VĂN HÓA - CON NGƯỜI NHÂN TỐ BẢO ĐẢM SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM

 

 


GS.TSKH. MINH  GIANG

Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

Văn hóa vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Cho đến nay, hàng trăm công trình nghiên cứu, trong đó có những tổng kết có giá trị về lý  thuyết    những  khám phá  đặc sắc về các lĩnh vực và dạng thức văn


hóa cụ thể đã được công bố trong ngoài nước. Tuy nhiên, điều quan trọng hiện nay là làm thế nào để khai thác các giá trị văn hóa như một nguồn tài nguyên nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Với mong muốn góp phần vào việc phát huy sức mạnh mềm của văn hóa, bài viết này, trên cơ sở phân tích đặc trưng của văn hóa Việt Nam, sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hiện thực hóa mục tiêu văn hóa được đặt ngang bằng với kinh tế, chính trị và xã hội.

 

1. Văn hóa là nền tảng của phát triển bền vững

 

Văn hóa thuật ngữ được nhắc tới với tần số vô cùng lớn và được sử dụng hết sức linh hoạt. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một sự nhất trí hoàn toàn về nội hàm của khái niệm này. Có thể liệt kê ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Hầu như mỗi tác giả khi nghiên cứu về văn hóa đều không thỏa mãn với những định nghĩa đã có nên thường đưa ra định nghĩa cho riêng mình.  Điều này nói nên tính chất đa dạng và phong phú của văn hóa, nhưng nếu nghiên cứu kỹ các định nghĩa này thì kỳ thực chúng chỉ cách diễn đạt khác nhau của hai quan niệm về văn hóa.

Thnht, có một quan niệm từ khá lâu cho rằng, văn hóa chỉ một lĩnh vực hoạt động của đời sống, tương ứng với những quan hệ xã hội, những sáng tạo tinh thần,... Trên ý nghĩa này, trong quan niệm hiện đại, về đại thể, văn hóa gần giống với những  gì thuộc phạm vi quản lý của Bộ Văn hóa, Thể  thao Du lịch ở Trung ương và các  quan theo ngành dọc ở địa phương (sở, phòng,...).

Thhai, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả những gì một cộng đồng người (lớp người, dân một phương, một dân tộc...) sáng tạo ra mục đích tồn tại và phát triển. Quan niệm này dựa vào định nghĩa của các nhà văn hóa học, theo đó, văn hóa được xem là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử1. Quan niệm này được UNESCO tích hợp vào phạm trù di sản văn hóa, theo đó văn hóa được hiểu tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.

Ở Việt Nam, từ năm 1943, khi nói về văn hóa, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm cho rằng “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó tức văn hóa. Văn hóa sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời  sống    đòi  hỏi  của  sự  sinh tồn”2. Đây có thể coi là một định nghĩa khá hoàn chỉnh và sát hợp với thực tế, đồng thời bao quát được cả những quan điểm hiện đại sau này về văn hóa.

Như vậy, văn hóa là tất cả những gì do một cộng đồng (dân tộc) sáng tạo nên trong quá trình lịch sử, nhưng không đồng nhất với lịch sử. Văn hóa là tổng hòa những giá trị đã được kết tinh, trở thành bản sắc, là nền tảng tinh thần của một cộng đồng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Đó là những giá trị trường tồn. Nếu như chủng tộc (race) hay giống nòi theo cách nói của người Việt gene sinh học của một cộng đồng thì văn hóa thể coi gene hội của cộng đồng ấy.

Văn hóa là tạo nên ứng xử cộng đồng, phản ứng cộng hưởng tập thể trước một hiện tượng hoặc sự việc nào đó. Văn hóa chứa đựng cả những sở trường và sở đoản của một cộng đồng nên khó thể đạt được kỳ vọng (như thường được nghe) phát huy nhng mt tích cc, hn chế nhng mt tiêu cc... phải theo một triết phù hợp với thực tiễn khai thác tất cả những mình để phục vụ phát triển.

Trên thế giới đã không ít quốc gia thành công trong sự phát triển đất nước khi biết dựa trên nền tảng văn hóa. Kinh nghiệm Nhật Bản rất đáng đưa ra để phân tích. Vào cuối thế kỷ XIX, trước thực trạng đất nước lạc hậu, những nhà cải


1.   
Edward Burnett Tylor: Primitive Culture V2: Researches Into the Development of Mythology, Philosophy, Religion, Language, Art and Custom, Publisher Literary Licensing, London, UK, 2014; Pitirim

A. Sorokin: Social and Cultural Dynamics, Oxford, UK, 1985; Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ đin  tiếng Vit, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998.

2.  Hồ Chí Minh: Toàn tp, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.


 

cách tiên phong trong giai đoạn đầu đã đưa ra chủ trương “thoát Á nhp Âu” với tâm trạng đầy mặc cảm về sự tụt hậu của dân tộc Nhật. Họ coi mọi thứ của châu Âu đều là chuẩn mực của văn minh. Thậm chí, Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên thời Minh Trị là Mori Arinori đã đưa ra đề xuất táo bạo là bãi bỏ tiếng Nhật và chuyển sang dùng tiếng Anh trong tất cả các trường học với suy nghĩ chỉ giỏi tiếng Anh người Nhật mới có thể đuổi kịp châu Âu1. Chủ trương này đã  làm dấy lên  làn sóng tranh luận quyết liệt trong giới trí thức phản ứng dữ dội của xã hội. Kết cục sau đó là sự thắng thế của quan điểm Hòa thn, Dương khí(tinh thần Nhật Bản, phương tiện châu Âu) của Fukuzawa Yukichi2 đã trở thành tưởng chủ đạo cho cuộc cải cách Minh Trị, đưa nước Nhật lên hàng cường quốc trên thế giới vào đầu thế kỷ XX. Văn hóa chính nền tảng cho bước nhảy ngoạn mục này. Chính vậy, mặc là nước hiện đại song Nhật Bản quốc gia đặc biệt coi trọng văn hóa truyền thống.

Bài học thứ hai cũng đến từ châu Á. Đó là “Kỳ tích sông Hàn” - một cụm từ khái quát sự biến đổi thần kỳ của Hàn Quốc,  từ một đất  nước  nghèo đói, bị  chiến  tranh tàn phá nặng nề biến thành một “con rồng” và đến giữa thập  niên  1990 trở  thành thành viên OECD (Organization for Economic Cooperation and Development),  tổ chức các quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Người Hàn đã có một khẩu hiệu nổi tiếng: Hãy biến tt c nhng người Hàn thành li thế cnh tranh quc tế. Người Hàn luôn coi văn hóa là sức mạnh trong thời đại toàn cầu hóa.

Như vậy, từ lý luận đến kinh nghiệm thực tế có thể thấy, chỉ có thể phát triển bền vững khi đứng vững trên nền tảng văn hóa, hay nói cách khác là phải biết mình, biết người và khai thác tối đa những gì mình có mới áp dụng được tối đa những gì mình học và vươn lên, sánh vai với thế giới. Để thể đưa ra những đề xuất, giải pháp khai thác các giá trị văn hóa Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, trước tiên cần làm những nội dung bản của văn hóa Việt Nam.

 

2. Nội dung của văn hóa Việt Nam

 

Có thể coi văn hóa là căn cước của một cộng đồng, nhưng bao giờ cũng có hai hợp phần nội sinh và ngoại sinh (tiếp thu được từ bên ngoài, biến thành cái của mình). Trước hết, thử xét đến những hợp phần nội sinh của văn hóa Việt Nam. Văn

 


1.  Hall, Ivan Parker: Mori Arinori, Harvard University Press, Massachusetts, USA, 1973.

2.   Fukuzawa Yukichi (1835-1901), ở Việt Nam ông còn được biết đến với tên gọi Phúc Trạch Dụ Cát, từng sáng lập Đại học thục Keio (Khánh ứng nghĩa thục) nổi tiếng. Hàng trăm lưu học sinh Việt Nam được đưa sang Nhật trong phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX từng là sinh viên trường  này. Ghi nhận công lao của ông với đất nước, chân dung của ông được vẽ trên đồng tiền mệnh giá lớn nhất của Nhật Bản (1 vạn yên).


 

hóa thực chất là những sáng tạo của con người trong quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử.

Biểu hiện rõ nhất của những nội dung văn hóa chịu tác động của quá trình ứng  phó (counteraction) và tương tác (interaction) với điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái là hoàn cảnh thuận lợi cho sự  phát triển của nông  nghiệp.  Với  tiềm năng dồi dào của đất và nước (độ phì của đất cao, diện tích canh tác lớn và có  điều kiện  phát triển nhờ lượng sa bồi khá lớn của hệ thống sông ngòi dày đặc), cùng khí hậu thuận lợi... không khó lý giải sao người Việt lựa  chọn  nông  nghiệp  làm  nghề sống chính suốt mấy nghìn năm và đã từng tạo dựng nên một nền văn minh nông nghiệp có thời tỏa sáng khắp khu vực Đông Nam Á. Nhưng cũng vì thế  mà người  Việt bị trói chặt vào kinh tế nông nghiệp. Cho đến nay, ba hằng số  lớn của  lịch sử  dân tộc: kinh tế nông nghip, cư dân nông dân, hi nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người  Việt Nam. Do  đó, nhng căn tính nông dân, nhng  đặc trưng ca mt hi nông nghip nh hưởng rt ln đến tt c mi giá tr văn hóa truyn thng Vit Nam.

Trên một phương diện khác, môi trường sông - nước đã tạo nên một nn văn hóa sông nước. Tác động của môi trường sông - nước mạnh đến  mức người Việt đồng  nhất khái niệm quốc gia với NƯỚC. Cũng từ hoàn cảnh sống trong môi trường sông nước, người Việt khả năng đối phó rất linh hot vi mi tình thế li ng x mm do, phù hp vi hoàn cnh. Điều này lý giải sao là dân nông nghiệp người Việt không thủ cựu, rất dễ thích ứng. Có thể coi đây là một đặc trưng nổi trội của văn hóa và con người Việt Nam.

Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam luôn đặt  ra  cho  con  người muôn vàn những thử thách hiểm nghèo, hay gây ra thiên tai bất thường, nhất là các hiện tượng mưa theo mùa, tạo ra lũ lụt, bão tố, ẩm thấp gây sâu bệnh, tàn hại mùa màng,... Cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên đã tạo nên truyn thng không chùn bước trước khó khăn biết c kết cng đồng, to nên sc mnh để vượt qua th thách.

Một trong những đặc điểm nổi bật của Việt Nam nằm vị trí giao tiếp tầm chiến lược cực kỳ quan trọng, thường xuyên chịu ảnh hưởng của những toan tính từ bên ngoài. Chính vì vậy, Việt Nam luôn luôn bị đập bởi các biến cố khu vực và của thế giới. Tính cách dễ thích ứng và nhạy cảm phần nhiều được hình thành do tác động của yếu tố này. Điều này cũng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Vị trí giao tiếp sự phân bố địa lý đã khiến Việt Nam từ lâu đã là một quốc gia đa sắc tộc với những đặc trưng văn hóa khác nhau. Mặc dù vậy, người Việt (Kinh) luôn đóng vai trò chủ thể vì số lượng đông và trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn hẳn so với các cộng đồng dân tộc anh em khác. Đặc điểm trên đã tạo nên truyền thống đa dạng trong văn hóa nhưng hướng tâm vào văn hóa chủ thể - văn hóa Việt.


 

Văn hóa, tính cách của con người Việt Nam còn được hình thành do tác động của quá trình lao động sản xuất. Như đã nói ở trên, hoạt động lao động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, một nghề rất cần tới sức mạnh tập thể. Làng, một loại hình công xã nông thôn đơn vị tụ cư phổ biến của  cộng đồng chủ thể (người Kinh). Sau lũy tre làng, hàng loạt những sáng tạo văn hóa mang tính cộng đồng đã hình thành. Mặt tích cực của là đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lúc gặp khó khăn, hoạn nạn. Chứng cứ lịch sử cho thấy, người Việt đã khai phá ruộng đất theo phương thức tập thể vậy, đất đai canh tác trong suốt một thời gian lịch sử rất dài thuộc về sở hữu công (cộng đồng). Đoàn kết, tương trợ nhau nguyên tắc cá nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng dần trở thành một tập tục có cơ chế kinh tế - xã hội bảo đảm.

Trong văn hóa cộng đồng Việt Nam hầu như ít thấy quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng đồng mà chủ yếu là quan hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một gia đình (hay rộng ra một gia tộc) trách nhiệm với xóm làng, làng trách nhiệm với nước và ngược lại. Do đó, suy cho cùng, một cá nhân bình thường chỉ có vai trò trong khuôn khổ gia đình họ thôi, còn ra đến cộng đồng lớn, nhân luôn luôn “không cái gì”. thế, họ nói đến truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau cũng thường thể hiện ở cấp gia đình trở lên. Cùng với đặc điểm này, tính chất của cộng đồng trong văn hóa Việt đã góp phần làm nên đặc trưng của văn hóa tâm linh. Nhiều tín ngưỡng của người Việt liên quan đến gia đình, dòng tộc tiêu biểu nhất là truyền thống thờ cúng tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên Paul Ory, một học giả Pháp đã đưa ra nhận xét rằng, đối với người dân An Nam, đạo thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống nhất và thiêng liêng nhất1. Thờ vua Hùng là một hình thức thờ cúng tổ tiên ở tầm quốc gia.

Gắn liền với văn hóa cộng đồng là truyền thống dân chủ làng xã. Biểu hiện rõ nét việc bầu chọn ra người đại diện tham gia bộ máy quản làng xã. Trong chế này, “luật pháp” của làng những phong tục, tập quán, tục lệ được hình thành trong một quá trình lâu dài (lệ làng). Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, dân chủ làng xã nói tới ở đây là một hình thức dân chủ sơ khai. Thực chất của thiết chế dân chủ này là một hình thức tự quản nên các thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương. Phương thức này chứa đựng tiềm tàng hai khuynh hướng cực đoan. Khuynh hướng thứ nhất là tạo ra tâm giám sát thái quá, biến thành sự can thiệp của tập thể vào quá trình phát triển của cá thể, nhất là trong hoàn cảnh chủ nghĩa bình quân chi phối mọi quan hệ trong


1. Paul Ory: La commune annamite au Tonkin, Maison d'édition Broché, Paris, 2013.


 

làng xã. Khuynh hướng thứ hai là khi luận không còn được coi trọng thì những hành vi tự do, tùy tiện (vô chính phủ) rất dễ nảy sinh. Chính trong cuốn sách đã dẫn, Paul Ory đã ví làng xã Việt nam như Protée, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp tài biến hóa thành bất cứ thứ 1.

Di tồn văn hóa dưới dạng tập quán của sản xuất nông nghiệp, một loại hình lao động tương đối tự do, còn được biểu hiện ở tác phong tùy tiện, kỷ luật không chặt chẽ. Sản xuất nông nghiệp truyền thống không cần tới những tính toán chuẩn xác và sự hiệp đồng thật chặt chẽ. Cho đến nay, dù đã có thay đổi rất nhiều, nhưng ảnh hưởng của lối sống nông nghiệp còn rất đậm nét trong mọi mặt của đời sống xã hội. Văn hóa cộng đồng làng xã còn là mảnh đất màu mỡ dung dưỡng tâm lý bình quân chủ nghĩa một số hạn chế cố hữu khác.

Thói quen, một biểu hiện khác của đặc trưng văn hóa Việt được hình thành do

tác động hằng xuyên của hoàn cảnh lịch sử. Vị trí địa lý chiến lược của Việt Nam vừa tạo điều kiện để Việt Nam có hội giao lưu tiếp biến văn hóa, nhưng cũng đặt ra những thử thách hiểm nghèo. Trong tiến trình lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình rất nhiều. Hoàn cảnh này đã tạo nên phẩm chất anh dũng quật cường, mưu trí sáng tạo, hun đúc cho mỗi người dân lòng yêu nước nng nàn, ý thức t tôn dân tc tinh thn bt khut, t lp, tcường rt cao. Một trong những biểu hiện văn hóa truyền thống dễ thấy tục sùng bái và thờ cúng anh hùng. Hầu như ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam cũng thể tìm thấy những đền thờ các nhân vật lịch sử có công lao với dân tộc. Cũng do tác động của truyền thống chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã hình thành nên truyn thng thượng - một truyền thống khá đặc sắc của dân tộc.

Văn hóa có một thuộc tính phổ quát là tiếp biến (acculturation). Theo đó, quá trình giao lưu, lan truyền ảnh hưởng, tiếp thu, thẩm thấu... các giá trị giữa các nền văn hóa diễn ra thường xuyên, liên tục, trên mọi bình diện. Người ta thường nói văn hóa không có biên giới chính là trên ý nghĩa này. Xét từ góc độ địa - văn hóa, Việt Nam là một quốc gia có vị trí giao tiếp, quá trình tiếp biến diễn ra có phần mạnh mẽ hơn so với nhiều quốc gia, khu vực khác. Chính vì vậy, các yếu tố ngoại sinh là một hợp phần hết sức quan trọng trong văn hóa Việt Nam.

quan hệ giao lưu từ lâu đời trong khu vực, tầng văn hóa truyền thống Việt Nam rất gần gũi với các nước Đông Nam Á với một mẫu số chung cấu trúc tổ chức xã hội tương đối lỏng cởi mở. Điều này khiến cho tính chất dân chủ làng xã có điều kiện tồn tại và phát triển. Cũng bởi đặc điểm này mà Việt Nam là một dân tộc dễ thích nghi và hội nhập.

 


1. Protée (Proteus): Thần biển với hình tượng nửa người nửa rắn, tay cầm đinh ba.


 

Trong quá trình giao lưu, tiếp biến, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi tác động của hai nền văn minh lớn của nhân loại Trung Hoa và Ấn Độ. Dưới ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, nhiều yếu tố văn hóa mới đã được du nhập vào Việt Nam, trong đó ảnh hưởng rõ nét nhất là Nho giáo. Những chuẩn mực Nho giáo được hoà trộn và điều chỉnh bởi các giá trị vốn có của người Việt đã tạo nên một số truyền thống, trong đó hiếu hc, trng hc một nội dung quan trọng. Trong các phẩm chất được đề cao, đối với người Việt Nam, đạo hiếu là quan trọng nhất. Cũng do ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, ở Việt Nam đã hình thành truyền thống trọng tước, thích làm quan coi quan tước mt thang bc đánh giá sự tiến bộ của một cá nhân.

Đối với văn minh Ấn Độ, ảnh hưởng đáng kể nhất đối với Việt Nam là Phật giáo. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam khác rất xa Phật giáo Ấn Độ. Sự truyền rộng rãi tưởng Phật giáo cùng với những tính cách của cư dân bản địa đã tạo nên truyền thống nhân ái, v tha rng lượng của người Việt.

Trong thời kỳ cận - hiện đại, trong bối cảnh đầy biến động của lịch sử, Việt Nam đã có cơ hội cọ xát với văn hóa Âu - Mỹ. Kết quả là nền văn hóa vốn đã hết sức phong phú còn tiếp nhận thêm nhiều giá trị mới. Có thể nói, Việt Nam là một quốc gia nền văn hóa đa dạng vào bậc nhất trên thế giới. Đây chính một trong những lợi thế của sức mạnh mềm Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.

Những nội dung được trình bày trên đây chưa thể coi đầy đủ, bởi vì đi sâu vào những tác nhân tạo nên văn hóa Việt Nam còn phải nghiên cứu kỹ từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống hội cũng như phải xem xét kỹ từng loại hình cấp độ của tổ chức cộng đồng. Trên đây mới chỉ là những nét khái quát chủ yếu về những đặc trưng bản của văn hóa Việt Nam, được hình thành bởi những tác động bản và thường xuyên nhất. Những vấn đề nêu ra ở đây cũng không nhằm đánh giá, nhận định những mặt tích cực hoặc tiêu cực của văn hóa, chỉ nêu ra một số luận giải về nguồn gốc hình thành nội dung chủ yếu của văn hóa Việt Nam.

Từ những “chất liệu gốc” trên đây, người Việt Nam đã sáng tạo nên hàng loạt các giá trị vật chất và tinh thần, để lại cho hôm nay và mai sau vô vàn những di sản dưới dạng vật thể và phi vật thể. Đó chính là nguồn tài nguyên vô tận và vô giá cần được khai thác để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đất nước đang chủ động hội nhập quốc tế.

 

3. Một số giải pháp

 

Để có thể biến văn hóa thành nguồn lực, khai thác các di sản như những tài nguyên, điều quan trọng đầu tiên là phải đổi mới duy nhận thức một cách căn bản. Trước hết phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hóa không chỉ là một lĩnh


 

vực hoạt động thuộc phạm vi quản lý của ngành Văn hóa mà là nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt, khí chất của dân tộc.

Khi ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Trung ương đã nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chính vậy, khi đánh giá, Bộ Chính trị đã đưa ra những kết luận hết sức quan trọng, theo đó việc xây dựng hệ giá trị văn hóa hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đạo đức, lối sống mặt xuống cấp đáng lo ngại. Môi trường văn hóa những mặt chưa thực sự lành mạnh. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng của một số dân tộc thiểu số nguy mai một dần. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật giá trị cao về tư tưởng nghệ thuật. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh đồng hành với thực tiễn sáng tác. Một số chủ trương, quan điểm nêu trong Nghị quyết chậm được thể chế; chưa những chiến lược, giải pháp đồng bộ để phát triển nâng cao năng lực hội nhập quốc tế về văn hóa. Chưa giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản văn hóa. Hệ thống thiết chế văn hóa chậm chuyển đổi sang phương thức tự chủ, xã hội hóa. Việc chỉ đạo phát triển công nghiệp văn hóa còn chậm. Các đặc trưng bản của nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ khoa học” cùng quan điểm xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được quán triệt thường xuyên; dấu hiệu bị buông lỏng trong cả ba môi trường: gia đình, nhà trường hội.

Bộ Chính trị cũng chỉ ra những hạn chế trên đây do nguyên nhân chủ quan chủ yếu. Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội một bộ phận nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đối với phát triển bền vững đất nước. Vị trí, vai trò của văn hóa chưa thực sự được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất trong việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Việc thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ. Hiệu lực, hiệu quả quản nhà nước về văn hóa có mặt còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hóa, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện Nghị quyết. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình


 

thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động1.

Cùng với đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, cũng phải đánh giá đúng và thấy hết những khó khăn khi khai thác các nguồn lực văn hóa2.

Trước hết, đó là những trở ngại trước các thói quen, tập tính hạn chế của dân nông nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa  mà một trong những nhược điểm lớn, gây rất nhiều hậu quả tai hại không thói quen nhìn xa, tâm “ăn xổi”. Suy cho cùng, thói quen này cũng biểu hiện của những tàn  lịch sử, nằm trong di tồn văn hóa. Nếu không nhận thức  thật sâu sắc để biện pháp khắc phục hữu hiệu thì đây một cản trở lớn cho  sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, người ta trù liệu trước cho sự phát triển ít nhất vài chục năm.

Một trong những hạn chế lớn khác của di tồn văn hóa có hại cho sự phát triển là tâm bình quân cào bằng. Đây sản phẩm của cấu kinh tế - hội nông nghiệp - công xã. Trong lịch sử, sự bình đẳng làng xã, sự phân hóa xã hội không mấy sâu sắc đã từng đóng vai trò quan trọng cho sự cố kết/đoàn kết cộng đồng. Quan niệm “dàn hàng ngang tiến hay xu đều hơn tt li đôi khi những yếu tố cần thiết để điều chỉnh hành vi của mỗi nhân. Tuy nhiên, mặt trái chính tâm ghét sự vượt trội - một biểu hiện của tâm bình quân. Trong phát triển nói chung, đây yếu tố có sức cản cùng mạnh mẽ...

Một trong những điều quyết định thành công trong sự nghiệp phát triển, đưa đất nước đi tới phồn vinh là phải khơi dậy khát vọng của cả dân tộc, đặc biệt là giới trẻ như tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra. Giáo dục văn hóa, lịch sử cho mọi tầng lớp từ lãnh đạo đến nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên cần được coi như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Khát vọng sẽ dẫn tới tự tin thể biến những mình thành lợi thế, thành sức mạnh.

Trong thời kỳ hội nhập, văn hóa không chỉ là tài sản để cất giữ, để tự hào phải được coi sức mạnh mềm của đất nước để có thể mở rộng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên trường quốc tế. Trên ý nghĩa này, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa không chỉ dừng ở những hoạt động giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài mà phải có những tính toán dài hơi và hiệu quả, trong đó đặc biệt coi trọng thế mạnh của con người Việt Nam.

 


1.  Báo điện tử của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kết lun ca BChính trv tiếp tc thc hin Ngh quyết 33 xây dng phát trin văn hóa, con người Vit Nam, ngày 9/6/2020.

2.  Minh Giang: Lch s Vit Nam: Truyn thng hin đại, Nxb. Giáo dục, Nội, 2009.


 

Bên cạnh việc phát huy sức mạnh mềm, việc làm sống dậy các di sản, di tích cũng một giải pháp quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm. Việt Nam một quốc gia có nền văn hiến lâu đời và rực rỡ, có truyền thống dựng nước và giữ nước vô cùng vẻ vang. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một truyền thống hào hùng và gắn với nó vàn những di tích quý giá. Tuy nhiên, đến nay, những di sản này chưa được khai thác hiệu quả. Phần nhiều mới chỉ được giữ gìn theo cách bảo quản và đôi khi được tôn tạo bằng những khoản kinh phí rất hạn chế. Thế giới hiện đang rất nhiều kinh nghiệm làm sống dậy di sản văn hóa, khai thác di sản như những tài nguyên góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước1.

 

Kết luận

 

Nói đến văn hóa Việt Nam trước hết phải nói tới nền tảng tinh thần là ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập, tự cường. Đây nội dung cực  kỳ quan trọng của văn hóa Việt Nam yếu tố cấu thành phẩm chất của con người Việt Nam. Nền tảng này đã được thể hiện rõ rệt trong những lần Việt Nam phải đối phó với họa xâm lăng từ bên ngoài. Tinh thần dân tộc cao sẽ là động lực và sức mạnh thúc đẩy một dân tộc vươn tới đỉnh cao. Vấn đề đặt ra hiện nay cho Việt Nam là làm thế nào để động viên được cao nhất sức mạnh này trong công cuộc xây dựng đất nước và cạnh tranh quốc tế. Thêm vào đó, trong văn hóa Việt Nam, truyền thống hiếu học và khả năng trí tuệ của người Việt đã đang trở thành một yếu tố bảo đảm cho sự phát triển với tốc độ cao của đất nước và trở thành một thế mạnh khi cạnh tranh quốc tế trong tương lai.

Một trong những nét đặc sắc đồng thời cũng là thế mạnh của con người Việt Nam là tính cách mềm dẻo, cởi mở dễ hội nhập. Đây là một yếu tố hết sức thuận lợi trong hoàn cảnh ngày nay, khi mà thế giới ngày càng phát triển theo xu thế hội nhập và chu kỳ thay đổi công nghệ ngày càng có xu hướng rút ngắn. Trong khi đó, văn hóa của chúng ta đa dạng, phong phú với bản sắc hết sức độc đáo. Đó là lợi thế lớn cho Việt Nam trong thời kỳ chủ động hội nhập.

Chúng ta đã nói nhiều tới sự phát triển chậm trễ, những món “nợ lịch sử” sớm muộn chúng ta phải trả (như công nghiệp hóa chẳng hạn). Nhưng xét về nhiều phương diện, trong hoàn cảnh thế giới ngày nay, sự chậm trễ đó đang tạo cho chúng ta một lợi thế: lợi thế của người đi sau. Ô nhiễm môi trường đang mối lo của cả nhân loại vì trong quá trình công nghiệp hóa trước đây, nhiều quốc gia, dân tộc đã không có hiểu biết đầy đủ và kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh vực

 


1. Italia, Trung Quốc, Pháp và gần Việt Nam như Thái Lan, Campuchia,... có rất nhiều kinh nghiệm cho Việt Nam tham khảo.


 

này. Những nước công nghiệp hóa sau không chỉ có điều kiện đi tắt, đón đầu về công nghệ hiện đại hóa còn có đầy đủ kinh nghiệm của các nước đi trước để học tập. Nhưng điều có ý nghĩa quan trọng hơn trên phương diện bảo tồn phát huy những giá trị truyền thống là chúng ta vẫn còn kịp, nếu như được sự nhận thức sáng suốt đầy đủ về tầm quan trọng của việc xây dựng một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc, xứng với tầm vóc lịch sử của dân tộc và biến tất cả những mình có thành lợi thế trong cạnh tranh quốc tế.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

[1]         Báo  điện tử của  Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam: Kết lun  ca BChính trvtiếp tc thc hin Nghquyết 33 xây dng và phát trin văn hóa, con người Vit Nam, ngày 9/6/2020.

[2]         Edward Burnett Tylor: Primitive Culture V2: Researches Into the Development of Mythology, Philosophy, Religion, Language, Art and Custom, Publisher Literary Licensing, London, UK, 2014.

[3]         Hall, Ivan Parker: Mori Arinori, Harvard University Press, Massachusetts, USA, 1973.

[4]         Hồ Chí Minh: Toàn tp, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Nội, 2011, t.3.

[5]         Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ đin tiếng Vit, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998.

[6]         Paul Ory: La commune annamite au Tonkin, Maison d'édition Broché, Paris, 2013.

[7]         Pitirim A. Sorokin: Social and Cultural Dynamics, Oxford, UK, 1985.

[8]         Vũ Minh Giang: Lch sVit Nam: Truyn thng và hin đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn