiến thành các loại binh khí chiến đấu trong giai đoạn đầu khởi nghĩa như: Cuốc, xuổng, bừa cào, mỏ gảy, xà beng, câu liêm, đòn xóc, chỉa ba, phãng, dao phay, giáo sào cán dài, rựa quéo, rìu, búa đầu nhọn, Vồ vồ, thiết lĩnh, bút sắt, song xỉ, gậy tre...
Ngoài các loại binh khí, dụng cụ thô sơ trên, nghĩa quân Tây sơn còn có các loại súng đại bác “Một quả đạn đại bác của pháo binh Tây sơn nổ có thể làm sập một cây cổ thụ, phá vỡ một mảng thành bằng gạch một cách dễ dàng, hơn hẳn loại đại bác của triều Nguyễn chế tạo vào thế kỷ 19” [1, tr 214].
Nhưng đáng chú ý hơn là Hỏa hổ, một loại vũ khí hình ống có cán bằng gỗ, đây là một loại súng phun lửa, có thể xem là một thứ tên lửa thủ công khi bắn vào kẻ địch sẽ biến tên địch thành một cây đuốc sống, làm mồi lửa để phá thành lũy, đốt dinh trại của địch, đốt tàu địch một cách dễ dàng. Loại vũ khí đặc biệt này thường được trang bị cho tất cả binh chủng lục quân, thủy quân của Tây Sơn.
Theo sách Những khám phá về hoàng đế Quang Trung, vào năm 1786, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long đánh đổ tập đoàn chúa Trịnh, lính Bắc Hà đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của Hỏa hổ Tây Sơn: “Các đội quân Trịnh thấy mũi giáo Tây Sơn quá sắc liệu không chống nổi, cố sức lấy súng lớn bắn ra, quân Tây Sơn đều cúi đầu tránh đạn mà nhảy vào. Chúa Trịnh mặc nhung phục, đứng trên voi phất cờ hồng thúc các quân. Quân Tây Sơn lấy ống Hỏa hổ tung ra, quân Trịnh đều tan vỡ, vứt gươm, bỏ giáo, xô nhau chạy trốn thể như núi đổ” [1, tr 215].
Quân Thanh nghe tiếng Hoả hổ của Tây Sơn cũng khiếp sợ, nên trong 8 điều quân luật, có điều thứ 5 để chống lại Hoả hổ như sau: “Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng ống phun lửa làm lợi khí, gọi là hoả hổ. Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó để đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải rút lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi, so với súng ống của ta thì họ kém rất xa. Hiện nay, ta chế sẵn vài trăm lá chắn da trâu sống, nếu gặp Hoả hổ của người Nam phun lửa, thì quân tay cầm lá chắn ấy đỡ lửa một tay cầm dao chém bừa chắc rằng chúng bỏ chạy tan tác” [1, tr 215].
Một dạng Hỏa hổ khác có tên gọi “Rồng cỏ” thực chất là một loại bãi cháy dùng đánh hoả công để vây đốt binh thuyền của địch, mà điển hình và ngoạn mục nhất là trận đánh hoả công do Nguyễn Huệ chỉ huy, đã đốt cháy tàu chiến của Manuel ở chiến trường Gia Định vào năm 1782.
Hỏa cầu, còn có tên gọi khác là Hỏa cầu lưu hoàng. Đây là một quả cầu kim loại rỗng ruột bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh gang, sắt vụn và các quả cầu con, để gây cháy, nổ dây chuyền. Khi sử dụng thì châm ngòi nổ và ném vào đối phương. Có thể coi đây là một loại lựu đạn sơ khai có tác dụng gây cháy
Nghĩa quân Tây Sơn còn được trang bị súng cá nhân, đó là loại súng ngắn có miệng loe, bắn từng phát một, tầm bắn chừng vài trăm mét. Cũng có tài liệu ghi lại, nghĩa quân Tây Sơn sử dụng súng máy liên thanh với sức công phá bắn sập cả cột buồm thuyền địch “Văn Sở giương cao cờ chiến, xung thẳng vào trận, súng bắn liên thanh phát nào trúng khói bay, nước sủi. Một cột buồm ngã xuống, quân Tây Sơn bỗng reo vang như sấm dậy. Chốc sau những cột buồm khác cũng ngã xuống” [Dẫn theo 1, tr 216].
Về công cụ: Cũng như những thời kỳ trước, sau khi giành được thắng lợi, lãnh tụ phong trào Tây Sơn đã hết sức quan tâm đến phát triển kinh tế, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Nguyễn Nhạc ra sức khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất công cụ phục vụ nông nghiệp. Bên cạnh đó, các nghề thủ công cũng được tạo điều kiện phát triển như: Dệt vải, chế tạo binh khí, vũ khí, dụng cụ đóng thuyền, sản xuất công cụ vật liệu xây dựng, hình thành nên những làng nghề sản xuất riêng biệt như: làng nghề rèn Tây Phương Danh, làng dệt Phương Danh, xóm rèn Nam Tân, sản xuất nhang Nam Tân, sản xuất nón Gò Găng, làng sản xuất đồ gốm Vân Sơn, Nhạn Tháp, đúc đồng làng Bằng Châu. Mỗi làng một nghề sản xuất ra những dụng cụ, công cụ phục vụ cho đời sống sinh hoạt của vương triều và nhân dân [48].
Về trang phục: Cho đến nay, chưa có tài liệu nào nói về quy chế thiết triều cùng trang phục của triều đình Tây Sơn. Tuy nhiên, hiện nay, tại Bảo tàng Bình Định có trưng bày một trang phục quan văn thời Tây Sơn còn khá nguyên vẹn. Áo may 2 lớp, lớp trong mỏng hơn lớp ngoài, tất cả được may bằng sợi tơ tằm có kích cỡ 1,5m x 1,5m, 2 ống tay dài và thụng, cổ áo tròn, trước ngực có may thêm một tấm vải nhỏ hình chữ nhật và thêu vào danh tính, chức vụ của người làm quan, vạt sau dài hơn vạt trước. Có thể nói đây là trang phục quan văn còn lại duy nhất của triều đại Tây Sơn ở thế kỷ 18, và theo ông Bùi Tĩnh, phó giám đốc Bảo tàng Bình Định thì đây là một trong những cổ vật được đăng ký là cổ vật Quốc gia.
Bên cạnh đó, những ghi chép của Chapman một thương nhân người Anh khi đến Quy Nhơn cũng cho chúng ta biết đôi chút về lĩnh vực này. Trong buổi Chapman tiếp kiến vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, ông cho biết trang phục của nhà vua lúc tiếp khách “Nhà vua mặc một áo bào dài bằng lụa màu vàng sẫm, thêu đầu rồng bằng chỉ vàng. Ngài đội một mũ vải bó lấy đầu, phía sau cao lên, phía trước trang trí vài viên đá quý. Trên chỏm mũ là một viên đá đỏ lớn được đính vào mũ bởi một sợi dây bằng đồng thau, khiến nó vươn cao lên quá chỏm mũ vài pouce (khoảng 10cm). Mỗi khi nhà vua cử động, viên đá đung đưa phát ra ánh sáng rực rỡ”. Trang phục của các quan “Các quan thì mặc áo lụa dài với nhiều màu sắc khác nhau, có thêu rồng và mũ của họ thêu bằng chỉ vàng, chỉ bạc. Họ đeo những cái đai rộng bằng dạ đỏ chói, có móc vàng, cẩn mã não màu hồng”. Trang phục của binh lính tại nhà của viên quan trấn cảng cho biết “Hai bên cửa có 12 vệ binh mặc sắc phục màu xanh lơ, đội mũ bằng da hoặc bằng giấy có sơn trang trí hoa và huy chương” [dẫn theo 48, tr 260]. Qua những ghi chép trên của Chapman cho thấy nghi lễ, quan phục triều Tây Sơn được quy định cụ thể, chặt chẽ, có phép tắc, phân biệt rõ ràng theo quy chế vương triều, điều đó khiến cho Chapman nhận xét “sự chỉnh tề và cách trang hoàng ở đây cho ta cảm tưởng về một ông vua hùng mạnh và được tôn kính” [dẫn theo 48, tr 260].
Đó là nói về trang phục của triều đình, còn trong dân gian thì theo Quách Tấn “Người Bình Định xưa nay ăn mặc giản dị, không xa hoa. Nhà giàu thì dùng lụa, dùng hàng. Nhà thường thường và nhà nghèo thì dùng vải ta và thao đũi” [...].
Đàn bà luôn luôn mặc áo dài. Áo cụt chỉ mặc trong nhà, nhất là khi ngủ. Quần thì lưng vặn. Vặn có hai ngoai giắt trước bụng, ngó lỏng lẻo nhưng chắc chắn vô cùng. Ngoài ra, đàn bà con gái đều mặc yếm. Yếm rất ít khi để bày ra ngoài nhưng không mấy người mặc yếm vải. Nếu không may được yếm lụa yếm hàng, mà phải dùng vải thì cũng lựa thứ vải thật mịn thật tốt mà may. Cổ yếm lại may rất công phu vì thường để ló ra nơi cổ áo không gài nút. Mặc yếm, tiếng là để che ngực cho ấm, nhưng sự thật là để làm đẹp cho ngực, nhất là đối với các cô chưa chồng.
Đàn ông thường mặc áo cụt vạt hò, dài quá mổng. Quần ống rộng, đáy rộng và kéo lên trên đầu gối. Để giữ lấy quần, phải buộc dây lưng. Dây lưng thường làm bằng đũi, bằng thao. Người không tiền sắm dây lưng thì cột bằng dây và thả trật lưng quần xuống quá háng, tục gọi “trật bầu lương”. Áo cụt thường nhuộm màu đà. Quần đàn ông luôn luôn may màu trắng, vải cũng như lụa, thao. Còn đàn bà thì áo dài đen, quần đen. Quần trắng chỉ mặc trong đám tang và trong những ngày đình đám” [53, tr 410, 411].
2.1.4. Một số di sản vật thể khác
Cùng với những di sản văn hóa vật thể trên, dưới Triều đại Tây Sơn ở Bình Định hiện nay vẫn còn tồn tại những di sản văn hóa vật thể khác như kiến trúc nhà lá mái, bia đá, sắc phong, tiền đồng có niên hiệu Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh hay các loại binh khí, vũ khí.
Năm 1621, Christopher Borri khi đến Quy nhơn để xây dựng một nhà thờ, ông đã kinh ngạc khi được chứng kiến cái cách mà những người thợ bản xứ sản xuất và lắp ráp ngôi nhà thờ to lớn theo yêu cầu nghiêm ngặt của ông. Điều này đã được ông kể lại rất rõ trong cuốn sách Xứ Đàng Trong năm 1621. Kỹ thuật xây nhà mà C.Borri đã chứng kiến chính là loại kỹ thuật mà người ta dùng để làm nhà lá mái. Nhà lá mái là một kiểu kiến trúc độc đáo vì tuy vật liệu chỉ là gỗ, tre, tranh, đất nhưng độ bền vững của nhà lại rất cao. Nhưng nhà lá mái đặc biệt không chỉ vì độ bền mà phần lớn là do cấu trúc 2 lớp và kiến thức thi công nghiêm cẩn [64]. Mái của nhà lá mái có tới hai lớp. Lớp mái thứ nhất (trần sìa) là những cây tre già ngâm nước hơn một năm để khỏi mối mọt, tẩy mắt, chẻ trải trả rồi ép phẳng thành tấm, bên trên đắp đất bùn trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ hai được chống cao phần đỉnh (hình dấu ^) với độ dốc lớn để đến mùa mưa thoát nước nhanh. Mái tranh của loại nhà này dày đến 20, 30cm. Chân mái xén bằng, sau đó được thắt con rít bằng tre cặp giáp vòng để trang trí rất đẹp. Tranh dày, mái dốc, nên thường mỗi một mái nhà như vậy phải tới hơn 30 năm mới cần lợp lại. Vách nhà lá mái cũng được làm hai lớp (mầm trỉ trét đất). Mầm là những cây tre được dựng dọc, trỉ là những thanh tre buộc ngang hai lớp, ốp lên hai bên mầm, tổng cộng cốt vách có tới ba lớp tre một đứng hai ngang. Đất ruộng nhào nhuyễn với rơm trét hai phía trong ngoài xong, thợ đất còn dùng đất gò trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Gặp vách đất hai lớp kiểu này khi phá bỏ còn khó hơn phá tường xây. Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt nhưng có một đặc điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Nền nhà mát mẻ nhưng không đến nỗi ẩm ướt, khô ráo nhưng không làm tung bụi mù khi quét nhà. Và với cấu tạo hai lớp, đặc biệt là lớp mái đất, nhà lá mái rất mát mùa hè lại ấm áp mùa đông.
2.2. Di sản văn hóa phi vật thể
2.2.1. Lễ hội
Nói đến lễ hội đầu xuân trên đất Bình Định, người ta nghĩ ngay đến lễ hội Tây Sơn. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày mùng 4, mùng 5 tháng giêng âm lịch tại Bảo tàng Quang Trung. Lễ hội kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa được nhân dân cả nước biết đến và có sức lan tỏa rộng khắp (ở Hà Nội tổ chức tại Gò Đống Đa) [58,tr.63]. Phần lễ với các nghi thức dâng hoa, dâng hương, tưởng niệm được bắt đầu tổ chức từ ngày mùng 4 tại tượng đài Quang Trung và Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt để tưởng nhớ các tướng sỹ của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ. Sáng ngày mùng 5, tại Điện thờ Tây Sơn tổ chức giỗ trận, phần chính hội bắt đầu với nghi thức kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), tái hiện lại trận Ngọc Hồi – Đống Đa oanh liệt của nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Quang Trung đập tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Ngoài nghi lễ truyền thống, lễ hội còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa dân gian như hội đánh trận giả được tiến hành vào lúc mờ sáng. Tiếng trống trận, tiếng ngựa hí quân reo huyên náo, bóng cờ bay phần phật lúc mờ lúc tỏ, Hoàng đế Quang Trung (do một người đóng vai) lẫm liệt đưa kiếm lệnh cất lời hiệu triệu vang rền, khí thế rầm rập, làm dậy lên niềm tự hào thiêng liêng. Người xem hội đổ về từ chiều hôm trước, già trẻ trai gái chen nhau trẩy hội. Sau phần đánh trận giả, lễ hội còn có nhiều hoạt động văn hóa dân gian thấm đẫm tinh thần thượng võ như hội thề kết nghĩa Kinh Thượng, hội cồng chiêng, các chương trình biểu diễn Trống trận Quang Trung, biểu diễn võ thuật, đấu võ đài, đẩy gậy, kéo co, múa rồng, múa lân, hội thi hô bài chòi gói bánh chưng, bánh tét, bánh ít lá gai, hội đánh bài chòi dân gian Bình Định [9, tr 133].
Những năm gần đây, lễ hội Tây Sơn được tổ chức quy mô, hoành tráng, trang trọng hơn, người đi hội cũng đông hơn. Tuy nhiên, phần hội không còn cảnh đánh trận giả, mà dược tổ chức dưới hình thức sân khấu hóa rực rỡ với sự tham gia của hàng trăm thanh niên, học sinh, diễn viên, võ sĩ. Chương trình hội phong phú hơn xưa, có hội thi Trạng nguyên, cờ tướng, cờ người, đua thuyền, có tổ chức hát tuồng, hát hò đối đáp, đánh bài chòi, thả đèn hoa đăng trên sông Kôn và các trò chơi dân gian. Đặc biệt, nhạc võ Tây Sơn gồm trống trận Quang Trung và các tiết mục biểu diễn võ thuật đã trở thành hồn vía lễ hội, đánh côn, đi quyền, biểu diễn các môn binh khí cổ truyền, đấu võ đài... vẫn là những hình thức văn hóa có sức thu hút và lôi cuốn cao nhất, tạo nên sự cộng hưởng mãnh liệt trong lòng người dự hội. Ngày nay, đi dự lễ hội tết Đống Đa đối với người dân đất võ đã trở thành niềm tự hào và cũng là một nhu cầu tinh thần không thể thiếu được trong những ngày đầu xuân.
2.2.2. Võ thuật
Bình Định là nơi hội tụ, kế thừa và phát huy cao độ những giá trị tinh hoa độc đáo của nền võ học cổ truyền Việt Nam. Kể từ khi nhà Tây sơn dựng cờ khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của người anh hùng áo vải, cờ đào Quang Trung – Nguyễn Huệ. Võ học Bình Định đã có bước phát triển toàn diện và từ đây địa danh Tây Sơn - Bình Định đã được gắn kết và đi vào lịch sử như một bản hùng ca bất diệt, tạo nên cốt cách niềm tự hào và những câu ca trong dân gian cũng bắt đầu được người đời truyền tụng để minh chứng cho nét đặc thù của người dân đất võ. Võ Tây Sơn – Bình Định có những đặc trưng riêng để phân biệt với các dòng võ khác như:
Tính dân tộc: Khi nói về võ thuật, cố võ sư Hồ Ngạnh đã khái quát như sau: “Võ thuật là bản năng tranh tồn của nhân loại và động vật khác. Lúc sơ sinh, nhân loại không dài bằng rồng rắn, mạnh không bằng cọp beo, như vậy mà nhân loại có thể chiếm cứ cả vùng đồng bằng to rộng, ngày cày cấy ngoài đồng, đêm nghỉ ngơi trong nhà. Ban đầu đều nhờ vào sự tiến hóa của võ thuật mới có thể đuổi rồng rắn chạy ra biển, đuổi cọp beo vào rừng sâu. Cuối cùng đến nguyên lý kẻ giỏi thắng, kẻ yếu thua. Phía bắc cự quân Hán, quân Đường, phía Nam thắng Chiêm Thành, Chân Lạp, mới có được nước Việt ta ngày nay” [...]. Trong các chiến công của Hoàng đế Quang Trung, người ta nhận thấy võ thuật và binh pháp giữ vai trò rất quan trọng. Các đòn thế võ Tây Sơn rất hiểm hóc. Ra đòn nhanh, biến hóa khôn lường, lấy thủ làm công, lấy công giữ thủ song toàn, hư thật bất phân, khéo léo trăm bề, tư thế nghìn nẻo, làm cho đối phương rất khó chống đỡ [6, tr 10].
Tính thượng võ: Là tinh thần võ hiệp cao thượng được chắc lọc và phát triển thành nguyên lý ứng xử của giới võ học, dần dần trở thành nguyên lý ứng xử của người Bình Định. Tinh thần thượng võ gắn liền với lòng yêu chuộng nhân đạo, tôn thờ đại nghĩa, không câu chấp tiểu tiết [10, tr 694]. Giỏi võ trước hết là để giữ mình, để làm người trượng phu, không làm kẻ giặc bạo tàn. Do đó, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là những quy pháp trong võ thuật của Tây Sơn – Bình Định.
Tính dân gian: Thiên nhiên hàm chứa trong nó cả sự thách thức to lớn lẫn những bài học vô tận để con người quan sát, học hỏi và đúc kết thành kinh nghiệm thích nghi và tồn tại. Nguồn gốc dân gian còn in dấu trong võ cụ như cung tên, chỉa ba, bồ cào, côn, búa rìu…Cho phép ta hình dung võ đã ra đời từ con đường chinh phục thiên nhiên và lao động để sinh tồn. Các thế võ dựa vào thao tác lao động: leo trèo, săn bắt hoặc mô phỏng động tác các loài động vật: Như bài Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ mô phỏng từ đòn gà chọi, bài song phượng kiếm của nữ tướng Bùi Thị Xuân mô phỏng điệu múa chim phượng; bài Roi thái sơn bắt chước tư thế, động tác của tám con vật là rắn, lân, tê giác, thỏ, mèo, trâu, gà, hổ [10, tr 695].
Tính bác học: Võ Bình Định được xây dựng trên nền tảng học thuyết âm dương. Các môn quyền thuật được cấu tạo bằng cương quyền. Các môn binh khí được đúc kết và nâng cao trên cơ sở các động tác sử dụng các công cụ lao động sản xuất, là kết quả của một quá trình sàng lọc, lựa chọn rất công phu [47].
Tại các làng võ và các gia đình võ thuật ở Tây Sơn - Bình Định, còn lưu giữ khá nhiều tư liệu về võ kinh, võ lý, võ đạo, võ thuật, võ y và võ nhạc. Trong nhiều tài liệu chép tay còn có cả hình vẽ đặc tả tư thế của võ nhân kèm lời thiệu. Mỗi bài thiệu là một thảo võ hoàn chỉnh gồm nhiều thế liên hoàn được ghi lại dưới dạng thơ ngắn, dễ nhớ, dễ thuộc. Và riêng các bài thiệu đã là một phần di sản vô giá của võ cổ truyền Bình Định [6].
Tính nghệ thuật: Nói đến nghệ thuật là nói đến sự tổng hòa sức mạnh và vẻ đẹp cơ thể, giữa trí lực và thần sắc, kết quả của sự lựa chọn, sàng lọc để duy trì tinh hoa nghề võ. Một đặc điểm của võ Bình Định cổ truyền là khi đánh giữ cho chân không rời khỏi mặt đất “túc bất ly địa”. Đây cũng có thể coi là một trong những điểm làm nên cái riêng, tiêu chí phân biệt võ cổ truyền Bình Định với các dòng võ khác [10, tr 696].
Võ cổ truyền Bình Định gắn liền với các bài thiệu và nhạc võ. Những bài thiệu võ không đơn giản chỉ dùng để thuyết minh cho từng phân thế võ trong bài thảo, mà ẩn chứa trong đó là những hàm ý sâu xa của các bậc tiền nhân để lại cho đời sau, không phải ai cũng nhận ra và hiểu được. Nếu lời thiệu giúp võ sinh đánh không lạc chiêu thức, thì nhạc võ trong luyện tập điều hòa tiết tấu của chiêu thức [61]. Trong trận mạc, nhạc võ là tiếng núi sông kêu gọi ba quân tiến bước, là hiệu lệnh thúc giục tướng sỹ xung phong phá lũy công thành, là khúc hoan ca mừng chiến thắng. Tất cả cung bậc bi tráng – hào hùng, khoan thai – bão táp truyền thẳng vào trái tim khối óc người nghe. Đặc biệt môn Kỳ võ (múa cờ) ngoài tác dụng điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy, còn có hiệu quả thẩm mỹ rất lớn. Lá cờ phất phới trước hàng quân như niềm kiêu hãnh thiêng liêng, thổi bùng ngọn lửa tình yêu quê hương, đất nước trong mỗi người. Ngày nay, Nhạc võ và Kỳ võ đã trở thành những tiết mục trình diễn mang tính nghệ thuật cao, được xếp vào danh mục “đặc sản văn hóa” của đất võ Bình Định, lôi cuốn và làm rung động biết bao thế hệ.
Có thể nói võ Tây Sơn là một nét văn hóa nổi trội của nhà Tây Sơn để lại trên đất Bình Định. Ngoài yếu tố học võ là rèn luyện sức khỏe thân thể, là để tự vệ bản thân, chống lại cường hào ác bá, hay trụ lại giữa thiên nhiên đầy ác thú thì học võ cũng chính là học văn, văn thể hiện qua tinh thần thượng võ, lấy nghĩa làm đầu, lấy tình huynh đệ làm gốc rễ, lấy chữ tín làm căn bản, lấy chữ lễ để tự rèn mình, tạo nên tính cách người Bình Định “Trọng nghĩa khinh tài”. “Học trò chăm học, nhân dân siêng năng cày dệt, tính tình trầm tĩnh, thích việc nghĩa. Người học thức phần nhiều nho nhã, trung hậu. Ăn mặc, đồ dùng thì giản dị, mộc mạc, không ưa văn hoa” [34].
2.2.3. Nghệ thuật
Bàn về nghệ thuật triều Tây Sơn, ngoài điêu khắc, còn có hội họa, trang trí, thẩm mỹ môi trường, nhất là môi trường kiến trúc quân sự như Thành Hoàng Đế, Phượng Hoàng Trung Đô, Đàn Tế Trời, nghệ thuật tuồng, dân ca đối đáp hay đánh bài chòi thì trên đất Bình Định còn có một loại hình nghệ thuật đặc sắc, đó là nhạc võ Tây Sơn.
Trong các môn võ cổ truyền dành cho chiến đấu chống giặc ngoại xâm của Triều Tây Sơn còn có một bộ môn riêng mà không một môn phái võ thuật nào có được, đó chính là “Nhạc võ”. Loại hình Nhạc võ Tây Sơn được hình thành và phát triển từ Phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vào nửa cuối thế kỷ 18. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh vào việc nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của quân sĩ khi xung trận. Nghệ thuật nhạc võ Tây Sơn đã đạt đến tuyệt đỉnh khi được Nguyễn Huệ sử dụng trong quân đội đánh Nam dẹp Bắc, chính Nhạc võ này là nguồn động lực thúc dục khí thế tiến công của nghĩa quân Tây Sơn và bao phen đã làm cho quân thù kinh hồn bạt vía. Vì vậy, nó còn có tên gọi khác là trống trận Quang Trung. Nhạc võ Tây Sơn đã gắn liền với những chiến công hiển hách trong sự nghiệp dẹp thù trong, đánh giặc ngoài thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc dưới tài chỉ huy thao lược của người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung -Nguyễn Huệ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử và thời gian, nhưng các cấp chính quyền và ngành chức năng tỉnh Bình Định đã nhận thức được giá trị to lớn của loại hình nghệ thuật này, đã nâng niu trân trọng bảo tồn và phát huy với sức sống trường tồn theo theo năm tháng. Năm 1979, sau khi khánh thành Bảo tàng Quang Trung, tại thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, ngành văn hóa tỉnh đã cho thành lập đội nhạc võ Tây Sơn để phát huy giá trị nghệ thuật của trống trận Tây Sơn và tinh hoa võ thuật cổ truyền Bình Định để phục vụ du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan tại Bảo tàng. Nét đặc sắc của giàn trống trận Tây Sơn gồm có 12 chiếc trống chiến, có kích thước lớn nhỏ và âm thanh trầm bổng khác nhau và một số nhạc cụ khác như trống chầu, chiêng, kèn sona, mõ, não bạt cùng hoà tấu đã góp phần tạo nên những âm hưởng hào sảng và mãnh liệt của bài trống trận Tây Sơn. Về tiết tấu của trống trận Tây Sơn gồm có 3 hồi: Hồi thứ nhất - Xuất quân; hồi thứ 2 - Xung trận - Hãm thành và hồi thứ 3 - Khúc khải hoàn.
Ngoài ra, triều Tây Sơn còn có nghệ thuật âm nhạc cung đình rất đặc sắc mà Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư ghi lại khá rõ. Theo đó, năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, một vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là “An Nam quốc vương” và vui lòng thưởng thức đoàn “An Nam quốc nhạc” biểu diễn chúc thọ. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm: “một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo)” [46]. Đó là phần nhạc khí.
Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe “nhạc phủ từ khúc thập điệu”. Rất có thể đây là liên khúc 10 bản “Thập thủ liên hoàn” nổi tiếng trong nhã nhạc cung đình Huế, cũng gọi là 10 bản Tấu, hay 10 bài Ngự, thậm chí có nghệ nhân gọi là mười bản Tàu (mà khi được nghe chúng, người Trung Quốc chính hiệu đã cho rằng không có gì là “Tàu” cả) [28].
2.2.4. Một số di sản phi vật thể khác
Ngoài những di sản văn hóa phi vật thể trên, Bình Định vẫn còn lưu giữ khá nhiều những di sản văn hóa phi vật thể dưới thời Tây Sơn cho đến nay, trong đó Nghệ thuật bài chòi là một di sản văn hóa phi vật thể đã và đang được tỉnh Bình Định phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các bộ, ngành liên quan trình Chính phủ đề xuất lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản đại diện của nhân loại. Hiện nay, Hội bài chòi cổ dân gian Bình Định đã phát triển mạnh mẽ, được nhân dân các địa phương đón nhận nhiệt tình, trân trọng. Ngoài ra Bình Định còn lưu giữ một hệ thống các lễ hội như:
Lễ hội đổ giàn An Thái, thị xã An Nhơn: Đây là một trong những lễ hội mang tính thượng võ của người Bình Định. Ngày rằm tháng 7 (âm lịch), nhân dân ở nhiều vùng nô nức rủ nhau về An Thái (An Nhơn, Bình Định) xem hội đổ giàn: Một chú heo quay để ở giữa đài cao, nhóm võ sĩ làng nào giật được coi như làng đó thắng cuộc. Đổ giàn là một lễ hội văn hóa đặc sắc của miền đất võ Bình Định.
Lễ hội Xuân chợ Gò: Hội Xuân chợ Gò nhóm họp mỗi năm một lần vào sáng mồng một tết tại chợ Gò thuộc thôn Phong Thạnh, thị trấn Tuy Phước, Bình Định. Trong tâm thức của người dân Tuy Phước nói riêng và người Bình Định nói chung, hội xuân Chợ Gò là nơi vui chơi, cầu lộc trong ngày đầu năm mới. Hội xuân chợ Gò xuất phát từ thời Tây Sơn. Quân Tây Sơn khi ấy đóng quân án ngữ khu vực này, ngày Tết sợ quân lính buồn, nhớ nhà nên vua cho mở hội chợ Gò để nhân dân và quân sĩ vui chơi.
Lễ Hội làng Rèn Tây Phương Danh: Để nhớ ơn người khai sinh ra nghề rèn trên đất này, hằng năm, người dân Tây Phương Danh đã đồng tâm hợp lực tổ chức một lễ hội gọi là Lễ hội làng rèn, kéo dài suốt 3 ngày kể từ ngày 12-2 âm lịch! Lễ hội này không những quy tụ những hộ đang hành nghề tại địa phương mà còn lôi cuốn cả những người đang hành nghề rèn trên toàn tỉnh. Ngoài ra lễ hội còn thu hút sự tham gia của những nghề có liên quan đến nghề rèn như nghề sắt. Có nhiều hộ đã mang nghề truyền thống của làng mình đi lập nghiệp phương xa cũng không bỏ lỡ dịp này, sắp xếp về quê để kịp trẩy hội cùng bà con.
Lễ hội Đô thị Nước mặn: Lễ hội Nước Mặn là một trong những lễ hội truyền thống có quy mô lớn và ra đời rất sớm ở Bình Định, từ cách đây gần 4 thế kỷ, Lễ hội được tổ chức tại chùa Bà, thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước. Lễ hội được tổ chức hàng năm từ mồng 1-3 tháng 2 Âm lịch. Lễ hội Đô thị Nước mặn đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh
Lễ hội cầu ngư ở Bình Định: Ở Bình Định, ngoài các lễ hội miền xuôi hay miền núi còn có ngày hội cầu ngư của nhân dân các xã ven biển. Tồn tại từ lâu đời, lễ hội cầu ngư là nét đẹp văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo của ngư dân. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần phong phú và những tín ngưỡng mang màu sắc huyền bí trên sóng nước. Nét đặc sắc trong lễ hội cầu ngư là loại hình múa hát bả trạo. Bả trạo như một hoạt cảnh múa hát, thể hiện những sinh hoạt, lao động của ngư dân như: chèo thuyền, kéo lưới hoặc đặc tả cảnh đưa linh của một đoàn thuyền chuyên chở những linh hồn oan uổng đến cõi siêu linh. Có thể nói, đến nay, lễ hội cầu ngư cũng như loại hình hát múa bả trạo đã tìm được một vị trí xứng đáng trong nền văn hóa dân tộc. Bỡi trải bao thăng trầm của thời gian và thử thách, những gì còn lại thường là cái tinh túy, đáng được bảo dưỡng, trân trọng.
Lễ hội đâm trâu mừng nhà rông mới: Đâm trâu để ăn mừng lúa mới, ăn mừng khánh thành nhà rông, là lễ hội vui tươi, đặc trưng của các làng đồng bào Dân tộc thiểu số của miền núi Bình Định, cũng như khu vực Tây Nguyên với các lễ tục được duy trì.
2.3. Thực trạng hoạt động quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn
2.3.1. Đánh giá thực trạng
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về ”Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, ngành Văn hóa Bình Định đã phối hợp với các ngành, các địa phương triển khai thực hiện việc nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi các giá trị di sản văn hóa Triều đại Tây Sơn gắn với công tác quản lý, bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di sảnvăn hóa Triều đại Tây Sơn trên địa bàn tỉnh.
Hệ thống di tích của triều đại Tây Sơn đã được kiểm kê, trong đó có 15 di tích được công nhận, với 11 di tích cấp quốc gia, 4 di tích cấp tỉnh. Nhiều công trình của một số di tích lịch sử văn hóa được đầu tư khai quật, xây dựng, trùng tu, tôn tạo như: Thành Hoàng Đế, Bảo tàng Quang Trung - Điện thờ Tây Sơn Tam kiệt, Đền thờ Bùi Thị Xuân, Khu tâm linh Đàn tế Trời, đã trở thành những địa chỉ hấp dẫn cho nhiều đối tượng nghiên cứu và khách hành hương.
Bên cạnh đó, di sản văn hóa phi vật thể phải kể đến hàng loạt loại hình về diễn xướng dân gian, phong tục tập quán tốt đẹp, nhất là nghệ thuật truyền thống về tuồng, bài chòi, hát ru được phục dựng và phát huy, đặc biệt nghệ thuật hát bội Bình Định đã khẳng định vị trí trên nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Nhiều vở tuồng cổ đặc sắc của tiền nhân được phục hồi, góp phần bảo tồn, lưu giữ và tuyên truyền quảng bá di sản văn hóa đặc sắc của Bình Định đến với công chúng trong và ngoài nước, thực sự là thành tựu rất tự hào trong quá trình chấn hưng văn hóa dân tộc.
Nghệ thuật bài chòi là một di sản văn hóa phi vật thể đã và đang được tỉnh Bình Định phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng các bộ, ngành liên quan trình Chính phủ đề xuất lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại cần được bảo tồn cấp bách. Hiện nay, Hội bài chòi cổ dân gian Bình Định đã phát triển mạnh mẽ, được nhân dân các địa phương đón nhận nhiệt tình, trân trọng.
Ngoài nghệ thuật sân khấu truyền thống, võ cổ truyền Bình Định được biết đến là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, một trong những nét đẹp định danh cho quê hương Bình Định. Không phải ngẫu nhiên mà nơi đây được cả nước và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới tôn vinh là Miền đất võ. Học võ, luyện võ có sức thu hút mãnh liệt và trở thành món ăn tinh thần của nhiều thế hệ người dân Bình Định và các vùng trên cả nước. Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của tỉnh, nhiều võ sư tiếp nối võ đường của cha ông với truyền thống tự lâu đời, xuyên suốt theo diễn trình võ cổ truyền Bình Định. Công tác bảo tồn, phát huy di sản võ cổ truyền thời gian qua đã góp phần khẳng định giá trị và tôn vinh võ cổ truyền Bình Định, vinh dự được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Lễ hội trên địa bàn tỉnh đã có bước phát triển mới, nhất là Lễ hội chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Liên hoan Quốc tế võ cổ truyền Việt Nam, đã quảng bá hình ảnh đất nước - con người Bình Định trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nhiều lễ hội dân gian được khôi phục, tạo nên những nét văn hóa đa dạng, phong phú.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực trạng về công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa triều đại Tây Sơn cũng còn những tồn tại. Đó là, việc phân cấp quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng di tích chưa hợp lý và đồng bộ. Việc xâm phạm, đào bới di tích nhằm tìm kiếm cổ vật nhiều nơi vẫn còn xảy ra. Công tác tuyên truyền phát huy tác dụng di tích trong lĩnh vực giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trong và ngoài nhà trường chưa được đầu tư đúng mức. Một bộ phận quần chúng nhân dân chưa ý thức được trách nhiệm công dân đối với các di sản văn hóa. Một số lễ hội truyền thống, làng nghề truyền thống chưa thực hiện tốt việc lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể trong quá trình đô thị hóa dẫn đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa còn nhiều hạn chế và xuống cấp.
2.3.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, phần lớn di sản văn hóa của triều đại Tây Sơn ở Bình Định trong một thời gian dài phải chịu sự trả thù, tàn phá của Nhà Nguyễn, các di tích có kết cấu vật liệu không bền, lại phải đối mặt với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, thiên tai bão lũ hằng năm và một thời gian dài chiến tranh liên miên, không được quan tâm giữ gìn nên bị hủy hoại, xuống cấp nhanh chóng.
Thứ hai, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể vẫn chưa được các cấp, các ngành quan tâm tương xứng với tầm vóc của nó. Nguy cơ thất truyền nhiều di sản văn hóa phi vật thể vẫn còn ở mức báo động. Chế độ chính sách cho cán bộ tham gia sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể cũng chưa được quy định cụ thể; trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác này còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng của công tác sưu tầm.
Thứ ba, công tác tuyên truyền chưa sâu rộng trong quần chúng nhân dân, chưa thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển di sản văn hóa dân tộc, nhân dân chưa thực hiện tốt quyền công dân đối với di sản văn hóa. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về di sản văn hóa chưa được thể chế hóa cụ thể đến với mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ tư, kinh phí cho tu bổ, tôn tạo di tích từ Chương trình mục tiêu quốc gia còn thấp, việc phân bổ kinh phí còn dàn trải, thời gian trùng tu, tôn tạo di tích thường kéo dài, không dứt điểm. Trong nhiều trường hợp, chất lượng trùng tu, tôn tạo rất khó quản lý. Sau khi được tu bổ, tôn tạo, các di tích không có kinh phí duy tu, bảo dưỡng thường xuyên nên rất dễ xuống cấp trở lại.
Thứ năm, việc đào tạo nhân lực cho công tác tu bổ, tôn tạo di tích cũng còn nhiều bất cập. Hiện nay, các trường đại học của Việt Nam chưa có chuyên ngành đào tạo này, trong khi quy định của các văn bản dưới luật đều yêu cầu cán bộ thực hiện công tác trùng tu tôn tạo di tích phải được bồi dưỡng kiến thức bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích. Hiện công tác bồi dưỡng do Cục Di sản văn hoá tổ chức, nhưng số lớp được tổ chức rất ít. Tình hình này dẫn đến nguy cơ cán bộ làm công tác tu bổ di tích (cán bộ tư vấn, thiết kế, thi công và giám sát công trình) thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn, khó có khả năng đảm bảo chất lượng công trình. Hiện tượng “râu ông nọ cắm cằm bà kia” trong tu bổ, tôn tạo di tích diễn ra khá phổ biến. Nhiều di tích hàng trăm năm tuổi, sau khi tu bổ, tôn tạo, trở thành những công trình mới không còn giá trị.
Tiểu kết
Bình Định, cái nôi của phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nửa cuối thế kỷ 18, là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, là quê hương, là nơi khởi nghiệp của Tây Sơn Tam Kiệt. Đây cũng là nơi sản sinh và hội tụ nhiều anh tài, nhân vật lịch sử, nhà thơ nổi tiếng dưới thời Tây Sơn, với những di sản vật thể, phi vật thể thời bấy giờ còn lưu lại là những bằng chứng hùng hồn về sự nghiệp dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Có thể nói, Bình Định là địa phương có nhiều dấu ấn lịch sử trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
Triều đại Tây Sơn là triều đại phong kiến có thời gian tồn tại trong lịch sử Việt Nam ngắn nhất, nhưng là một trong số ít triều đại có chiến công hiển hách nhất trong các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Di sản văn hóa của triều Tây Sơn còn lại cho đến nay tuy không nhiều nhưng được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Những nghiên cứu về phong trào Tây Sơn, về di sản văn hóa Tây Sơn cho đến nay các nhà nghiên cứu đã khẳng định có một văn hóa Tây Sơn độc đáo đã hiện diện trong quãng thời gian không dài. Song nó thực sự có giá trị đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chương 3
QUẢN LÝ, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA
TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.1. Một số khái niệm
3.1.1. Khái niệm quản lý
Sách quản lý văn hóa Việt Nam ghi, xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về khái niệm quản lý. Đặc biệt là từ thế kỷ 21 quan niệm về quản lý càng phong phú. Có rất nhiều trường phái đưa ra những định nghĩa về quản lý như sau:
Theo quan điểm của Fayol:
“Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm năm yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”[4].
Theo học giả Hard koont thì: “Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định”[52].
Nhìn chung, quản lý là một hoạt động nhằm bảo đảm sự vận hành của một hệ thống, một tổ chức một cách liên tục, đúng chức năng.
Theo quan niệm thông thường “Quản lý là các hoạt động có ý thức (của người lãnh đạo, người đứng đầu, người chịu trách nhiệm), nhằm định hướng, lập kế hoạch, đầu tư tổ chức thực hiện, kiểm tra, điều chỉnh bổ sung, sơ kết, tổng kết, nghiệm thu kết quả một quá trình lao động của một tập thể, một cộng đồng”[24]
3.1.2. Khái niệm di sản văn hóa
Luật Di sản văn hóa có ghi“Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”[33].
Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng và của cả nhân loại nói chung.
Để tìm hiểu khái niệm di sản văn hóa trước hết cần phải hiểu thế nào là văn hóa. Đa số những nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử [12]. Thống nhất với quan điểm ấy, có thể hiểu di sản văn hóa cũng chính là những sản phẩm sáng tạo ra đó. Tuy nhiên, không phải bất cứ sản phẩm nào do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển cũng được xem là di sản văn hóa. Từ điển tiếng Việt định nghĩa một trong những khái niệm di sản là “Giá trị tinh thần và vật chất của văn hóa thế giới hay một quốc gia một dân tộc để lại: di sản văn hóa”[14]; tuy nhiên, phải những gì có giá trị mới được công nhận là di sản.
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009 tại Điều 1 chương I đã nêu rõ di sản văn hóa “bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”[34]. Nó được xem là khái niệm di sản văn hóa được sử dụng chung nhất ở nước ta, hoàn toàn tương tự như khái niệm về di sản văn hóa được sử dụng trên thế giới. Điều đó cũng có nghĩa di sản văn hóa cũng là của cải, là tài sản quốc gia và mọi công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn.
Như vậy, di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng: Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Theo Điều 4 chương I Luật Di sản văn hóa được sửa đổi, bổ sung năm 2009, như sau:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [34].
Thực ra khái niệm chỉ mang tính tương đối, nhằm để nghiên cứu những đặc tính riêng của từng di sản, bởi trong thực tế yếu tố vật thể và phi vật thể gắn kết chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại để làm nên giá trị của một di sản. Khi đó, di sản văn hóa phi vật thể là linh hồn, là cốt lõi, là biểu hiện tinh thần của di sản văn hóa vật thể; còn cái hiện hữu, cái làm nên di sản văn hóa vật thể thì tồn tại như là biểu hiện vật chất của di sản văn hóa phi vật thể ấy.
3.1.3. Khái niệm quản lý di sản văn hóa
Quản lý di sản văn hóa là quá trình hoạt động liên tục của chủ thể (Nhà nước: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các ngành hữu quan, chính quyền các cấp) lên đối tượng quản lý (các tổ chức, cá nhân đang trực tiếp quản lý, khai thác di tích) bằng hoạch định cơ chế, chính sách, bằng pháp luật, bằng tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra để nhằm đạt được mục đích bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa (cả giá trị tinh thần và giá trị kinh tế).
Khi Luật Di sản văn hóa có hiệu lực, việc quản lý nhà nước về di sản được cụ thể hóa từ chức năng, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng và các mối quan hệ, trực tiếp, phối hợp từ trung ương đến địa phương trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân tộc.
Quản lý di sản văn hóa không chỉ đơn thuần là quản lý những giá trị hiện tồn, điều quan trọng hơn chính vai trò của quản lý là làm “sống lại” các giá trị phi vật thể thông qua các giá trị vật thể góp phần giáo dục truyền thống, phát huy giá trị làm giàu cho địa phương và dân tộc [34].
3.2. Giá trị di sản văn hóa triều đại Tây Sơn
3.2.1. Giá trị văn hóa
Triều đại Tây Sơn là một triều đại còn non trẻ lại chỉ tồn tại trong quãng thời gian ngắn, chừng 30 năm, thì thời kỳ này chưa thể có một nền văn hóa hay những đóng góp về mặt văn hóa đậm nét như những thời kỳ trước, vốn có thời gian kéo dài có khi tới cả hàng trăm năm. Tuy nhiên, có một lợi thế ở thời kỳ này mà không phải vương triều phong kiến nào trong lịch sử dân tộc cũng có được, đó chính là lòng tin và sự yêu mến của nhân dân.
Chính đặc điểm này đã góp phần tạo nên một nền văn hóa vô hình nhưng có sức lan tỏa mạnh mẽ, còn duy trì mãi về sau này ngay cả khi nhà Tây Sơn sụp đổ. Những câu chuyện về người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm tại miền Nam năm 1785 (Trận Rạch Gầm – Xoài Mút) và đánh tan quân Thanh tại Hà Nội năm 1789 (Trận Ngọc Hồi – Đống Đa) vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân bằng những câu chuyện dân gian vẫn không ngừng được sáng tạo theo năm tháng, hay những câu hát trống quân, cò lả của nhân dân khắp vùng Thăng Long xưa mừng ngày đại thắng của vua Quang Trung. Nhưng đó là sự sáng tạo các loại hình văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể thời Tây Sơn để lại cho tới ngày nay tuy không nhiều nhưng cũng tương đối đa dạng và được đánh giá là độc đáo.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Đình Chiến, Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, ủy viên Hội đồng giám định cổ vật của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch: Hiện ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ 2 chiếc bát gốm men rạn vẽ lam, một phía in khóm trúc men lam, phía đối diện có in dòng chữ Hán: “Vị xuất địa đầu tiên hữu tiết; Quang Trung niên tạo” có nghĩa là: Cái măng tre chưa nhô khỏi mặt đất mà đốt dóng của nó đã sớm ra trước; chế tạo trong niên hiệu Quang Trung 1788 - 1792. Không chỉ có gốm, các di vật thời kỳ này còn có gỗ, đá và đồng. Cho đến ngày nay vẫn còn nhiều bia đá thời Tây Sơn ở nhiều tỉnh thành phía Bắc như Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Trong đó đáng chú ý là bia đá ở đền Lũng vùng Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) cao 140cm, rộng 57cm. Mặt trước khắc chiếu chỉ của vua Quang Trung năm thứ 2 (tức 1789) tức là năm đại thắng thành Thăng Long. Điều đáng nói là một mặt còn lại của bia có khắc ghi về sự vui mừng của nhân dân nói về việc miễn trừ các loại sưu dịch, chính sách nhà Minh dưới thời vua Quang Trung. Chất liệu đồng thời Tây Sơn cũng còn khá nhiều gồm các loại như chuông, trống, ấn triện và đặc biệt nhiều nhất là tiền đồng. Chuông thời kỳ này thường in hình rồng và trang trí bộ tứ linh có những nét tương đồng với rồng thời Lê. Các đạo sắc phong và ấn triện cũng là một trong những di sản quý của thời Tây Sơn. Đạo sắc phong thời Tây Sơn còn được lưu giữ nhiều tại các địa phương, các làng cổ ở Bắc Hà. Điển hình như làng cổ Bát Tràng còn lưu giữ được 16 đạo sắc phong các đời vua thời Tây Sơn, đồng thời làng cổ này còn lưu giữ được một quả chuông đúc rất đẹp từ thời này. Ấn triện triều Tây Sơn đến ngày nay đã hoàn toàn thất truyền, không còn lưu giữ được, tuy nhiên, nó vẫn còn hiện hữu trong chính các bản sắc phong. Thông qua sắc phong, các nhà nghiên cứu cho biết có những loại ấn phổ biến thời Tây Sơn như: Quảng vận chi bảo, Triều đường chi ấn, Hòa như chi bảo… trong đó, Quảng vận chi bảo là ấn đặc sắc bởi theo các nhà chuyên môn, ấn này không có ở tất cả các thời đại trước và sau đó [ ].
Những nghiên cứu ấy đã khẳng định có một văn hóa Tây Sơn độc đáo đã hiện diện trong quãng thời gian không dài. Song nó thực sự có giá trị đối với lịch sử văn hóa của dân tộc.
3.2.2. Giá trị lịch sử
Di sản văn hóa triều đại Tây Sơn còn lại cho đến nay tuy không nhiều nhưng nó đã góp phần tạo nên một giá trị lịch sử văn hóa đặc sắc của một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở thế kỷ 18 của Việt Nam. Qua những di sản văn hóa ấy, chúng ta phần nào hiểu hơn về một giai đoạn lịch sử đầy bão táp của chiến tranh nông dân mà đỉnh phát triển cao nhất là phong trào Tây Sơn, những đóng góp của triều đại Tây Sơn, của anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ trong lịch sử dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch sử giai đoạn thế kỷ 17, 18 là thời kỳ đầy thử thách và bi thương của dân tộc, các tập đoàn phong kiến vì quyền lợi dòng họ hay bản thân đã gây ra muôn vàn biến động khiến xã hội Việt Nam thời kỳ này chao đảo. Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, gây nên cuộc chiến kéo dài gần 100 năm giữa nhà Lê và nhà Mạc. Cũng từ cuộc chiến tranh này là mầm mống gây nên cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài gần 200 năm chia cắt đất nước. Từ một lãnh thổ dân tộc thống nhất, vì quyền lợi của dòng họ, các tập đoàn phong kiến đã xô đẩy nhân dân vào những cuộc chiến tranh phi nghĩa, chia xẻ đất đai gây nên những cảnh chia cắt đất đai chưa từng có trong lịch sử. Chưa bao giờ đất nước bị chia năm xẻ ba như giai đoạn lịch sử này, nhà Mạc; nhà Lê – Trịnh; nhà Nguyễn mỗi nhà hùng cứ xưng vương một phương, đánh nhau triền miên, đẩy nhân dân vào cảnh binh đao, đói khổ, lầm than [31, 342]. Cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra và vương triều Tây Sơn ra đời là tất yếu của lịch sử. Đóng góp đầu tiên của nhà Tây Sơn với lịch sử dân tộc là xóa bỏ được nạn cát cứ phân quyền của các tập đoàn phong kiến, chia xẻ đất nước, thu non sông về một mối, là cơ sở để tạo nên sức mạnh dân tộc sau này; Thứ hai, là phong trào Tây Sơn lần đầu tiên đưa non sông đất nước Việt Nam liền một dải, diện mạo lãnh thổ dân tộc trải dài thống nhất từ Bắc vào Nam, tương đương với lãnh thổ hiện nay, do một vương triều quản lý; Thứ ba, là triều đại Tây Sơn đã đóng góp những võ công lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, giữ vững độc lập chủ quyền của tổ quốc, dù vương triều ấy còn non trẻ.
3.2.3. Giá trị giáo dục truyền thống
Sự nghiệp của phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ được ghi vào sử sách như một bản hùng ca của thế kỷ 18, tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc ta với vai trò định đoạt của nhân dân trong một thời kỳ sóng gió và thử thách của đất nước. Sự nghiệp đó phản chiếu nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong đó nổi bật lên lòng yêu nước, ý chí thống nhất, tinh thần đoàn kết và tư tưởng tiến công thần tốc.
Chính vì những ý nghĩa to lớn đó, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cho xây dựng nhà Bảo tàng lưu niệm danh nhân lấy tên là “Bảo tàng Quang Trung” trên quê hương của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ, nhằm tiếp tục đẩy mạnh công việc nghiên cứu và thu thập các tư liệu, di vật về Tây Sơn – Nguyễn Huệ và phát huy những truyền thống cao quý của phong trào nông dân Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ trong nhiệm vụ xây dựng quê hương Bình Định, cùng cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội [2, tr 6].
Sau hơn 35 năm hoạt động và trưởng thành, Bảo tàng Quang Trung đã sưu tầm, phục chế và lưu giữ hơn 11.000 tư liệu, hiện vật gốc và hàng trăm hiện vật phục chế của triều đại Tây Sơn, quản lý nhiều di tích lịch sử Tây Sơn mà đặc biệt là di tích lịch sử Điện thờ Tây Sơn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp quốc gia năm 2014 [9,tr 6]. Đến đây, mọi người sẽ hiểu hơn về một thời đại lừng lẫy và vị vua kiệt xuất nhất, được yêu mến nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam qua nhiều hiện vật gốc được giữ gìn nguyên vẹn và được trưng bày như: Chiếc trống da voi của đồng bào Tây Nguyên tham gia phong trào Tây Sơn, các sắc phong, gia phả của nhiều văn thần, võ tướng, chuông đồng, súng thần công, ấn tín, tiền đồng Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, tấm bia mộ tổ dòng họ Tây Sơn,18 môn binh khí và các loại vũ khí thô sơ đã giúp nghĩa quân Tây Sơn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hay các di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của Tây Sơn như Nhạc võ Tây Sơn và các lễ hội khác thời Tây Sơn còn được gìn giữ và lưu truyền cho đến nay. Có thể nói, Bảo tàng Quang Trung hiện nay là kho di sản văn hóa của Tây Sơn lớn nhất cả nước, với chức năng nghiên cứu khoa học và giáo dục lịch sử thông qua các hoạt động sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày phục vụ công chúng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa thời Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ để giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam.
3.3. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn
3.3.1. Giải pháp sưu tầm, nghiên cứu khoa học
Công tác sưu tầm hiện vật là khâu quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Bảo tàng, nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của bảo tàng. Chính vì thế việc sưu tầm bổ sung tư liệu hiện vật để làm phong phú thêm các sưu tập của Bảo tàng cũng như các trưng bày phục vụ công chúng là điều cần thiết.
Bảo tàng Quang Trung (Tây Sơn – Bình Định) là Bảo tàng Danh nhân có chức năng chính là sưu tầm hiện vật và trưng bày hiện vật về thời đại Tây Sơn và Hoàng Đế Quang Trung. Từ khi được thành lập cho đến nay, Bảo tàng đã tiến hành công tác nghiên cứu, sưu tầm và cũng đã đạt được những kết quả đáng kể, song có nhiều lý do về mặt khách quan và chủ quan nên kết quả thu được vẫn còn hạn hẹp.
Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Định nên hỗ trợ và tạo điều kiện để Bảo tàng Quang Trung phối hợp với Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam (hiện nay đã có văn phòng đại diện tại Quy Nhơn) và các ban ngành có liên quan thực hiện công tác sưu tầm, nghiên cứu, quảng bá giá trị và đề ra các giải pháp bảo tồn di sản văn hóa thời Tây Sơn, đặc biệt là di sản văn hóa Quang Trung – Nguyễn Huệ ở trong và ngoài nước.
3.3.2. Giải pháp đầu tư hạ tầng, trùng tu tôn tạo các di tích
Tăng cường đầu tư của Nhà nước: Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa cần tăng cường đầu tư thỏa đáng cho các dự án tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp di tích từ nguồn vốn của trung ương và địa phương. Để khuyến khích các Ban Quản lý di tích có nguồn thu được chủ động đề xuất sử dụng kinh phí trong việc bảo dưỡng thường xuyên, bảo quản tu bổ di tích, tổ chức nhiều hoạt động để tăng cường nguồn thu từ phí tham quan và các dịch vụ du lịch văn hóa. Nhà nước cần cho phép sử dụng kinh phí chi cho các hoạt động và tái đầu tư, tu bổ di tích.
Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác bảo tồn di tích: Để làm tốt công tác xã hội hóa, trước hết cần có hệ thống văn bản quy định rõ quyền lợi của các cá nhân, đơn vị tham gia góp vốn để trùng tu, tôn tạo, quản lý di tích; có chính sách ưu đãi về thuế, vốn đầu tư và thu hút các nguồn vốn tài trợ.
3.3.3. Giải pháp phát huy điểm đến du lịch, giáo dục truyền thống lịch sử
Đẩy mạnh công tác quản lý giám sát, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện đang khai thác phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng và các điểm di tích như: dịch vụ bán đồ lưu niệm, bán hàng giải khát, dịch vụ bán vé tham quan, thuyết minh tại chỗ… nhằm giảm thiểu mọi phiền hà không đáng có cho khách du lịch, đảm bảo chất lượng hàng hoá, dịch vụ trong sự quản lý của ngành Du lịch.
Hình thành chiến lược sản phẩm du lịch phù hợp với tiềm năng và thế mạnh của địa phương; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch văn hoá. Nghiên cứu kỹ thị trường du lịch và xây dựng các sản phẩm du lịch phù hợp với từng loại thị trường để khai thác tài nguyên du lịch của Bình Định nói chung và các di tích lịch sử văn hoá nói riêng hiệu quả hơn.
Nâng cao chất lượng hoạt động thuyết minh hướng dẫn tại các điểm tham quan di tích mà đặc biệt là Bảo tàng Quang Trung nơi quản lý di sản văn hóa triều đại Tây Sơn nhiều nhất bằng cách tăng cường đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên để đạt yêu cầu cao về trình độ, ngoại ngữ, cách giao tiếp ứng xử với khách. Tổ chức lại việc đón tiếp khách, trưng bày, giới thiệu và đặc biệt tổ chức các sự kiện như hoạt động Lễ hội và các hình thức sinh hoạt cộng đồng gắn với các di tích, di sản văn hóa phi vật thể và không ngừng cải tiến nâng cao các hoạt động này để thu hút khách tham quan du lịch.
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử nâng cao nhận thức về di sản văn hóa phải được tiến hành thường xuyên. Các ngành, các cấp phối hợp cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung nghiên cứu, biên soạn, đưa nội dung giáo dục truyền thống lịch sử ý thức bảo vệ di sản văn hoá trong các trường học. Cần phải tuyên truyền, giáo dục bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách báo, tạp chí, ảnh, phim phóng sự… để cho mọi người dân thấy được tầm quan trọng và giá trị của các di tích, về bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức trách nhiệm, tự giác đối với việc bảo vệ các di tích, môi trường nói chung và môi trường du lịch nói riêng, để từ đó phát huy tốt giá trị giáo dục truyền thống lịch sử, tinh thần yêu nước cho các thế hệ trẻ.
3.4. Đề xuất, kiến nghị
3.4.1. Về cơ chế chính sách
Cơ quan chức năng tiếp tục hoàn thiện các quy định về trách nhiệm, quyền hạn, quan hệ công tác cũng như cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa ở trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng hoặc buông lỏng quản lý.
Tỉnh và ngành văn hóa cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích, huy động các nguồn lực đầu tư cho hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa triều Tây Sơn nhằm thu hút sự quan tâm của xã hội. Không ngừng thiết lập các mối quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để tranh thủ các nguồn hỗ trợ về tài chính và khoa học công nghệ nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu, khai thác và xử dụng các di sản văn hóa hiện có của địa phương.
3.4.2. Đào tạo nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quyết định, việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực được xem là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng của công tác quản lý cũng như bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa. Tỉnh và ngành văn hóa cần quan tâm đào tạo và nâng cao đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, vững vàng về chính trị để thực hiện tốt công việc và giới thiệu những di sản quý báu của địa phương cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là du khách nước ngoài.
Ngành văn hóa cần có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên ngành về lĩnh vực văn hóa, nhằm đào tạo, bồi dưỡng dài hạn, ngắn hạn để nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ đang làm công tác văn hóa nói chung và những người đang làm công tác bảo tồn bảo tàng nói riêng có điều kiện nắm bắt một cách đầy đủ, có hệ thống những kiến thức nghiệp vụ, những đổi mới trong xu thế hiện đại để đáp ứng yêu cầu chuyên môn ngày một tốt hơn.
3.4.3. Đầu tư tài chính
Cũng giống như các Bảo tàng lưu niệm danh nhân khác, Bảo tàng Quang Trung có đặc trưng riêng biệt đó là tạo ra những điều kiện để khách tham quan có nhận thức cảm tính, trực tiếp từ những hiện vật đang được trưng bày và bản thân các điểm di tích đang tồn tại cũng như các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác của triều đại Tây Sơn. Những điều kiện ấy được tạo ra nhờ các khâu công tác của Bảo tàng như sưu tầm, bảo quản, trưng bày, giới thiệu về những hiện vật thời Tây Sơn, về phong trào nông dân Tây Sơn. Và để bảo tồn và phát huy giá trị của những di tích, di sản có giá trị thời Tây Sơn song song với việc lưu giữ, bảo vệ, tuyên truyền, khai thác, nhà nước cần đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng, trọng tâm, đúng mục đích, phù hợp cho công tác nghiên cứu, tôn tạo, bảo quản và đặc biệt là công tác sưu tầm để có nguồn tài liệu hiện vật đáp ứng công tác nghiên cứu, trưng bày phục vụ khách tham quan. Đây cũng là một trong những điều kiện để thu hút khách du lịch, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Tiểu kết
- Khái niệm quản lý và vai trò của nó trong quản lý di sản văn hóa
- Những giá trị của di sản văn hóa triều đại
- Giải pháp
- đề xuất kiến nghị
Bảo tồn di sản văn hóa không chỉ là cất giữ cho khỏi mất tài sản, để giữ gìn bản sắc dân tộc một cách hình thức hoặc tự ca ngợi mình mà ý nghĩa hơn thế rất nhiều, bảo tồn là để phát triển, khai thác các giá trị văn hoá truyền thống là làm cho nó có thể sống lại, làm cho các giá trị đó tồn tại trong đời sống thực, năng động hoá các hình thức tồn tại của di sản văn hoá trên cơ sở thu hút sự quan tâm của các tầng lớp xã hội, nhờ đó mà các giá trị được vận hành, thâm nhập vào cuộc sống hiện tại. Và ngược lại, phát huy các giá trị di sản là để đưa giá trị văn hóa đến với cộng đồng, giúp cộng đồng phát triển kinh tế và đáp ứng cho công tác bảo tồn di sản văn hóa hoàn thiện hơn.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là để phát triển kinh tế, nhưng phát huy là phải biết kế thừa những tinh hoa của đời trước để lại. Những giá trị đó chính là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, nếu chúng phù hợp với thời đại mới thì cần được phát huy, đồng thời phải biết sáng tạo thêm những cái mới trên nền tảng những cái truyền thống để vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cư dân đương đại đồng thời cũng là cơ hội để tạo ra thêm nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng giúp phát triển kinh tế bền vững cho địa phương.
Tóm lại, đối với các di sản văn hóa hiện nay, việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di sản cần được quan tâm đúng mức. Phát triển du lịch là yêu cầu tự nhiên nhằm phát huy giá trị di sản. Tuy nhiên phát triển du lịch cần tuân thủ những nguyên tắc về bảo tồn. Giá trị các di sản là vĩnh hằng và không bao giờ cũ. Việc nghiên cứu phát triển những di sản văn hóa để trở thành sản phẩm du lịch mới tại các khu vực có di sản là cần thiết nhằm làm tăng thêm giá trị cho các di sản, làm đa dạng hóa các hoạt động du lịch tại những nơi này, có thể mang lại lợi ích nhiều mặt cho bản thân di sản và cho cộng đồng dân cư.
KẾT LUẬN
Lịch sử Việt Nam, thế kỷ 18 là thời kỳ bão táp của chiến tranh nông dân mà đỉnh phát triển cao nhất là phong trào Tây Sơn. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung Nguyễn Huệ, đã phát triển thành một phong trào quật khởi của cả dân tộc, lập lại nền thống nhất quốc gia sau hơn hai thế kỷ bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh từ hai phía Bắc, Nam bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Cho đến nay, có thể khẳng định rằng, phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ là một trong những vấn đề lịch sử có sức lôi cuốn nhất. Từ sau cách mạng Tháng Tám, nhất là sau ngày hòa bình lập lại (1954) cho đến nay, công tác nghiên cứu, tìm hiểu về phong trào Tây Sơn – Nguyễn Huệ đã tiến triển theo chiều hướng thuận lợi, tốt đẹp. Nhiều chuyên luận có giá trị, rất nhiều bài báo, công trình nghiên cứu đã cố gắng đánh giá, soi rọi, phát hiện về nhiều khía cạnh của phong trào, chứng tỏ sức phong phú và tính hiện đại của nó.
Có thể nói, vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Tây Sơn nói riêng và di sản văn hóa nói chung là một lĩnh vực hoạt động đầy khó khăn, phức tạp nhưng cũng hết sức vẻ vang, đặc biệt là với di sản văn hóa của triều đại Tây Sơn. Lĩnh vực hoạt động này vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn sinh động, đồng thời là lĩnh vực mang tính xã hội, quần chúng cao. Những kết quả tốt đẹp mà các hoạt động này mang lại không chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa của dân tộc mà còn trực tiếp góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của quá trình phát triển. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vẫn gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc để giáo dục nhân dân về truyền thống lịch sử, văn hóa tạo điều kiện cho nhiều thế hệ được hưởng thụ, tiếp thu, nghiên cứu các giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, từ đó có thể sáng tạo ra những giá trị nhân văn mới, thể hiện được tầm cao của thời đại và chiều sâu của lịch sử, vừa dân tộc, vừa hiện đại nhằm giáo dục ý thức tự chủ, tự cường của dân tộc, nuôi dưỡng và đào tạo nhân cách phù hợp với thời đại. Di sản văn hóa còn là một tiềm năng kinh tế dồi dào nếu đặt nó đúng vào vị trí của ngành du lịch, đồng thời góp phần tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường các mối quan hệ quốc tế vì hòa bình, vì sự phát triển của xã hội và của dân tộc.
Hiện nay, trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng kiên cường và tinh thần yêu nước, nhân dân Bình Định lại càng tự hào về những chiến công oai hùng, những mốc son chói lọi cùng những huyền thoại và sự tích lẫy lừng của vùng đất đầy ắp bao sự kiện và chứng nhân lịch sử, càng làm cho tinh thần thượng võ của người Bình Định tỏa sáng khắp muôn phương, trở thành niềm tự hào của thế hệ trẻ Bình Định, viết tiếp trang sử vàng rực rỡ về vùng đất thượng võ, nhân văn, thắm đượm tình người này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Bang (2005), Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, NXB Thuận Hóa, Huế.
2. Ty văn hóa và thông tin Nghĩa Bình (1978), “Tây Sơn Nguyễn Huệ”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu Phong trào nông dân Tây Sơn.
3. Phan Trần Chúc (1994), Việt Nam sử học Triều Tây Sơn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Hoàng Sơn Cường (1998), Lược sử quản lý văn hóa Việt Nam, NXB văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Phan Đại Doãn (1993), Khởi nghĩa diệt Nguyễn và chống Xiêm, 2, Sở văn hóa thông tin Bình Định.
6. Lê Thì, Minh Tinh, Kim Dũng (1992), Miền đất võ Quyền Tây Sơn Bình Định, NXB Thể dục thể thao, Hà Nội.
7. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục.
8. Đặng Quý Địch (2008), Nhân vật Bình Định, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
9.Bình Định (2012), Bảo tàng Quang Trung và Di tích Tây Sơn, tái bản.
10. Hội văn học và nghệ thuật Bình Định ( 2010), Văn nghệ dân gian Bình Định tác giả tác phẩm, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2005), “Thiên nhiên dân cư & hành chính”, Địa chí Bình Định, NXB Tổng hợp, Qui Nhơn.
12. Phạm Duy Đức (2006), Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
13. Ch.fourniau (1885 – 1887), Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Định- Phú Yên, (theo nguồn tài liệu của Pháp). Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 6 (1982).
14. Nhiều tác giả (2002), Lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Quách Tấn, Quách Giao (2002), Nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung Bình Định tái bản.
16. Sở văn hóa thông tin Tiền Giang (2005), Chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút.
17. Ngô gia văn phái, Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch dịch (2003), Hoàng Lê Nhất thống chí, Sở VHTT Bình Định.
18. Nguyễn Văn Hiển, Đồ Bàn thành ký, bản chữ Hán chép tay trong Nguyễn Thị Tây Sơn ký.
19. Lê Thì, Hạnh Hòa (1993), Miền đất võ Roi Tây Sơn Bình Định, NXB Thể dục thể thao, Hà Nội.
20. J. Barrow, Nguyễn Thừa Hỷ dịch (2011), Một chuyến du hành đến Nam Hà 1792 – 1793, NXB Thế giới, Hà Nội.
21. Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế (1998), Huế Xưa & Nay, (30), Huế.
22. Phan Khoang ( 2001), Việt sử xứ Đàng Trong, NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh.
23. Lê Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ.
24. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
25. Phan Huy Lê (1998), Quang Trung – Nguyễn Huệ Con người và sự nghiệp, Sở văn hóa và thông tin Nghĩa Bình.
26. Bùi Dương Lịch, Lê Quý dật sử, bản chữ Hán chép tay.
27. Đinh Văn Liên (2008), Bình Định đất võ trời văn, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
28. Trung tâm Học liệu (1972), Đại Việt quốc thư, tái bản, NXB Bộ Giáo dục, Sài gòn.
29. Nguyễn Nhã (1968) “Đặc khảo về Vua Quang Trung”, Tập san sử địa (9,10)
30. Nguyễn Nhã (1969), “Kỷ niệm chiến thắng xuân Kỷ Dậu Đống Đa”, Tập san sử địa,(13).
31. Nguyễn Nhã (1971), “200 năm phong trào Tây Sơn”, Tập san sử địa,(21).
32. Bộ quốc phòng viện lịch sử quân sự Việt Nam (1989), “Số đặc biệt kỷ niệm 200 năm đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 - 1989”, Lịch sử quân sự, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn thi hành (2002), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Di sản văn hóa (2001) được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Tạp chí Xưa & Nay (2012), Quang Trung Nguyễn Huệ những di sản và bài học, NXB Hồng Bàng, TP Hồ Chí Minh.
36. Tạp chí Xưa & Nay (2012), “Quang Trung Nguyễn Huệ”, Tập san sử địa, NXB Hồng Bàng, TP Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Xuân Nhân (2011), Các ngôi sao Tây Sơn, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Quang Ngọc (1994), Lật đổ vua Lê chúa Trịnh đại phá Mãn Thanh, 3, Sở văn hóa thông tin Bình Định.
39. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Vũ Minh Giang, Nguyễn Quang Ngọc (1988), Trên đất Nghĩa Bình, 1, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn.
40. Li TaNa, Nguyễn Nghị dịch (1999), Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, Hà Nội.
41. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, 2.
42. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, 30.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí.
44. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên.
45. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
46. Thư viện Hội Châu Á Paris (bản in 1908), Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ, 528.
47. Phạm Phong (2012), Lịch sử võ học Việt Nam từ khởi nguyên đến đầu thế kỷ 21, NXB Văn hóa thông tin.
48. Lê Đình Phụng (2007), Thành Hoàng Đế Kinh đô vương triều Tây Sơn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (2003), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
50. Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quan (1995), Xây dựng đất nước, 4, Sở văn hóa thông tin Bình Định.
51. Bùi Thiết, Đinh Văn Nhật, Đỗ Văn Ninh, Lê Trọng Khánh, Lê Trọng Hoàn, Trần Thanh Lâm, Trần Văn Quý (1999), Đối thoại sử học, NXB Thanh niên, Hà Nội.
52. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2012), Quảng lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Quách Tấn (1999), Nước non Bình Định, NXB Thanh niên, TP Hồ Chí Minh.
54. Nguyễn Đình Thanh (2007), Bảo tàng Di tích một số vấn đề lý luận thực tiễn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
55. Nguyễn Đình Thanh (2008), Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển, NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh.
56. Bảo tàng tổng hợp Bình Trị Thiên (1986), Tây Sơn Thuận Hóa những dấu ấn lịch sử, Huế.
57. Nguyễn Khắc Thuần (2002), “Danh tướng trong chiến tranh nông dân thế kỷ 18 và phong trào Tây Sơn”, Danh tướng Việt Nam, 3, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh
58. Vương Tuyển (2009), Lễ hội dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
59. Minh Tranh (1958), Phong trào nông dân thế kỷ 18 và khởi nghĩa Tây Sơn, NXB Sự Thật, Hà Nội.
60. Nguyễn Bá Huân, Đinh Văn Tuấn, Nguyễn Thế Triết sưu tầm và chú giải (1978), Tây Sơn danh tướng anh hùng truyện, Nghĩa Bình.
61. Nguyễn Trọng Trì, Đinh Văn Tuấn, Nguyễn Thế Triết sưu tầm, Nguyễn Thế Triết dịch (1978), Tây Sơn lương tướng ngoại truyện, Nghĩa Bình.
62. Bảo tàng Quang Trung (2009), Lưu niệm danh nhân thời Tây Sơn.
63. Tạ Chí Đại Trường (2012), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, NXB Tri Thức, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo trên mạng internet
64. http://www.baobinhdinh.com.vn/datnuoc-connguoi/2005/11/18294/
65. http://mythuat.proboards.com/thread/774
66. http://vietsciences1.free.fr/vietscience/vietnam/bienkhao-binhluan/motiprongmoi.pdf
67. http://hannom.org.vn/web/tchn/data/8901v.htm
68.http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A3_nh%E1%BA%A1c_cung_%C4%91%C3%ACnh_Hu%E1%BA%BF#Cu.E1.BB.91i_th.E1.BA.BF_k.E1.BB.89_XVIII:_th.E1.BB.9Di_T.C3.A2y_S.C6.A1n_.281788_-_1802.29