Vài nét về Văn hóa truyền thống Đồng bằng Sông Cửu Long.


Vài nét về Văn hóa truyền thống Đồng bằng Sông Cửu Long.


Văn hoá nông thôn truyền thống Việt Nam phản ánh đặc trưng văn hoá truyền thống dân tộc. Theo tác giả Ngô Đức Thịnh: “Văn hoá truyền thống hay giá trị văn hoá truyền thống được hiểu như là văn hoá và giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp, phân biệt với văn hoá, giá trị văn hoá thời đại công nghiệp hoá. Tất nhiên, khái niệm truyền thống (Tradition) để chỉ những cái gì đã hình thành từ lâu đời, mang tính bền vững và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thì không chỉ xã hội tiền công nghiệp mới có mà với cả xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì truyền thống vẫn hình thành và định hình. Hơn thế nữa, còn có sự kết nối giữa truyền thống tiền công nghiệp với truyền thống công nghiệp hoá thể hiện trong từng hiện tượng hay giá trị văn hoá”[1]. Tác giả Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…”[2].
          Nói cách khác những giá trị văn hóa hình thành lâu đời mang tính ổn định và bền vững được truyền lại từ đời này sang đời khác thì được gọi là văn hóa truyền thống. Như vậy, văn hóa truyền thống là hệ giá trị mà con người (tức chủ thể văn hóa), sáng tạo, tích lũy được trong quá trình tương tác với tự nhiên và xã hội, và truyền lại từ đời này sang đời khác.

          Quan niệm văn hóa truyền thống ở nông thôn Việt Nam được hiểu với một hàm nghĩa: là hệ thống những giá trị (vật chất và tinh thần) được chủ thể sáng tạo và tích lũy theo thời gian gắn với không gian văn hóa làng xã ở Việt Nam.  Nông thôn Việt Nam đặc biệt là nông thôn miền Bắc, có nhiều nguyên tắc tổ chức, tiêu biểu là tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú gọi là làng. Làng là nơi dân cư ẩn mình đằng sau lũy tre bao quanh như thành lũy, bảo vệ nghiêm ngặt những giá trị truyền thống của cộng đồng và được lưu giữ từ đời này sang đời khác qua phong tục, tập quán, lễ hội…của làng quê.
          Từ quan niệm văn hóa nông thôn truyền thống trên đây, có thể hiểu khái quát: Văn hóa nông thôn truyền thống ở ĐBCL là hệ thống giá trị mà chủ thể đa tộc người ở ĐBSCL sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử văn hóa với những đặc tính tiêu biểu của văn hóa nông thôn truyền thống Việt Nam như: trọng tình nghĩa, trọng cộng đồng, nguồn cội, lòng hiếu thảo biết ơn tổ tiên, trọng nông, trọng kinh nghiệm.
1.2.1.2. Chủ thể văn hoá nông thôn ĐBSCL
          Về chủ thể văn hóa, những thành tựu của Khảo cổ học, Nhân chủng học, Dân tộc học…cho biết những chủ nhân của văn hóa Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng là chủng người Indonesien bản địa (di chỉ nhân cốt ở Gò Rừng – Long An, Giồng Cá Vồ…). Theo Nguyễn Khắc Cảnh “việc tìm thấy những chiếc sọ cổ ở Cà Mau, ở An Sơn, Rạch Núi (Long An) có niên đại trên dưới 2500 năm cách ngày nay, đã chứng tỏ về sự có mặt của người cổ đại ở đồng bằng sông Cửu Long ngay từ buổi vùng đất này mới hình thành[3].
          Những căn cứ khoa học đã chứng minh sự có mặt của con người ở Tây Nam Bộ là khá sớm và có cội nguồn bản địa. Sau thế kỷ VII, khi văn hóa Óc Eo tàn lụi, Tây Nam Bộ dần hoang vu. Tình trạng hoang vu kéo dài cho đến khoảng thế kỷ X, lúc này những người Khmer nghèo khó đã  di cư về vùng đồng bằng sông Cửu Long để sinh sống trên các giồng đất cao ráo. Đặc biệt sau khi đế quốc Angko sụp đổ, người Khmer đủ các thành phần từ người  nghèo,  đến tầng lớp quan lại, hoàng tộc, các nhà sư… để trốn tránh sự đàn áp của ngoại tộc (Thái Lan), họ đã  tìm đường sang Châu thổ sông Cửu Long ngày càng đông đảo. Cho đến trước khi người Việt đến, người Khmer đã sinh sống nhiều tại  các điểm như Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh…
          Từ thế kỷ XVII, bên cạnh người Việt, thì  người Hoa cũng đến làm ăn sinh sống. Người Hoa ở miền Tây khá đông và dân miền Tây có câu nói để diễn tả về điều đó: Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu, tiếp đó là người Chăm… lần lượt đến miền Tây làm ăn sinh sống. Các tộc người cùng nhau sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần độc đáo, tạo nên sự đa dạng của nền văn hóa nông nghiệp.
          Tính đặc sắc của chủ thể văn hóa vùng Tây Nam Bộ thể hiện ở bức tranh đa tộc người (Tây Nam Bộ có 4 tộc người chính cùng sinh tụ trên một vùng đồng bằng), như là một sự thu nhỏ của cấu trúc chủ thể đa tộc người trong nền văn hóa Việt Nam “Xét về thành phần tộc người thì dễ dàng nhận thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long là hết sức đa dạng. Có thể nói đây là một trong số những vùng khá đặc biệt không những đối với Việt Nam mà đối với cả thế giới[4]. Đây chính là tiêu chí tộc người làm nên sắc thái văn hóa vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
          Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2011, dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 17.325.167 người, chiếm 19,8% dân số cả nước. Đây là vùng văn hóa cũng phản ánh đặc trưng văn hóa Việt với cấu trúc chủ thể đa tộc người. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất hội cư của nhiều tộc người, trong đó chủ yếu là người Việt (90%), người Khơme (6%), người Hoa (2%), còn lại là người Chăm. Họ cùng chung sống và có văn hóa sản xuất đa dạng. Trong quá trình sinh sống, làm ăn, hành trang mang theo của cư dân là những vốn văn hóa truyền thống từ làng quê, đất tổ đã dung hòa với những đặc điểm vùng đất mới tạo thành  một nét mới để thích nghi, phù hợp với vùng sinh thái tự nhiên và xã hội. Cư dân người việt ở miền Bắc và miền Trung khi tới miền Nam, đã tiếp xúc với các giá trị văn hóa của các tộc người ở đây và từ gốc rễ truyền thống, họ đã góp phần tạo ra và bổ sung những giá trị văn hóa mới làm giàu hơn phong phú hơn cho văn hóa Việt.





[2] Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam,  Nxb Giáo Dục, H.1998, trang 26
[3] Nhiều tác giả, Sông nước Cần Thơ, Nxb Văn Nghệ, 2000, 214
[4] Ngô Văn Lệ, Văn hóa tộc người truyền thống và biến đổi, ĐHQG TP HCM, 2010, trang 91

văn hóa học

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn