Tiểu luận kết thúc môn: LỄ CẦU MƯA CỦA NGƯỜI CHĂM Ở BÌNH ĐỊNH sv: Huỳnh Thị Ngọc Bích

 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ

 


 

TIẾU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

VĂN HÓA CHĂM

 

ĐỀ TÀI: LỄ CẦU MƯA CỦA NGƯỜI CHĂM Ở BÌNH ĐỊNH

 

 

 


 

GVHD: Thầy Phan Quốc Anh

Sinh viên thực hiện: Huỳnh Thị Ngọc Bích

MSSV: D16DT004

Lớp: Văn hóa dân tộc thiểu số 9

 

 

 

 

 

 

 

 

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 12 năm 2019

 

 

 

 

LỄ CẦU MƯA CỦA NGƯỜI CHĂM Ở BÌNH ĐỊNH


 

PHỤ LỤC

Lời mở đầu

Chương I. Giới thiệu

       1.1 Lí do chọn đề tài

       1.2 Mục đích nghiên cứu

       1.3 Đối tượng nghiên cứu

Chương II. Tổng quan về người Chăm

       2.1 Địa bàn cư trú

       2.2 Hoạt động sản xuất

       2.3 Đời sống xã hội

       2.4 Tôn giáo tín ngưỡng

Chương III. Lễ cầu mưa

Chương IV. Kết luận

Tài liệu tham khảo

 


 

LỜI MỞ ĐẦU

 

 

 

 

 

Văn hóa dân tộc Chăm luôn luôn là đề tài thu hút các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước


Người Chăm, trong bức tranh văn hóa Việt Nam là một trong những nét vẽ đặc sắc và nổi bật nhất làm tôn lên vẻ đẹp của Văn hóa Việt Nam. Việc nghiên cứu văn người Chăm là cần thiết đối với các ngành khoa học xã hội, góp phần vào sự bảo tồn cũng như phát triển văn hóa của dân tộc. Văn hóa Chăm được hình thành do kết quả của quá trình hoạt động nhằm thích ứng với các điều kiện sinh hoạt khắc nghiệt của cư dân vùng chân núi và đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự giao lưu tiếp biến với các cư dân trong vùng Nam Đông Dương cũng như vùng Đông Nam Á, thể hiện qua sự phát triển ngôn ngữ chữ viết, sự đan xen giữa văn hóa miền núi và văn hóa biển, giữa các tín ngưỡng dân gian với các tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo. Chúng được thể hiện qua những nét văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc Chăm, vừa mang tính cách đồng nhất cho cả cộng đồng, vừa hàm chứa vài dị biệt do các vùng cư trú và các cộng đồng tôn giáo khác nhau.

 


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU

 

1.1. Lý do chọn đề tài:

          Việt Nam không chỉ là đất nước của danh lam thắng cảnh, của núi rừng, sông suối  mà còn là sự kết hợp và hoà quyện của 54 sắc màu dân tộc. Do những điều kiện khác nhau cùng dòng chảy của lịch sử  đã tạo nên những vùng đất khác nhau cùng với những nền văn hoá khác nhau. Với mỗi nền văn hoá lại mang cho mình những nét đặc sắc riêng. Chăm – một trong những dân tộc lớn của nước ta cũng đã chiếm lấy một vị trí trong bản sắc dân tộc Việt Nam.

          Bình Định là địa bàn cư trú của người Chăm, chính xác hơn là Chăm H’roi. Cũng như những dân tộc khác, người Chăm ở Bình Định đã sớm hình thành những giá trị văn hoá mang màu sắc riêng. Nền văn hoá ấy đã ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Chăm nói chung cũng như Chăm H’roi nói riêng.

          Bình Định là một trong những vùng đất khô hạn ở Việt Nam, quanh năm chỉ có 4 tháng là mưa (tháng 9,10,11,12). Vì vậy, cộng đồng người Chăm từ xưa đã làm một nghi thức để cầu mưa thuận gió hoà mang tên “Lễ cầu mưa”.

1.2. Mục đích nghiên cứu:

Giới thiệu những nét khái quát nhằm giúp các dân tộc anh em muốn tìm hiểu văn hóa Chăm có một cơ sở thiết thực để nghiên cứu và giúp các bạn trẻ Chăm có cơ sở ban đầu để tiếp cận với văn hóa dân tộc mình, sẽ giúp ích một cách thiết thực cho chính quyền địa phương nắm bắt được nếp sống và lao động, cũng như tôn giáo-tín ngưỡng, phong tục-tập quán của dân tộc Chăm hầu có những cách giải quyết thích hợp cho các vấn đề thuộc vật chất hay tinh thần trong cuộc sống hôm nay.

 

1.3. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lễ cầu mưa của người Chăm ở Bình Định.


 

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI CHĂM

 

 

2.1. Địa bàn cư trú:

Người Chăm sinh sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Gia Lai, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang,... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận và Chăm Nam Bộ.

Chăm H'roi (Chăm hời) bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh Gia Lai, Phú Yên, Bình Định.

Chăm Nam Bộ bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai và nhiều tỉnh khác nhau tại miền Nam.

2.2. Hoạt động sản xuất:

Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

2.3. Đời sống xã hội:

2.3.1. Nhà ở:

Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.

Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.

Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữa là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.

Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).

Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác:

Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.

Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò được làm xa nhà ở.

Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.

 

 

2.3.2. Trang phục:

          Trang phục nam: đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần sọc, ngoài quấn váy.

          Trang phục nữ: về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quấn lên đầu, khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.

Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.

Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.

Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.

Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục phong cách thẩm mỹ riêng.

 

2.4. Tôn giáo – tín ngưỡng:

Đồng bào Chăm ở nước ta hình thành ba nhóm tín ngưỡng chính là: Tín ngưỡng tôn giáo bản địa cổ Bàlamôn, Chăm Bà ni (Hồi giáo Bà ni) và Chăm Islam (Hồi giáo Islam). Cũng có một bộ phận không nhiều không theo tôn giáo nào.

 

 


 

CHƯƠNG III: LỄ CẦU MƯA

 

3.1. Thời gian:

Cứ vào đầu tháng hai âm lịch hàng năm (sau Tết Nguyên đán), dù trời hạn hay trời mưa, họ đều tổ chức lễ hội.

3.2. Khâu chuẩn bị:

Để cầu mưa (hay mừng mưa), người ta có thể làm lễ riêng, trên rẫy của mình. Hoặc nếu trời nắng quá lâu, cả làng (Plây) phải làm chung một lễ, cả làng cùng chuẩn bị và cùng đóng góp lễ vật để cúng. Đồ lễ Plây trước tiên, làng sẽ cử người dựng một đài dâng lễ vật-lễ vật trên đài cũng gồm một con gà trống, một bình rượu, một vòng sáp ong để đốt và một bát gạo. Đài dâng lễ vật được đặt tại sân nhà của già làng hoặc bến nước của làng.

 

Description: /var/folders/_h/3740sj7n42v58vjskdcbc5lc0000gn/T/com.microsoft.Word/WebArchiveCopyPasteTempFiles/cham-1-1.jpg

 

Đài và án được dựng từ 4 gốc cây Pay Ch'panh (cây gạo). Phần trên là án, phần dưới là đài, được các nghệ nhân trong làng trang trí những tua, những họa tiết cách điệu hoa văn theo mô típ Chăm có tên gọi Pơrưng. Bên cạnh đó là cây Nêu vươn cao, tạo thành đôi cánh chim (loài chim biểu hiện cho sự yên bình của người Chăm H'roi). Đó là một cách thể hiện thông điệp cầu trời cho sự yên bình của họ.

 

3.3. Lễ từng nhà (lễ mừng mưa):

Do từng nhà tự lo liệu lễ vật để cúng tại rẫy của mình. Khi hạt giống đã trỉa xuống, chủ nhà làm lễ cầu mưa cho hạt giống ở rẫy mình nảy mầm. Ngày giờ do chủ nhà tự chọn sau khi đã xuống giống. Chủ nhà thu dọn cây, vun một đống đất ở rẫy, đường kính khoảng 50 cm, cao 30 cm. Ở giữa là một cây tre rừng, phần gốc được chôn dưới đất, phần ngọn được chẻ làm tư tỏa ra bốn hướng đông tây nam bắc đón nước mưa. Trên phần ngọn tre chẻ tư đó, chủ nhà gác dàn đặt lễ vật gồm một con gà trống (con vật biểu hiện cho sự bền bỉ, dẻo dai trước cuộc sống), một bình rượu nhỏ, một vòng sáp ong để đốt và một đấu thóc (có nơi dùng gạo). Bên cạnh gốc tre là cái cuốc nhỏ buộc chung vào gốc tre. Bên cạnh đó, người ta đem từ 7 đến 9 ống nứa nhỏ bằng ngón tay cắm xung quanh một gốc cây rừng đã cháy trên rẫy rồi rót nước đầy vào các ống với ngụ ý nước đã về rẫy, nước làm mát đất. Nội dung lời khấn cầu của chủ nhà:

 

"Ơ Giàng! cầu Giàng cho hạt mưa xuống

Hạt mưa nhỏ nhỏ như hạt lúa

Hạt mưa lớn lớn như hạt bắp

Đổ nước xuống, đổ mưa xuống

Để cái suối không còn khô

Để người và mọi loài sống lại

Cầu nước để người có nước trồng trỉa

Chỉ có Giàng là lớn nhất trần gian

Chỉ có Giàng cho nước

Người mới có nước trồng cây lúa. Ơ Giàng!"

Phụ nữ cầm những bó nan vuốt vào không khí tạo nên âm thanh của gió. Đàn ông gõ trống tạo nên âm thanh của sấm. Chủ nhà thành kính rót rượu mời thần Mây, thần Gió và thần Sấm về làm mưa.

 

Trong quá trình làm lễ cầu mưa không được vui chơi, ca hát để biểu lộ lòng thành kính thần linh. Chỉ khi nào có mưa mới được mừng vui ca múa. Sau khi làm lễ xong, tất cả rượu thịt được phân chia cho người và cho thần, tất cả chè chén tại rẫy. Đồ chia cho thần để lại. Tất cả ra về chờ Mưa.

 

3.4. Lễ chung cho cả làng (Plây):

Khi hạn hán kéo dài, cả Plây mới cầu chung một lễ, do già làng (người có uy tín nhất trong làng, trong tộc họ) đứng ra điều hành. Công việc chuẩn bị xong bắt đầu lễ cúng, chiếu cói mới (chưa dùng) được trải ra phía dưới đài và án. Ở giữa chiếu có đặt một chiếc đĩa dựng hai đồng xu để gieo quẻ âm dương, xung quanh chiếu là các ché rượu cần. Số người làm lễ cúng phải là số lẻ do làng chọn, từ 3-5 người (hoặc từ 7-9 người) kể cả lễ vật cũng phải là số lẻ để khi cầu Giàng cho thêm chẵn là đủ. Trong các lễ thức, người ta bao giờ cũng chỉ cầu đủ là vừa bụng-không tham nhiều, sợ lấy nhiều, lần sau xin trời không cho… Trong số người tham gia cúng, dân làng chọn ra một người có uy tín đưa lên ngồi trên đài tượng trưng cho người của Giàng (trời). Bên dưới già làng khấn cúng:

 

"Ơi Giàng! chỉ có Giàng là lớn nhất trần gian

Giàng ơi! Chỉ có Giàng mới cho người có nước để trồng cây lúa. Ơi Giàng!

Giàng hãy mau mưa xuống - mưa hạt nhỏ cây bắp trổ, mưa hạt lớn lúa nẩy cây

Giàng hãy mau mưa xuống Giàng ơi!

Cho măng mía, măng tre mọc nhiều

Cho lúa bắp trên rẫy tươi tốt

Cho dân làng được dự Hội mừng mưa - Ôi Giàng!

Cầu Giàng - Giàng hãy mau mưa xuống!

Cho đụm lúa nếp dân làng ăn đến tháng 5

Cho đụm lúa to dân làng ăn hết tháng 10

Giàng hãy mưa xuống cho lũ làng tay múc nước thành hoa, tay múc nước thành bông

Giàng mưa - cho con chim Kơrơtau không ngừng rỉa cánh, để con ếch trong hang kêu "ộp ộp", con cá dưới suối quẩy "bun bun"

Xin Giàng nhìn xem dân Plây…

Đều đủ mặt chào Giàng

Xin Giàng cho nước trên trời rơi xuống

Để cây lúa bén rễ

Để lúa dưới đất trồi lên…

Hỡi ông Núi - bà Non

Hỡi ông Coông - bà Ch'ơ

Hãy nghe Giàng đổ nước…"

Già làng gieo quẻ, nếu cả hai mặt của đồng xu đều cùng âm hoặc cùng dương, nghĩa là Giàng chưa nghe, chưa chịu cho mưa… còn nếu một sấp, một ngửa, tức là Giàng đã chịu cho dân làng mưa (Thể hiện đúng luật âm dương của trời đất). Lúc này "người của Giàng" ở trên đài cúng hất rượu theo 4 hướng đông tây nam bắc. Đến đây họ coi như trời đã cho mưa đáp ứng lời cầu nguyện của dân làng và hô to: "Nào hỡi dân làng hãy nổi cồng chiêng chào đón mưa trời cho!"

 

3.5. Kết thúc lễ Plây:

Kơtoong cùng dàn chiêng trỗi lên giai điệu A Tonh Ch'yong e pla (Chào trời-chào khách). Theo chiều ngược kim đồng hồ, trai, gái trong làng nhịp nhàng nhảy múa hú gọi. Tư thế của họ tượng trưng cho gió thổi, mây bay, sấm nổ đón những giọt mưa từ "người của Giàng" ngồi trên đài đổ xuống… Người làm lễ cúng cùng già làng chia lễ vật cho thần linh. Mọi người ăn uống, nhảy múa. "Người của Giàng" vẩy nước xuống cho ướt mọi người và rải những hạt lúa xuống… Dân làng tin rằng trời chấp thuận cho mưa, vui vẻ vào hội. Dân làng uống rượu và múa xoang Ch'yong với niềm tin trời sẽ mưa thuận gió hòa cho dân Plây có nước sản xuất.

 Description: /var/folders/_h/3740sj7n42v58vjskdcbc5lc0000gn/T/com.microsoft.Word/WebArchiveCopyPasteTempFiles/cham-4-1.jpgDescription: /var/folders/_h/3740sj7n42v58vjskdcbc5lc0000gn/T/com.microsoft.Word/WebArchiveCopyPasteTempFiles/cham-3-1.jpg


 

CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN

 

Phong tục tập quán của một dân tộc lúc nào cũng chi phối sâu rộng sự sinh hoạt của xã hội và là yếu tố quan trọng để hiểu đuợc một dân tộc.

Nghe tiếng hô của già làng, mọi người cùng hú theo vui vẻ, những thiếu nữ Chăm bắt đầu múa xoang các điệu truyền thống quanh đội cồng chiêng, mở đầu cho phần hội tưng bừng, vui vẻ với mong ước Giàng và các vị thần sẽ che chở, mang lại cho dân làng những cơn mưa, những điều may mắn, tốt đẹp.

 

Bắt nguồn từ những phong tục cổ của người Chăm tại Bình Định cho đến nay lễ hội cầu mưa vẫn lưu giữ được những nét độc đáo của những phong tục truyền thống xưa như một phần trong văn hóa tinh thần không thể thiếu của đồng bào Chăm nơi đây. Đây cũng là dịp để đồng bào người Chăm mọi nơi đổ về hội tụ gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trong đời sống tín ngưỡng cũng như cuộc sống hàng ngày. Đem lại ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.

 

Lễ hội cầu mưa là một sinh hoạt văn hóa dân gian trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người Chăm cần được gìn giữ và phát huy.

 

Mỗi lễ hội có những ý nghĩa và giá trị riêng nhưng nhìn chung đều tưởng nhớ về tổ tiên, cầu mong cho cuộc sống an lành, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh, cây trồng vật nuôi được tươi tốt, sinh sôi.

Tài liệu tham khảo

 

1. Tiếp cận một số vấn đề Văn hóa Champa, NXB Tri Thức, 2012

2. Nguyễn Văn Huy, Tìm hiểu cộng đồng người Chăm ở Việt Nam trên trang web Nghiên Cứu Lịch Sử

3. Những nét đặc trưng của bản sắc văn hóa Chăm” (NĐT/VHC)

4. Trần Quốc Vượng (1998), Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa (một cái nhìn địa văn hóa). Việt Nam cái nhìn địa văn hóa. NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn