NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI, CON NGƯỜI:
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
· GS.TS. Tạ Ngọc Tấn
· Phó Chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã thu được những
thành tựu to lớn, toàn diện. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người, nhận
thức lý luận của Đảng ta cũng đã có những thành tựu không nhỏ, góp phần quan
trọng vào những thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, cũng còn một
số vấn đề đặt ra về công tác nghiên cứu lý luận về vấn đề này, như: cần làm rõ
nội dung, cơ chế và hệ quả tác động giữa văn hóa và đời sống kinh tế - xã hội;
nhìn rõ hơn vai trò của văn hóa với con người, an ninh xã hội và sự phát triển
xã hội; vai trò của văn hóa trong chính trị, trong kinh tế; xây dựng chuẩn giá trị
con người và xây dựng con người Việt Nam,...
1. Sự phát triển nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội, con người
Đường lối về lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người trong Cương lĩnh năm
1991 của Đảng đánh dấu một bước đổi mới quan trọng trong nhận thức lý luận. Từ
việc xác định “có nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là một
đặc trưng định hướng của chế độ XHCN mà chúng ta theo đuổi, Cương lĩnh chỉ ra
nhiệm vụ của cách mạng trong lĩnh vực văn hóa là: “Tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin
và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã
hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân
tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản
tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”(1). Như vậy, đường lối
“dân tộc, khoa học, đại chúng” đã xác định trong Đề cương văn hóa năm
1943 được diễn đạt mới trong điều kiện hòa bình xây dựng đất nước là “nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nội dung của “nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” là sự kết hợp chặt chẽ giữa trình độ phát triển hiện
đại, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và sự tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, được đặt trên cơ sở của hệ tư tưởng chính
trị với lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với nhận thức đường lối văn
hóa ấy là chính sách xã hội coi con người là nhân tố quan trọng, cần được phát
huy, bảo đảm toàn diện các yếu tố vật chất và tinh thần cho con người. Đây là
kết quả sự nhận thức tương đối toàn diện về con người trong các mối
quan hệ chính trị - xã hội phong phú, gắn bó hữu cơ với mục tiêu nhân
văn của chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII về văn hóa - văn
nghệ là sự tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nhận thức về văn hóa, xã hội
và con người của Cương lĩnh năm 1991.
Tại Đại hội VIII của Đảng, nhận thức về văn hóa đã có một bước chuyển biến
quan trọng. Văn hóa được xác định là “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội”(2). Đây là một cách tiếp
cận mới đối với văn hóa, cách nhìn nhận mới về bản chất, vị trí và vai trò
của văn hóa trong đời sống xã hội. Như cách nói của Hồ Chí Minh:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”(3). Nhưng đến lượt nó,
văn hóa không đơn thuần là sản phẩm được tạo ra một cách phụ thuộc, bị động, mà
có đời sống riêng của nó, trở thành môi trường phát triển của con người, trở
thành điều kiện quy định sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội. Khẳng định,
văn hóa là “nền tảng tinh thần”, “là động lực phát triển kinh tế - xã hội”, rõ
ràng sẽ dẫn đến những thay đổi về cách ứng xử, các chính sách mới về văn hóa,
xã hội và con người.
Tiếp tục phát triển nhận thức về văn hóa, xã hội, con người của Đại hội
VIII của Đảng, Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16-7-1998 của Hội nghị Trung ương 5
khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” mở đầu băng sự khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc
nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân
tộc”(4). Luận điểm trên đã thểhiệnrất rõ nhận thức về quan hệ hai mặt của
văn hóa, đó là sản phẩm của xã hội, và đồng thời cũng là yếu tố quy định sự
phát triển của xã hội, khẳng định vai trò của văn hóa trong việc hình thành con
người, góp phần tạo dựng những giá trị lịch sử của dân tộc.
Trên cơ sở tiếp tục khẳng định quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội”, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định 10 nhiệm vụ xây dựng văn
hóa, con người, trong đó có hai nhiệm vụ đáng chú ý nhất là: Xây dựng con người
và xây dựng môi trường văn hóa - xã hội. Các yêu cầu xây dựng con người Việt
Nam được xác định với 5 nội dung (hoặc tiêu chí): Yêu nước, tự cường dân tộc; ý
thức tập thể, đoàn kết; lối sống lành mạnh, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng
phép nước; lao động chăm chỉ, sáng tạo; cầu thị, ham hiểu biết. Vấn đề xây dựng
môi trường văn hóa hầu như lần đầu tiên được đặt ra tương xứng với vai trò, tầm
quan trọng của nó. Đây là kết quả của việc tổng kết thực tiễn phát triển văn
hóa, đánh giá nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực xã hội. Yêu cầu xây
dựng môi trường văn hóa được đặt ra tương đối toàn diện, bao gồm môi trường gia
đình, cộng đồng, làng bản, khu dân cư, nhà trường và môi trường xã hội nói
chung.
Cương lĩnh năm 2011 trên cơ sở đã bổ sung, phát triển những thành tựu trong
nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội và con người, đã khẳng định quan điểm: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thànhnền tảng tinh thần vững chắc,sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng
cao”(5). Đây chính là bước phát triển mới về nhận thức lý luận văn hóa, xã hội và
con người khi tiếp cận văn hóa như “sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển”. Lần đầu tiên, văn hóa được nhìn nhận với vai trò, vị thế và ý nghĩa
quan trọng đặc biệt như yếu tố bên trong quyết định sự phát triển của xã hội.
Đó là một điểm mốc đầy ý nghĩa trên con đường nhận chân giá trị đích thực của
văn hóa. Cùng với nhận thức mới mẻ về vai trò, vị thế văn hóa trong đời sống xã
hội, Cương lĩnh 2011 còn khẳng định một bước phát triển trong nhận thức về con
người khi đặt “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển”. Đồng
thời, Cương lĩnh 2011 vẫn tiếp tục cách tiếp cận vấn đề con người theo hướng
gắn kết hài hoà giữa cái riêng với cái chung, giữa con người cá nhân với con
người xã hội, con người công dân. Từ cách tiếp cận đó, Cương lĩnh xác định
phương hướng xây dựng con người là: “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân”. Khi Cương lĩnh 2011 đặt con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, có thể thấy, nhận thức của Đảng ta về vấn đề con người đã
vận dụngquan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về nhân dân
“nước lấy dân làm gốc”, và “gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân”. Nhận thức ấy cũng rất gần gũi với quan điểm của UNDP trong Báo
cáo phát triển con người năm 1990, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển con
người là mục đích của sự phát triển”, vì “tài sản của mỗi quốc gia là con người
của quốc gia đó”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương9khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) “về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” đã tiếp tục khẳng định và cụ thểhóa những luận điểm cơ bản trong
nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội và con người của Cương lĩnh năm 2011: “Xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(6). Trước hết, văn hóa
được nhìn nhận trong mối quan hệ gắn kết hữu cơ với con người, không tách rời
mục tiêu phát triển con người. Từ nhận thức ấy, Nghị quyết nhấn mạnh mối quan
hệ hữu cơ giữa văn hóa và con người, trong đó, “Phát triển văn hóa vì sự hoàn
thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”(7), đồng thời yêu cầu:
“Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(8).
Cùng với việc tiếp tục khẳng định những quan điểm lớn về văn hóa, con người
và xã hội như: Xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa
đồng bộ, lành mạnh, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng, phát
triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa... Nghị quyết Trung ương 9 nhấn mạnh quan
điểm về xây dựng con người: “Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm
lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Thực chất, đây là sự tiếp nối và cập nhật hóa luận điểm quan trọng của Hồ Chí
Minh về xây dựng con người mới, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa”. Trên thực tế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn coi trọng nhân tố con người, luôn đặt con người vào vị trí trung
tâm của các quan điểm,đường lối. Tuy nhiên,ở mỗi thời kỳ khác nhau, tùy theo
các điều kiện lịch sử cụ thể, cách tiếp cận vấn đề cũng khác nhau. Với việc
khẳng định những đặc tính cơ bản của con người Việt Nam cần hướng tới hiện nay,
cho thấy cách tiếp cận vấn đề con người một cách toàn diện, không chỉ cập nhật
những tính chất hiện đại mà còn tiếp nối những truyền thống tốt đẹp trong lịch
sử, đáp ứng yêu cầu cuộc sống hiện nay. Mặt khác, lần đầu tiên, Nghị quyết
Trung ương 9 khoá XI đặt ra yêu cầu “xây dựng văn hóa trong chính trị và trong
kinh tế”. Nội dung xây dựng văn hóa trong chính trị được xác định là văn hóa
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, trong đó, quan
tâm chủ yếu đến phẩm chất đạo đức công vụ, trách nhiệm chính trị - xã hội, tinh
thần tận tụy công tác, phục vụ nhân dân và ý thức kỷ luật, kỷ cương trong lao
động. Nội dung xây dựng văn hóa trong kinh tế dựa trên cơ sở lấy “con người
thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội”. Từ đó, nội
dung văn hóa trong kinh tế được coi là sự minh bạch, giữ chữ tín, tôn trọng
pháp luật, cạnh tranh lành mạnh...
Đại hội XII đã tổng kết 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đề ra đường lối
xây dựng đất nước trong thời kỳ mới với bước chuyển giai đoạn quan trọng. Trong
lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người, nhận thức lý luận của Đảng về mối quan
hệ giữa kinh tế, xã hội, văn hóa và con người thể hiện sự gắn bó hữu cơ, nhuần
nhuyễn. Các yếu tố này làm tiền đề cho nhau, quy định lẫn nhau, trong đó, con
người vừa là động lực quyết định, vừa là mục tiêu trung tâm của sự phát triển.
Từ nhận thức chung về mối quan hệ đó, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu của chiến lược
phát triển”. Để thực hiện yêu cầu ấy, cần phải “Đúc kết và xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, tiếp tục xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, xây dựng văn hóa trong chính trị và
văn hóa trong kinh tế phù hợp với yêu cầu, điều kiện của thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCNvà hội nhập quốc tế.
Tiếp tục khẳng định quan điểm quan trọng về phát triển gắn với giải quyết
các vấn đề xã hội, con người đã được đặt ra từ Đại hội X “Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”, Đại hội
XII của Đảng lần đầu tiên đặt ra vấn đề quản lý phát triển xã hội.
Thực chất của vấn đề quản lý phát triển xã hội là điều chỉnh mối quan hệ hợp lý
giữa các tiến trình, các lĩnh vực trong quá trình phát triển đất nước, bảo đảm
cho sự phát triển bền vững, hài hòa của xã hội, nhất là các vấn đề liên quan
đến con người. Mặt khác, quản lý phát triển xã hội cũng là yêu cầu nhằm bảo đảm
sự công bằng cho mọi thành viên xã hội, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của
con người trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Như vậy, nhận thức lý luận của Đảng ta về văn hóa, xã hội và con người
trong thời gian qua, nhất là trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đã
phát triển liên tục theo hai hướng chủ yếu. Hướng thứ nhất, nhận
thức lý luận về lĩnh vực này ngày càng gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với thực tế vận
động của đời sống văn hóa, xã hội và những biểu hiện cụ thể liên quan đến con
người trên cơ sở sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn với phương pháp nhìn thẳng
vào sự thật, không né tránh những vấn đề phức tạp đặt ra từ cuộc sống. Hướng
thứ hai, những kết quả đạt được từ nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội và
con người cho thấy, chúng ta đã khắc phục những hạn chế về phương pháp luận để
tiếp cận với những vấn đề của lĩnh vực này theo những nguyên lý khoa học của
học thuyết Mác - Lênin, phù hợp với những nhận thức chung, tiến bộ của nhân
loại. Văn hóa, xã hội và con người ngày càng được nhìn nhận trong mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với thượng tầngkiến trúc, giữa con người với hoàn
cảnh sống và các điều kiện xã hội -lịch sử...
2. Những vấn đề đặt ra về lý luận
Thứ nhất, từ nhận thức về văn hóa với vai trò là “nền tảng tinh thần của xã
hội, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”, “sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững”, vấn đề đặt ra cần tiếp
tục đào sâu nghiên cứu để làm rõ nội dung, cơ chế và hệ quả tác động qua lại
giữa văn hóa với đời sống kinh tế - xã hội nước ta như thế nào, nhất là trong
điều kiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cần phải thấy rằng,
với việc “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh
tế thị trường” đã tạo ra những thay đổi vô cùng to lớn trong đời sống xã hội
nước ta. Quy luật giá trị, sức mạnh đồng tiền và những quan hệ lợi ích đã và
đang len lỏi vào mọi ngõ ngách cuộc sống, mọi mối quan hệ xã hội. Dù muốn hay
không muốn thừa nhận thì trên thực tế, thang giá trị cuộc sống trước đây đã có
những biến động không nhỏ, trong đó có những giá trị đã không còn phù hợp. Ngay
cả một số giá trị tích cực trong truyền thống dân tộc hay mang tính đặc trưng
của chế độ trước đây cũng đã có những biểu hiện mới, được nhìn nhận dưới những
hệ quy chiếu mới. Một loạt những thiết chế, giá trị văn hóa, xã hội của thời kỳ
bao cấp trước đây đã không còn phù hợp, thậm chí việc tiếp tục duy trì chúng sẽ
không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Mặt khác, những vận động của cuộc sống hiện đại, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và quá trình toàn cầu hóa cũng đang tác động mạnh mẽ vào đời sống xã
hội, làm thay đổi mạnh mẽ lối sống của con người Việt Nam. Môi trường mạng và
sự tràn ngập của dòng thông tin trực tuyến đang trở thành yếu tố quan trọng,
góp phần quy định nhận thức tư tưởng, giá trị cuộc sống và các mối quan hệ xã
hội của mỗi người dân. Nếu trở lại đúng với quan niệm của Hồ Chí Minh, “Văn hóa
là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”, thì sự thay đổi văn hóa hiện nay lại càng rộng lớn, càng có ý nghĩa đối
với quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Chính vì vậy mà Hồ Chí
Minh yêu cầu “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc” là: (1) Xây dựng tâm
lý: tinh thần độc lập tự cường; (2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm
lợi cho quần chúng; (3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc
lợi của nhân dân trong xã hội; (4) Xây dựng chính trị: dân quyền; (5) Xây dựng
kinh tế”(9. Nói cách khác, việc nghiên cứu để tìm ra nội dung, cơ chế tác động của
những yếu tố văn hóa hiện nay đối với các tiến trình phát triển kinh tế - xã
hội không chỉ là vấn đề của văn hóa hay xã hội cụ thể, mà nó ảnh hưởng đến toàn
bộ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, từ tổng kết thực tế 30 năm đổi mới, chúng ta đã nhìn nhận rõ hơn
về vai trò của môi trường văn hóa đối với con người, an ninh xã hội và sự phát
triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế, Đại hội Đảng lần thứ XI và XII đã
dành nhiều sự chú ý cho vấn đề xây dựng môi trường văn hóa - xã hội. Tuy nhiên,
sự cải thiện môi trường văn hóa - xã hội trên thực tế chưa rõ ràng. Đặc biệt,
môi trường tư tưởng của nhân dân còn không ít vấn đề. Trong khi cuộc sống vật
chất của người dân ngày càng được cải thiện, an sinh xã hội và an ninh con
người ngày càng được bảo đảm tốt hơn thì niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào
chế độ có phần giảm đi, hiện tượng tội phạm và các tệ nạn xã hội có chiều hướng
tăng lên. Vấn đề đặt ra là những hiện tượng đó do đâu mà có, môi trường văn hóa
- xã hội có ảnh hưởng như thế nào, tại sao. Cầntiếp tục nghiên cứu làm rõ
nguyên nhân nào dẫn đến những hạn chế về môi trường văn hóa - xã hội hiện nay,
mối liên hệ và tác động qua lại giữa môi trường và các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống như thế nào, giải pháp nào để tích cực hóa môi trường văn hóa -
xã hội và giải quyết những hiện tượng tiêu cực đó. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu
về môi trường văn hóa - xã hội là công việc thường xuyên. Đó là yêu cầu cần
thiết để giải quyết vấn đề quản lý phát triển xã hội và xuất phát từ một thực
tế hiển nhiên là môi trường ấy luôn thay đổi.
Thứ ba, vấn đề nghiên cứu và xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa
trong kinh tế đã được đặt ra trong các văn kiện gần đây của Đảng nhưng chưa
được làm rõ về nhận thức, cho nên chưa có những chính sách cụ thể để hiện thực
hóa. Nói đến văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là nói
đến văn hóa trong hai lĩnh vực trụ cột của đời sống xã hội, có ý nghĩa chi phối
toàn bộ các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa, quy định tiến trình xây dựng,
phát triển đất nước. Đương nhiên, đó cũng là những yếu tố có ảnh hưởng to lớn
đến nhân cách, lối sống và thái độ ứng xử của con người. Vấn đề đặt ra là cần
nghiên cứu để làm rõ nội dung, tính chất, đặc điểm hình thành, cơ chế vận hành,
tác động, những biểu hiện thực tế của văn hóa trong kinh tế và văn hóa trong
chính trị. Đó là cơ sở khoa học và thực tế để hoạch định những chính sách thích
hợp nhằm xây dựng văn hóa trong hai lĩnh vực sống cònlàchính trị và kinh tế,
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ tư, các vấn đề nghiên cứu chuẩn giá trị con người và xây dựng con
người Việt Nam hiện đại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Con người không chỉ
là trung tâm của chiến lược phát triển, là mục tiêu hướng tới của nền văn hóa,
mà chính là biểu hiện tập trung nhất, đại diện caonhất của một nền văn hóa, là
động lực quyết định nhất của sự phát triển xã hội. Nếu trở lại với quan niệm
của C.Mác, “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”, thì việc nghiên cứu về con người cần phải đặt trong mối quan
hệ toàn diện, trong đó không thể tách rời những thiết chế chính trị, kinh tế,
xã hội. Đặc biệt, chính những thiết chế chính trị, kinh tế và xã hội có ảnh
hưởng quan trọng nhất đến sự hình thành nhân cách, lối sống của mỗi con người.
Đó là sự tác động hai chiều, quy định lẫn nhau. Nói cách khác, sự hạn chế trong
các thiết chế chính trị, kinh tế, xã hội tất yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về
con người, nhất là về đạo đức, lối sống. Do đó, muốn tích cực hóa nhân tố con
người, đương nhiên phải tích cực hóa tất cả các yếu tố có vai trò chi phối hay
quy định đối với nó. Đây cũng chính là một trong những vấn đề ít được quan tâm
của xã hội, ít được đề cập trong các nghiên cứu và do đó, ít được chú ý trong
các chính sách nói chung.
Mặt khác, ngay trong tính hiện thực của nó, con người không chỉ là con
người xã hội, con người còn có mặt bản thể của nó như là biểu hiện của con
người sinh học, những quan hệ cá nhân, những vấn đề riêng tư, những cơ chế vận
hành nội biên của con người. Khi C.Mác nói “bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội” là sự nhấn mạnh đặc trưng xã hội của con người. Trên thực
tế, những vấn đề liên quan đến con người bản thể luôn thể hiện dưới những hình
thức, hiện tượng rất phong phú. Nếu không có sự hiểu biết đầy đủ, không có
những chính sách xã hội tương thích sẽ dẫn đến những hệ quả không mong muốn. Tuy
nhiên, hầu như trong một thời gian dài, chúng ta hoặc bỏ qua hoặc cố tình quên
đi vấn đề này. Vấn đề đặt ra là, cần phải nghiên cứu và đưa ra những chính sách
tích cực nhằm phục vụ cho sự phát triển toàn diện, hài hòa của con người Việt
Nam hiện đại. Muốn vậy, không thể quên mặt thứ hai của con người. Đây cũng
chính là một đòi hỏi mang tính nhân văn.
Thứ năm, hợp tác nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa
của nhân loại đang là yêu cầu tất yếu, khách quan và cấp thiết, nhất là trong
điều kiện chúng ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào mọi tiến trình của đời
sống quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa đã trở thành không thể đảo ngược,
thậm chí có chiều hướng ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Biên giới địa lý giữa
các quốc gia đã bị công nghệ thông tin vô hiệu hóa nhiều chức năng vốn có, chỉ
còn vai trò nhất định đối với những yếu tố “cứng” như chủ quyền đất đai, lãnh
thổ, biển đảo, di cư, xuất - nhập khẩu hàng hóa, v.v.. Muốn hay không muốn thì
những giá trị văn hóa của các dân tộc, quốc gia khác cũng đang hằng ngày, hằng
giờ tràn vào môi trường xã hội nước ta qua nhiều con đường khác nhau như mạng
Internet, các phương tiện truyền thông, báo chí, du lịch, các hình thích giao
lưu nhân dân v.v.. Việc nghiên cứu văn hóa thế giới cho phép chúng ta mở mang
nhận thức về các giá trị văn hóa của nhân loại, chủ động trong chính sách lựa
chọn,tiếp thu, học tập những kinh nghiệm hay về chính sách văn hóa. Mặt
khác,đây cũng là cơ hội để truyền bá những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc
ta, tăng cường sức mạnh mềm quốc gia, mở mang hiểu biết, tạo môi trường và điều
kiện cho việc hợp tác phát triển kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2017
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội,năm 1991.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.29.
(3), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr.458, 458.
(4) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII), số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, về “xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, http://dangcongsan.vn.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr.75-76.
(6), (7), (8) ĐCSVN: Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần
thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, http://dangcongsan.vn.
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn